Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

hieuPhương hướng và biện pháp cơ bản xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (426.35 KB, 69 trang )

Lời cảm ơn
Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo, Đại tá. ThS. Trương Xuân Dũng
trong tổ bộ môn Đường lối quân sự và cũng là giáo viên trực tiếp giảng dạy em
môn Đường lối quân sự của Đảng trong học kỳ qua. Trong thời gian qua, dưới
sự hướng dẫn tận tình của thầy và sự góp ý chu đáo của các thầy trong khoa đã
giúp em hoàn thành đề tài.
Trong q trình làm đề tài, chắc chắn sẽ khơng tránh khỏi những thiếu sót,
kính mong các thầy cơ cùng bạn đọc đóng góp ý kiến bổ sung để cho đề tài ngày
càng được hoàn thiện và đạt kết quả tốt hơn. Rất mong được sự quan tâm, góp ý
của thầy cô và các bạn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Nghệ An, ngày 26 tháng 11 năm 2014
Sinh viên thực hiện

Đặng Trung Hiếu

A. MỞ ĐẦU.


1. Lý do chọn đề tài.
Như chúng ta đã biết, nhiệm vụ chiến lược của các mạng nước ta là Xây
dựng Chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Hai nhiệm vụ này
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, là cơ sở điều kiện của nhau, cùng nhau phát
triển, thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu là một tổn thất
của phong trào cách mạng thế giới, song nó cũng đã để lại cho các nước xã hội
chủ nghĩa bài học đắt giá rằng: xây dựng chủ nghĩa xã hội phải luôn gắn liền với
bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Có như vậy, Tổ quốc xã hội chủ nghĩa mới tồn
tại và phát triển được. Đảng ta đã khẳng định: “Trong khi đặt trọng tâm vào
nhiệm vụ xây dựng chủ nghĩa xã hội chúng ta không một chút lơi lỏng nhiệm vụ
bảo vệ Tổ quốc”.


Lực lượng vũ trang là công cụ bạo lực chủ yếu để nhân dân ta tiến hành
và bảo vệ sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Tổ quốc; là lực lượng xung kích trong
khởi nghĩa tồn dân dành chính quyền; là lực lượng nịng cốt của quốc phịng
tồn dân và chiến tranh nhân dân. Xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là u
cầu có tính tất yếu, khách quan của sự nghiệp bảo vệ tổ quốc; là nhiệm vụ của
toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta.
Nhất là trong giai đoạn hiện nay, tình hình trên thế giới và khu vực đang
ngày càng diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng
thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh
thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn còn diễn ra gay gắt…
Chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch vẫn luôn coi Việt Nam là một trong
những trọng điểm để phá hoại. Bằng chiến lược “Diễn biến hịa bình”, bạo loạn
lật đổ, kết hợp với răn đe quân sự và sẵn sàng sử dụng sức mạnh quân sự khi có
điều kiện, thời cơ tiến tới xóa bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ
xã hội chủ nghĩa, lôi kéo ta đi theo quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Vì vậy mà vấn đề

SVTH: Đặng Trung Hiếu

2

MSSV: 135D6201150059


xây dựng lực lượng vũ trang trong tình hình mới càng trở nên quan trọng và cấp
bách hơn bao giờ hết.
Một trong những nội dung quan trọng được Đảng ta nhiều lần đề cập
trong văn kiện Đại hội các kỳ gần đây và tiếp tục được khẳng định nhất quán
trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội” (bổ
sung, phát triển năm 2011) và “Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020”
thông qua tại Đại hội XI là: “Xây dựng quân đội nhân dân và cơng an nhân dân

cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”.
Chính vì những lý do trên, tôi đã chọn đề tài “Xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân vững mạnh toàn diện từng bước hiện đại ” làm đề tài nghiên
cứu.
Những năm qua, cùng với những thành tựu vượt bậc của công cuộc đổi
mới đất nước, lĩnh vực quốc phịng, an ninh nước ta ln được Ðảng, Nhà nước,
nhân dân chăm lo xây dựng, củng cố. Vì vậy, tiềm lực và thế trận quốc phịng
tồn dân, gắn với thế trận an ninh nhân dân, công tác giáo dục quốc phòng ngày
càng được tăng cường, củng cố. Quân đội nhân dân và Công an nhân dân tiếp
tục được xây dựng theo hướng cách mạng, chính quy, tinh nhuệ từng bước hiện
đại, thật sự xứng đáng là lực lượng nịng cốt trong cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Mục đích nghiên cứu.
Tìm hiểu về phương hướng và những biện pháp cơ bản để xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ mới, nhằm xây dựng lực lượng vũ trang
vững mạnh, toàn diện, thực hiện tốt những yêu cầu và nhiệm vụ của đất nước
trong giai đoạn cách mạng mới.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu.
Để làm sáng tỏ mục đích nghiên cứu, đề tài cần tập trung giải quyết các
nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất: Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của phương hướng và biện
pháp xây dựng lưc lượng vũ trang nhân dân.
SVTH: Đặng Trung Hiếu

3

MSSV: 135D6201150059


Thứ hai: Tìm hiểu về những tác động tích cực và tiêu cực của tình hình

thế giới, khu vực và trong nước tới công tác xây dựng lực lượng vũ trang và thự
trạng xây dựng lực lượng vũ trang hiện nay.
Thứ ba: Tìm hiểu phương hướng và biện pháp cơ bản xây dựng lực lượng
vũ trang hiện nay.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Để thực hiện đề tài này, tôi đã sử dụng các phương pháp:
Phương pháp lôgic – lịch sử
Phương pháp phân tích tổng hợp
Phương pháp sử dụng tài liệu
5. Ý nghĩa của đề tài
Đề tài sẽ giúp cho người đọc hiểu biết thêm về hệ thống cơ sở lý luận về
lực lượng vũ trang nhân dân, định hướng cho người đọc một cách nhìn nhận
đúng đắn về tầm quan trọng của lực lượng vũ trang cũng như công tác xây dựng
lực lượng này.
6. Bố cục của đề tài.
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và mục tài liệu tham khảo thì đề tài
gồm có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu.
Chương 2: Thực trạng xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân.
Chương 3: Phương hướng và biện pháp cơ bản xây dựng lực lượng nhân
dân trong thời kỳ mới.

SVTH: Đặng Trung Hiếu

4

MSSV: 135D6201150059


B. NỘI DUNG

ch¬ng 1: c¬ së lý ln cđa vÊn ®Ị nghiªn cøu.
1.1. Một số khái niệm.
1.1.1.

Khái niệm về lực lượng vũ trang.

Lực lượng vũ trang là toàn bộ các tổ chức vũ trang của một nhà nước hoặc
một tập đoàn xã hội nhất định.
1.1.2.

Khái niệm về lực lượng vũ trang nhân dân Việt

Nam.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam là các tổ chức vũ trang và bán vũ
trang của nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quản lí, có nhiệm vụ “ chiến đấu giành và
giữ độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ chế độ xã hội
chủ nghĩa và nhũng thành quả cách mạng, cùng toàn dân xây dựng đất nước. Là
lực lượng xung kích trong khởi nghĩa tồn dân giành chính quyền, là lực lượng
nịng cốt của quốc phịng tồn dân và chiến tranh nhân dân”. (Trung tâm từ điển
Bách khoa quân sự Bộ Quốc phòng, Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam).
Nội dung chủ yếu của khái niệm:
- Là tổ chức vũ trang và bán vũ trang của nhân dân Việt Nam do Đảng
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
quản lí.
- Nhiệm vụ: Chiến đấu giành và giữ độ lập, chủ quyền thống nhất và toàn
ven lãnh thổ.
+ Bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ nhân dân, bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa và nhưng thành quả cách mạng.

+ Cùng toàn dân xây dựng đất nước.

SVTH: Đặng Trung Hiếu

5

MSSV: 135D6201150059


+ Là lực lượng nòng cốt trong khởi nghĩa giành chính quyền, xây dựng
nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân dân và chiến tranh nhân dân.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
quân đội.
1.2.1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về quân đội.
Theo Ph. Ăngghen: “ Quân đội là một tập đoàn người vũ trang, có tổ chức
do Nhà nước xây dựng để dùng vào cuộc chiến tranh tiến công hoặc chiến trang
phòng ngự”.
Như vậy theo Ph. Ăngghen, quân độilà một tổ chức của một giai cấp và
Nhà nước nhất định, là công cụ bạo lực vũ trang chủ yếu nhất, là lực lượng nòng
cốt để Nhà nước, giai cấp tiến hành vũ trang và đấu tranh vũ trang.
Trong điều kiện tư bản chủ nghĩa phát triển từ tự do cạnh tranh sang độc
quyền (chủ nghĩa đế quốc), V.I. Lênin nhấn mạnh: chức năng cơ bản của quân
đội đế quốc là phương tiện quân sự chủ yếu để đạt được mục đích chính trị đối
ngoại là tiến hành chiến tranh xâm lược và duy trì quyền thống trị của bọn bóc
lột đối với nhân dân lao động trong nước.
-Nguồn gốc ra đời của quân đội
Từ khi quân đội xuất hiện đến nay, đã có khơng ít nhà lí luận đề cập đến
nguồn gốc, bản chất của quân đội trên các khía cạnh khác nhau. Nhưng chỉ có
chủ nghĩa Mác – Lênin mới lí giải đúng đắn và khoa học về hiện tượng chính trị
xã hội này.

Chủ nghĩa Mác – Lênin đã chứng minh một cách khoa học về nguồn gốc
ra đời của quân đội từ sự phân tích cơ sở kinh tế - xã hội và khẳng định: quân
đội là một hiện tượng lịch sử, ra đời trong giai đoạn phát triển nhất định của xã
hội loài người, khi xuất hiện chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự đối kháng
giai cấp trong xã hội. Chính chế độ tư hữu và đối kháng giai cấp đã làm nảy sinh
Nhà nước thống trị bóc lột. Để bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và đàn áp

SVTH: Đặng Trung Hiếu

6

MSSV: 135D6201150059


quần chúng nhân dân lao động, giai cấp thống trị đã tổ chức ra lực lượng vũ
trang thường trực làm công cụ bạo lực của Nhà nước.
Như vậy, chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sự phân chia xã hội thành
giai cấp đối kháng là nguồn gốc ra đời của quân đội. Chừng nào còn chế độ tư
hữu, cịn chế độ áp bức bóc lột thì qn đội vẫn còn tồn tại. Quân đội chỉ mất đi
khi giai cấp, Nhà nước và những điều kiện sinh ra nó tiêu vong.
-Bản chất giai cấp của quân đội
Khi bàn về bản chất của quân đội, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định bản
chất quân đội là công cụ bạo lực vũ trang của một giai cấp, Nhà nước nhất đình
nhằm mục đích bảo vệ lợi ích của giai cấp thống trị và Nhà nước, tổ chức, nuôi
dưỡng, sử dụng nó. Bản chất giai cấp của quân đội phụ thuộc vào bản chất giai
cấp của Nhà nước đã tổ chức ra quân đội đó. Quân đội do giai cấp, Nhà nước tổ
chức, nuôi dưỡng và xây dựng theo đường lối, quan điểm chính trị, qn sự của
giai cấp mình. Đó là cơ sở để quân đội trung thành với Nhà nước, giai cấp đã tổ
chức ra nó.
Bản chất giai cấp của qn đội khơng phải tự phát hình thành mà phải trải

qua quá trình xây dựng lâu dài và được cũng cố liên tục. Bản chất giai cấp của
quân đội là tương đối ổn định, nhưng không phải là bất biến. Sự vận động phát
triển bản chất giai cấp của quân đội bị chi phối bởi nhiều yếu tố như: giai cấp,
nhà nước, các lực lượng, tổ chức chính trị xã hội và việc giải quyết các mối quan
hệ trong nội bộ trong quân đội. Do sự tác động của các yếu tố trên mà bản chất
giai cấp của quân đội có thể được tăng cường hoặc phai nhạt, thậm chí bị biến
chất và tuột khỏi tay nhà nước, giai cấp đã tổ chức ra, ni dưỡng qn đội đó.
Sự thay đổi bản chất giai cấp của quân đội diễn ra dần dần thông qua viecj
taawng cường hoặc suy yếu các mối quan hệ trên.
Trong tình hình hiện nay, các học giả tư sản thương rêu rao luận điểm “
phi chính trị hóa qn đội”, cho qn đội phải đứng ngồi chính trị, qn đội là
cơng cụ bạo lực của tồn xã hội, khơng mang bản chất giai cấp. Thực chất quan

SVTH: Đặng Trung Hiếu

7

MSSV: 135D6201150059


điểm “phi chính trị hóa qn đội” của các học giả tư sản nhằm làm suy yếu sự
lãnh đạo của Đảng Cộng sản, làm giảm sức mạnh chiến đấu, từng bước làm
thối hóa về cchinhs trị tư tưởng, phai nhạt bản chất cách mạng của quân đội.
Đó là mục tiêu quan trọng trong chiến lược “Diễn biến hịa bình”, bạo loan lật
đổ của chủ nghĩa đế quốc. Mặt khác mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động
không nhỏ tới bản chất giai cấp công nhân, bản chất cách mạng của quân đội.
Những biểu hiện cường điệu lợi ích vật chất, lề thói thực dụng, cơ hội chính trị,
sự suy giảm về đạo đức cách mạng là những cản trở trong xây dựng quân đội
cách mạng hiện nay.
-Sức mạnh chiến đấu của quân đội

Mác, Ăng-ghen khẳng định, sức mạnh chiến đấu của quân đội là do kết
hợp nhiều yếu tố tạo nên như: Con người, chính trị, kinh tế, kĩ thuật, vũ khí
trang bị, huấn luyện, tổ chức biên chế, khoa học nghệ thuật qn sự… Sức mạnh
đó cịn phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, chính tri, đặc biệt là chế độ
kinh tế. Mác, Ăng-ghen rất chú trọng đến khâu đào tạo đội ngũ cán bộ, đánh giá
và nhận xét về tài năng của các tướng lĩnh quân sự, đồng thời phê phán sự yếu
kém của đội ngũ này.
Lênin đã phát triển luận điểm của Mác, Ăng-ghen về quân đội trong điều
kiện thực tiễn của nước Nga. Ông chỉ rõ, sức mạnh chiến đấu của quân đội phụ
thuộc vào nhiều yếu tố: chính trị, tinh thần, điều kiện kinh tế xã hội… trong đó
khẳng định vai trị quyết định của nhân tố chính trị tinh thần trong chiến tranh,
Người viết: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt cuộc thắng lợi đều tùy thuộc vào
trạng thái chính trị tinh thần của quần chúng đang đổ mau trên chiến trương
quyết định”.
-Nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin.
Kế tục, bảo vệ và phát triển luận điểm của Mác, Ăng-ghen, Lênin đã xây
dựng thành công quân đội kiểu mới của giai cấp vô sản ở nước Nga Xô-Viết.
Những nguyên tắc cơ bản về xây dựng Hồng quân của Leenin là: sự lãnh đạo

SVTH: Đặng Trung Hiếu

8

MSSV: 135D6201150059


của Đảng Cộng sản đối với Hồng quân; quan điểm giai cấp trong xây dựng
Hồng quân; sự thống nhất giữa quân đội và nhân dân; trung thành với chủ nghĩa
quốc tế vơ sản; tổ chức hai hịa các qn, binh chủng, thường xuyên sẵn sàng
chiến đấu… Trong đó, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng

nhất, quyết định sức mạnh, sự tồn tại, phát triển, chiến đấu, trưởng thành của
Hồng quân.
Ngày nay, những nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới của Lênin vẫn
giữ nguyên giá trị. Đó là cơ sở cho các Đảng Cộng sản đề ra phương hướng, tổ
chức, xây dựng quân đội của mình vững mạnh.
1.2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về qn đội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo lí luận của chủ nghĩa Mác Lênin về quân đội, kế thừa và phát huy kinh nghiệm truyền thống tổ chức xây
dựng quân đội của dân tộc, sáng lập ra lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam
gồm ba thứ quân: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân tự vệ. Bộ đội
chủ lực và bộ đội địa phương hợp thành Quân đội nhân dân Việt Nam. Theo
Người, tiến hành chiến tranh nhân dân, thực hiện toàn dân đánh giặc nhưng phải
lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nịng cốt.
Vì vậy ngay từ đầu, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định “tổ chức ra quân
đội công nông”, chuẩn bị lực lượng cho tổng khởi nghĩa. Xây dựng quân đội
kiểu mới của giai cấp công nhân và nhân dân lao động các dân tộc Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, giáo dục. Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân
đội được thể hiện ở các vấn đề cơ bản sau:
- Khẳng định sự ra đời của quân đội là một tất yếu, là vấn đề có tính quy
luật trong đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc ở Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mối quan hệ biện chứng giữa sự ra đời của
quân đội với sự nghiệp giải phóng giai cấp và giải phóng dân tộc. Người viết:
“Dân tộc Việt Nam nhất định phải được giải phóng. Muốn đánh chúng phải có
lực lượng quân sự, phải có tổ chức”.
SVTH: Đặng Trung Hiếu

9

MSSV: 135D6201150059



Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân- tiền thân
của qân đội ta hiện nay được thành lập. Sự ra đời của quân đội xuất phát từ
chính yêu cầu của sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp
ở nước ta. Thực tiễn lịch sử cho thấy, kẻ thù sử dụng bạo lực phản cách mạng để
áp bức nô dịch dân tộc ta. Do vậy, muốn giải phóng dân tộc, giải phong giai cấp
chúng ta phải tổ chức bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng.
Để thực hiện mục tiêu cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng
sản Việt Nam đã tổ chức ra lực lượng vũ trang cách mạng làm nòng cốt cho cuộc
đấu traanh giai cấp, dân tộc mà tiền thân của nó là những đội xích vệ đỏ, du kích
vũ trang, sâu đó phát triển thành quân đội nhân dân. Quân đội nhân dân Việt
Nam là lực lượng vũ trang cách mạng của giai cấp công nhân và quần chúng lao
động, đấu tranh với kẻ thù giai cấp và kẻ thù dân tộc.
Quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng thành của quân đội ta luôn luôn
gắn liền với phong trào cách mạng của quần chúng, với các cuộc chiến tranh giải
phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Chính từ thực tiễn phong
trào cách mạng của quần chúng, những thăng trầm của chiến tranh, những thử
thách ác liệt cùng với những hy sinh to lớn mà phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” được
rèn luyện, kiểm nghiệm nghiêm ngặt nhất và được phát triển lên đỉnh cao.
Ngay từ khi mới thành lập mặc dù đại bộ phận cán bộ chiến sỹ xuất thân
từ nông dân nhưng tất cả họ đều là những người có lịng u nước mãnh liệt, trí
căm thù giặc sâu sắc. Trải qua những năm tháng phục vụ trong quân đội họ
không ngừng được nâng cao giác ngộ cách mạng, chuyển từ giác ngộ dân tộc lên
giác ngộ giai cấp, từ tinh thần độc lập dân tộc lên ý thức xã hội chủ nghĩa,
chuyền lập trường của giai cấp nông dân sang lập trường giai cấp công nhân để
xem xét giải quyết đánh giá công việc. Sự thống nhất hữu cơ trên, từ nét đặc thù
về chế độ chính trị, bản chất nhà nước, giai cấp tổ chức, nuôi dưỡng và sử dụng
quân đội. Quân đội nhân dân Việt Nam sinh ra từ các phong trào cách mạng của
quần chúng, được nhân dân nuôi dưỡng, đùm bọc, che chở và tiếp sức, lại được

SVTH: Đặng Trung Hiếu


10

MSSV: 135D6201150059


tổ chức giáo dục rèn luyện bởi Đảng Cộng sản Việt Nam- Người đại biểu trung
thành cho lợi ích giai cấp, dân tộc và nhân dân, vì vậy quân đội ln hồn thành
mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao phó.
-Quân đội nhân dân Việt Nam mang bản chất của giai cấp công nhân.
Với cương vị là người tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện quân đội
ta, chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên coi trong bản chất giai cấp công nhân
cho quân đội. Bản chất giai cấp cơng nhân cho qn đội, Chủ tịch Hồ Chí Minh
hết sức quan tâm đến giáo dục, nuôi dưỡng các phẩm chất cách mạng, bản lĩnh
chính trị và coi đó là cơ sở, nền tảng để xây dựng quân đội vững mạnh toàn
diện. Trong buổi lễ phong quân hàm cho các cán bộ cao cấp Quân đội nhân dân
ngày 22 – 12 – 1958, Người vừa biểu dương vừa căn dặn: “quân đội đã hoàn
thành nhiệm vụ mà Đảng và Chính phủ giao cho, đã có truyền thơng vẻ vang là
tuyệt đối trung thành với Đảng, với nhân dân, chiến đấu anh dũng, cơng tác và
lao động tích cực, tiết kiệm, cần cù, khiêm tốn, giản dị, đoàn kết nội bộ, đồng
cam cộng khổ với nhân dân, sẵn sàng khắc phục khó khăn hồn thành nhiệm
vụ”. Lời căn dặn của Người là sự khái quát các phẩm chất, tiêu chí của bản chất
giai cấp công nhân của quân đội ta. Trong bài nói chuyện tại buổi chiêu đãi
mừng quân đội ta tròn hai mươi tuổi ngày 22 – 12 – 1964, một lần nữa Chủ tịch
Hồ Chí Minh lại khẳng định, bản chất giai cấp của quân đội là công cụ bạo lực
vũ trang của giai cấp, Nhà nước. Người viết: “quân đội ta trung với Đảng, hiếu
với dân, sẵn sàng chiến đấu hi sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã
hội. Nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào
cũng đánh thắng”.
Quân đội nhân dân Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực

tiếp tổ chức lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân hết lòng yêu
thương, đùm bọc, đồng thời được kế thừa những truyền thống tốt đẹp của một
dân tộc có hàng ngàn năm văn hiến và lịch sử đấu tranh dựng nước gắn liền với
giữ nước oanh liệt. Do đó, ngay từ khi ra đời và trong suốt quá trình phát triển,

SVTH: Đặng Trung Hiếu

11

MSSV: 135D6201150059


quân đội ta luôn thực sự là một quaan đội kiểu mới mang bản chất cách mạng
của giai cấp công nhân, đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
- Khẳng định, quân đội ta từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu.
Đây là một trong những cống hiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong phát
triển lí luận về quân đội. Người lập luận, bản chất giai cấp cơng nhân và tính
nhân dân của quân đội ta là một thể thống nhất, xem đó như là biểu hiện tính
quy luật của q trình hình thành, phát triển quân đội kiểu mới, quân đội của
giai cấp vơ sản. Trong bài Tình đồn kết qn dân ngày càng thêm bền chặt 3 –
3 – 1952, Người viết: “Quân đội ta là quân đội nhân dân. Nghĩa là con em ruột
thịt của nhân dân. Đánh giặc để giành lại độc lập thống nhất cho Tổ quốc, để bảo
vệ tự do, hạnh phúc của nhân dân. Ngoài lợi ích của nhân dân, qn đội ta khơng
có lợi ích nào khác”.
- Đảng lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với quân đội là một
nguyên tắc xây dựng quân đội kiểu mới, quân đội của giai cấp vơ sản.
Bắt nguồn từ ngun lí chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng quân đội kiểu
mới của giai cấp vơ sản, Chủ tịch Hồ Chí minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đặc
biệt quan tâm đến công cụ đặc biệt này để nó thực sự trở thành lực lượng nòng
cốt trong đấu tranh giai cấp, kể cả tiến hành chiến tranh.

Đảng Cộng sản Việt Nam – Người tổ chức lãnh đạo giáo dục và rèn luyện
quân đội – là nhân tố quyết định sự hình thành và phát triển bản chất giai cấp
công nhân của quân đội ta. Trong suốt quá trình xây dựng chiến đấu và trưởng
thành của quân đội, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh ln
dành sự chăm lo đặc biệt đối với quân đội. Điều này được thể hiện rõ nét trong
cơ chế lãnh đạo: tuyệt đối trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội trong
thực hiệ chế độ cơng tác đảng, cơng tác chính trị. Nhờ đó, Quân đội nhân dân
Việt Nam trở thành một quân đội kiểu mới mang bản chất cách mạng của giai
cấp công nhân. Thành tựu to lớn trong tăng cường bản chất giai cấp công nhân
cho quân đội ta là, Đảng đã đào tạo nên những thế hệ “Bộ đội Cụ Hồ”, một mầu

SVTH: Đặng Trung Hiếu

12

MSSV: 135D6201150059


hình mới của con người xã hội chủ nghĩa trong qn đội kiểu mới. Như vậy, nếu
khơng có một Đảng Cộng sản chân chính, khơng có một giai cấp cơng nhân Việt
Nam cách mạng, kiên định lập trường xã hội chủ nghĩa, thì Qn đội nhân dân
Việt Nam khơng thể giữ vững dược bản chất giai cấp công nhân, mục tiêu lí
tưởng chiến đấu của mình. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Qn đội ta có sức
mạnh vơ địch vì nó là một qn đội nhân dân do Đảng ta xây dựng, Đảng ta lãnh
đạo và giáo dục.
- Nhiệm vụ và chức năng cơ bản của quân đội.
Mục tiêu lí tưởng chiến đấu của quân đội ta là thực hiện mục tiêu lí tưởng
cách mạng của Đảng, của giai cấp cơng nhân và của tồn dân tộc: gắn giải
phóng dân tộc với giải phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Hiện nay qn đội ta có hai nhiệm vụ

chính. Một là, xây dựng một đội quân ngày càng hùng mạnh và sẵn sàng chiến
đấu. Hai là, thiết thực tham gia lao động sản xuất góp phần xây dựng chủ nghĩa
xã hội”.
Nhiệm vụ của quân đội ta hiện nay là phải luôn luôn sẵn sàng chiến đấu
và chiến đấu thắng lợi, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trước tình hình nhiệm
vụ mới của cách mạng và của qn đơi, ngồi nhiệm vụ chiến đấu và sẵn sàng
chiến đấu, quân đội phải tham gia vào nhiệm vụ xây dựng đất nước, sản xuất ra
của cải vật chất và tiến hành công tác huấn luyện. Đây là vấn đề khác về chất so
với quân đội của giai cấp bóc lột.
Quân đội ta có ba chức năng cơ bản: là đội quân chiến đấu, là đội quân
công tác, là đội quân sản xuất. Ba chức năng đó phản ánh cả mặt đối nội, đối
ngoại của quân đội. Quá trình xây dựng qn đội phải ln ln thực hiện tốt ba
chức năng đó.
Là đội quân chiến đấu: quân đội ta là quân đội cách mạng – quân đội của
dân, do dân, vì dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đó là một lực lượng chính trị,
lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và của nhân dân,

SVTH: Đặng Trung Hiếu

13

MSSV: 135D6201150059


bảo vệ vững chắc Tổ quốc và chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Vì vậy, Người
thường nhắc nhở chúng ta phải xây dựng quân đội ngày càng hùng mạnh và sẵn
sàng chiến đấu để giữ gìn hịa bình, bảo vệ đất nước.
Là đội quân sản xuất: quân đội tăng gia sản xuất cải thiện đời sống, xây
dựng kinh tế, góp phần xây dựng, phát triển đất nước, trong điều kiện hiện nay,
quân đội còn là lực lượng nòng cốt và xung kích trong xây dựng kinh tế - quốc

phòng ở các địa bàn chiến lược, nhất là ở biên giới, biển đảo, vùng sâu, vùng xa
cịn nhiều khó khăn gian khổ và ở những địa bàn có những tình huống phức tạp
nảy sinh.
Là đội qn cơng tác: qn đội tham gia vận động quần chúng nhân dân
xây dưng cơ sở chính trị - xã hội vững mạnh, góp phần tăng cường sự đoàn kết
giữa Đảng với nhân dân; giúp dân chống thiên tai, giải quyết khó khăn trong sản
xuất và đời sống, tuyên truyền vận động nhân dân hiểu rõ và chấp hành đúng
đường lối, quan điểm, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Ba chức năng cơ bản của quân đội thể hiện bản chất truyền thống tốt đẹp
của Quân đội nhân dân Việt Nam, một đội quân cách mạng, quân đội của dân,
do dân, vì dân, là lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước
và nhân dân.
1.3. Những quan điểm, nguyên tắc cơ bản của Đảng về xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân trong thời kỳ mới.
Một là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam đối với lực lượng vũ trang nhân dân.
Nguyên tắc này được kế thừa phát triển từ nguyên tắc quan điểm của chủ
nghĩa Mác- Lênin về xây dựng quân đội kiểu mới. Lênin cho rằng: Sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản là nguyên tắc quan trọng nhất quyết định sức mạnh, sự tồn
tại, phát triển, khả năng chiến đấu và chiến thắng của Hồng quân.
Đây là quan điểm, nguyên tắc cơ bản nhất trong xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân. Sự lãnh đạo của Đảng đối với các lực lượng vũ trang sẽ quyết
SVTH: Đặng Trung Hiếu

14

MSSV: 135D6201150059


định bản chất cách mạng, mục tiêu, phương hướng chiến đấu, đường lối tổ chức

và cơ chế hoạt động của lực lượng vũ trang nhân dân, bảo đảm nắm chắc quân
đội trong mọi tình huống. Thực tiễn cách mạng Việt Nam trong mấy năm qua đã
chứng minh điều đó.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sinh ra và trưởng thành trong cuộc
đấu tranh cách mạng, từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu bảo vệ mục
tiêu, lí tưởng của Đảng; quyền lực của giai cấp cơng nhân và nhân dân các dân
tộc Việt Nam. Có Đảng lãnh đạo, lực lượng vũ trang thực sự là của dân, do dân,
vì dân. Thực hiện sự lãnh đạo của Đảng đối với luwccj lượng vũ trang là một nội
dung xây dựng lực lượng vũ trang về chính trị.
Quán triệt quan điểm, nguyên tắc trên cần nắm vững các vấn đề:
+ Đảng lãnh đạo các lực lượng vũ trang theo nguyên tắc “tuyệt đối, trực
tiếp về mọi mặt”, chỉ có Đảng Cộng sản Việt Nam là chính đảng duy nhất nắm
quyền lãnh đạo lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Ban Chấp hành Trung
ương trực tiếp lãnh đạo lực lượng vũ trang, Đảng khơng chia quyền lãn đạo đó
cho bất kỳ lực lượng chính trị, đảng phái, tổ chức xã hội hoặc cá nhân nào. Đảng
lãnh đạo lực lượng vũ trang theo hệ thống tổ chức từ Trung ương đến cơ sở. Lực
lượng vũ trang nhân dân địa phương bao gồm bộ độ địa phương, dân quân tự vệ
và lực lượng dự bị động viên do các cấp Đảng bộ ở địa phương trực tiếp lãnh
đạo. Sự lãnh đạo của Đảng phải bao quát hết các quân, binh chủng, mọi đơn vị,
mọi ngành, mọi công tác, mọi hoạt động của lực lượng vũ trang. Khơng có khâu
nào trong hoạt động của lực lượng vũ trang thiếu sự lãnh đạo của Đảng.
+ Trong bối cảnh phức tạp của tình hình quốc tế cũng như khu vực hiện
nay, trước âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch cũng như
yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng và nhiệm vụ xây dựng lực lượng vũ trang, việc
giữ vững tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang là cần
thiết mang ý nghĩa sống còn đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta.

SVTH: Đặng Trung Hiếu

15


MSSV: 135D6201150059


Để đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng đối với lực lượng vũ trang, cần phải
xây dựng các tổ chức đảng trong lực lượng vũ trang trong sạch vững mạnh,
đồng thời luôn đổi mới hoạt của các tổ chức đảng. Coi trọng và nâng cao hiệu
lực công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang. Chăm lo kiện
toàn đổi mới các hoạt động của các tổ chức quần chúng, làm vho những hoạt
động của các tổ chức này luôn trở thành nơi hành động cách mạng sôi động của
quần chúng, nhân dân.
Hai là, tự lực tự cường xây dựng lực lượng.
Độc lập tự chủ, tự lực tự cường là truyền thống quý báu của nhân dân Việt
Nam, là nét văn hóa, tính cách đặc trưng của các dân tộc trên đất nước ta.
Truyền thống đó đã được Đảng, Bác Hồ kế thừa phát triển, quán triệt nhân dân
ta suốt chiều dài cách mạng. Thực tế lịch sử đã chứng minh những quan điểm đó
của Đảng ta là hoàn toàn đúng. Lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của
dân tộc đã chỉ ra rằng: Những thắng lợi mà chúng ta giành được trước hết là do
biết phát huy nội lực, tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường dựa vào sức mình
là chính. Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam nhờ sự tự lực tự cường đã từng
bước trưởng thành ngay càng lớn mạnh, hoàn thành mọi nhiệm vụ mà Đảng và
nhân dân giao phó. Tuy nhiên, mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử cụ thể, nội
dung và hình thức, mức độ thể hiện quan điểm tự lực tự cường có khác nhau, đó
là sự sáng tạo của Đảng và Bác Hồ. Trong các cuộc kháng chiến vĩ đại chống
thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, và xây dựng chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã nhận
được sự giúp đỡ vô cùng to lớn từ các nước xã hội chủ nghĩa anh em và bạn bè
quốc tế. Sự giúp đỡ đó đã góp phần quan trọng đưa sự nghiệp giải phóng dân
tộc, xây dựng đất nước của nhân dân ta đến thắng lợi huy hồng. Song điều
khơng thể phủ nhận rằng sự giúp đỡ to lớn đó đã được Đảng, Nhà nước và nhân
dân ta phát huy hiệu quả cao nhất là nhờ lịng dũng cảm, trí thơng minh sáng tạo

và tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường tuyệt vời.

SVTH: Đặng Trung Hiếu

16

MSSV: 135D6201150059


Nội dung: Tự lực tự cường dựa vào sức mình để xây dựng, để giữ vững
tính độc lập tự chủ, chủ động không bị chi phối ràng buộc.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm, khắc phục mọi khó khăn xây dựng đơn vị
vững mạnh toàn diện. Triệt để tranh thủ những điều kiện quốc tế thuận lợi về
khoa học – công nghệ để xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang nhân dân.
Tập trung từng bước hiện đại hóa trang bị kỹ thuật, quản lý khai thác bảo quản
có hiệu quả trang bị hiện có…
Tích cực đẩy mạnh phát triển kinh tế và thực hành tiết kiệm.
Ba là, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân lấy chất lượng là chính, lấy
xây dựng chính trị làm cơ sở.
Như chúng ta đã biết, sức mạnh của lực lượng vũ trang phụ thuộc vào rất
nhiều yếu tố tổng hợp: chính trị, tư tưởng, tổ chức chức chỉ huy, huấn luyện, vũ
khí trang bị, cơng tác bảo đảm, khoa học qn sự… Vì vậy xây dựng lực lượng
vũ trang nhân dân phải toàn diện, coi trọng cả số lượng và chất lượng trong đó
lấy chất lượng là chính. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, dân tộc ta thường
phải chống lại sự xâm lược của những kẻ thù mạnh hơn ta, đông hơn ta. Để bảo
vệ đất nước, cha ông ta đã phát động toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang
gồm ba thứ quân làm nòng cốt, xây dựng nên truyền thống chống ngoại xâm của
dân tộc là: “lấy nhỏ đánh lớn”, “lấy ít địch nhiều”, “lấy chất lượng cao thắng số
lượng đông”. Đây là một nội dung cơ bản của nghệ thuật quân sự truyền thống
Việt Nam.

Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, sức
mạnh của lực lượng vũ trang là sức mạnh tổng hợp của các nhân tố chính trị
-tinh thần, tư tưởng, tổ chức và vũ khí trang bị…, trong đó nhân tố chính trị tinh thần là nhân tố quyết định. Lênin chỉ rõ: “Trong mọi cuộc chiến tranh, rốt
cục thắng lợi đều tùy thuộc vào trạng thái chính trị tinh thần của quần chúng
đang đổ máu trên chiến trường”. Chủ tịch Hồ Chí Minh ln nhấn mạnh vai trị
quyết định của nhân tố chính tri – tinh thần, nhân tố con người. Trong mối quan

SVTH: Đặng Trung Hiếu

17

MSSV: 135D6201150059


hệ quân sự - chính trị, bao giờ Người cũng nhấn mạnh nguyên tắc xây dựng lực
lượng vũ trang nhân dân mạnh về chính trị, cho đó là nhân tố quyết định. Người
khẳng định: “Qn sự mà khơng có chính trị như cây khơng có gốc, vơ dụng mà
có hại”. Vì vậy, quá trình xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh cần quan tâm
trước hết đến nhân tố chính trị - tinh thần mà cụ thể là yếu tố con người, phải
làm cho toàn thể cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang có bản lĩnh chính trị
vững vàng, có lịng u nước, u chủ nghĩa xã hội, sẵn sàng hy sinh vì độc lập
tự do của Tổ quốc, vì lý tưởng của Bác Hồ vĩ đại. Đó chính là cơ sở chính trị nhân tố quyết định sức mạnh chiến đấu của lực lượng vũ trang.
Đây còn là bài học thành công của Đảng và Chủ Tịch Hồ Chí Minh trong
xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ, lực lượng vũ trang ln làm nóng cốt cho toàn dân
đánh giặc và đã chiến thắng kẻ thù, một trong những nguyên nhân quan trọng là
Đảng và Bác Hồ luôn nêu cao và đánh giá đúng vai trị quyết định của nhân tố
chính trị - tinh thần trong quá trình xây dựng lực lượng vũ trang. Người đã khơi
dậy những giá trị truyền thống như long yêu nước, đức hy sinh, ý chí căm thù
quân xâm lược trong lực lượng vũ trang, tạo nên tinh thần chủ nghĩa anh hùng

cách mạng trong chiến đấu, sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.
Quán triệt quan điểm, nguyên tắc trên cần làm tốt các vấn đề:
+ Thường xuyên chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần của lực lượng
vũ trang nhân dân, giáo dục động viên và biểu dương kịp thời các gương người
tốt việc tốt, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ có đức, có tài theo tư tưởng Hồ
Chí Minh là cán bộ phải đủ tư cách: Trí – Dũng – Nhân – Tín – Liêm – Trung.
+ Quán triệt cho mọi cán bộ, chiến sĩ, các đơn vị trong lực lượng vũ trang
tin tưởng tuyệt đối và tự giác chấp hành mọi đường lối, chủ trương của Đảng,
pháp luật của Nhà nước; phai tuyệt đối trung thành với Đảng Cộng sản Việt
Nam, nhân dân và Tổ quôc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, kiên định con đườn mà
Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Thường xuyên nêu cao tinh thần cảnh

SVTH: Đặng Trung Hiếu

18

MSSV: 135D6201150059


giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì Chủ
nghĩa xã hội, “nhiệm vụ nào cũng hồn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ
thù nào cũng đánh thắng”.
+ Chăm lo xây dựng các tổ chức quần chúng trong lực lượng vũ trang như
Đồn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội đồng qn nhân, Cơng đồn, Hội
phụ nữ. Nâng cao sức mạnh chiến đấu của tổ chức Đảng, trình độ chuyên môn
nghiệp vụ của tổ chức chỉ huy, cơ quan. Xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện,
sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ.
Bốn là, bảo đảm lực lượng vũ trang nhân dân luôn trong tư thế sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu thắng lợi
Đây là quan điểm phản ánh chức năng, nhiệm vụ chủ yếu cơ bản, thường

xuyên của lực lượng vũ trang nhân dân, có ý nghĩa quan trọng bảo đảm cho lực
lượng vũ trang nhân dân chủ động đối phó kịp thời và thắng lợi trong mọi tình
huống có thể xảy ra.
Việc qn triệt và nắm vững nguyên tắc sẵn sàng chiến đấu trong xây
dựng lực lượng vũ trang trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa vô cung quan trọng
mang lực thù địch vẫn tiếp tục chống phá ta trên nhiều lĩnh vực, chúng sẵn sàng
can thiệp quân sự, khi tạo được cớ hoặc có điều kiện thời cơ thích hợp. Trong
tình hình cụ thể, bọn phản động trong nước kết hợp với bọn phản động lưu vong
ở nước ngoài được sự hỗ trợ của các thế lực phản động quốc tế sẽ tăng cường
hoạt động gây rối làm mất ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy
chiến lược “Diễn biến hịa bình”, bạo loan lật đổ kết hợp ngồi đánh vào, trong
đánh ra buộc Đảng, Nhà nước và nhân dân ta phải từ bỏ con đường đã chọn của
mình, đi theo quỹ đạo chủ nghĩa tư bản. Quán triệt quan điểm, nguyên tắc trên
cần thực hiện tốt các yêu cầu về sẵn sàng chiến đấu. Trong đó, yêu cầu cao nhất
của sẵn sàng chiến đấu là luôn luôn chủ động đánh địch kịp thời, bảo vệ được
mình, hồn thành tốt nhiệm vụ trong mọi tình huống khơng để bị bất ngờ, thụ
động về chiến lược cũng như về chiến thuật. Cụ thể:

SVTH: Đặng Trung Hiếu

19

MSSV: 135D6201150059


Nắm vững tình hình địch, những âm mưu thủ đoạn và cách thức hoạt
động của chúng, thường xuyên nâng cao cảnh giác cách mạng.
Chấp hành nghiêm chỉnh các chế độ quy định về sẵn sàng chiến đấu.
Xây dựng các phương án, xử lý các tình huống, tổ chức tập luyện và bổ
xung thường xuyên cho phù hợp với tình hình nhiệm vụ cụ thể.

Có thể nói, các quan điểm, nguyên tắc trên chính là cơ sở để chúng ta đưa
ra các phương hướng và biện pháp để xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân
trong thời kỳ mới. Trong công tác xây dựng lực lượng vũ trang cần phải đảm
bảo quán triệt, tuân theo các nguyên tắc, quan điểm trên.
1.4. Vị trí, vai trị của lực lượng vũ trang
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về bạo lực cách mạng, về
quân đội kiểu mới, quân đội công nông và kế thừa phát huy truyền thống chống
ngoại xâm của dân tộc, Đảng ta và chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo,
sáng lập ra lực lượng vũ trang kiểu mới của dân tộc ta. Đó là lực lượng vũ trang
nhân dân gồm ba thứ quân: bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du
kích. Ngay từ khi mới ra đời Đảng ta đã chủ trương phải “vũ trang cơng nơng”
để dành chính quyền.Khi đã có chính quyền thì phải thành lập “qn đội cơng
nơng”, đó là qn đội kiểu mới của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, giáo dục.
Như vậy, ngay từ khi mới ra đời, Đảng ta đã xác định con đường dành
thắng lợi của cách mạng Việt Nam là con đường bạo lực. Bạo lực của ta gồm hai
lực lượng: lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, với hai hình thức đấu tranh
chủ yếu là đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang.
Lực lượng vũ trang là công cụ bạo lực chủ yếu để nhân dân ta tiến hành
và bảo vệ sự nghiệp cách mạng, bảo vệ Tổ quốc. Trong đấu tranh chính trị, là
lực lượng bảo vệ phong trào quần chúng chống lại khủng bố của kẻ thù. Trong
khởi nghĩa vũ trang, là lực lượng xung kích làm nịng cốt cho đơng đảo quần
chúng vũ trang xơng lên lật đổ chính quyền phản động, giành chính quyền về tay
nhân dân. Trong chiến tranh cách mạng, là lực lượng nịng cốt cho tồn dân

SVTH: Đặng Trung Hiếu

20

MSSV: 135D6201150059



đánh giặc, là lực lượng quyết định trực tiếp việc tiêu diệt lực lượng của địch, đè
bẹp ý chí xâm lược của chúng để giành thắng lợi.
Hiện nay, lực lượng vũ trang đang là lực lượng trực tiếp, làm nòng cốt
cùng tồn dân xây dựng nền quốc phịng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, duy
trì điều kiện hịa bình, ổn định để phát triển kinh tế, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
1.5. Cơ cấu của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.
Lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam gồm quân đội nhân dân (bộ đội
chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phòng), dân quân tự vệ và công an nhân
dân. Ở đây, chúng ta chỉ ta chỉ nghiên cứu: Bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương,
dân quân tự vệ - ba thứ quân.
Bộ đội chủ lực: Là lực lượng nòng cốt của Quân đội nhân dân Việt Nam.
Bộ đội chủ lực trực thuộc Bộ Quốc phòng hoặc quân khu, gồm các quân chủng,
binh chủng, qn đồn và bộ đội chun mơn. Bộ đội chủ lực cơ động trên các
chiến trường cả nước, tác chiến tập trung, thường phối hợp với bộ đội địa
phương, bộ đội biên phòng và dân quân tự vệ.
Tiền thân của bộ đội chủ lực (và của Quân đội nhân dân Việt Nam) là Đội
Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân, thành lập ngày 22-12-1944.
Bộ đội địa phương: Là lực lượng cơ động tác chiến chủ yếu trên địa bàn
địa phương và cùng với dân quân tự vệ làm nòng cốt của chiến tranh nhân dân
tại địa phương. Bộ đội địa phương là một bộ phận hợp thành của Quân đội nhân
dân Việt Nam. Bộ đội địa phương do bộ (ban) chỉ huy quân sự của địa phương
chỉ huy, cấp ủy đảng và chính quyền địa phương trực tiếp lãnh đạo. Bộ dội địa
phương thành lập ngày 7-4-1949 theo Sắc lệnh số 103-SL của chủ tịch Chính
phủ Việt Nam cộng hòa
Lực lượng dân quân tự vệ: Lực lượng vũ trang quần chúng khơng thốt li
sản xuất, là bộ phận cuả lực lượng vũ trang nhân dân nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam; đặt dướ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, quản lý điều
hành của Chính phủ và Ủy ban nhân dân, sự chỉ đạo chỉ huy trực tiếp của cơ

quan quân sự các cấp. Là một trong những công cụ chủ yếu để bảo vệ Đảng, bảo
vệ chính quyền, bảo vệ tài sản của nhân dân, tài sản của Nhà nước ở cơ sở, lực
SVTH: Đặng Trung Hiếu

21

MSSV: 135D6201150059


lượng dân qn tự vệ có vị trí chiến lược quan trọng. Chủ tịch Hồ chí Minh
khẳng định: “Dân quân tự vệ và lực lượng du kích là lực lượng của tồn dân tộc,
là một lực lượng vơ địch, là một bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ địch có
hung bạo thế nào hễ động vào lực lượng đó, bức tường đó thì kẻ địch đó cũng
phải tan rã”.
Dân quân tự vệ có bốn nhiệm vụ cơ bản, đó là:
+ Sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu tiêu hao tiêu diệt lực lượng địch, làm
nòng cốt cho phong trào toàn dân đánh giặc bảo vệ địa phương, cơ sở.
+ Phối hợp với cơng an, bộ đội biên phịng, bộ đội thường trực và các
đoàn thể nhân dân giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh chính trị, trật tự an tồn
xã hội, bảo vệ các cơng trình quốc phịng, các kho tàng vũ khí trang bị kỹ thuật.
Phát hiện và thu giữ các loại vũ khí trang bị kỹ thuật tồn giữ bất hợp pháp. Tham
gia xây dựng cơ sở vững mạnh toàn diên.
+ Bổ xung cho quân đội, phối hợp với quân đội chiến đấu, phục vụ chiến
đấu, phục vụ tiền tuyến.
+ Gương mẫu chấp hành, vận động nhân dân thực hiện mọi đường lối chủ
trương chính sách của Đảng, pháp luật Nhà nước. Xung kích trong lao động sản
xuất, phòng chống khắc phục hậu quả của thiên tai, địch họa, và các sự cố
nghiêm trọng khác.

SVTH: Đặng Trung Hiếu


22

MSSV: 135D6201150059


CHƯƠNG 2:
THỰC TRẠNG XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
2.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của lực lượng vũ trang
nhân dân Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam gồm quân
đội nhân dân (bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương, bộ đội biên phịng), dân qn
tự vệ và cơng an nhân dân.
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Quân đội nhân dân Việt Nam.
Từ năm 1924, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã dự báo: Để cách mạng thắng
lợi, sẽ có "một cuộc khởi nghĩa vũ trang ở Đơng Dương" ... "cuộc khởi nghĩa đó
có tính chất một cuộc khởi nghĩa quần chúng..." (1). Việc cần phải tổ chức ra
quân đội công nông để "đánh đổ đế quốc chủ nghĩa Pháp và bọn phong kiến"
được khẳng định từ Chính cương vắn tắt của Đảng do Người soạn thảo và đã
được Hội nghị hợp nhất thành lập Đảng thông qua.
Trong cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), cuộc tổng diễn tập đầu
tiên của cách mạng nước ta, đã xuất hiện lực lượng vũ trang nhân dân. Từ những
cuộc biểu tình của công nông Vinh – Bến Thủy đã xuất hiện những đội tự vệ,
những đội xung vệ đỏ đầu tiên. Chính những xích vệ này đã đi đầu trong việc
bảo vệ các làng đỏ trong q trình tồn tại Xơ Viết - Nghệ Tĩnh.
Lực lượng võ trang nhân dân hình thành rõ nét hơn trong thời kỳ vận
động trực tiếp cho thắng lợi của cách mạng Tháng Tám (1939-1945). Trong thời
kỳ khởi nghĩa Bắc Sơn (9-1940), Đảng ta đã xây dựng đội du kích Bắc Sơn.
Ngày 14.2.1941, đội du kích Bắc Sơn được chính thức thành lập ở khu rưng
Khuỗi Nọi, xã vũ Lễ, châu Bắc Sơn (Lạng Sơn). Đội có 32 người chia ra 3 tiểu

đội do đồng chí Lương Văn Chi và Chu Văn Tấn chỉ huy. Vũ khí chỉ có 5 khẩu
súng trường cịn tồn súng kíp và dao găm.
Hội nghị T.Ư 8 (5-1941) quán triệt tư tưởng quân sự Chủ tịch Hồ Chí
Minh, xúc tiến mạnh mẽ công tác chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang, cũng là mốc lịch
SVTH: Đặng Trung Hiếu

23

MSSV: 135D6201150059


sử đánh dấu bước phát triển, hoàn thiện những quan điểm của Đảng về vũ trang
khởi nghĩa ở Việt Nam. Đây là quá trình chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang theo
đường lối, chủ trương sáng suốt của Đảng: Đó là cuộc khởi nghĩa vũ trang giành
độc lập do toàn thể dân tộc tiến hành. Hình thái của cuộc khởi nghĩa là tiến lên
từ khởi nghĩa từng phần, ở từng địa phương tới khởi nghĩa toàn quốc - Tổng
khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Trên cơ sở khối đại đoàn kết toàn
dân, mở rộng và xây dựng lực lượng chính trị vững mạnh, xây dựng đội ngũ cán
bộ đảng viên tiên phong để làm nòng cốt tổ chức xây dựng lực lượng vũ trang.
Lực lượng quân sự của cách mạng được xây dựng từ thấp đến cao, từ nhỏ đến
lớn, từ tự vệ cứu quốc đến tiểu tổ du kích rồi phát triển thành đội du kích chính
thức (du kích thốt ly). Hội nghị xác định: "... Cuộc cách mạng Đông Dương
phải kết liễu bằng một cuộc khởi nghĩa võ trang...". Khi vấn đề khởi nghĩa giành
chính quyền đã đặt ra thì việc tổ chức một đạo quân cách mạng và xây dựng căn
cứ địa cách mạng là điều kiện quyết định không thể thiếu.
Dưới chỉ đạo trực tiếp của Trung ương Đảng và lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh, trong những năm 1941 - 1944, các đội du kích, đội tự vệ được xây
dựng ở nhiều xã, nhiều huyện thuộc tỉnh Cao Bằng. Đội du kích Bắc Sơn được
củng cố và phát triển thành các Trung đội Cứu quốc quân. Cũng lúc đó, ở Nam
bộ, đội du kích Nam Kỳ đã xuất hiện trong cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ (23-111940).
Cũng trong khoảng thời gian này ở Pác Bó (Cao Bằng), Hồ Chủ Tịch chỉ

thị thành lập đội du kích Cao Bằng – nơi có phong trào Việt Minh khá nhất- gồm
12 chiến sĩ. Và tích cực chuẩn bị về mặt lí luận cho cơng tác xây dựng lực lượng
võ trang, với các tác phẩm như: “Cách đánh du kích”, “phép dùng binh của Tơn
Tử”
Ngày 22-12-1944, theo chỉ thị của Hồ Chủ tịch, đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân được thành lập tại một khu rừng nằm giữa hai tổng
Hoàng Hoa Thám và Trần hưng Đạo thuộc châu Nguyên Bình, Cao Bằng. Đồng

SVTH: Đặng Trung Hiếu

24

MSSV: 135D6201150059


chí Võ Nguyên Giáp được cử làm lãnh đạo. Đội chỉ có 34 chiến sĩ với 34 cây
súng nhưng đều là những chiến sĩ kiên cường được chọn lọc từ các đội du kích ở
Cao-Bắc- Lạng.
Việc thành lập đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có ý nghĩa đặc
biệt quan trọng với lịch sử quân đội ta. Chỉ thị thành lập đội Việt Nam tuyên
truyền giải phóng quân của Hồ Chí Minh tuy ngắn nhưng rất xúc tích, bao gồm
các vấn đề chủ yếu về đường lối quân sự của Đảng ta: vấn đề kháng chiến toàn
dân, động viên và vũ trang toàn dân, nguyên tắc xây dựng lực lượng võ trang
cách mạng, phương châm xây dựng ba thứ quân, phương thức hoạt động kết hợp
quân sự với chính trị của lực lượng võ trang, nguyên tắc tác chiến và chiến thuật
du kích của lực lượng võ trang. Người nói: “… Đội Việt Nam tuyên truyền giải
phóng quân là đội đàn anh mong cho chóng có những đội đàn em khác. Tuy lúc
đầu quy mơ của nó cịn nhỏ, nhưng tiền đồ của nó rất vẻ vang. Nó là khởi điểm
của Giải phóng quân, nó có thể đi suốt từ Nam chí Bắc, khắp đất nước Việt nam
chúng ta”.

Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân có thể coi là
cương lĩnh quân sự đầu tiên của Đảng đánh dấu bước hoàn chỉnh lý luận về xây
dựng lực lượng vũ trang cách mạng trong thời kỳ chuẩn bị Tổng khởi nghĩa.
Chỉ sau một tuần lễ, Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân đã phát triển
thành 3 trung đội làm nịng cốt cho cơng tác tun truyền, diệt địch, biến CaoBắc-Lạng thành một căn cứ vững chắc.
Tháng 4-1945, theo quyết định của hội nghị quân sự Bắc kỳ, Việt nam
tuyên truyền giải phóng quân và Cứu quốc quân đã thống nhất lại vào ngày 155-1945 và mang tên Việt Nam giải phóng quân. Lễ thống nhất được tổ chức tại
chợ Chu (Thái Nguyên) với 13 đại đội. Giải phóng quân được nhân dân đùm
bọc, càng đánh càng mạnh, càng giành thắng lợi lớn hơn.
Tại các chiến khu cách mạng trong nước, lực lượng du kích vẫn phát triển
hình thái 3 thứ quân.Tháng 5-1945, thành lập trung đội du kích của chiến khu

SVTH: Đặng Trung Hiếu

25

MSSV: 135D6201150059


×