Tải bản đầy đủ (.doc) (70 trang)

TU TUONG HCM VE TQXHCN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (615.05 KB, 70 trang )

A.MỞ ĐẦU
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chủ tịch Hồ Chí Minh Anh Hùng Dân Tộc ,Danh Nhân Văn Hóa Thế Giới
Tư tưởng của người là sản phẩm của dân tộc và thời đại, nó trường tồn và
bất diệt
Tư tưởng cư Người là tài sản tinh thần vô giá của Đảng và dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh khơng chỉ tiếp thu và kế thừa những giá trị tinh
hoa văn hóa, tư tưởng “vĩnh cửu” của lồi người, trong đó chủ yếu là chủ nghĩa
Mác-Lênin,mà còn đáp ứng nhiều vấn đề của thời đại,của sự nghiệp cách mạng
Việt Nam và thế giới
Mỗi bước đi của cách mạng Việt Nam gắn bó chặt chẽ với sự nghiệp và sự
phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tại Đại Hội Đại Biểu tồn quốc lần thứ VII Đảng đã nêu cao tư tưởng Hồ
Chí Minh và quyết định ghi vào điều lệ của mình “Đảng lấy chủ nghĩa MácLênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của mọi
hành động”
Tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, trong đó tư tưởng về bảo vệ tổ
quốc xã hội chủ nghĩa
Sinh thời người đã dạy : “Các vua hùng đã có cơng dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Vấn đề bảo vệ tổ quốc luôn là vấn đề quan trọng xuyên suốt trong lịch sử
nước ta và mãi mãi về sau
Hiện nay, tình hình chính trị thế giới và trong nước đang có nhiều diễn
biến phức tạp. Trên thế giới, các cuộc đấu tranh giai cấp và đấu tranh dân tộc
vẫn tiếp tục diễn ra gay gắt và quyết liệt, nguy cơ chiến tranh thế giới bị đẩy lùi
nhưng những cuộc xung đột vũ trang và nội chiến vẫn xảy ra và kéo dài ở nhiều
nơi, những mâu thuẫn gay gắt về dân tộc, tôn giáo, lãnh thổ đang tiếp diễn.

1



Trong bối cảnh đó, các nước XHCN cịn lại tiếp tục phấn đấu đất nước
theo con đường XHCN phù hợp với đặc điểm từng nước.
Việt Nam đã và đang nằm trong tầm ngắm của các thế lực phản động và
đế quốc, chúng lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo, sắc tộc để
can thiệp vào công việc nội bộ của ta , tình hình biển đảo của ta có nhiều biến
động ,các thế lực bên ngồi đang thực hiện “ diễn biến hịa bình’’, “ bạo loạn lật
đổ”, gây bạo loạn chính trị ,đe dọa lãnh thổ Việt Nam
Tình hình đó đã đặt ra những u cầu mới cho nhiệm vụ để bảo vệ tổ
quốc trong thời kỳ mới, nhiệm vụ không chỉ của riêng Đảng và Nhà nước mà là
của tồn thể nhân dân.
Vì thế, cần thiết phải học tập, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo
vệ tổ quốc trong bối cảnh đất nước hiện nay . Chính vì lý do trên mà tơi chọn đề
tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh Về Bảo Vệ Tổ Quốc Xã Hội Chủ nghĩa”.
2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Và vận dụng và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ tổ quốc
xã hội chủ nghĩa vào tình hình hiện nay ở nước ta.
3.ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Hệ thống các quan điểm, quan niệm của Hồ Chí Minh trong tư tưởng về
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
4.NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu quan điểm của Mác-Lênin về bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Tìm hiểu nội dung trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa vào tình hình hiện nay của Việt Nam.
5.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Phương pháp phân tích tổng hợp lý thuyết
Phương pháp lơgic-lịch sử
2



Phương pháp tiếp cận hệ thống
6. BỐ CỤC ĐỀ TÀI
Chia làm 3 phần
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và mục tài liệu tham khảo thì đề tài
gồm: ba chương:
Chương 1: Cơ Sở Lý Luận.
Chương 2: Tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Chương 3: Vận dụng và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về bảo vệ Tổ
quốc xã hội chủ nghĩa vào tình hình hiện nước ta.

3


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Một số khái niệm
1.1.1 Tư tưởng
Tư tưởng theo nghĩa phổ biến nhất là sự phản ánh của hiện thực của ý
thức ,là biểu hiện của con người với thế giới xung quanh .
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, thì tư tưởng có nghĩa là hệ
thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng
triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí nguyện vọng của một giai cấp, một dân
tộc, được hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và trở lại hoạt động thực tiễn,
cải tạo hiện thực
1.1.2 Tư tưởng Hồ Chí Minh

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII tháng 6/1991 Đảng ta đã khẳng
định : “Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng

tư tưởng, kim chỉ nam hành động”.
Văn kiện Đại hội đã định nghĩa :

4


“Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa MácLênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh
đã trở thành một tài sản quý báu của Đảng và của cả dân tộc”
Tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX tháng 4/2001 đã nêu một cách hoàn
chỉnh về tư tưởng Hồ Chí Minh những vấn đề cốt yếu thuộc nội hàm khái niệm
này như sau :
“Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm và sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mang Việt Nam, là kết quả của sự vân dụng và phát triển
sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta ,kế thừa và phát
triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Đó là tư tưởng về giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con
người, về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp sức mạnh nhân
dân với sức mạnh thời đại, về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân
tộc, về quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân, về quốc phịng tồn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân,về
phát triển kinh tế và văn hóa, khơng ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, về đạo đức cách mạng, cần kiệm ,liêm chính, chí cơng vơ tư,
về chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau, về xây dưng Đảng trong
sạch, vững mạnh, cán bộ, Đảng viên vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ
rung thành của nhân dân
Từ định nghĩa này Đảng ta đã làm rõ được :
Bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh; đó là quan
điểm lý luận phản ánh những vấn đề có tính quy luật của cach mạng Việt Nam,
tư tưởng Hồ Chí Minh cùng với chủ nghĩa Mác-Lênin là nền tảng tư tưởng, kim
chỉ nam và hành động của Đảng và dân tộc Việt Nam.

Làm rõ nguồn gốc lý luận của tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa MácLênin, giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại.
Nội dung cơ bản bản nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm những
vấn đề có liên quan trực tiếp đến cách mang Việt Nam.
5


Đồng thời Đảng cũng làm rõ được ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền
của tư tưởng Hồ Chí Minh, soi đường thắng lợi cho cách mang Việt Nam, là tài
sản tinh thần quý báu, to lớn của Đảng và dân tộc Việt Nam.
Trên định hướng cơ bản của Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI của Đảng cộng sản Việt Nam, các nhà khoa học đã đưa ra định nghĩa về tư
tưởng Hồ Chí Minh như sau:
“Tư tương Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm thật sâu sắc về những
vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
đến cách mạng xã hội chủ nghĩa là kết quả của sự vận dụng và sáng tạo, phát
triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết
tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai
cấp và giải phóng con người"
Như vậy tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống lý luận ,có cấu trúc lơ gic
chặt chẽ và có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và
chủ nghĩa xã hội, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng
dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người.
1.1.3 Tở q́c xã hợi chủ nghĩa
“Tổ quốc” là một khái niệm rất quen thuộc trong ngôn ngữ Việt Nam.
Đại tự điển tiếng Việt định nghĩa “Tổ quốc” là “Đất nước”, gắn liền với bao thế
hệ ông cha, tổ tiên của mình: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tổ quốc Việt Nam
của chúng ta.” Tổ quốc là cách gọi thiêng liêng và trìu mến nhất!
“ Ơi tở quốc giang sơn hùng vĩ
Đất anh hùng của thế kỉ hai mươi”
“ Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi!

Rừng cọ, đồi chè, đồng xanh dào dạt
Nắng chói sơng lơ hò ô tiếng hát
Chuyến phà rào rạt bến nước bình an”

6


Tổ quốc là tổng hoà các yếu tố tự nhiên và nhân tố xã hội của một quốc gia
dân tộc được gắn kết chặt chẽ bởi chủ quyền lãnh thổ của đất nước và cộng đồng
dân cư với chế độ kinh tế, chính trị, văn hố, xã hội nhất định.
Tổ quốc là một phạm trù lịch sử, được cấu thành bởi hai phương diện tự
nhiên và xã hội của một quốc gia.
Về tự nhiên, đó là chủ quyền lãnh thổ: vùng đất, vùng trời, vùng biển và
thềm lục địa… đã được hình thành, trong quá trình lịch sử địa bàn cư trú hoạt
động, sinh sống qua nhiều thế hệ của cộng đồng dân cư các dân tộc trong quốc
gia với những bản sắc văn hoá và truyền thống lịch sử.
Về xã hợi, đó là chế độ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, là nhà nước của
giai cấp thống trị xã hội. Bản chất của giai cấp thống trị và chế độ xã hội quy định
bản chất Tổ quốc. Chính điều này thể hiện rõ Tổ quốc của giai cấp nào và giai cấp
nào khơng có Tổ quốc. Như vậy, Tổ quốc chỉ ra đời khi xã hội xuất hiện giai cấp
và nhà nước. Trong xã hội có giai cấp đối kháng, đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn
đến sự thay đổi chế độ chính trị, nhà nước và giai cấp cầm quyền, do đó cũng
làm cho các yếu tố kinh tế, chính trị của Tổ quốc thay đổi theo.
Đặc trưng các loại hình Tổ quốc
Lịch sử xã hội lồi người từ khi có giai cấp là lịch sử thay thế nhau của
các giai cấp thống trị xã hội, gắn với nó là Tổ quốc do giai cấp ấy đại diện.
Trong lịch sử đã tồn tại hai loại hình Tổ quốc khác hẳn nhau về bản chất.
Tổ quốc do giai cấp bóc lột đại diện, là Tổ quốc gắn liền với chế độ tư nhân
chiếm hữu về tư liệu sản xuất. Trong loại hình Tổ quốc này đầy rẫy các mâu thuẫn
và bất cơng, có giai cấp bóc lột và giai cấp bị bóc lột, có kẻ giàu người nghèo. Đặc

biệt, trong Tổ quốc tư bản chủ nghĩa áp bức giai cấp và áp bức dân tộc làm cho
mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân với giai cấp tư sản và giữa các dân tộc bị áp bức
với chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc ngày càng gay gắt hơn.
Tổ quốc XHCN là Tổ quốc mà trong đó GCCN và nhân dân lao động do
Đảng cộng sản lãnh đạo đã thiết lập chế độ XHCN, GCCN và nhân dân lao
động trở thành chủ nhân chân chính của Tổ quốc.
7


Tổ quốc XHCN đầu tiên trên thế giới là Tổ quốc Nga Xô viết, ra đời sau
thắng lợi của cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917. Tổ quốc XHCN gắn liền
với chế độ công hữu về TLSX. Trong Tổ quốc XHCN khơng có áp bức giai cấp
và áp bức dân tộc, mọi người đều được tự do, bình đẳng về mặt chế độ xã hội,
Tổ quốc XHCN có những đặc trưng khác hẳn về chất so với các loại hình Tổ
quốc trong lịch sử. Những đặc trưng cơ bản đó là một quốc gia dân tộc có nền
độc lập thật sự, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.
Do nhân dân lao động làm chủ, nền tảng xã hội là liên minh giữa giai cấp
công nhân với giai cấp nơng dân và tầng lớp trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh
đạo, thực hiện chủ yếu thông qua Nhà nước XHCN.
Có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế
độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu của xã hội.
Có nền văn hoá xã hội chủ nghĩa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Con người được giải phóng khỏi sự áp bức bóc lột, bất cơng, làm theo
năng lực hưởng theo lao động, có cuộc sống dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
Các dân tộc trong nước bình đẳng, đồn kết, và giúp đỡ nhau cùng phát triển.
Có quan hệ hữu nghị hợp tác với nhân dân tất cả các nước trên thế giới
trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, các bên cùng có lợi.
Đối với GCCN và nhân dân lao động, Tổ quốc XHCN chính là mơi trường
tự nhiên và xã hội thuận lợi để họ phát triển toàn diện. Với ý nghĩa đó, Tổ quốc

XHCN là loại hình Tổ quốc phát triển cao nhất trong lịch sử phát triển của nhân
loại.
Như vậy, khái niệm Tổ quốc và khái niệm dân tộc tuy nội hàm có những
điểm giống nhau, nhưng khơng trùng khít hồn tồn.
Tổ quốc bao hàm trong đó dân tộc, đất nước và chế độ xã hội.
Còn khi nói đến dân tộc, đó là một cộng đồng người ổn định được hình
thành trong lịch sử, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế, có một lãnh

8


thổ chung ổn định, có một ngơn ngữ phát triển được lấy làm ngơn ngữ chung, có
nét tâm lý riêng, biểu hiện trong bản sắc văn hoá dân tộc.
Ngày nay, các Tổ quốc thường là những quốc gia dân tộc hoặc quốc gia
đa dân tộc gắn với một chế độ chính trị xác định. Tổ quốc ra đời gắn liền với sự
ra đời của nhà nước của một quốc gia có chủ quyền. Như vậy, khái niệm Tổ
quốc và khái niệm dân tộc tuy nội hàm có những điểm giống nhau, nhưng khơng
trùng khít hồn tồn.
Tổ quốc bao hàm trong đó dân tộc, đất nước và chế độ xã hội.
Cịn khi nói đến dân tộc, đó là một cộng đồng người ổn định được hình
thành trong lịch sử, có chung một phương thức sinh hoạt kinh tế, có một lãnh
thổ chung ổn định, có một ngơn ngữ phát triển được lấy làm ngơn ngữ chung, có
nét tâm lý riêng, biểu hiện trong bản sắc văn hoá dân tộc.
Thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười đã dẫn đến sự ra đời của Tổ
quốc XHCN – một Tổ quốc kiểu mới trong lịch sử nhân loại được đặc trưng bởi
chế độ xã hội XHCN, trong đó giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động làm chủ
xã hội đồng thời làm chủ Tổ quốc
Bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa hiện nay là bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, giữ
gìn lịng tin vào chế độ xã hội chủ nghĩa của Đảng cộng sản Việt Nam, khơng
dao động trước khó khăn trước mắt, cảnh giác với mọi âm mưu chống phá cách

mạng Việt Nam và chiến lược “ Diễn biến hịa bình”.
1.2 Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ chí minh về bảo vệ Tổ quốc XHCN
1.2.1 Bề dày lịch sử truyền thống của dân tộc về bảo vệ Tổ quốc.
Trong lịch sử của đất nước vấn đề bảo vệ Tổ quốc luôn được đặt lên hàng
đầu. bắt đầu từ thời dựng nước của các Vua Hùng cách đây mấy nghìn năm, khi
mà nhà nước Văn Lang đầu tiên ra đời thì đã xuất hiện sự dịm ngó của thế lực
ngoại xâm nó trực tiếp đe dọa đến vận mệnh của đất nước, và yêu cầu bảo vệ
độc lập, chống giặc ngoại xâm đã sớm xuất hiện trong lịch sử buổi đầu của dân
tộc.

9


Người Việt đã sớm nhận thức được muốn tồn tại và bảo vệ cuộc sống
cũng như nền văn hóa của mình, thì chỉ có một con đường duy nhất là đoàn kết
đứng lên đánh giặc, giữ nước.
Vào những năm 214 trước công nguyên dưới sự lãnh đạo của Vua Hùng
và Thục Phán đã chỉ đạo nhân dân đấu tranh chống quân Tần, được xem là cuộc
chiến tranh giữ nước đầu tiên của dân tộc Việt.
Trong thời kỳ bắc thuộc hơn một nghìn năm từ năm 179 trước cơng
ngun cho đến năm 938, nước ta liên tục bị các triều đại phương Bắc từ nhà
Triệu, nhà Hán,nhà Lương…cho đến nhà Tùy, nhà Đường đơ hộ thì ơng cha ta
đã biết bao lần đứng lên đấu tranh dành, giữ độc lập cho đất nước với tinh thần
bất khuất, kiên cường, bền bỉ dành cho được Độc lập dân tộc.
Tiêu biểu cho tinh thần đó là cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng vào mùa
xuân năm 40 đã dành được độc lập. Nền độc lập của dân tộc được khôi phục và
giữ vững trong 3 năm.
Cuộc khỡi nghĩa của Triệu Thị Trinh người con gái núi nưa năm 248 đã
làm cho quân thù kinh hồn bạt vía. Sau gần nửa năm chiến đấu khiến cho toàn
Giao Châu chấn động, mặc dù cuộc khởi nghĩa thất bại nhưng chúng ta nhìn

thấy tinh thần chiến đấu bất khuất anh hùng của người con gái Việt cũng như
toàn thể dân tộc Việt Nam trong việc bảo vệ nền độc lâp cho đất nước
Mùa xuân năm 542 một lần nữa ý chí bảo vệ Tổ Quốc lại bùng nổ mạnh
mẽ và rầm rộ. Dưới sự lãnh đạo của Lý Bôn đã quy tụ được anh hùng hào kiệt
và tồn thể nhân dân đứng lên lật đổ chính quyền nhà Lương dành được độc lập
cho dân tộc
Năm 544 Lý Bơn lên ngơi hồng đế lấy hiệu là Lý Nam Đế đặt quốc hiệu
nước là Vạn Xuân.
Và cha ông ta lại tiếp sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc với khởi nghĩa của Lý Tự
Tiên và Đinh kiến năm 687
Khởi nghĩa của Mai Thúc Loan năm 722
Khởi nghĩa của Phùng Hưng năm 766 đến 791
10


Đặc biệt là cuộc khởi nghĩa của Ngô Quyền năm 938 với chiến thắng
vang dội trên sông Bạch Đằng lịch sử đã đánh đuổi quân Nam Hán dành lại độc
lập cho dân tộc chấm dứt một nghìn năm Bắc Thuộc.
Từ thế kỉ X cho đến thế kỉ XVIII cha ông ta lại tiếp tục sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc chống lại thế lực ngoại xâm, đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõ của Đất
Nước ta với những cuộc chiến trở thành huyền thoại trong lịch sử bảo vệ Tổ
Quốc của dân tộc.
Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ nhất của nhà Tiền Lê năm 981
dành thắng lợi bảo vệ được toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc.
Cuộc kháng chiến chống Tống lần thứ 2 năm 1075 đến năm 1077 của
nhà Lý, mặc dù bị đại bại trong cuộc xâm lược lần thứ nhất năm 981, nhà Tống
vẫn chưa từ bỏ tham vọng xâm lược nước ta. Khoảng thế kỉ XI, vua Tống Thần
Tông đưa quân sang xâm lược nước ta lần 2 với ý thức bảo vệ tổ quốc nhân dân
ta dưới sự lãnh đạo của Lý Thường Kiệt đã đưa quân tiến công sang với chủ
trương “Tiên phát chế nhân”, và đấu tranh chống lại quân Tống với chiến thắng

vang dội trên dịng sơng Như Nguyệt tháng 3/1077, qn dân Đại Việt đã quét
sạch quân xâm lược Tống ra khỏi biên cương Tổ quốc.
Với mốc sử chọi lọi của 3 lần kháng chiến Nguyên mông của nhà Trần ở
thế kỉ XVIII đã cho thấy sự nối tiếp truyền thống bảo vệ Tổ quốc của cha ơng ta,
và ý chí bảo vệ Tổ quốc khơng ngừng, kiên trì bất khuất, dũng cảm, không bao
giờ thay đổi của nhân dân Việt Nam.
Từ năm 1225 nhà Trần thay thế nhà Lý đảm nhận sứ mệnh lãnh đạo công
cuộc dựng nước và giữ nước 1226 đến 1400 đã lãnh đạo nhân dân dành thắng
lợi vẻ vang
Cuộc kháng chiến lần thứ nhất vào năm 1258, quân và dân ta đã đánh bại
3 vạn quân Nguyên
Cuộc kháng chiến lần thứ 2 vào năm 1285 đánh bại 60 vạn quân Nguyên
Cuộc kháng chiến lần thứ 3 vào năm 1287 đến 1288 đánh thắng 50 vạn
quân Nguyên
11


Kháng chiến Nguyên mông đã cho thấy được sự đứng lên bảo vệ Tổ quốc
một cách kiên quyết của một dân tộc Việt nhỏ bé với một tên đế sường sỏ của
thế giới với lúc đó.
Dù có phải đối mặt với kẻ thù mạnh với lực lượng lớn có thể gấp nhiều
lần, thì ý chí bảo vệ Tổ quốc khơng bao giời lùi bước mà nó lại kết thành những
ngọn lửa thổi bùng lên khát vọng giải phóng dân tộc, quyét sạch bọn ngoại xâm
ra khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Tinh thần đó một lần nữa lại được tiếp tục với các cuộc khỡi nghĩa chống
giặc ngoại xâm dành các chiến công hiểm hách với các cuôc khởi nghĩa như:
Khởi nghĩa Lam Sơn dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi và Nguyễn Trãi đã
dành thắng lợi vẻ vang. Sau 10 năm từ 1418 cho đến 1427 đấu tranh bền bỉ,
ngoan cường, khởi nghĩa Lam Sơn đạo nhân dân quét sạch quân Minh ra khỏi
bờ cõi nước ta bảo vệ được nền độc lập cho dân tộc.


(Khởi nghĩa Lam Sơn)
Khởi nghĩa Tây Sơn và các cuộc kháng chiến chống quân Xiêm 1784 đến
1785,kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh 1788 đến 1789.
Quân Xiêm lợi dụng sự lợi dụng của nhà Nguyễn đã đem quân vào nước
ta hòng cướp nước ta, trước tình hình đó thí diễn ra cuộc khởi nghĩa của nhà Tây
Sơn 1784 tiêu diệt 5 vạn quân Xiêm bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ nước Nam và đưa

12


qn Bắc xóa bỏ giới tuyến Sơng Danh, chấm dứt toàn bộ thể chế vua Lê, chúa
Trịnh.
Năm 1788 trươc nguy cơ xâm lược của 29 vạn quân Mãn Thanh, Nguyễn
Huệ đã lên ngơi hồng đế, lấy hiệu là Quang Trung thần tốc tiêu diêt 29 vạn
quân xâm lược vào mùa Xuân Kỉ Dậu 1789.
Và nối tiếp là cuộc kháng chiến bảo vệ tổ quốc của nhân dân dưới triều
đại của Nguyễn Ánh, Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, và ông vua cuối cùng của
nhà nước phong kiến Bảo Đại.
Với lịch sử bảo vệ Tổ quốc của dân tộc đã hình thành nên những giá trị rất
đặc sắc và cao quý điều này đã ảnh hưởng một cách sâu sắc đến Hồ Chí Minh
Và trở thành tiền đề tư tưởng lý luận xuất phát hình thành tư tưởng Hồ
Chí Minh về bảo vệ Tổ quốc. chính những giá trị truyền thống cao q, thiêng
liêng và lịng dũng cảm, ý chí bất khuất, kiên trì cùng với lịng u nước nồng
nàn nó đã ăn sâu vào tiềm thức của Hồ Chí Minh.
Chính chủ nghĩa yêu nước và tinh thần bảo vệ tổ quốc của dân tộc đã thơi
thúc Người ra đi tìm đường cứu nước, tìm kiếm những gì hữu ích cho cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc.
Tinh thần bảo vệ tổ quốc đã trở thành lực lượng vật chất thực sự ăn sâu
vào tiềm thức và ý chí hành động của Người. từ xưa đến nay khi Tổ quốc bị xâm

lăng thì tinh thần bảo vệ Tổ quốc lại sơi nổi kết thành một làn sóng vơ cùng
mạnh mẽ, to lớn nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ
bán nước và cướp nước, bảo vệ vững vàng nền độc lập của dân tộc.
Chính những giá trị lịch sử đã hun đúc cho Hồ Chí Minh những tư tưởng
về bảo vệ tổ quốc.
1.2.2 Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bảo vệ tổ quốc xã hội
chủ nghĩa
C. Mác và Ph. Ăngghen đã khẳng định: “dưới chủ nghĩa tư bản, giai cấp
cơng nhân khơng có tổ quốc”. Trong điều kiện lịch sử cụ thể, thời C. Mác và Ph.
Ăngghen sống, vấn đề bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa chưa được đặt ra một
13


cách trực tiếp. Học thuyết bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là một cống hiến
mới của Lênin vào kho tàng lí luận chủ nghĩa Mác.

Nội dung học thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN
Bảo vệ Tổ quốc XHCN là một tất yếu khách quan: Xuất phát từ yêu cầu
lên nắm chính quyền thì C. Mác và Ăngghen đã nhận định rằng, giai cấp
côngnhân phải đấu tranh trở thành giai cấp dân tộc, lúc đó giai cấp cơng nhân là
người đại diện cho tổ quốc họ có nhiệm vụ bảo vệ và đẩy lùi mọi tấn công và
chống phá của bọn phản cách mạng.
Từ quy luật xây dựng XHCN phải đi đôi với bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Ngay sau khi cách mạng XHCN thắng lợi, nhà nước của giai cấp cơng nhân và
nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc XHCN cũng bắt đầu hình thành
VL. Lênin đã khẳng định rằng: Kể từ ngày 25 tháng 10 năm 1917, chúng ta là
những người chủ trương bảo vệ tổ quốc. Chúng ta tán thành bảo vệ tổ quốc,
nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng ta đang đi là một cuộc chiến tranh
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ chủ nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc.
Cùng với nhiệm vụ xây dựng XHCN, thì nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN đã

được đặt ra một cách trực tiếp, hai nhiệm vụ này gắn bó hữu cơ với nhau trong
suốt quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Xuất phát từ qui luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa đế quốc.
Lênin đã chỉ rõ, do qui luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa đế quốc mà

14


chủ nghĩa xã hội có thể giành thắng lợi khơng đồng thời ở các nước. Do đó, bảo
vệ Tổ quốc XHCN trở thành nhiệm vụ trực tiếp, tất yếu và khách quan.
Xuất phát từ bản chất, âm mưu của kẻ thù và thực tiễn cách mạng thế giới.
Giai cấp tư sản trong nước tuy đã bị đánh đổ về chính trị nhưng chúng vẫn chưa
từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa vị thống trị đã mất. Chúng luôn tìm cách
liên kết với các phần tử phản động và chủ nghĩa tư bản bên ngồi hịng lật đổ
chính quyền cách mạng cịn non trẻ của giai cấp cơng nhân. Sự sụp đổ của
CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là một ví dụ thực tế điển hình chứng minh cho
luận điểm của Lênin rằng: giành chính quyền đã khó, nhưng giữ được chính
quyền cịn khó hơn. Do đó, xây dựng XHCN phải luôn gắn với bảo vệ Tổ quốc
XHCN.
Bảo vệ Tổ quốc XHCN là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn dân tộc, toàn
thể giai cấp công nhân và nhân dân lao đợng.
Sau khi lập nên chính quyền Xơ Viết thì V.I.Lênin trực tiếp lãnh đạo xây
dựng đất nước, chống lại sự chống phá của kẻ thù trong nước và bọn đế quốc
bên ngồi. Do chính quyền cách mạng cịn non trẻ lại chịu sự chống phá của kẻ
thù nên đây là những năm tháng cực kỳ khó khăn và gian khổ.
Lênin chỉ rõ: bảo vệ Tổ quốc XHCN là nhiệm vụ, là trách nhiệm của toàn
Đảng, toàn dân, của tồn giai cấp vơ sản trong nước, nhân dân lao động và giai
cấp vơ sản thế giới có nghĩa vụ ủng hộ sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN.
V.I.Lênin luôn nhắc nhở mọi người phải nêu cao cảnh giác, đánh giá đúng
kẻ thù tuyệt đối khơng chủ quan, phải có thái độ nghiêm túc đối với quốc phịng.

V.I.Lênin nói : “Khơng bao giờ người ta có thể chiến thắng được một dân
tộc mà đa số công nhân, nông dân đã biết, đã cảm thấy và trông thấy rằng họ bảo
vệ chính quyền của mình, chính quyền Xơ Viết, chính quyền của những người
lao động, rằng họ bảo vệ sự nghiệp mà một khi thắng lợi sẽ đảm bảo cho họ
cũng như con cái họ có khả năng hưởng thụ mọi thành quả văn hóa mọi thành
quả của con người”.

15


Người luôn lạc quan tin tưởng về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc XHCN của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Vì theo Người bảo vệ Tổ quốc XHCN là bảo vệ lợi ích của tồn dân tộc,
của tồn thể các giai cấp và của nhân dân lao động cũng như bảo vệ lợi ích của
con cái họ.
Bảo vệ Tổ quốc XHCN, phải thường xuyên tăng cường tiềm lực q́c
phòng gắn với phát triển kinh tế - xã hợi
Vì bản chất của chủ nghĩa đế quốc là xâm lược, phải ngăn chặn mưu đồ
xâm lược của chúng nên bảo vệ Tổ quốc XHCN phải thường xuyên tăng cường
tiềm lực quốc phòng.
V.I.Lênin đã khẳng định: Bảo vệ Tổ quốc XHCN là sự nghiệp thiêng
liêng, cao cả, mang tính cách mạng, chính nghĩa và có ý nghĩa quốc tế sâu sắc,
sự nghiệp đó phải được quan tâm, chuẩn bị chu đáo và kiên quyết.
V.I.Lênin đã đưa ra nhiều biện pháp để bảo vệ Tổ quốc như:
Củng cố chính quyền Xơ Viết các cấp.
Bài trừ nội phản, tiêu diệt bon bạch vệ
Đẩy mạnh phát triển kinh tế - văn hoá, khoa học kĩ thuật, vận dụng đường
lối đối ngoại khôn khéo, kiên định về nguyên tắc, mềm dẻo về sách lược, triệt để
lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù
Hết sức chăm lo xây dựng quân đội kiểu mới

V.I.Lênin đã cùng với Đảng Bơn-xê-vích Nga lãnh đạo nhân dân, tranh
thủ thời gian hịa bình, xây dựng đất nước mạnh lên về mọi mặt, từng bước biến các
tiềm lực thành sức mạnh hiện thực của nền quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc XHCN
Đảng Cộng sản lãnh đạo mọi mặt sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc XHCN
V.I.Lênin đã chỉ ra rằng: Đẳng cộng sản phải lãnh đạo moi mặt sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc.
Đảng phải đề ra chủ trương, chính sách phù hợp với tình hình, có sáng
kiến để lơi kéo quần chúng và phải có đội ngũ đảng viên gương mẫu hi sinh.

16


Đối với quân đội, chế độ chính ủy được thực hiện, cán bộ chính trị được
lấy từ đại biểu ưu tú của cơng nơng, thực chất đó là đại diện của Đảng, để thực
hiện sự lãnh đạo của Đảng trong quân đội
Đảng hướng dẫn, giám sát các hoạt động của các cấp, các ngành, các tổ
chức xã hội, các đoàn thể nhân dân lao động.
Sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc cao nhất, là nguồn gốc sức mạnh
vững chắc bảo vệ Tổ quốc XHCN.

17


CHƯƠNG 2:
TƯ TƯỞNG CỦA HỜ CHÍ MINH VỀ BẢO VỆ TỔ QUỐC XHCN
2.1. Bảo vệ Tổ quốc XHCN là một tất yếu khách quan
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin
Quan điểm về bảo vệ thành quả cách mạng của GCCN mà C.Mác và
Ph.Ăngghen đã vạch ra là cơ sở khoa học quan điểm về bảo vệ Tổ quốc XHCN.
Theo C.Mác & Ph.Ăngghen, dưới sự thống trị của GCTS, GCCN khơng

có Tổ quốc. Cái Tổ quốc mà GCTS rêu rao, thực chất đó là Tổ quốc của GCTS.
Do đó, GCCN khơng phải bảo vệ cái mà họ khơng có là Tổ quốc của GCTS.
Trái lại, để giải phóng mình và giải phóng tồn xã hội, GCCN phải đứng
lên đấu tranh lật đổ quyền lực thống trị của GCTS, phải giành lấy chính quyền,
giành lấy dân chủ, trở thành giai cấp thống trị xã hội, trở thành giai cấp dân tộc,
đại biểu cho dân tộc. Trong cuộc chiến đấu đó, GCCN từng bước giành được
những thắng lợi và phải biết bảo vệ và phát huy những thành quả thắng lợi đó,
tiến tới giành những thắng lợi to lớn hơn và giành được thắng lợi cuối cùng.
Với tư cách là người đại diện cho dân tộc, GCCN có Tổ quốc của mình,
họ là người đại diện cho Tổ quốc, họ có nhiệm vụ phải đẩy lùi sự tấn cơng của
bọn phản cách mạng để bảo vệ những thành quả cách mạng đã đạt được, bảo vệ
Tổ quốc của mình .
Kế thừa và phát triển những tư tưởng đó của C.Mác &Ph.Ăngghen,
V.I.Lênin là người có cơng đóng góp to lớn trong việc bảo vệ và phát triển học
thuyết bảo vệ Tổ quốc XHCN, trong giai đoạn CNĐQ và thực tiễn bảo vệ chính
quyền Xơviết những năm sau cách mạng tháng Mười Nga 1917.
Ngay sau khi cuộc cách mạng XHCN thắng lợi, nhà nước của GCCN và
nhân dân lao động được thiết lập thì Tổ quốc XHCN cũng bắt đầu hình thành.
GCCN bắt tay vào công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới xã hội
XHCN.

18


Xuất phát từ quy luật xây dựng đi đôi với bảo vệ
Cùng với nhiệm vụ xây dựng CNXH, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN
cũng được đặt ra một cách cấp bách, nó trở thành nhiệm vụ chiến lược của các
nước XHCN. Hai nhiệm vụ này gắn bó hữu cơ với nhau trong suốt quá trình
cách mạng XHCN. Vấn đề này đã được Đảng ta khẳng định: “Xây dựng chủ
nghĩa xã hội, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa vẫn là hai nhiệm vụ chiến lược có

quan hệ hữu cơ với nhau” .
Thực tiễn cách mạng thế giới và nước ta đã khẳng định, xây dựng CNXH
gắn liền với bảo vệ Tổ quốc XHCN là một quy luật của cách mạng XHCN.
Ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, V.I.Lênin đã chỉ rõ: Do quy luật
phát triển không đều của CNĐQ mà CNXH có thể giành thắng lợi khơng đồng
thời ở các nước. Do đó, trong suốt Thời kỳ quá độ từ CNTB lên CNCS trên
phạm vi thế giới, CNXH và CNTB là hai chế độ xã hội đối lập nhau cùng tồn tại
và đấu tranh với nhau hết sức quyết liệt. Vì vậy, V.I.Lênin khẳng định: Một cuộc
cách mạng chỉ có giá trị khi nó biết tự bảo vệ. Người nhấn mạnh: “Kể từ ngày
25 tháng 10 năm 1917 chúng ta là những người chủ trương bảo vệ Tổ quốc.
Chúng ta tán thành bảo vệ Tổ quốc, nhưng cuộc chiến tranh giữ nước mà chúng
ta đang đi tới là một cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, bảo vệ
chủ nghĩa xã hội với tư cách là Tổ quốc”
Sau thắng lợi của cách mạng XHCN, GCTS trong nước tuy đã bị đánh đổ
về mặt chính trị, nhưng chúng vẫn chưa từ bỏ tham vọng muốn quay trở lại địa
vị thống trị đã mất, nên chúng tìm mọi cách liên kết với các phần tử phản động
và chủ nghĩa tư bản bên ngồi, hịng lật đổ chính quyền cách mạng cịn non trẻ
của giai cấp cơng nhân.
Lịch sử đã chứng minh rằng từ khi Tổ quốc xã hội chủ nghĩa xuất hiện,
nhân dân các nước XHCN phải đương đầu chống trả những âm mưu và hành
động lật đổ, xâm lược của kẻ thù bên trong và bên ngoài. Sau thắng lợi cách
mạng xã hội chủ nghĩa tháng Mười Nga năm 1917, 14 nước đế quốc tập trung
bao vây hịng tiêu diệt nước Nga Xơviết. Trong nước, bọn phản động nổi lên
19


khắp nơi gây nên cuộc nội chiến thảm khốc (1918-1921). Và sau này, nhân dân
Liên Xô phải chống trả quyết liệt chủ nghĩa phát xít, bảo vệ thành cơng Tổ quốc
xã hội chủ nghĩa (1941-1945). Từ khi chủ nghĩa xã hội phát triển thành hệ thống
thế giới, thì sự chống phá của kẻ thù càng quyết liệt hơn như cuộc chiến tranh ở

Triều tiên, các cuộc bạo loạn phản cách mạng để lật đổ nhà nước xã hội chủ
nghĩa ở Hunggari, Tiệp khắc, Balan và ở hòn đảo tự do Cuba
Từ cơ sở lý luận thực tiễn trên mà chủ tịch Hồ Chí Minh dã khẳng định:
bảo vệ tổ quốc là tất yếu, khách quan thể hiện ý chí quyết tâm của nhân dân ta.
Bảo vệ Tổ quốc là truyền thống quý báu của dân tộc ta
Là lịch sử hàng nghìn năm chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta là lịch sử
bảo vệ Tổ quốc, giải phóng dân tộc, giải phóng con người , là thống nhất trong
tư tưởng.
Hồ Chí Minh từng nói:
“Suốt cuộc đời tơi chỉ có một ham muốn, ham muốn đến tột bậc, làm sao
cho nước nhà được độc lập, dân ta được hưởng tự do, đồng bào ta ai cũng có
cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành..”
Tính tất yếu khách quan trong bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ tính tất yếu khách quan của sự nghiệp bảo
vệ tổ quốc XHCN ở câu nói:
“Các vua Hùng đã có cơng dựng nước
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”
Đặc biệt ở nước ta, sau thắng lợi của cuộc cách mạng Tháng Tám năm
1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
đặt ra ngang tầm với nhiệm vụ xây dựng đất nước và chính quyền cách mạng
cịn non trẻ.
Thù trong giặc ngoài, phải đối diện với một lần nhiều thứ giặc: giặc đói,
giặc dốt và đặc biệt là giặc ngoại xâm
Ý chí giữ nước của người rất kiên quyết và được nhận định một cách sâu
sắc, nó được thể hiện rất rõ nét trong “Lời Kêu gọi toàn quốc kháng chiến” vào
20


ngày 19/12/1946 Hồ Chí Minh đã nói: “Hỡ đồng bào! chúng ta muốn hịa bình,
chúng ta càng nhân nhượng, nhưng càng nhân nhượng thì thực dân pháp càng

lấn tới vì chúng muốn cướp nước ta lần nữa. Không. Chúng ta thà hy sinh tất cả
chứ không chịu mất nước, nhất định không làm nô lệ… Hỡi đồng bào! Chúng ta
phải đứng lên!...
Sự thành công của cách mạng tháng 8/1945 là một trang sử chói lọi, là
mốc son đánh dấu nền Độc lập tự chủ của dân tộc Việt Nam, nhưng đối diện với
một thực tế là chính quyền cách mạng còn non trẻ đang phải chịu sự uy hiếp của
thực dân đế quốc và bọn phản động tay sai Chủ Tịch Hồ Chí Minh cùng Đảng
đã đề ra những biện pháp thiết thực cụ thể để giữ chính quyền nhân dân và đặc
biệt là có thời gian chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Với chính sách tranh đối diện một lúc nhiều kẻ thù hịa hỗn với pháp để
đánh đuổi tưởng ra khỏi nước ta, cùng với kí kết các hiệp định như: Hiệp định sơ
bộ 6/3/1946 và bạn tạm ước ngày 14/9/1946,với sự kiên quyết giữ vững nền độc
lập Người đã tạo ra được điều kiện cho quân và dân ta có thêm thời gian để
chuẩn bị cho cuộc kháng chiến mới
Khi đế quốc Mỹ điên cuồng tiến hành chiến tranh cục bộ ở miền Nam,
mở rộng chiến tranh miền Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định một chân
lý bất hủ, có giá trị cho mọi thời đại: “Khơng có gì q hơn đợc lập, tự do”.
“Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà
Nội, Hải Phòng và một số thành phố có thể bị tàn phá. Song nhân dân Việt Nam
quyết khơng sợ. Khơng có gì q hơn độc lập, tự do” ! không chỉ là tư tưởng mà
còn là lẽ sống, là học thuyết cách mạng của Hồ Chí Minh. Vì thế, Người khơng
chỉ được tơn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được
thừa nhận là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh giải phóng của các dân tộc
thuộc địa trong thế kỷ XX”.
Cho đến lúc đi xa ý chí bảo vệ tổ quốc không bao giờ thay đổi ,trong bản
Di Chúc Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước có thể kéo dài,

21



Đồng bào ta có thể hy sinh nhều của, nhiều người. Dù sao chúng ta phải quyết
tâm đánh thắng giặc Mĩ đến thắng lợi hồn tồn”.
Ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc của Hồ Chí Minh là tư
tưởng tưởng xuyên suốt trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Người cho đến
giây phút cuối cùng của cuộc đời.
Để bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, nhân dân ta dưới sự lãnh
đạo của Đảng đã phải tiến hành hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp và
xâm lược Mỹ, chống lại cuộc chiến tranh xâm lược của các thế lực phản động ở
biên giới Tây Nam và phía Bắc của Tổ quốc.
Nhưng ý chí giải phóng dân tộc, bảo vệ tổ quốc khơng bao giờ thay đổi
Và sau này khi CNXH ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ vào cuối
những năm 80 đầu 90 của thế kỷ XX, CNXH lâm vào thối trào, thì vấn đề bảo
vệ Tổ quốc ở các nước XHCN đặt ra hết sức quan trọng và cấp thiết. Chủ nghĩa
đế quốc tiếp tục đẩy mạnh âm mưu chiến lược “diễn biến hồ bình”, bạo loạn lật
đổ, thậm chí sẵn sàng tiến hành chiến tranh xâm lược, sử dụng vũ khí cơng nghệ
cao tiến cơng các nước xã hội chủ nghĩa khi cần thiết, hịng xố bỏ Tổ quốc xã
hội chủ nghĩa.
Sự sụp đổ của CNXH ở Liên Xô và Đông Âu là một tổn thất của phong
trào cách mạng thế giới, song nó cũng để lại cho các nước XHCN bài học sâu
sắc là: xây dựng chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với bảo vệ Tổ quốc XHCN. Có
như vậy, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới tồn tại và phát triển. Thực tiễn trên đây
một lần nữa chứng minh luận điểm nổi tiếng của V.I.Lênin: “Giành chính quyền
đã khó, nhưng giữ được chính quyền cịn khó khăn hơn”.
Và khẳng định tính tất yếu của bảo vệ tổ quốc XHCN trong tư tưởng của
Hồ Chí Minh.
2.2 Mục tiêu của bảo vệ Tổ quốc là độc lập dân tộc và chủ nghĩa xa
hội, là nghĩa vụ trách nhiệm của mọi công dân
Độc lập dân tộc và xã hội chủ nghĩa là mục tiêu xuyên suốt trong tư
tưởng của Hồ Chí Minh. Là khát vọng lớn nhất của Người ,Hồ Chí Minh tương
22



nói: “Tự do cho đồng bào tơi, độc lập cho Tổ quốc tôi, đấy là tất cả những điều
tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Năm 1919, vận dụng nguyên tắc dân tộc tự quyết đã được các nước đồng
minh thắng trận trong Chiến tranh thế giới thứ nhất trịnh trọng tuyên bố, thay
mặt cho những người Việt Nam yêu nước, Nguyễn Ái Quốc gửi tới Hội Nghi
Vécxây bản Yêu sách gồm 8 điểm đòi quyền tự do dân chủ cho nhân dân Việt
Nam.
Đồng thời còn được thể hiện trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng
năm 1930, một cương lĩnh giải phóng dân tộc đúng đắn và sáng tạo, có tư tưởng
cốt lõi là độc lập tự do cho dân tộc.
Vào tháng 5/1941, Hồ Chí Minh chủ trì hội nghi lần thứ 8 của ban chấp
hành trung ương Đảng ,viết thư kính cáo Đồng bào chỉ rõ: “trong lúc này quyền
lợi dân tộc cao hơn hết thảy”, và trong 10 chính sách của Mặt trận Việt Minh, thì
trong đó có mục đầu tiên là “cờ treo độc lập, nền xây bình quyền”
Tháng 8/1945 người đã nói: “Dù hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả
dãy Trường Sơn thì cũng phải kiên quyết dành cho được độc lập”
Đặc biệt mục tiêu độc lập dân tộc cịn được thể hiện trong “Bản Tun
Ngơn Độc Lập” long trọng trước nhân dân Việt Nam và toàn thế giới. Nó cịn
thể hiện trách nhiệm của mọi cơng dân trong bảo vệ Tổ quốc XHCN: “Nước
Việt Nam có quyền được hưởng tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết
đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do,
độc lập ấy”.
Còn được thể hiện trong các văn kiện gửi tới Liên hợp quốc và Chính phủ
các nước vào thời gian sau cách mang tháng 8, người cũng trịnh trọng tun bố:
“Nhân dân chúng tơi thành thật mong muốn hịa bình. Nhưng nhân dân chúng ta
kiên quyết chiến đấu đến cùng để bảo vệ những quyền thiêng liêng nhất: toàn
vẹn lãnh thổ cho tổ quốc và độc lập cho đất nước”.


23


Khi cuộc kháng chiến tồn dân bùng nổ Hồ Chí Minh đã ra lời kêu gọi
toàn dân kháng chiến vang dội núi sông. “Không. Chúng ta thà hy sinh tất cả,
chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”.
Khi đế quốc Mĩ điên cuồng mở rộng chiến tranh, ồ ạt đổ quân viễn chinh
và phương tiện chiến tranh hiện đại vao miền Nam, đông thời tiến hành chiến
tranh phá hoại miền Bắc với quy mô và cường độ ngày càng ác liệt. Hồ Chí
Minh đã đưa ra chân lý lớn nhất của thời đại: “Khơng có gì quý hơn độc lập tự
do”
Độc lập dân tộc là mục tiêu chiến đấu, là nguồn sức mạnh làm nên chiến
thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỉ XX là một tư tưởng lớn trong thời đại
giải phóng dân tộc là nguồn cổ vũ cho các dân tộc bị áp bức trên thế giới.
Mục tiêu lớn trong bảo vệ Tổ Quốc của Người là độc lập dân tộc gắn liền
với CNXH đây là con đường khác biệt mà người đã lựa chọn để giải phóng dân
tộc khắc biệt với con đường chủ nghĩa phong kiến cuối thế kỉ XIX, chủ nghĩa tư
bản đầu thế kỉ XX.
Năm 1920, ngay khi quyết định phương hướng giải phóng và phát triển
dân tộc theo con đường của cách mạng vơ sản, ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó
thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc và quốc tế, độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Năm 1960 Hồ Chí Minh nói: “chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản
mới giải phóng được dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới
khỏi ách nô lệ”.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh vừa phản ánh được quy luật khách quan của
sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh
mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với muc tiêu giải
phóng với muc tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có xóa bỏ
tận gốc tình trạng áp bức, bóc lột, thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do

dân, vì dân mới bảo đảm cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện

24


được sự phát triển hài hòa giữ cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do
và hạnh phúc của con người.
Hồ Chí Minh đã từng nói: “Nước độc lập mà dân khơng được hưởng tự
do, thì độc lập cũng khơng có nghĩa lý gì”.
Do đó sau khi dành được độc lập, phải tiến lên xây dựng CNXH, làm cho
dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng, tự do
Người còn khẳng định: Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu
chủ nghĩa xã hội, vì chỉ có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày
một no ấm thêm”.
Và Người cịn chỉ ra rằng bảo vệ Tổ quốc XHCN là trách nhiệm của mọi
công dân điều này được thể hiện rõ trong lời Kêu gọi toàn quốc kháng chiến:
“Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, bất kỳ người già người trẻ,
khong phân chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải
đứng lên đánh thực dân pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng. Ai có gươm thì
dùng gươm, khơng có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra sức
chống thực dân pháp cứu nước”.
Người đã xác đinh rõ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc không chỉ một hai người
mà của cả dân tộc Việt Nam, bất kỳ già trẻ, bất kỳ tôn giáo hay đảng phái
nào...hễ là người Việt Nam thì điều có một nhiệm vụ to lớn là bảo vệ Tổ quốc
XHCN. Đó là trách nhiệm là nghĩa vụ cao cả mà bất kỳ mọi công dân trên đất
nước Việt Nam đều phải thục hiện nó.
Với tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH đã đóng vai trò to lớn
trong việc xác định con đường cách mạng đúng đắn cho dân tộc Việt Nam, đồng
thời người cũng xác định bảo vệ Tổ quốc là trách nhiệm của mọi công dân. Đây
là tư tưởng để Đảng và nhân dân ta kiên định một mục một hướng đi đúng trong

bảo vệ Tổ quốc XHCN ngày nay

25


Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×