Tải bản đầy đủ (.docx) (37 trang)

vận dụng đường lối văn hóa của đảng trong thời kỳ đổi mới để giải quyết các vấn đề văn hóa bức xúc hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (206.74 KB, 37 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc ta đã kết thúc với
chiến thắng lịch sử mùa xuân năm 1975. Đất nước thống nhất, Bắc Nam sum
họp một nhà, cả nước bước sang thời kỳ mới – thời kỳ qua sđộ lên chủ nghĩa xã
hội. Sau 10 năm (1976 – 1986) vừa tìm tịi, vừa thử nghiệm con đường xây
dựng đất nước theo chủ nghĩa xã hội, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu quan
trọng Những vết thương chiến tranh dần được hàn gắn,trên các lnhx vực kinh tế
- xã hội – văn hóa đều có bước phát triển. Tuy nhiên, 10 năm sau ngày đất nước
thống nhất, nền kinh tế nước nhà vẫn chưa thốt khỏi tình trạng khó khăn, lạc
hậu so với các nước trong khu vực. Do những khó khăn, những sự lúng túng
trong cách làm mà Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng hết sức trầm trọng,
nhất là bước vào năm 1980. Tình trạng khủng hoảng làm cho đừi sống nhân dân
hết sức khó khăn. Chính điều đó đã làm làm giảm lịng tin của nhân dân đối với
Đảng và Nhà nước.
Khắc phục tình trạng khó khăn, đưa đất nước thốt khỏi tình trạng khủng
hoảng và đẩy mạnh sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa tiến lên là yêu cầu
nước nhà dặt ra cho toàn Đảng và toàn dân. Đổi mới đất nước trỏ thành vấn đề
có ý nghĩa chiến lược, là vấn đề sống cịn của cách mạng Việt Nam. Đồng thời
đó là xu thế chung của thời đại mới – thời đại quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Để đáp ứng yêu cầu cấp bách đó, tháng 12 – 1986 Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ VI của Đảng đã được tiến hành. Đây chính là một dấu mốc quan
trọng đánh dấu thời kỳ đổi mới của nước ta.
Sau thời gian thực hiện đổi mới, nền kinh tế nước ta đã thoát khỏi khủng
hoảng, công cuộc xây dừng chủ nghĩa xã hội tiếp tục được đẩy mạnh vối nhứng
thành tựu to lớn. Bộ mặt đất nước đã có nhiều đổi thay, đời sống nhân dân được
nâng lên cả về vật chát lẫn tinh thần.
Cùng với xu thế chung của cả nước , huyện Đức Thọ cũng đã tiến hành
đổi mới một cách toàn diện, trên tất cả các lĩnh vực, các mặt của đời sống. Dưới
1



sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện nhà, nhân dân Đức Thọ đã từng bước khắc phục
khó khăn, phát triển trở thành một trong những huyện đi đầu trong sản xuất kinh
tế cũng như văn hóa giáo dục của tỉnh Hà Tĩnh.
Nhận thức rõ văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu,
vừa là đông lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội; đồng thời thấm nhuần tinh
thần đổi mới trên lĩnh vực văn hóa của Đảng và Nhà nước, Đảng bộ huyện Đức
Thọ đã lãnh đạo tồn dân khắc phục khó khăn, từng bước nâng cao mức hưởng
thụ văn hóa của người dân. Những thủ tục lạc hậu, tệ nạn xã hội cũ bị xóa bỏ.
Trong 10 năm ( 2000 – 2010) Đảng bộ Đức Thọ tiếp tục lãnh đạo nhân dân thực
hiện đường lói của Đảng, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bẳn sắc dân
tộc.
Là đất học nổi tiếng, Đức Thọ đã sinh ra và nuôi dưỡng nên biết bao
nhiêu người con ưu tú cho quê hương, đất nước, cho dân tộc, đã có biết bao
nhiêu danh nhân văn hóa như Bùi Dương Lịch, Lê Văn Thiêm, Hồng Xuân
Hãn,... đã có biết bao anh hùng hào kiệt như Nguyễn Biểu, Phan Đình Phùng, Lê
Ninh, Trần Phú,... Từ truyền thống hiếu học ấy, Đảng bộ nhân dân Đúc Thọ
đang ngày càng phát huy để đào tạo những con người có đức, có tài góp phần
xây dựng quê hương, đất nước gàu mạnh. Với chủ trương “ giáo dục vá đào tạo
phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu “, Đảng bộ huyện nhà đã có những
chỉ đạo kịp thời đối với phòng giáo dục và đào tạo huyện chăm lo cơng tác giáo
dục. Một nền giáo dục tồn diện đang được chăm lo xây dựng ở Đức Thọ.
Để đặt được những thành tựu trong 10 năm qua, Đảng bộ và nhân dân
huyện nhà đã tiếp thu và thực hiện một cách có hiệu quả những chủ trương,
chính sách theo quan điểm, đường lối của Đảng . Đồng thời đã vận dụng những
chủ trương, đường lối đó một cách sáng tạo, phù hợp với thực tiễn cụ thể của
huyện nhà.
Mặt khác do biết vận dụng, khai thác tối đa tiềm năng lợi thể của địa
phương, để tạo nên một sức mạnh giữa lòng dân và ý Đảng đã đưa Đức Thọ
vững tin cùng cả nước tiến vào thời kỳ CNH – HĐH đất nước.

2


Bên cạnh những thành tựu mà huyện nhà đã đặt được trong 10 năm
( 2000 – 2010 ), trên lĩnh vực văn hóa - giáo dục vẫn đang cịn một số tồn tại,
yếu kém. Đồng thời có những vấn đề mới nảy sinh chưa được giải quyết, đòi hỏi
cán bộ và nhân dân huyện Đức Thọ phải có biện pháp khắc phục.
Sinh ra và lớn lên trên mảnh đất anh hùng, là một sinh viên đang ngồi
trên ghế giảng đường đại học với chuyên ngành đào tạo là lịch sử. Tôi thiết nghĩ
là một người con của quê hương đi sâu nghiên cứu vấn đề “ Đảng bộ huyện
Đức Thọ lãnh đạo nhiệm vụ phát triển văn hóa – giáo dục giai đoạn 2000 –
2010” là một vấn đề vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có ý nghĩa khoa học. Thực
hiện đề tài này tơi mang trong mình sự say mê và niềm tự hào của một người
con Đức Thọ đối với quê hương, đồng thời qua việc nghiên cứu này tơi có thể
hiểu thêm nhiều điều về q hương. Lấy đó làm hành trang cho bản thân cngx
như có thể giới thiều với mọi người về nơi tơi đã sinh ra.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Nghiên cứu q trình đổi mới nói chung, trên lĩnh vực văn hóa – giáo dục
nói riêng khơng phải là một vấn đề mới mẻ. Nhưng vấn đề “ Đảng bộ huyện
Đức Thọ lãnh đạo nhiệm vụ phát triển văn hóa – giáo dục giai đoạn 2000 –
2010” là một vấn đề mới đối với địa phương. Đây cũng là một vấn đề khó hàm
chứa trong đó cả tính lý luận và thực tiễn. Đồng thời cũng chưa có một đề tài
nào nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Đức Thọ trên lĩnh vực văn
hóa – giáo dục một cách hoàn chỉnh.
Ở phạm vi trong nước:
- Cuốn “ Đại cương lịch sử Việt Nam” tập III do Lê Mậu Hãn ( chủ biên )
– Nxb Giáo dục.
- Luận án tiến sĩ sử học “ Đặc điểm công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo
của Đảng cộng sản Vệt Nam (1986 – 1996)” của Tường Thúy Nhân bảo vệ tại
Hà Nội năm 2000.


3


- Cuốn “ Lịch sử Việt Nam từ 1976 đến nay – những vấn đề lý luận và
thực tiễn” của giáo sư Trần Bá Đệ. Biên soạn nhà xuất bản Đại học quốc gia Hà
Nội, xuất bản năm 1998.
- Trong “ Văn kiện Đảng thời kỳ đổi mới ( Đại hội VI, VII, VIII, IX) về
văn hóa, xá hội, khoa học – kỹ thuật, giáo dục, đào tạo” – NXB Đại học Quốc
gia.
Là những tài liệu có liên quan, nghiên cứu hoặn viết về một khía cạnh của
vấn đề này. Đó cũng là cơ sở để tác giả đề tài: “Đảng bộ huyện Đức Thọ lãnh
đạo nhiệm vụ phát triển văn hóa – giáo dục giai đoạn 2000 – 2010” tham khảo
để góp phần hồn thành đề tài.
Ở phạm vi địa phương, đây là một vấn đề mới mẻ, chưa thu hút sự quan
tâm nghiên cứu của các nhà nghiên cứu. Nó mới mới đươc đề cập trong một số
tài liệu.
- Cuốn “ Lịch sử Đảng bộ huyện Đức Thọ” do Uỷ ban nhân dân huyện
Đức Thọ biên soạn, đây là một cơng trình nghiên cứu về q trình hình thành và
phát triển của Đảng bộ huyện Đức Thọ từ khi ra đời đến nay. Tuy nhiên nó chỉ
mới đề cập đến chủ trương chung của Đảng bộ huyện về công cuộc đổi mới
huyện nhà chú hầu như chưa đề cập đến vấn đề phát triển văn hóa – giáo dục
trong thời kỳ đổi mới.
- Một số báo cáo của BCH Đảng bộ huyện Đức Thọ, Báo cáo tổng kết của
UBND huyện, Báo cáo tổng kết của Phịng văn hóa – thơng tin huyện, Phịng
giáo dục và đào tạo huyện. Đó là những tài liệu đã tổng kết, đánh giá sơ bộ
những thành tựu chung của huyện Đức Thọ và lĩnh vực văn hóa – giáo dục trong
q trình thực hiện đường lối đổi mới.
3. Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu đề tài: “ Đảng bộ huyện Đức Thọ lãnh đạo nhiệm vụ phát

triển văn hóa – giáo dục giai đơạn 2000 – 2010”, mục đích của tơi là nhằm tổng
kết, đánh giá thành tựu và hạn chế từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm trông
10 năm thực hiện chủ trương trên lĩnh vực văn hóa – giáo dục của huyên Đức
4


Thọ dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện nhà. Trọng tâm nghiên cứu của đề tài
là sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Đức Thọ trong việc phát triển văn hóa – giáo
dục.
4. Phương pháp nghiên cứu
Với khn khổ và mục đích của đề tài, tác giả đã dụa vào phương pháp
nghiên cứu lịch sử truyền thống là: phương pháp lịch sử và phương pháp logic,
phương pháp thống kê, so sánh đối chiếu nhằm thấy rõ sự phát triển đi lên của
văn hóa – giáo dục huyện Đức Thọ trong 10 năm.
5. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo đề tài có 2 nội
dung chính:
Chương 1: Vài nét khái qt về huyện Đức Thọ.
Chương 2: Văn hóa – giáo dục huyện Đức Thọ trong 10 năm ( 2000 –
2010) dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện nhà.

5


NỘI DUNG
Chương 1:
VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN ĐỨC THỌ
1.1 Điều kiện tự nhiên.
Huyện Đức Thọ là một huyện trung du đồng bằng Sơng La và hữu ngạn
Sơng Lam phía bắc của tỉnh Hà Tĩnh, Việt Nam.

Phía đơng nam huyện giáp huyện Can Lộc, phía bắc tây giáp huyện Nam
Đàn, phía đơng bắc giáp huyện Hưng Ngun (tỉnh Nghệ An), phía tây giáp
huyện Hương Sơn, phía tây nam giáp huyện Vũ Quang, huyện Hương Khê, phía
đơng giáp thị xã Hồng Lĩnh. Huyện cách thủ đô Hà Nội 325 km về phía nam.
Tọa độ địa lý: 18,180-18,350 độ vĩ Bắc, 105,380-105,450 độ kinh Đơng.
Huyện Đức Thọ hiện nay có 1 thị trấn và các xã: Đức Vịnh, Đức Quang,
Đức Châu, Đức Tùng, Yên Hồ, Tùng Ảnh, Đức Lạng, Đức Đồng, Tân
Hương,Đức Nhân, Đức Thủy, Thái Yên, Đức Thanh, Trung Lễ, Đức Lâm, Đức
Dũng, Đức An, Đức Lập, Đức Lạng, Đức Lạc, Đức Long, Đức Hòa, Bùi Xá,
Đức Yên, Trường Sơn, Liên Minh, Đức Thịnh, Đức La. Với diện tích: 20.904 ha
và dân số: 125.260 người.
1.2 Điều kiện truyền thống – văn hóa.
Đức Thọ xưa kia có tên gọi là La Sơn thuộc phủ Đức Quang (gồm cả
Hương Sơn, Thiên Lộc, Nghi Xuân, Thanh Chương, Nghi Lộc...) được xem là
vùng "địa linh nhân kiệt" của xứ Nghệ. Trong thời kỳ phong kiến, Đức Thọ có
39 vị đại khoa (Tiến sĩ) với những dịng họ nổi tiếng khoa bảng như: Lê Văn,
Hồng Xn, Phan Đình, Hà Học,... và các làng giàu truyền thống văn hố như:
n Hồ, Đơng Thái, Trung Lễ, Bùi Xá... thời phong kiến Hà Tĩnh có 4 vị trạng
ngun thì Đức Thọ có 2 vị đó là Đào Tiêu và Đoàn Nguyên Lợi đều quê ở Yên
Hồ. Nhiều người thành đạt xuất thân từ Đức Thọ, như nhà ngoại giao Nguyễn
Biểu (đời Trần), nhà văn hóa Bùi Dương Lịch; Hồng giáp Bùi Thức Kiên;
Thượng thư, Tiến sĩ Phan Bá Đạt; lãnh đạo phong trào Cần Vương, Đình nguyên
Tiến sĩ Phan Đình Phùng, các chí sĩ Lê Văn Hn, Lê Thước, Lê Ninh, nhà cách
6


mạng Trần Phú, nhà khoa học Hoàng Xuân Hãn, Luật sư Phan Anh, Luật sư
Phan Mỹ, nhà toán học Lê Văn Thiêm, nhà văn Hoàng Ngọc Phách, Bác sĩ
Phạm Văn Huyến; nhà thơ Thái Can, Luật sư Phạm Khắc Hịe
Ngồi ra, cịn có một nhân vật lịch sử khác cũng rất nổi tiếng nữa là

Hồng Cao Khải. Ơng bị xem khinh vì đã cam tâm phục vụ hết lịng thực dân
Pháp xâm lược, nhưng chính người Pháp từng nghi ngờ ông là một trợ lực ngầm
cho phong trào Duy tân và Đơng du, và ngay Phan Châu Trinh cũng có liên lạc
thư từ với ông.
Trong số những người nổi tiếng hiện nay, từ huyện Đức Thọ có: Giáo sư,
TSKH, Viện sĩ Vật lý Đào Vọng Đức; Nữ luật sư Ngô Bá Thành; Giáo sư văn
học Hoàng Xuân Nhị; Giáo sư văn học, nhà giáo nhân dân Nguyễn Kim Đính;
Giáo sư- nhà phê bình văn học Hồng Ngọc Hiến; Giáo sư Tiến sĩ Khoa học
Trần Vĩnh Diệu (anh hùng lao động); Giáo sư, nhà sinh học Võ Quý; Giáo sư vật
lý Trần Đức Thiệp; Giáo sư lâm nghiệp Lê Đình Khả; Giáo sư toán học Đinh
Văn Huỳnh (Đại học Ohio, Ohio, Hoa Kỳ); nhà văn hóa Hà Xuân Trường; Giáo
sư- nhà Đông Nam Á học Phạm Đức Dương; Giáo sư Phan Văn Tiệm, nguyên
Ủy viên tw Đảng, nguyên Bộ trưởng, chủ nhiệm Ủy ban vật giá chính phủ; Võ
Hồng Phúc (Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư); Giáo sư Hà Học Trạc, (Chủ tịch
Liên hiệp các hội khoa học kỹ thuật Việt Nam; Đạo diễn sân khấu Nghệ sĩ Nhân
dân Phạm Thị Thành, Nhà báo Phạm Khắc Lãm (nguyên Tổng Giám đốc Đài
Truyền hình Việt Nam); Nguyễn Minh Quang-Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi
trường;luật sư Trịnh Hồng Dương (nguyên Chánh án Tòa án Nhân dân Tối cao
Việt Nam); Trung tướng Võ Trọng Việt- Chính ủy Bộ đội Biên phịng Việt Nam;
Giáo sư, bác sĩ, Anh hùng Lao động Trần Quỵ (nguyên Giám đốc Bệnh viện
Bạch Mai); Giáo sư Mai Trọng Nhuận (nguyên Giám đốc Đại học Quốc gia Hà
Nội); Giáo sư, Tiến sĩ, Nghệ sĩ nhân dân, Nhà giáo nhân dân, Anh hùng lao động
Trần Bạch Thu Hà (nguyên Giám đốc Nhạc viện Hà Nội), nhà điêu khắc Điềm
Phùng Thị; Giáo sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Mỹ Lộc (Hiệu trưởng Trường Đại học
Giáo dục- ĐHQG Hà Nội); Nhà nhiếp ảnh Phan Thoan (tác giả bức ảnh O du
7


kích nhỏ), Giáo sư Phan Nguyên Hồng,... và rất nhiều nhà khoa học, nhà văn
hóa, chính khách và doanh nhân nổi tiếng khác.

Đức Thọ có rất nhiều lễ hội cũng như danh lam thắng cảnh đẹp, mang giá
trị văn hóa cũng như lịch sử như: Hội lễ đền Thái Yên ở xã Thái Yên: Vào mùa
xuân hàng năm ở Thái Yên đều có lễ hội đền sau đó người dân xã Thái Yên tổ
chức các hoạt động văn hóa, thể thao đến tận rằm tháng giêng như: kéo co, thi
đấu bóng đá, bóng chuyền, bống bàn, cờ tướng, thi văn nghệ. Đặc biệt cứ hai
năm một lần Thái Yên lại tổ chức rước kiệu vào ngày mồng 7 tháng giêng, hội
xuân và trò chơi vạt cầu ở xã Trung Lễ: Đầu mùa xuân, hội hát ghẹo và tục ăn cá
gỏi ở Mỹ Xuyên, xã Đức Lập: vào cuối xuân, đầu hạ. lễ rước Hến ở Kẻ Thượng
ở xã Trường Sơn, Đức Thọ: 07 tháng Giêng âm lịch
Một số di tích thắng cảnh như: Đền thờ Nguyễn Biểu: Di tích thuộc xã
Yên Hồ, đền được xây dựng vào thời nhà Lê để tưởng nhớ cơng lao của Nguyễn
Biểu, mộ Phan Đình Phùng tại xã Tùng Ảnh, nhà thờ Phan Đình Phùng tại xã
Tùng Ảnh: Di tích LSVH quốc gia (2007), khu lưu niệm Trần Phú ở xã Tùng
Ảnh: Khu lưu niệm danh nhân lịch sử cách mạng, nhà thờ và mộ Lê Bôi ở xã
Tùng Ảnh: Danh nhân lịch sử thế kỷ 15, đền Cả Du Đồng ở xã Đức Đồng: Di
tích kiến trúc thế kỷ 15, chùa Am ở xã Đức Hồ: Di tích kiến trúc thế kỷ 15, Đền
thờ Ngô Thị Ngọc Giao ở xã Đức Thịnh: Danh nhân lịch sử thế kỷ 15, Đền Voi
Mép ở xã Đức Thủy: Di tích kiến trúc thế kỷ 15, Đền thờ Trần Duy ở xã Đức
Châu: Danh nhân lịch sử thế kỷ 16, Nhà thờ Bùi Dương Lịch ở xã Tùng Ảnh:
Danh nhân lịch sử - văn hóa thế kỷ 18, Nhà thờ Lê Ninh và họ Lê ở xã Trung
Lễ: Danh nhân lịch sử thế kỷ 19, Đền Thái Yên ở xã Thái yên, Đền Đinh Lễ: ở
xã Tùng, Nhà thờ Hoàng Trừng ở xã Đức Nhân, Chùa Vền ở xã Đức Tùng, Chùa
Phượng Tường ở xã Trường Sơn, Chùa Hoa Lâm ở xã Đức Lâm, Thắng cảnh núi
Tùng Lĩnh, Sông La và bến Tam Soa, cầu Linh Cảm, Cầu Cố Bá ở Đức Lạc,
Đền chợ nướt ở Bình Minh Đức Lạc.

8


Chương 2:

VĂN HÓA – GIÁO DỤC HUYỆN ĐỨC THỌ DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO
CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN NHÀ
2.1 Chủ trương của Đảng bộ huyện.
Sau những năm thực hiện đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng thì Đức
Thọ đã vượt qua nhiều khó khăn, thách thức để đạt được nhiều thành tựu: Nhịp
độ kinh tế được đẩy nhanh, hoàn thành vượt mức nhiều mục tiêu, tạo được nhiều
chuyển biến tích cực về mặt xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc
phịng an ninh. Thực hiện có hiệu quả một số đổi mới qua trọng về hệ thống
chính trị. Phát triển mạnh mẽ quan hệ đối ngoại, tham gia tích cựu vào đời sống
cộng đồng quốc tế; trình độ dân trí và mức hưởng thụ văn hóa của người dân
được nâng lên. Sự nghiệp giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, các hoạt động
văn hóa – nghệ thuật, thể dục – thể thao, thông tin đại chúng và nhiều hoạt động
xã hội khác có những mặt phát triển và tiến bộ.
Từ ngày 22/6 đến ngày 1/7/1996, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
của Đảng đã diễn ra.
Xuất phát từ đặc điểm tình hình thế giới trong nước, căn cứ vào cương
lĩnh của Đảng, Đại hội quyết định cần tiếp tục nắm vững hai nhệm vụ chiến lược
: Xây dựng CNXH và bảo vệ tổ quốc, đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Đến năm 2020, ra sức đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp.
Từ mục tiêu chung, Đại hội đã thông qua định hướng phát triển các lĩnh
vực văn hóa, Đại hội xác định: “ Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là
mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, xã hội. Mọi hoạt động
văn hóa, văn nghệ nhằm xây dựng và phát triển văn hóa tiên tiến, đậm đà bản
sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình
cảm, lối sống, xây dựng mơi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã
hội”.
Đại hội nhấn mạnh: Trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng giao
lưu quốc tế, phải đặc biệt quan tâm giữ gìn và nâng cao bản sắc dân tộc, kế thừa
9



và phát huy truyền thống đạo đức, tập quán tốt đẹp và lòng tự hào dân tộc, tiếp
thu tinh hoa của các dân tộc trên thế giới, làm giàu thêm nền văn hóa Việt Nam.
Cần nâng cao hiểu biết và mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân ở mọi miền của
đất nước. Hướng dẫn nhân dân về nếp sống văn hóa, văn minh, chống các hủ tục
mê tín dị đoan.
Trong giáo dục đào tạo, Đại hội chỉ rõ “ cùng với khoa học và công nghệ,
giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu” nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân
lực, bồi dưỡng nhân tài. Coi trọng cả ba mặt: Mở rộng quy mô, nâng cao chất
lượng và phát huy hiệu quả. Phương hướng chung của lĩnh vực giáo dục đào tạo
trong 5 năm ( 1996 – 2000) là phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa tạo điều kiện cho nhân dân, đặc biệt là thanh niên có
việc làm, khắc phục những tiêu cực, yếu kém trong giáo dục và đào tạo.
Cùng với những biến đổi của đất nước, sau 10 năm tình hình mọi mặt của
huyện Đức Thọ đã có những sự thay đổi quan trọng. Đời sống vật chất được ổn
dịnh, đời sống tinh thần được nâng lên, nhu cầu hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật,
thể thao của nhân dân ngày càng cao, ngành giáo dục có những thàn tựu mới bên
cạnh những thuận lợi, kinh tế Đức Thọ nói chung, lĩnh vực văn hóa giáo dục nói
riêng cong đặt ra những yêu cầu, thách thức đòi hỏi Đảng bộ huyện Đức Thọ có
chủ trương biện pháp để giải quyết.
Quán triệt nghị quyết của Đại hội Đảng lần thứ VIII, trên cơ sở những
điều kiện hoàn cảnh cụ thể của địa phương, Đảng bộ huyện đã đề ra phương
hướng của ngành văn hóa – giáo dục trong những năm tiếp theo đó là: Tiếp tục
đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa thơng tin thể thao, nhằm thu hút
nhiều đối tượng cùng tham gia hoạt động, tập trung chỉ đạo xây dựng đời sống
văn hóa ở cơ sở, trong đó đi sâu chỉ đạo xây dựng gia đình văn hóa, làng, xóm,
khối phố văn hóa; tăng cường cơng tác quản lý văn hóa trên địa bàn, hướng dẫn
xcow sở thực hiện tốt các văn bản pháp quy về hoạt động văn hóa - thể thao
nhằm giữ vững môi trường thể thao lành mạnh.
10



Đối với giáo dục, cần nâng cao mặt bằng dân trí, nâng cao chất lượng giáo
dục, phát trieenr giáp dục mầm non, thanh toán nạn mù chữ cho những người lao
động ở độ tuổi từ 15- 35 tuổi và thu hẹp diện mù chữ ở các độ tuổi khác; tiếp tục
hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học ở những vùng còn lại, bước đầu thực hiện
phổ cập trung học cơ sở.
2.2 Tình hình phát triển văn hóa – giáo dục.
2.2.1 Về văn hóa
Bước vào nửa sau những năm 1990, ngành văn hóa Đức Thọ hoạt động
trong tình hình mới, vừa có những thuận lợi nhưng cũng gặp khơng ít khó khăn.
Những thuận lợi cơ bản là:
- Trên lĩnh vực kinh tế - xã hội huyện nhà đã thu được kết quả đáng
mừng. Đời sống nhân dân từng bước được ổn định. Nhờ vậy các hoạt động văn
hóa thơng tin thể thao có điều kiện phát triển.
- Đảng và Nhà nước, các cấp đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết quan
trọng về lĩnh vực văn hóa như chỉ thị 36 về công tác thể dục thể thao, chỉ thị 27
của Bộ chính trị, thơng tư 04 của Bộ văn hóa , quyết định 82 của UBND tỉnh về
thực hiện nêp sống văn hóa trong ngày cưới, việc tang , lễ hội. Sở văn hóa thơng
tin, sở thể dục thể thao có nhiều kế hoạch, văn bản hướng dẫn về nội dung, hình
thức quản lý, chỉ đạo và tổ chức các hoạt động văn hóa, thực hiện chức năng và
nhiệm vụ của ngành, phục vụ h vụ của địa phương. Huyện ủy, HĐND, UBND
huyện đã có những nghị quyết, chương trình hành độngvà các văn bản hướng
dẫn việc triển khai các chỉ thị, nghị quyết cấp trên để cơ sở thực hiện.
Đặc biệt, nghị quyết kỳ họp thứ 5 Bộ chính trị trung ương Đảng khóa VIII
về “ Xây dựng phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa
dận tộc” có ý nghĩa sâu sắc trong việc xây dựng nền tảng tinh thần xã hội.
- Mối quan hệ phối hợp giữa các ngành , các cấp, các địa phương trong
huyện được mở rộng, phát huy hiệu quả hơn, tạo được nguồn lực để phát triển
sự nghiệp văn hóa.

11


- Cơng tác văn hóa thơng tin tun truyền ở cơ sở phát triển trên các địa
bàn theo hướng xã hội hóa, nhất là trong phong trao xây dựng “ gia đình văn
hóa”, “ làng văn hóa”được nhân dân đồng tình hưởng ứng.
Tuy nhiên, cơng tác văn hóa cũng gặp khơng ít khó khăn nhất định: đội
ngũ các cán bộ quản lý chỉ đạo các hoạt động văn hóa thơng tin tuyên tryền từ
huyện đến cơ sowrconf bất cập trước yêu cầu, nhiệm vụ của ngành và địa
phương. Thiếu số lượng, hạn chế về nghiệp vụ, hạt nhân của phong trào cịn ít,
thiếu ổn định.
Cơ sở vật chất phục vụ hoạt động văn hóa cịn thiếu thốn, bị xuống cấp,
khơng đủ điều kiện để khai thác và sử dụng. Đặc biệt, việc hành thành các tụ
điểm vui chơi giải trí trên địa bàn các xã, thị chua được quan tâm đúng mức. Các
tệ nạn xã hội còn xảy ra ở một số địa phương. Tệ nghiện hút, tiêm chích ma túy,
cờ bạc đang là mối lo của toàn xã hội
Được sự chỉ đạo trực tiếp của huyện ủy, UBND, ngành văn hóa thơng tin
huyện đã cố gắng vượt lên, khắc phục những khó khăn để tạo ra những chuyển
biến tích cực. Nhiều đợt hội thi, hội diễn từ cơ sở đến tận huyện được tổ chức
thu hut cổ vũ đông đảo mọi lực lượng từ thơn xóm, trường học, cơ quan xý
nghiệp, bệnh viện tham gia, tạo được những chuyển biến tích cực trên bước
đường xã hội hoas các hoạt động văn hóa thể dục thể thao giữa các địa phương,
các vùng với nhau. Trong hoạt động xây dựng đời sống cơ sở có nhiều bước
chuyển biến lớn.
Ngày 16 tháng 07 năm 1998, Ban chấp hành trung ương Đảng đã ban
hành nghị quyết hội nghị lần thứ 5 ( khóa VIII ) về xây dựng và phát triển nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Nghị quyết nêu ra 5 quan
điểm chỉ đạo, 10 nhiệm vụ cụ thể và 4 giải pháp lớn, trong đó có giải pháp:
“Phát động phong trào tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa, huy động
mội lực lượng nhân dân và kể cả hệ thống chính trị từ trên xuống, từ trong

Đảng, cơ quan nhà nước, các đoàn thể ra ngoài xã hội tham gia phong trào” .
12


Phong trào gồm các phong trào hiện có như: “ toàn dân xây dựng cuộc
sống mới ở khu dân cư” theo thông tư số 04 của UBTW Mặt trận tổ quốc Việt
Nam, gương người tốt việc tốt, uống nước nhớ nguồn, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói
giảm nghèo, xây dựng gia đình văn hóa, làng, xã, cơ quan trường học, văn
hóa,... Tồn bộ các phong trào đều hướng vào cuộc thi đua yêu nước “ Tất cả vì
mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh”.
Từ đây phong trào” Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” đã
được đơng đảo nhân dân hưởng ứng và trở thành một phong trào thi đưa sôi nổi
trong cả nước. Cuộc vận động toàn dân xây dựng cuộc sống mới ở địa bàn dân
cư ngày càng phát triển sâu rộng, đem lại hiệu quả to lớn trong sự nghiệp xây
dựng, phát triển kih tế - xã hội, ổn định chính trị, củng cố quốc phịng an ninh
trên mọi địa bàn dân cư.
Việc thực hiện chỉ thị 27/CTTW ngày 12/01/1998 của Bộ chính trị, các
văn bản nhà nước như thơng tư 04 của Bộ văn hóa thơng tin,... đã được cấp ủy,
chính quyền các cấp quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo với quyết tâm cao, bằng nhiều
biện pháp thiết thực, hiệu quả. Tổ chức mặt trận và các đoàn thể quần chúng đã
có những chủ trương sát hợp với tình hình kinh tế và điều kiện xã hội từng thơn
xóm, xã, thị trấn để tuyên truyền, vận động đoàn viên, hội viên, mọi tầng lớp
nhân dân nổ lực phấn đấu xóa đói giảm nghèo, xây dựng cuộc sống mới trong
mỗi gia đình,trong từng cộng đồng dân cư ngày càng ấm no, tiến bộ và hạnh
phúc.
Căn cứ chương trình kế hoạch của ban chỉ đạo “ Toàn dân đoàn kết xây
dựng đời sống văn hóa” của trung ương và của tỉnh. Thực hiện nghị quyết số 05
cảu ban chấp hành huyện ủy, nghị quyết HĐND huyện về việc tiếp tục nâng cao
đời sống văn hóa, xây dựng gia đình văn hóa, làng, xóm, khối phố, đơn vị văn
hóa”. Ngày 10/07/2001, UBND huyện đã có kế hoạch số 86/KH-UB về việc đẩy

mạnh phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”. Ngày
28/08/2000, ban chỉ đạo “ tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” huyện
13


đã tổ chức lễ phát động phong trào “ toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn
hóa” trên địa bàn huyện.
Qua 2 năm thực hiện cuộc vận động, đã xuất hiện nhiều gia đình làm kinh
tế giỏi, gia đình giáo dân sống tốt đời đẹp đạo, gia đình nhiều thế hệ sống hịa
thuận n vui, gia đình trẻ năng động sáng tạo...tạo nên bức tranh đa dạng trong
việc xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở, thu hút ngày càng nhiều gia đình tham
gia xây dựng cuộc sống cộng đồng. Nếu năm 1995, số hộ gia đình đạt tiêu chuẩn
gia đình văn hóa là 19,2% thì đến năm 2000 tồn huyện đã có 52% gia đình đạt
tiêu chuẩn gia đình văn hóa và đến năm 2001, số gia đình đạt tiêu chuẩn gia đình
văn hóa là 60,25% trong đó có các xã như Tùng Ảnh, Thị trấn, Mai Hồ,... hàng
năm có từ 70% - 80% số hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa.
Đã có 20/28 xã,thị trấn tổ chức được liên hoan gia đình văn hóa tiêu biểu
cấp xã, thị. Huyện đã tổ chức thành công liên hoan gia đình văn hóa tiêu biểu
với 178 gia đình tham dự.
Phong trào xây dựng làng, xóm, khối phố văn hóa cũng được cấp ủy
Đảng, chính quyền coi trọng. Đến năm 2001, tồn huyện đã có 50 đơn vị đạt “
đơn vị văn hóa” cấp tỉnh.
Cuộc vận động tồn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa đã gắn kết
và tạo điều kiện cho các phong trào phát triển. Xác định gia đình là hạt nhân, các
khu cộng đồng dân cư là tiền đề để xây dựng đời sống văn hóa cơ sở. Đến năm
2002, 100% số xã có hoạt động văn hóa – thơng tin – thể thao, có 366 khu dân
cư đạt tiêu chuẩn khu dân cư tiên tiến, có 200 xóm, khối phố khơng có người
sinh con thứ 3 trở lên, tỉ lệ tăng dân số tự nhiên tồn huyện chỉ cịn 1,12%,
phong trào giúp nhau xóa đói giảm nghèo cũng thu được nhiều kết quả, hộ đói
cơ bản được xóa, hộ nghèo bình qn cịn 19%, số hộ giàu đã tăng lên 12%.

Qua 3 năm triển khai thực hiện “ toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hóa”, thời gian chưa nhiều nhưng phong trào đã tạo được sự chuyển biến cả về
bề rộng lẫn chiều sâu trong phát triển kinh tế - văn hóa – xã hội huyện nhà.
14


Đạt được những kếu quả nêu trên là do nhiều nguyên nhân, nhưng về cơ
bản có những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, đây là cuộc vận động hợp lòng dân, được nhân dân dồng tình
ủng hoojcho nên thu hút được nhiều người, nhiều tổ chức xã hội tham gia.
Thứ hai, phong trào đã được sự quan tâm chỉ đạo của huyện ủy, hội đồng
nhân dân, ủy ban nhân dân, mặt trận tổ quốc huyện, các ngành đoàn thể ở huyện,
Đảng ủy, ủy ban nhân dân các xã quan tâm chỉ đạo kể cả trước mắt cũng như lâu
dài nên đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị, kế hoạch tạo cho phong trào phát triển
coi đây là “ nền tảng”, là “ động lực” thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội. Nên
đã có những chủ trương, biện pháp sát đúng để triển khai thực hiện phong trào.
Đồng thời, mỗi gia đình mõi người coi đây là vấn đề cần thiết để xây dựng “ gia
đình ấm no, hạnh phúc” nên đã tự giác tham gia phong trào.
Tuy vậy trong thời gian qua, phong trào “ toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa” vẫn bộc lộ nững tồn tại: Một số cấp Đảng, chính quyền chưa thực
sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo phong trào, do đó cịn nhiều cơ sở đến nay chưa
có làng, xóm nào đạt danh hiệu “ Đơn vị văn hóa”, một số đơn vị đã đạt được
danh hiệu “ Đơn vị văn hóa” có dấu hiệu giảm sút về chất lượng, trong đó nổi
cộm là việc vi phạm sinh đẻ khơng có kế hoạch, tệ nạn xã hội, tình hình trật tự
cơng cộng, cảnh quan môi trường.
Vấn đề xây dựng quy ước, hương ước cịn chậm, đến nay tồn huyện mới
có 150 xóm xây dựng được hương ước, quy ước, trong đó 20% số quy ước,
hương ước được UBND huyện phê duyệt.
Việc xây dựng các cơng trình văn hóa – thể thao phục vụ cho đời sống
dân sinhđang có nhiều bất cập. Nhiều xã khơng có quy hoạch khu vui chơi, nhà

văn hóa xóm, sân chơi thể thao. Việc quy hoạch cấp đất xây dựng các cơng trình
văn hóa – thể thao chưa được xác định rõ ràng và giải quyết kịp thời cho nên
dẫn đến tình trạng tùy tiện trong quy hoạch xây dựng, nhiều xóm đến nay khơng
có đất để xây dựng nhà văn hóa xóm và khu vui chơi thể thao.
15


Nguyên nhân của những tồn tại đó là do: Nhận thức về tầm quan trọng
của phong trào “ toàn dân đồn kết xây dựng đời sống văn hóa” của một số cấp
ủy Đảng và chính quyền đã có song cơng tác lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra đơn đốc
cịn thiếu thường xuyên, chưa kết nối được các phong trào một cách đồng bộ,
công tác thông tin tuyên truyền chưa thật thấu đáo, chưa đáp ứng được yêu cầu
đặt ra, do đó chưa truyền tải được nội dung của cuộc vận động đến với quần
chúng nhân dân một cách rộng rãi.
Trong những năm qua, hệ thống truyền thanh, thông tin liên lạc từng bước
được củng cố và tăng cường. Đài truyền thanh truyền hình bên cạnh biên tập
chương trình, tăng thêm thời lượng phát sóng, kịp thời đưa tin, phản ánh các
điển hình người tốt, việc tốt, đã tăng cường giúp đỡ, hướng dẫn cơ sở lắp đặt và
xây dựng chương trình truyền thanh.
Bước vào thế kỷ XXI, cách mạng nước ta vừa đứng trước nhưng thời cơ
vận hội lớn, vừa phải đối mặt với những nguy cơ và thách thức không thể xem
thường. Với tinh thần tiến công cách mạng tiếp tục trên con đường mới Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã triệu tập từ ngày 19 đến ngày
22/04/2001.
Đại hội đã xác định chiến lược phát triển văn hóa, xã hội trong những năm
2001 – 2005 là: “ mở rộng và nâng cao hiệu quả cuộc vận động ‘toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa’, “ xây dựng nếp sống văn hóa thấm sâu vào vào
từng khu dân cư, từng gia đình, từng người, hoàn thiện hệ giá trị của con người
Việt Nam’.
Cũng trong thời gian này, Đảng bộ huyện Đức Thọ đã tiến hành đại hội

lần thứ XXV để đánh giá lại kết quả đã đạt được và đề ra phương hướng, nhiệm
vụ cho những năm tiếp theo. Mục tiêu, phương hướng chung mà toàn Đảng bộ,
toàn dân huyện Đức Thọ phải thực hiện trong những năm ( 2000 – 2005 ) là:
Phát huy những thành tựu đã đạt được, tập trung khai thác nội lực, nhạy
bén,tranh thủ nguồn lực bên ngoài để đàu tuwcho xây dựng kết cấu hạ tầng
nhanh tỉ trọng công nghiệp, xây dựng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, tạo được sự
16


chuyến biến mạnh mẽ trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng nhanh tỉ trọng
công nghiệp, xây dựng dịch vụ trong cơ cấu kinh tế, tạo những bước chuyển
biến cơ bản về bố trí cơ cấu mùa vụ, giống cây trồng vật ni nhằm tạo được
nhiều sản phẩm hàng hóa có giá trị trong nơng nghiệp. Chăm lo phát triển nguồn
lực con người trên cơ sở nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giải quyết tốt
những nhu cầu xã hội. Chăm lo sức khỏe, nâng cao đời sống văn hóa tinh thần,
tạo việc làm và xóa đói giảm nghèo, phịng chống tệ nạn xã hội, bảo vệ mơi
trường sinh thái. Giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phịng an ninh và
trật tự an tồn xã hội. Thực hiện cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa nơng nghiệp,
nơng thơn, xây dựng Đức Thọ thành một huyện giàu mạnh.
Với mục tiêu chung đó, huyện ủy, UBND huyện đã có những nghị quyết,
kế hoạch, chỉ thị hướng dẫn cơ sở, các ngành thực hiện vai trị, nhiệm vụ của
mình.
Trong lĩnh vực văn hóa, đặc biệt là trong hoạt động xây dựng đời sống cơ
sở, nghị quyết đại hội Đảng bộ đã nhấn mạnh: Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa,
thơng tin, thể dục, thể thao. Nâng cao chất lượng cuộc vận động “ toàn dân đoàn
kết xây dựng đời sống văn hóa” ở khu dân cư, nâng cao chất lượng gia đình văn
hóa, làng, xã, đơn vị văn hóa.
Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện lần thứ XXV đã thành công tốt đẹp. Quán
triệt nghị quyết của đại hội, các cấp, các nganhfra sức thực hiện phương hướng,
mục tiêu đã đề ra. Đối với ngành văn hóa, trong bối cảnh mới, nhiệm vụ mới,

phát huy những thành quả đã đạt được để đẩy mạnh cơng tác văn hóa – thơng tin
tun truyền, phục vụ đắc lực cho công cuộc xây dựng huyện nhà trong giai
đoạn mới.
Trên tinh thần đó, trong những năm 2000 – 2005, hoạt động văn hóa
thơng tinđược đẩy mạnh. Phịng văn hóa thơng tin, trung tâm văn hóa thông tin
huyện đã tham mưu, chỉ đạo và tổ chức các hoạt động văn hóa của huyện.
Cơng tác quản lý nhà nước về văn hóa thơng tin tun truyền được củng
cố. Phịng văn hóa thơng tin đã tham mưu UBND huyện xây dựng và triển khai
17


thực hiện các kế hoạch, đề án như: kế hoạch hoạt động của phong trào “ toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đến năm 2010” “quy hoạch hệ thống
thơng tin cổ động chính trị và quảng cáo”, “ Một số giải pháp nâng cao năng lực
quản lýnhà nước về văn hóa – thơng tin – thể thao trên địa bàn huyện trong thời
gian tới”.
Ngành văn hóa đã phối hợp với các ngành, đoàn thể tổ chức các hội thi,
hội diễn như: Phối hợp với ban tôn giáo và các ngành có liên quan tổ chức thành
cơng liên hoan “ tiếng hát đồng bào giáo dân toàn huyện”, phối hợp với cơng an
huyện tổ chức hội thi tồn dân phòng chống ma túy, phối hợp với phòng giáo
dục đào tạo tổ chức hội thi “ Tiếng hát giáo viên”, “ Tiếng hát học sinh”,...
Hưởng ứng tháng thanh niên hành động, trong tháng 3/2005, từ thơn xóm,
xã đến huyện đã diễn ra các hoạt động thể dục thể thao sơi nổi như: bóng đá,
bóng chuyền, cầu lơng do đồn thanh niên phối hợp với ngành văn hóa thơng tin
tổ chức, năm 2005 huyện đã tổ chức thành công đại hội thể dục thể thao tạo
khơng khí, tinh thần thể thao sơi nổi trong quần chúng nhân dân.
Ngành cịn chỉ đạo tập trung đẩy mạnh phát triển phong trào thể dục thể
thao. Trong đó các hoạt động bóng đá, bóng chuyền, cầu lơng ở các xóm, làng,
cơ quan, trường học. Tồn huyện có 20 câu lạc bộ dưỡng sinh, 5 lớp năng khiếu
thể thao. Thể dục, thể thao của huyện còn tham gia và đạt được kết quả cao ở

một số giải thể thao khu vực và của tỉnh.
Phong trào “ Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” tiếp tục có
nhiều thành tựu. Năm 2005, ngành văn hóa đã tổ chức kiện tồn ban chỉ đạo từ
huyện xuống các xã, thị trấn. Tổ chức thành công hội nghị sơ kết và triển khai
phương hướng nhiệm vujcuar phong trào trong những năm tiếp theo.
Đến năm 2004, toàn huyện đã có 85,4% gia đình văn hóa và 160 làng,
đơn vị được cơng nhận danh hiệu văn hóa ( trong đó có 68 đơn vị cấp tỉnh và 92
đơn vị cấp huyện). Nhìn chung, phần lớn các danh hiệu văn hóa đều được các
gia đình, làng giữ và phát huy góp phần khơng nhỏ vào việc ổn định chính trị,
phát triển kinh tế ở cơ sở.
18


2.2.2 Về giáo dục.
Quán triệt tinh thần của nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII chỉ thị và
nghị quyết của Đại hội Đảng bộ lần thứ XXIV, ngành giáo dục huyện Đức Thọ
đã kế thừa truyền thống hiếu học của cha ông, phát huy những thành tựu đã đạt
được trong những năm trước để khác phục khó khăn, đưa công tác giáo dục đào
tạo huyện nhà phát triển đi lên. Kết quả khả quan, năm sau cao hơn năm trước
đã chứng minh điều đó.
Giáo dục của huyện đã được cơng nhận phổ cập tiểu học, hiện nay huyện
có 4 trường trung học phổ thông, huy động 80% học sinh tốt nghiệp trung học
cơ sở vào học lớp 10. Chất lượng dạy và học ở các trường phổ thồn trung học và
trung tâm giáo dục thường xuyên được nâng lên rõ rệt. Đội ngũ giáo viên giỏi,
học sinh giỏi ngày càng tăng.
Tuy vậy, ngành giáo dục vẫn còn một số tồn tại cần phải khắc phục như:
chất lượng đội ngũ giáo viên chưa đồng đều, một bộ phận giáo viên không đáp
ứng được yêu cầu, nhiệm vụ chậm được thay thế, giải quyết cho nghỉ hưởng chế
độ. Công tác quản lý trường học ở một số nơi chưa tốt, nhất là quản lý tài chính.
Nhiều cơ sở giáo dục cịn có dấu hiệu mất dân chủ, dẫn tới những thắc mắc,

khiếu nại của giáo viên, học sinh và phụ huynh. Bên cạnh đó, cơng tác thanh tra,
kiểm tra trường học chưa được làm thường xuyên, việc giải quyết sau thanh tra
cịn chậm.
Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX ( tháng 4/2001) đã nhấn mạnh: “ Để
đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn nhân lực là nhâ tố quyết định sự phát
triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa cần tạo bước chuyển
biến cơ bản, toàn diện về giáo dục và đào tạo”. Để thực hiện mục tiêu đó, trong
10 năm tới cần: “Phát triển giáo dục mầm non, củng cố vững chắc kết quả xóa
mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học, tiến hành phổ cập trung học cơ sở trong
cả nước; phần lớn thanh thiếu niên trong độ tuổi ở thành thị và nông thôn đồng
bằng được học hết trung học phổ thông, trung học chuyên nghiệp hoặc đào tạo
19


nghề. Tạo điều kiện cho mọi người, ở mọi lứa tuổi được học tập thường xuyên,
suốt đời”.
Được nghị quyết đại hội Đảng sơi sáng nhận thức rõ vai trị của giáo dục
đào tạo “ giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu”, Đảng bộ huyện Đức Thọ đã
có những nghị quyết, chỉ đạo, tham mưu cho phòng giáo dục – đào tạo huyện
kịp thời có những biện pháp đẩy mạnh hoạt động giáo dục huyện nhà. Nhờ đó,
giáo dục Đức Thọ đã có những kết quả to lớn.
Năm học 2002 – 2003 là năm học đặc biệt quan trọng đối với ngành giáo
dục và đào tạo, năm học tiếp tục thực hiện chiến lược phát triển giáo dục giai
đoạn 2001 – 2010; chương trình hành động thực hiện hội nghị TW6 khóa IX ,
nghị quyết 40, 41 của Quốc hội về việc đổi mới chương trình giáo dục phổ
thơng.
Về quy mơ giáo dục: Đến năm 2010, tồn huyện có 28 trường mầm non,
28 trường tiểu học, sau khi tách các xã Ân Phú, Đức Giang, Đức lĩnh, Đức Bồng
để nhập vào huyện mới Vũ Quang, số trường THCS của huyện Đức Thọ còn 18
trường. Thực hiện chủ trương quy hoạch lại mạng lưới trường học, trong những

năm qua, đã thực hiện nhiều lần chia tách, sáp nhập các trường THCS từ năm
học 2007-2008 đến năm học 2011-2012: 16 trường, năm học 2012-2013: 14
trường, 5 trường trung học phổ thông và 1 trường giáo dục thường xuyên.
Hệ thống trường học trên địa bàn huyện ngày một phát triển từ mầm non
đến trung học phổ thông, cơ bản đáp ứng nhu cầu học tập của con em nhân dân.
Tỉ lệ huy động học sinh đến trường đạt cao, nhất là bậc mầm non, trung học cơ
sở. Tình hình học sinh trung học phổ thông bỏ học đã giảm hơn năm trước, tỉ lệ
học sinh tiểu học bỏ học chưa đến 0,3%, trung học cơ sở chưa đến 0,5%, trung
học phổ thơng chưa đến 0,8%.
Về bhaats lượng giáo dục tồn diện: Đã có 12 trường mầm non tổ chức
được các lớp bán trú. Các điều kiện phục vụ chăm sóc trẻ được cú ý đầu tư, nhất
là các thiết bị, đồ dùng, đồ chơi cho trẻ. 100% số cháu được khám sức khỏe định
kỳ và theo dõi sức khỏe theo biểu đồ. Hầu hết các trường đã tổ chức cho trẻ
20


ngày ăn 2 buổi, đạt tỉ lệ 95%. Việc triển khai xây dựng trường mầm non đạt
chuẩn quốc gia đã được chú ý. Năm học 2002 – 2004 có 3 trường đã hoàn thiện
xây dựng trường chuẩn quốc gia.
Trong giáo dục tiểu học, các nhà trường đã chỉ đạo nghiêm túc việc thay
sách giáo khoa lớp một, chú trọng đến phương pháp dạy học cho giáo viên dạy
lớp 1 nói riêng và giáo viên dạy các lớp khác nói chung. Việc thay sách giáo
khoa lớp 1 đac làm cho phương pháp dạy học của giáo viên và phương pháp học
của học sinh được đổi mới. Học sinh ngay từ buổi đầu được tiếp cận với phương
pháp tư duy độc lập. Chất lượng học sinh lớp 1 vượt trội so với những năm
trước.
Chất lượng giáo dục tiể học nói chung ngày càng tiến bộ. Tồn huyện có
162 học sinh giỏi cấp tỉnh, tăng 42 em so với năm trước. Học sinh giỏi cấp
huyện đạt 601 em, tăng 130 em so với năm trước. Chất lượng phổ cập giáo dục
tiểu học được kiểm tra công nhận đạt chuẩn quốc gia.

Đối với giáo dục trung học, nhiều trường đã được trang bị máy vi tính và
thực hiện dạy học tin học cho học sinh.
Trong những năm qua, công tác bồi dưỡng học sinh giỏi được các trường
và phòng quan tâm đúng mực. Phòng gáo dục – đào tạo đã chỉ đạo các trường
kiểm tra, phâm loại học sinh và thực hiện bồi dưỡng bọc sinh giỏi ngay từ đầu
năm học.
Việc chỉ đạo xây dựng trường THCS đạt chuẩn Quốc gia đã và đang được
chú ý, Năm 2006, phòng giáo dục và đào tạo tập trung chỉ đạo các trường THCS
Hoàng Xuân Hãn, trường THCS Tùng Ảnh, trường THCS Yên Trấn, trường
THCS Nguyễn Biểu, trường THCS Bình Thịnh xây dựng trường chuẩn quốc gia.
Tham mưu cho ủy ban nhân dân huyện, sở giáo dục và đào tạo chỉ đạo xây dựng
trường THPT Nguyễn Thị Minh Khai đạt chuẩn quốc gia THPT.
Phòng giáo dục và ðào tạo cũng ðã phối hợp chặt chẽ với trung tâm giáo
dục thường xuyên của huyện làm tốt công tác xóa mù chữ, xóa các lớp bổ túc
THPT. Chất lượng giáo dục bổ túc THPT được nâng cao.
21


Đội ngũ giáo viên, cán bộ phục vụ và cán bộ quản lý tăng về số lượng và
chất lượng. Để thực hiện tốt chương trình giáo dục phổ thơng mới, phịng đã tập
trungcao cho cơng tác bồ dưỡng giáo viên. 100% giáo viên được bố trí dạy lớp 1
đến lớp 6 chương trình mới được bồi dưỡng một cách nghiêm túc. Để củng cố,
nâng cao chất lượng giáo viên, phòng đã chỉ đạo các trường triển khai đánh giá
xếp loại giáo viên đúng với timh thần quyết định số 109/2002- QĐ.UB ngày
04/1/2002 của UBND tỉnh về việc ban hành quy định đánh giá, xếp loại giáo
viên và chính sách cho giáo viên không đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Công tác xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý ở các nhà trường có chuyển
biến tốt. Hàng năm ngành đã phối hợp với chính quyền địa phương để đánh giá
cán bộ quản lý, phối hợp để thực hiện tốt quy trình bổ nhiệm cán bộ quản lý.
Công tác Đảng trong nhà trường được cũng cố và đẩy mạnh. Điều đáng nói ở

đây là cán bộ, giáo viên, công nhân viên ngành giáo dục và đào tạo ln ln có
ý thức tốt về việc trau dồi phẩm chất chính trị, lập trường quan điểm vững vàng
và có nguyện vọng đứng trong hàng ngũ của Đảng để phục vụ cho sự nghiệp
phát triển đất nước.
Những năm qua, cơ sở vật chất trường học được cấp ủy, chính quyền
huyện và các xã quan tâm đúng mực. Mỗi năm huyện có nhiều xã xây dựng
được nhà cao tầng, chỉ tiêu phấn đấu đến năm 2007 có 100% xã xây dựng được
trường học cao tầng. Tuy nhiển, so với yêu cầu thì cơ sở vật chất còn nghèo nàn,
nhiều trường xây quá lâu nên chất lượng phòng học xuống cấp nghiêm trọng. Số
phòng hoc để triển khai học 2 buổi/ ngày còn bất cập. Tỉ lệ phòng học cấp 4 so
với phòng học cao tầng còn cao.
Cơng tác quản lý giáo dục có nhiều tiến bộ, việc dạy thêm, học thêm tràn
lan khơng cịn là vấn đè đáng lo ngại như trước. Tình trạng các trường thu thêm
ngoài quy định được hạn chế. Việc tổ chức kì thi tốt nghiệp trên địa bàn của cấp
ủy, chính quyền , các ngành liên quan từ huyện xuống xã chỉ đạo tốt, nên các kỳ
thi tốt nghiệp trên địa bàn huyện triển khai an toàn, nghiêm túc đúng quy chế.
22


Những năm học tiếp theo, ngành giáo dục đào tạo tiếp tục quán triệt và
thực hiện các nhiệm vụ theo tinh thần của nghị quyết đại hội IX của Đảng, nghị
quyết đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ 15. Tiếp tục nhấn mạnh và tăng cường nề
nếp, kỷ cương, đảm bảo môi trường sư phạm lành mạnh; tiếp tục thực hiện với
chương trình giáo dục phổ thơng mới; đẩy mạnh phổ cập giáo dục tiểu học đúng
độ tuổi và phổ cập giáo dục THCS; thực hiện có chất lượng việc xây dựng hệ
thống trường đạt chuẩn quốc gia; tăng cường xã hội hóa giáo dục, tạo nhiều cơ
hội học tập cho thế hệ trẻ và người lao động góp phần xây dựng xã hội học tập.
Cơng đồn phối hợp với chuyê môn tổ chức các cuộc hội thảo, chuyên đề
ở các cụm để trao đổi nội dung, phương pháp giảng dạy, các đơn vi cơ sở đã chủ
động phát động phong trào nhân các ngày lễ lớn trong năm.

Phong trào học tập nâng cao trình độ phát triển mạnh mẽ như hình thức
học tập tại chức, từ xa được giáo viên hưởng ứng và tạo moiij điều kiện để tham
gia.
Cuộc vận động “ kỷ cương – tình thương – trách nhiệm” và hoạt động từ
thiện nhân đạo do cơng đồn Việt Nam khởi xướng và thực hiện đã trở thành
tiềm thức trong cán bộ, giáo viên, được nhân dân đồng tình cao. Thực hiện chủ
trương của cơng đồn cấp trên, cơng đồn giáo dục huyện Đức Thọ đã chỉ đạo
các cơng đồn cơ sở tiến hành tổ chức tổng kết 10 năm cuộc vận động “ kỷ
cương – tình thương – trách nhiệm” và đã xây dựng được chương trình thực hiện
cuộc vận động trong thời gian tới.
Những năm học qua ngành giáo dục – đào tạo tập trung cao cho việc tham
mưu,chỉ đạo xây dựng trường chuẩn quốc gia. Ngành đã tích cực phối hợp với
các địa phương triển khai ở 15 xã gồm 28 trường học. Bên cạnh đó, ngành cũng
đã tham mưu, chỉ đạo, phối hợp thành lập các trung tâm học tập cộng đồng, đến
nay đã có 13 trung tâm đi vào hoạt động có hiệu quả vá tiếp tục xúc tiến thành
lập 10 trung tâm mới.
Song song với công tác chuyên môn cán bộ, giáo viên, cơng nhân viê và
học sinh đã tích cực tham gia các hoạt động xã hội: ủng hộ 2 đợt, mỗi đợt 2 ngày
23


lương với tỉ lệ tham gia 100% cho các đối tượng: người nghèo, trẻ em có hàn
cảnh khó khăn, ủng hộ các nước trong khu vực gặp thiên tai như sóng thần, động
đất, xóa nhà tranh tre dột nát,... 100% cán bộ, giáo viên, công nhân viên và học
sinh nhận mua tăm tre của Hội người mù huyện Đức Thọ.
Các đơn vị trường THPT tuy khó khăn trong cơ chế huy động ngân sách
để xây dựng cơ sở vật chất phục vụ kịp cho quy mô phát triển trường lớp THPT
hiện nay. Nhưng các đơn vị đã thực sự có nhiều cố gắng xây dựng đủ phòng học
2 ca và một số phòng khác để phục vụ cho việc bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo
cho học sinh yếu kém. Mua sắm được những trang thiết bị thiết yếu để phục vụ

cho việc dạy và học.
Về thiết bị dạy học, với sự chỉ đạo của ngành, phòng đã cung ứng kịp thời
trước khai giảng mỗi trường THCS một bộ thiết bị dạy học lớp 8 và mỗi lớp 3
các trường tiểu học một bộ thiết bị đầy đủ với tổng trị giá hơn 1,5 tỉ đồng,tạo
điều kiện cho học sinh tiếp thu chương trình có hệu quả tốt nhất.
Tuy vậy, đới với ngành giáo dục vẫn còn một số hạn chế trong ngành học,
bậc học cần được rút kinh nghiệm. Đó là: chất lượng học sinh giỏi tiểu học và
THCS vẫn chưa cao, chưa xứng với truyền thống hiếu học của con em huyện
nhà, mặt bằng chất lượng giữa các vùng có tiến bộ nhưng vẫn tiếp tục bộc lộ
nhiều bất cập cần được kiểm tra, đánh giá, rút kinh nghiệm trong những năm
học tới.
Chất lượng đội ngũ giáo viên, cán bộ trong vài năm gần đây có khởi sắc
nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, tinh thần học hỏi chưa cao, vốn tích lũy nghèo,
một bộ phận giáo viên thiếu tinh thần trách nhiệm với học sinh, với nhà trường,
chất lượng lồng ghép giáo dục đạo đức trong các môn học chưa được quan tâm
chú ý nhiều.
Phong trào xây dựng trường chuẩn quốc gia tốc độ chậm, cơ sở vật chất
trang thiết bị của nhiều đơn vị còn bất cập hệ thống các trường THCS triển khai
bảo quản sử dụng thiết bị hiệu quả chưa cao. Một số đơn vị chưa thực sự chăm
lo công tác xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức đoàn thể trong nhà trường;
24


cơng tác giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống cho cán bộ, giáo viên và
học sinhquan tâm chưa đúng mực; việc triển khai các hoạt động ngoại khóa kết
quả chưa cao.
Trong cơng tác quản lý bộc lộ nhiều yếu kém: chưa đánh giá đúng mức
tầm quan trọng của việc bảo quản, sử dụng thiết bị trong các trường THCS nên
chưa tạo được bước đột phá trong việc nâng cao chất lượng dạy và học; Trong
quản lý học sinh cá bieetjowr một số đơn vị làm không tốt dẫn đến ảnh hưởng

chất lượng dạy và học theo hình thức, chạy đua thành tích; Trong xây dựng hồ
sơ sổ sách ở các nhà trường và thực hiện báo cáo thơng tin hai chiều cịn kém.
Năm học 2005 – 2006, ngành đã xác định nhiệm vụ chung là: quán triệt
và thực hiện các nhiệm vụ theo tinh thần của nghị quyết đại hội IX của Đảng,
kết luận hội nghị trung ương lần thứ VI (khóa 9) , nghị quyết đaih hội Đảng bộ
các cấp. Tổ chức nghiên cứu và quán triệt sâu rộng luật giáo dục ( sửa đổi) nhằm
tạo ra bước chuyển biến cơ bản và toàn diện trong phát triển và giáo dục. Tăng
cường quản lý nhà nước đảm bảo kỷ cương để xây dựng môi trường sư phạm
lành mạnh. Tiếp tục xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo và cán
bộ quản lý giáo dục theo tinh thần chỉ thị 40 của ban bí thư Trung ương Đảng.
Trên cơ sở đó tiếp tục triển khai thực hiện tốt chương trình giáo dục phổ thơng
mới, nâng cao chất lượng giáo dục tiểu học, làm tốt cơng tác xã hội hóa giáo dục
để đẩy nhanh tốc độ xây dựng hệ thống trường chuẩn quốc gia ở cả 4 cấp học;
đẩy nhanh xây dựng các trung tâm học tập cộng đồng ở các địa phương để tạo
cơ hội học tập cho mọi người, góp phần xây dựng một xã hội học tập vì sự phát
triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh quốc phòng của từng địa phương. Để
thực hiện mục tiêu đó ngành đã có những chỉ đạo cụ thể đến các đơn vị cơ sở,
nhờ đó chất lượng giáo dục tồn diện đã được nâng lên một bước.
Trong quy mô giáo dục, việc tham mưu sắp xếp bố trí mạng lưới trường
lớp trên toàn huyện khá phù hợp. Tỉ lệ huy động học sinh ở tất cả các độ tuổi
vào các bậc học đã đạt và vượt mức kế hoạch, phù hợp với nhu cầu phát triển
của địa phương và nhu cầu của người học.
25


×