Chứng minh sứ mênh của giai cấp công
nhân_Mối liên hệ giữa giai cấp công
nhân và Đảng Cộng Sản
a) Khái niệm giai cấp công nhân
Sự hinh thành giai cấp công nhân :
Đại công nghiệp phát triển các giai cấp(như nông dân, thủ cơng nghiệp,...) đều
bị suy tàn và tiêu vong cịn giai cấp công nhân(giai cấp vô sản) lại là sản phẩm
của bản thân nền đại công nghiệp. Cho nên:
Giai cấp cơng nhân hình thành và phát triển cùng với sự phát triển của công
nghiệp hiện đại , nền công nghiệp hiện đại càng phát triển thì giai cấp cơng
nhân càng phát triển về số lượng và chất lượng
Hai thuộc tính cơ bản của giai cấp công nhân :
Về phương thức lao động và phương thức sản xuất : là những người
trực tiếp và gián tiếp sử dụng các công cụ sản xuất có tính chất cơng
nghiệp ngày càng hiện đại và xã hội hóa ngày càng cao
Về vị trí trong quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa : giai cấp công nhân
là những người lao động không có tư liệu sản xuất phải bán sức lao
động cho tư bản và bị nhà tư bản bốc lột giá trị thặng dư
Định nghĩa giai cấp công nhân : là tập đồn xã hội ổn định, hình
thành và phất triển cùng với sự phát triển của công nghiệp hiện đại,
với nhịp độ phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội
ngày càng cao, là lực lượng lao động cơ bản tiên tiến trong quy trình
cơng nghệ , dịch vụ công nghiệp , trực tiếp hoặc gián tiếp tham gia
vào quá trình sản xuất , tái sản xuất ra của cải vật chất và cải tạo các
quan hệ xã hội , đại biểu cho lực lượng sản xuất và phương thức sản
xuất tiện tiến trong thời đại hiện nay
b) Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân : Khi phương thức sản xuất tư
bản chủ nghĩa đã tỏ ra lỗi thời, không thể khắc phục được những mâu thuẫn
cơ bản vốn có của nó, giai cấp cơng nhân có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo nhân
dân lao động đấu tranh xóa bỏ chế độ tư bản chủ nghĩa, xóa bỏ mọi chế độ áp
bức bóc lột và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân cần phải trải qua hai
bước:
Bước thứ nhất "... giai cấp vô sản biến thành giai cấp thống trị" và "Giai cấp
vô sán Chiếm lạy chinh quyền nhà nước"
Bước thứ hai: "... giai cấp vô sản dùng sự thống trị của mình để từng bước
đoạt lấy tồn bộ tư bản trong tay giai cấp tư sản để tập trung tất cả những
công cụ sản xuất vào trong tay nhà nước"
c) Những điều kiện khách quan qui định sứ mệnh của giai cấp ông nhân
i) Về địa vị kinh tế xã hội:
Giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại cơng nghiệp tư bản chủ
nghĩa, nó ra đời và phát triển cùng với sự hình thành phát triển của nền đại
công nghiệp tư bản chủ nghĩa, được nền sản xuất công nghiệp hiện đại rèn rũa
tổ chức lại thành một lực lượng xã hội hùng mạnh .Họ đại diện cho lực lượng
sản xuất tiên tiến nhất với trình độ xã hội hố ngày càng cao=> là nhân tố
quyết định thủ tiêu quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa và đại diện cho xu
hướng phát triễn xã hội lồi người
Do khơng có tư liệu sản xuất, giai cấp công nhân phải bán sức lao động
làm thuê, bị nhà tư bản chiếm đoạt giá trị thặng dư, là giai cấp trực tiếp đối
kháng với giai cấp tư sản. Từ sự đối kháng đó đã bùng lên những phong trào
của giai cấp công nhân chống lại giai cấp tư sản để giải phóng mình và tồn
nhân loại, trong cuộc đấu tranh đó họ khơng mất gì ngồi mất xiềng xích và
được cã thế giới về mình
Đại cơng nghiệp càng phát triển, tập trung làm phá sản những người
sản xuất hàng hoá nhỏ, bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân. Mặt khác,
đại công nghiệp phát triển tiếp tục bổ xung lực lượng cho giai cấp công nhân,
thu hút lực lượng lao động từ nhiều ngành, nhiều nghề khác nhau tạo nên tập
đoàn hùng mạnh=> giai cấp cơng nhân có những lợi ích thống nhất với quần
chúng nhân dân lao động nên họ có thế tập hợp lãnh đạo quần chúng nhân dân
đi theo mình để làm cách mạng
ii) Về đặc điểm chính trị, xã hội:
Giai cấp công nhân là giai cấp tiên phong trong cách mạng : Giai cấp
công nhân là đại diện cho phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa– phương
thức sản xuất tiên tiến nhất và là lực lượng sản xuất có trình độ xã hội hố
cao. Do đó giai cấp cơng nhân càng có đủ điều kiện, khả năng trở thành lực
lượng tổ chức lãnh đạo các giai cấp và tầng lớp lao động khác trong cơng
cuộc xố bỏ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa tư bản, xây dựng thành công xã
hội xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa.
Giai cấp cơng nhân là giai cấp có tinh thần cách mạng triệt để nhất thời
đại hiện nay : Về kinh tế, lợi ích của giai cấp cơng nhân đối lập với lợi ích của
giai cấp tư sản, họ là những người khơng có tư liệu sản xuất, làm thuê cho các
nhà tư bản và bị áp bức bóc lột nặng nề. Điều kiện sông, lao động trong chế
độ tư bản chủ nghĩa đã chỉ cho họ thấy : họ chỉ có thể giải phóng bằng cách
giải phóng tồn bộ xã hội khỏi chế độ tư bản chủ nghĩa
Giai cấp cơng nhân là giai cấp có ý thức tổ chức kỉ luật cao : Điều kiện
sản xuất tập trung và trình độ kỹ thuật ngày càng hiện đại, cơ cấu tổ chức sản
xuất chặt chẽ đã tôi luyện cho giai cấp công nhân hiện đại tính tổ chức và kỷ
luật cao, tác phong công nghiệp; trong cuộc đấu tranh chống lại giai cấp tư
sản thống trị, giai cấp cơng nhân phải đồn kết lại, tổ chức chặt chẽ và có tính
cách mạng cao vì cách mạng địi hỏi đúng thời điểm, thời cơ thuận lợi mới có
thể thành cơng
Giai cấp cơng nhân có bản chất quốc tế : : Gắn với nền công nghiệp
hiện đại, chẳng những giai cấp công nhân có trình độ xã hội hố ngày càng
cao ở mỗi nước mà cịn có mối quan hệ quốc tế ngày càng tăng. Giai cấp công
nhân ở các nước tư bản nói chung đều có địa vị kinh tế xã hội giống nhau.
Mặt khác, giai cấp tư sản cũng là một lực lượng quốc tế và để duy trì địa vị
thống trị của mình, giai cấp tư sản ln thực hiện sự liên minh trên phạm vi
quốc tế để chống lại cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân và các dân tộc bị
áp bức. Do đó muốn hồn thành sự nghiệp giải phóng, giai cấp cơng nhân
phải đồn kết lại, đấu tranh trên phạm vi toàn quốc tế
Tại sao phải có đảng cộng sản thì giai cấp cơng nhân mới thực hiện được
sứ mệnh đó ?
Sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân do địa vị kinh tế - xã hội của
giai cấp này quy định, nhưng để biến khả năng khách quan đó thành hiện thực
thì phải thơng qua nhân tố chủ quan của giai cấp công nhân. Trong những
nhân tố chủ quan đó thì việc thành lập đảng cộng sản, một đảng trung thành
với lợi ích của giai cấp công nhân, của dân tộc, vững mạnh về chính trị, tư
tuởng và tổ chức là nhân tố giữ vai trị quyết định nhất bảo đảm cho giai cấp
cơng nhân hồn thành được sứ mệnh lịch sử của mình.
a) Tính tất yếu của việc hình thành và phát triển chính đảng của giai
cấp cơng nhân
Đảng Cộng sản là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác với phong trào công
nhân. Phong trào công nhân chỉ thắng lợi khi nào giai cấp cơng nhân đạt đến
trình độ tự giác bằng cách tiếp thu lý luận khoa học cách mạng (phong trào
mang tính chất chính trị)
Đảng cộng sản ra đời , thông qua sự lãnh đạo của Đãng, giai cấp cơng
nhân nhận thức được vai trị, vị trí của minh trong xã hội hiểu được con
đường, biện pháp đấu tranh cách mạng, từ đó tập hợp được đơng đảo quần
chúng nhân dân lao động, thực hiện việc lật đổ chủ nghĩa tư bản, giải phóng
giai cấp mình, giải phóng tồn xã hội và tổ chức xây dựng xã hội mới về mọi
mặt.
Đảng cộng sản muốn hồn thành vai trị lãnh đạo cách mạng thì trước
hết phả ln ln chăm lo xây dựng về tư tưởng và tổ chức, phải ln ln
làm cho đảng vững mạnh về chính trị, khơng ngừng nâng cao về trí tuệ, gắn
bó với quần chúng nhân dân, có năng lực lãnh đạo và hoạt động thực tiễn
b) Mối quan hệ giữa đãng cộng sản và giai cấp công nhân:
Giữa Đảng Cộng sản và giai cấp công nhân, cũng như với nhân dân lao
động ln ln có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ. Mối quan hệ đó được phân
tích ở hai điểm chính sau đây:
Thứ nhất, Đảng Cộng sản là tổ chức chính trị cao nhất; đại biểu cho lợi
ích và trí tuệ của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động. Đảng lãnh đạo giai
cấp công nhân và nhân dân lao động
Thứ hai, giai cấp công nhân và nhân dân lao động là cơ sở giai cấp, cơ
sở xã hội của Đảng Cộng sản; là nguồn bổ sung lực lượng phong phú cho
Đảng; là sức sống và sức mạnh của Đảng.
Vì vậy, Đãng cộng sản chân chính thì sự lãnh đạo của đãng cũng chính
là sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, sự nghiệp của Đảng củng chính là sự
nghiệp của giai cấp cơng nhân và nhân dân lao động; lợi ích và trí tuệ của
Đảng cũng chính là lợi ích và trí tuệ của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động.
Việt Nam một đảng hay đa đảng thì phù hợp hơn vai trị vai trò của
Đảng cộng sản trong giai đoạn đổi mới ở nước hiện nay như thế nào?
Đa đảng là gì?
Hệ thống đa đảng là hệ thống mà ở đó có nhiều đảng chính trị có khả
năng giành quyền điều hành chính phủ một cách độc lập hay liên minh với
nhau. Trong các quốc gia có thể chế chính trị đa đảng, một đảng nào đó chiếm
được đa số (sau thắng lợi bầu cử), nhưng chưa đạt đến mức độ tuyệt đối thì
phải liên minh với một số đảng khác, tạo thành một liên minh cầm quyền. Khi
đó giữa các đảng có sự dàn xếp với nhau, điều hịa về các vị trí chủ chốt trong
nội các, điều hịa về chính sách và quyền lực. Đảng nào chiếm số lượng cử tri
đơng nhất thì đảng đó có nhiều đại biểu trong quốc hội, có nhiều ghế trong
chính phủ, chiếm nhiều vị trí chủ chốt trong chính quyền nhà nước. Trong các
nước thực hiện chế độ một đảng, tính chất quyết định và sự nắm quyền, cũng
như sự chi phối của đảng đối với đời sống xã hội, thể hiện rõ và tuyệt đối hơn
trên toàn bộ các yếu tố cấu thành nội dung của đảng cầm quyền. Đảng đó là
lực lượng duy nhất nắm chính quyền nhà nước, khơng chia sẻ bất kỳ cho ai,
cho bất kỳ một lực lượng xã hội nào. Hai trường hợp cơ bản này đã và đang
diễn ra trong đời sống chính trị thế giới hiện đại. Cuộc đấu tranh giữa hai
khuynh hướng đa đảng và một đảng đã và đang diễn ra rất quyết liệt, thực
chất đó là biểu hiện của cuộc đấu tranh giai cấp, phản ánh tính chất gay go,
phức tạp của cuộc đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay... Có đúng là
“nhiều đảng cạnh tranh nhau thì dân chủ hơn”? Có ý kiến cho rằng, thực hiện
đa đảng, có nhiều đảng cạnh tranh nhau thì sẽ dân chủ hơn, sẽ tốt hơn một
đảng! Có đúng như vậy khơng? Câu trả lời ở đây là khơng phải như vậy. Hãy
xem chính người Mỹ nói về nước Mỹ, một nước thực hiện chế độ đa đảng,
thực chất là thế nào. Họ nói rằng, nước Mỹ là một nước “tự do” người dân tự
do biểu tình, chửi bới, báo chí tự do phanh phui những chuyện nhạy cảm,
xun tạc, bơi xấu lẫn nhau vì sự cạnh tranh của các đảng phái này, nhằm hạ
uy tín của đảng phái kia. Nhưng điều đó khơng phải là bản chất thực sự của
dân chủ. Giáo sư trường Đại học bang Indiana, Paul Mishler cho thấy rõ thực
chất vấn đề: “Mọi đói nghèo, thất nghiệp, thất học... đều do lỗi của hệ thống,
lỗi từ chủ nghĩa tư bản Mỹ gây ra”; “Nước Mỹ tự xưng là đa đảng nhưng thực
chất chỉ là một đảng, đó là đảng của chủ nghĩa tư bản, dù là đảng Cộng hịa
hay Dân chủ”(1). Có thể rút ra một số vấn đề sau:
thứ nhất, chế độ đa đảng của nước Mỹ “thực chất chỉ là một đảng”, là
sự cầm quyền của đảng tư sản;
thứ hai, dân chủ ở nước Mỹ là dân chủ tư sản, không phải là dân chủ
của đa số, không thực hiện quyền lực thực sự thuộc về nhân dân;
thứ ba, thực chất đa đảng đối lập trong xã hội tư bản chỉ nhằm mục tiêu
duy nhất là bảo đảm quyền lực cho giai cấp tư sản. Bất cứ một nền dân chủ
nào, cũng đều nhằm đảm bảo sự thống trị của giai cấp thống trị, cầm quyền.
Dân chủ không phụ thuộc vào cơ chế độc đảng hay đa đảng, mà nó phụ
thuộc vào bản chất của chế độ cầm quyền phục vụ cho giai cấp nào. Bản thân
nền dân chủ tư sản, dù có được tơ vẽ như thế nào chăng nữa, thì nền dân chủ
đó vẫn là nền dân chủ của giai cấp tư sản, nhằm bảo đảm sự thống trị, bóc lột
của giai cấp tư sản đối với xã hội và lao động.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã có và cũng đã phủ định đa đảng Từ
khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn là đội tiên phong, lãnh
tụ chính trị của giai cấp cơng nhân và toàn thể dân tộc Việt Nam, là người
lãnh đạo và tổ chức mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Qua sự “sàng
lọc” dữ dội của lịch sử những thập niên đầu thế kỷ 20, dân tộc Việt Nam,
nhân dân Việt Nam đã lựa chọn Đảng Cộng sản Việt Nam là người dẫn dắt
mình đi đến tương lai hạnh phúc. Tháng 8/1945, Đảng ta lãnh đạo toàn dân
tộc đứng lên khởi nghĩa giành chính quyền lập nên Nhà nước Việt Nam Dân
chủ cộng hòa. Trong những ngày đầu giữ chính quyền và nền độc lập dân tộc,
Đảng ta đã tự tuyên bố giải tán và Chính phủ do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng
đầu đã mở rộng thành phần cho mọi tổ chức, chính đảng cùng tham gia lãnh
đạo đất nước. Chính phủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hịa đã có
các đảng như Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội, Quốc dân đảng tham gia. Sau này
còn Đảng Dân chủ, Đảng Xã hội và Đảng Cộng sản, đến năm 1988, Đảng
Dân chủ và Đảng Xã hội tun bố tự giải tán. Tồn bộ q trình cách mạng
Việt Nam và hoạt động của nhà nước Việt Nam mới là do Đảng Cộng sản Việt
Nam lãnh đạo, nền chính trị của nước ta vẫn là nền chính trị nhất ngun. Chế
độ chính trị đó là do nhân dân ta lựa chọn từ chính những trải nghiệm trong
q trình lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, kháng chiến chống xâm lược
và trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Dưới sự lãnh đạo duy nhất của
Đảng Cộng sản Việt Nam, sự nghiệp cách mạng nước ta đã đem lại
Ở nước ta, thực hiện một đảng duy nhất lãnh đạo, mọi người dân đều
có thể trực tiếp hay gián tiếp (thơng qua người đại diện của mình) đề đạt
nguyện vọng và đóng góp ý kiến cho các cơ quan công quyền. Các kênh bảo
đảm và phát huy quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được mở rộng và
hoạt động có hiệu quả. “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” trở thành
quy chế, thiết chế dân chủ trong các tổ chức chính trị - xã hội, trong các hoạt
động của xã hội; là phương châm hành động của người dân trong xây dựng hệ
thống chính trị; là yêu cầu ứng xử của cán bộ trong tiếp xúc, quan hệ với dân
và chăm lo đến dân. Nhân dân lao động là chủ thể mọi quyền lực; quyền lợi
và nghĩa vụ, quyền hạn và trách nhiệm, cống hiến và hưởng thụ ln gắn bó
chặt chẽ với nhau. Thực tế vừa nêu chưa phải là đầy đủ, nhưng đã cho thấy
tính ưu việt của chế độ một đảng ở Việt Nam; khơng thể vì những khó khăn,
phức tạp nào đó mà xuyên tạc bản chất chế độ dân chủ của nước ta, địi thực
hiện đa đảng, xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chế độ dân
chủ ở nước ta là chế độ dân chủ tốt đẹp và ưu việt. Bản chất tốt đẹp và tính ưu
việt của nó khơng phải tự nhiên mà có, mà là kết quả của biết bao mồ hôi
công sức và cả máu xương của nhiều thế hệ người Việt Nam chúng ta. Bản
chất tốt đẹp và tính ưu việt của chế độ này có được giữ gìn, nâng cao và phát
huy hay khơng, điều đó phụ thuộc vào chính chúng ta, vào sự quyết tâm và nỗ
lực của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, xây dựng và phát triển nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Vấn đề đặt
ra hiện nay đối với chúng ta không phải là lựa chọn một đảng hay đa đảng,
mà là phải thực hiện tốt hơn nữa quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản
Việt Nam đối với xã hội. Đồng thời thực hiện tốt hơn nữa nhiệm vụ then chốt
là xây dựng Đảng, “Phải dành nhiều công sức tạo được sự chuyển biến rõ rệt
về xây dựng Đảng, phát huy truyền thống cách mạng, bản chất giai cấp cơng
nhân và tính tiên phong của Đảng; xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức; đồn kết nhất trí cao, gắn bó mật
thiết với nhân dân, có phương thức lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ đảng
viên đủ phẩm chất và năng lực”, xây dựng Đảng ngang tầm với yêu cầu
nhiệm vụ cách mạng
Vai trị của Đảng Cộng Sản trong q trình đổi mới
Về tư tưởng chính trị: Trong bối cảnh phức tạp của tình hình trong
nước và sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô (cũ) và các nước Đông
Âu, Đảng vẫn xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ X cụ thể hóa: “Đổi mới không phải là xa rời mà là
nhận thức đúng, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, lấy đó làm nền tảng tư tưởng của Đảng, và kim chỉ nam
cho hành động cách mạng”. Nhờ xác định được hệ tư tưởng và đường lối
đúng đắn, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trên cơ sở
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh mà Đảng đã dẫn dắt đất nước và dân tộc vượt qua mọi khó khăn, thử
thách, giành được những thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Về kinh tế: Trong thời kỳ đổi mới, Đảng không ngừng đổi mới nhận
thức và tư duy lý luận về kinh tế. Từ tư duy kinh tế kế hoạch hóa tập trung
sang tư duy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Quan niệm về mơ
hình kinh tế tổng quát trong suốt thời ký quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam là kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là bước đột phá lý
luận cơ bản và sáng tạo của Đảng, là thành quả lý luận quan trọng qua 20 năm
thực hiện Cương lĩnh năm 1991, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và tiếp thu
có chọn lọc kinh nghiệm của thế giới.
Đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: Các
thành phần kinh tế, hoạt động theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan
trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp
tác và cạnh tranh lành mạnh. Quan hệ phân phối đảm bảo công bằng và tạo
động lực cho phát triển; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn của các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội. Nhà nước quản lý nền
kinh tế bằng pháp luật, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách và lực
lượng vật chất để định hướng, điều tiết, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Kết quả bước đầu về phát triển kinh tế thị trường đã tạo nên những thành quả
quan trọng: Kinh tế Nhà nước từng bước phát huy vai trò chủ đạo, hệ thống
doanh nghiệp Nhà nước bước đầu được tổ chức lại và cổ phần hóa. Kinh tế
tập thể bước đầu được đổi mới, các hình thức hợp tác kiểu mới hình thành.
Kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng, từng bước nâng cao hiệu quả sản
xuất, kinh doanh, giải quyết việc làm, đóng góp ngày càng lớn vào GDP. Kinh
tế nước ngồi được khuyến khích phát triển, góp phần quan trong vào mục
tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Các loại thị trường đang hình thành và ngày
càng phát triển. Hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, quy mô xuất, nhập
khẩu đạt hơn 300 tỷ USD năm 2014. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng
tích cực. Tỷ trọng ngành công nghiệp – dịch vụ chiếm gần 85% năm 2014. Sự
nghiệp CNH, HĐH được đẩy mạnh với việc hình thành hàng trăm khu công
nghiệp, khu chế xuất và các vùng kinh tế trọng điểm. Kết cấu hạ tầng ngày
càng hiện đại. CNH, HĐH nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới được đẩy
mạnh. Tổng thu nhập nền kinh tế quốc dân đạt khoảng 205 tỷ USD năm 2014.
Thu nhập bình quân đầu người tăng từ hơn 200 USD những năm đầu đổi mới
lên hơn 2.000 USD năm 2014.
Về văn hóa – xã hội: Quan điểm chỉ đạo xuyên suốt của Đảng trong
thời kỳ đổi mới là: gắn kinh tế với xã hội, thống nhất chính sách kinh tế với
chính sách xã hội, tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng bước đi, từng chính sách và trong suốt q trình
phát triển. Bên cạnh đó, Đảng xác định phát triển văn hóa đồng bộ và tương
xứng với tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội; xây dựng văn hóa và con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc đổi mới; phát triển giáo
dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo
dục – đào tạo và khoa học – công nghệ là đầu tư cho phát triển. Xây dựng nền
văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc.
Thực hiện tốt các quan điểm chỉ đạo đó, sau gần 30 năm đổi mới, lĩnh vực
văn hóa – xã hội có sự chuyển biến tích cực. Các giá trị văn hóa và truyền
thống tốt đẹp của dân tộc được phát huy. Các di sản văn hóa được bảo tồn,
thiết chế văn hóa cơ sở được đầu tư xây dựng. Những nhân tố và giá trị mới
của văn hóa và con người Việt Nam từng bước được định hình trong đời sống
xã hội. Phong trào “Toàn dân xây dựng đời sống văn hóa” và các phong trào
xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa trở thành nét đẹp trong đời sống xã
hội. Giao lưu, hợp tác quốc tế về văn hóa ngày càng mở rộng, góp phần quảng
bá hình ảnh đất nước và con người Việt Nam ra toàn thế giới. Nước ta trở
thành điểm sáng về giáo dục toàn dân và xóa đói giảm nghèo. Năm 2007, Việt
Nam được Liên hợp quốc tặng thưởng bằng khen về thành tích xóa đói, giảm
nghèo. Năm 2010, phổ cập giáo dục trên quy mơ tồn quốc. Đến nay, nước ta
cơ bản hồn thành mục tiêu thiên niên kỷ. Tỷ lệ nghèo đói cịn dưới 7% theo
tiêu chuẩn quốc tế.
Về đối ngoại: Sự chuyển biến tư duy quan trọng trong lĩnh vực đối
ngoại là quan điểm “thực hiện đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế”.
Trước xu thế tồn cầu hóa kinh tế, Đảng chủ trương “chủ động hội nhập kinh
tế quốc tế”, “chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế đồng thời mở rộng
hợp tác trên các lĩnh vực khác” theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ vững bản sắc văn hóa
dân tộc, bảo vệ mơi trường. Thông điệp ngoại giao là “Việt Nam sẵn sàng là
bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và có trách nhiệm của các tổ
chức quốc tế”, tích cực tham gia giải quyết các vấn đề tồn cầu, phấn đấu vì
hịa bình, độc lập và phát triển.
Thành tựu nổi bật trong hoạt động đối ngoại là: Phá thế bao vây, cấm vận của
các thế lực thù địch, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa ,
đa dạng hóa. Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế. Hiện nay, Việt Nam đã
ký Hiệp ước đối tác chiến lược hoặc đối tác toàn diện với hầu hết các nước
lớn như: Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Pháp, Anh, Ấn Độ, Ý, Hàn
Quốc… Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực: văn hóa – xã hội, khoa
học – công nghệ, giáo dục – đào tạo và các lĩnh vực khác. Giải quyết hịa bình
các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển, đảo và các nước liên quan như Trung
Quốc và các nước ASEAN. Xúc tiến quan hệ thương mại, khai thác hiệu quả
các cơ chế hợp tác quốc tế, các nguồn lực về vốn, khoa học – công nghệ và
kinh nghiệm quản lý của các nước phát triển; khai thác hiệu quả các khuôn
khổ đã ký kết, đặc biệt là khu vực mậu dịch tự do song phương và đa phương.
Tranh thủ ODA, thu hút FDI, mở rộng thị trường ngoài nước, chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế. Đến nay, Việt Nam đã thu hút hàng chục tỷ USD vốn
ODA, khoảng 250 tỷ USD đầu tư trực tiếp nước ngoài. Tiến một bước dài
trong hội nhập kinh tế quốc tế thông qua việc gia nhập các diễn đàn kinh tế
AFTA, APEC, WTO.
Trong thời kì đổi mới vai tro rất quan trọng, nó quyết định sự phát triển và
vận mệnh của một quốc gia. Trong quá trình lãnh đạo, Đảng đã khẳng định
được vai trò lãnh đạo đối với đất nước và dân tộc. Vai trò lãnh đạo của Đảng
được thể hiện ở những điểm sau:
Về an ninh – quốc phòng: Trong bối cảnh mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
vẫn được Đảng xác định là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Tuy nhiên, khái niệm và nội hàm “bảo vệ Tổ quốc” được xác định đầy
đủ hơn: Bảo vệ tổ quốc không chỉ là bảo vệ lãnh thổ, biên giới, hải đảo, vùng
trời, vùng biển mà còn là bảo vệ chế độ xã gội chủ nghĩa, bảo vệ thành quả
cách mạng, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân; bảo vệ kinh tế, văn hóa dân
tộc, bảo vệ sự nghiệp đổi mới…; khẳng định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức
mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết tồn dân với nền tảng là “thế trận lịng
dân”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Thành tựu cơ bản, bao trùm về an ninh – quốc phòng là giữ vững độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đảm bảo sự lãnh đạo của
Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn
xã hội. Thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ củng cố an ninh quốc phịng với
chống “diễn biến hịa bình”, bạo loạn lật đổ; vơ hiệu hóa hoạt động của các
đối tượng phản động trong và ngoài nước lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn
giáo, nhân quyền để gây mất ổn định. Quan tâm xây dựng, phát triển tiềm lực
quốc phòng, an ninh của đất nước; xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là
quân đội và công an theo hướng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.
Xây dựng được thế trận quốc phịng tồn quốc gắn với thế trận an ninh nhân
dân.
VIỆC GIÀN KHOAN CHỨNG MINH ĐƯỜNG LỐI CỦA ĐẢNG
QUAN TRỌNG NHỮ THẾ NÀO
1. Những hành động của Trung Quốc
2. Đường lối của đảng
Phóng viên của đài NHK (Nhật Bản) đặt câu hỏi: Hiện nay giàn khoan thăm
dò đã khoan vào đáy biển của Việt Nam hay chưa và nếu Trung Quốc không
chịu rút giàn khoan ra khỏi vùng biển của Việt Nam thì Việt Nam sẽ có những
hành động gì tiếp theo?
Trả lời câu hỏi của phóng viên, ơng Trần Duy Hải - Phó chủ nhiệm Ủy ban
Biên giới Quốc gia – Bộ Ngoại giao, nói: “Tôi khẳng định chủ quyền là vấn
đề rất thiêng liêng. Việt Nam sẽ sử dụng tất cả các biện pháp cần thiết để bảo
vệ các quyền và lợi ích của Việt Nam. Chính sách nhất quán của Việt Nam,
Việt Nam kiên trì theo đuổi các biện pháp hịa bình giải quyết các tranh chấp.
Hiện nay và sắp tới Việt Nam sẽ tích cực kiên trì trao đổi với Trung Quốc về
xử lý các vấn đề tại Biển Đông. Tôi cũng một lần nữa khẳng định với các bạn
rằng, để bảo về quyền và lợi ích trên Biển Đông, Việt Nam sẽ sử dụng tất cả
các biện pháp hịa bình được quy định bởi luật pháp quốc tế”.
Đảng Cộng Sản tập hợp những ai và ai có thể tham gia ?
Đảng cộng sản gồm : đại hội đảng sẽ bầu Hội đồng Trung ương (Ban
Chấp hành Trung ương, Ủy ban Trung ương) thực thi nghị quyết của đảng
giữa các Đại hội đảng theo nhiệm kỳ. Ban chấp hành Trung ương sẽ bầu một
Bộ Chính trị (hoặc Đồn chủ tịch ủy ban trung ương, tùy theo điều lệ riêng
của từng đảng) thay mặt Ban chấp hành Trung ương giải quyết công việc của
đảng giữa hai kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương. Ban chấp hành Trung
ương cũng trực tiếp bầu một Chủ tịch Đảng hoặc Tổng Bí thư. Bộ Chính trị và
Ban Bí thư là những cơ quan thường trực để tham mưu về chủ trương, đường
lối chính trị, các chính sách... và các hoạt động thường nhật của đảng. Chủ
tịch Đảng hoặc Tổng Bí thư là người đứng đầu các bộ máy nói trên. Theo
nguyên tắc tập trung dân chủ, Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản
là cơ quan quyền lực cao nhất của đảng. Ban chấp hành Trung ương được ủy
quyền thực hiện chủ trương đường lối, chính sách của đảng giữa hai nhiệm kỳ
phải báo cáo công tác với Đại hội đại biểu toàn quốc của đảng và chịu trách
nhiệm về việc điều hành các hoạt động đó. Tổng Bí thư, các Ủy viên Bộ
Chính trị và các thành viên Ban Bí thư chịu trách nhiệm trước Ban chấp hành
Trung ương về các hoạt động của Đảng giữa hai kỳ họp của Ban chấp hành
Trung ương. Hiện nay, chỉ còn một số Đảng Cộng sản vẫn giữ nguyên tắc và
cấu trúc này. Một số khác đã từ bỏ cơ chế tập trung dân chủ cùng với việc từ
bỏ Chủ nghĩa Mác-Lênin và chuyển thành đảng xã hội dân chủ (theo quan
điểm của Đệ Nhị Quốc tế) hoặc đảng theo chủ nghĩa xã hội dân chủ.
Về việc vào Đảng không phải ai cũng được kết nạp vào Đảng cả mà
phải có sự lựa chọn sự đánh giá có tiêu chuẩn cụ thể và phải đáp ứng được
điều kiện sau đây:
- Về độ tuổi : tất cả ai muốn vào Đảng phải đủ 18 tuổi trở lên đến đủ 60
tuổi được tính theo tháng. Việc kết nạp Đảng cho những người trên 60 tuổi thì
phải do các cấp ủy trực thuộc trung ương xem xét và quyết định
- Trình độ học vấn người muốn vào đảng phải có bằng tốt nghiệp trung
học cơ sở hoặc tương đương trở lên còn đối với việc học vấn của người đang
sinh sống tại miền núi, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số vùng có điều
kiện kinh tế khó khăn và những trường hợp khác do yêu cầu phát triển của
Đảng mà không đảm bảo được quy định chung thì phải thực hiện theo hướng
dẫn của Ban bí thư
- Phải có người giới thiệu vào Đảng cũng phải là Đảng viên chính thức
cùng cộng tác lao động học tập ít nhất 12 tháng với người giới thiệu vào Đảng
cùng một đơn vị lãnh đạo của Đảng bộ. Nếu Đảng viên giới thiệu người vào
Đảng đến Đảng bộ, chi bộ cơ sở khác bị kỷ luật hoặc vì lý do nào đó khơng
thể tiếp tục theo dõi giúp đỡ người khác vào Đảng thì sẽ có chi bộ phân công
Đảng viên khác theo dõi. Với những ai chưa có Đảng viên chưa có chi bộ thì
cấp ủy cấp trên trực tiếp tổ chức cơ sở Đảng giao cho chi bộ có điều kiện
thuân lợi nhất để các Đảng viên tuyên truyền giúp đỡ người vào Đảng
- Lý lịch gia đình : đối với cha, mẹ, vợ, chồng , cha mẹ đẻ, người nuôi
dưỡng và đối với chính bản thân sẽ khơng được kết nạp Đảng nếu như : vi
phạm pháp luật có tiền án chống lại Đảng cộng sản , là người nước ngoài làm
việc cho các trung tâm phá hoại tư tưởng yêu nước,...
- Đối với đạo giáo: phải qua thực tiễn chứng tỏ người xin vào Đảng được
sự tín nhiệm người có đạo hoặc không, được cơ quan thẩm quyền kết luận
người xin vào Đảng khơng vi phạm lịch sử chính trị và chính trị hiện nay
Đường lối và chủ trương của Đảng giải quyết các vấn đế xã hội?
Các vấn đề xã hội bao gồm nhiều lĩnh vực như: giải quyết việc làm, thu nhập,
bình đẳng xã hội, khuyến khích làm giàu, xố đói giảm nghèo, chăm sóc sức
khoẻ, cung ứng dịch vụ công, an sinh xã hội, cứu trợ xã hội, chính sách dân số
và kế hoạch hố gia đình, V.V..
1. Thời kỳ trước đổi mới
a.) Chủ trương của Đảng về giải quyết các vấn đề xã hội
Giai đoạn 1945 - 1954: Sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến
chống Pháp, chính sách xã hội của Đảng được thực hiện theo tinh thần:
Làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân
có học hành. Và với chủ trương: làm cho người nghèo thì đủ ăn, ngươi đủ ăn
thì khá giàu, người khá giàu thì giàu thêm. Chủ trương này đã nhanh chóng đi
vào cuộc sống và đạt được những hiệu quả thiết thực.
Các vấn đề xã hội trong giai đoạn này giải quyết trong điều kiện xây dựng
Nhà nước dân chủ nhân dân. Chính phủ có chủ trương và hướng dẫn để các
tầng lớp nhân dân chủ động và tự tổ chức giải quyết các vấn đề xã hội của
chính mình; chính sách tăng gia sản xuất (tự túc, tự cấp), chủ trương tiết kiệm,
khuyến khích mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần xã hội phát triển kinh tế.
Thực hiện chính sách điều hồ lợi ích giữa chủ và thợ.
- Giai đoạn 1954 - 1975: Các vấn đề xã hội được giải quyết theo mơ hình
xây dựng chủ nghĩa xã hội theo đường lối cũ, trong hoàn cảnh đất nước có
chiến tranh. Chế độ phân phối về thực chất là theo chủ nghĩa bình quân. Nhà
nước và tập thể đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội, bằng chế độ bao cấp và
dựa vào viện trợ của nước ngoài.
- Giai đoạn 1975 - 1985: Các vấn đề xã hội được giải quyết theo cơ chế kế
hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp, trong hoàn cảnh đất nước lâm vào
khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, nguồn viện trợ giảm dần, đất
nước bị bao vây, cô lập và cấm vận.
a)
Đánh giá việc thực hiện đường lối
Chính sách xã hội trong 9 năm "kháng chiến, kiến quốc", tiếp đó là thời kỳ
thực hiện cơ chế quản lý tập trung quan liêu, hành chính, bao cấp
(1954 - 1985), tuy có nhiều hạn chế nhưng đã bao hàm được sự ổn định
của xã hội, đồng thời đạt được thành tựu phát triển đáng tự hào trên
một số lĩnh vực: Văn hóa, giáo dục, y tế, lối sống, đạo đức kỷ cương và an
ninh xã hội, hoàn thành nghĩa vu hậu phương lớn đổi mới tiền tuyến lớn.
Những thành tựu đó nói lên bản chất tốt đẹp của chế độ mới – chế độ xã
hội chủ n sự lãnh (lạo đụng đan của Đảng, giải •lut I .H V. n i!ồ xã hội
trong điều kiện chiến tranh kéo dài, kinh tế chậm phát triển.
b)
Hạn chế và nguyên nhân
Trong xã hội đã hình thành tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập
thể trong cách giải quyết, các vấn đề xã hội; chế độ phân phối trên thực
tế là bình quân - cào bằng, khơng khun khích được những đơn vị
và cá nhân làm tốt, làm giỏi: đã hình thành nên một xã hội đóng, ổn định
nhưng kém năng động chậm phát triển về mọi mặt.
Nguyên nhân cơ bản của hạn chế trển là do chúng ta đặt chưa đúng tầm chính
sách xã hội trong quan hệ với các chính sách thuộc các lĩnh vực khác, đồng
thời lại áp dụng và duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập
trung quan lieu bao cấp.
2.Trong thời kỳ đổi mới
a)
Quá trình đổi mới nhận thức về giải quyết các vấn đề xã hội
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), lần đầu tiên Đảng ta
nâng các vấn đế xã hội lên tầm chính sách xã hội. Giải quyết tốt mối quan
hệ giữa chính sách xã hội với chính sách kinh tế và chính sách ở các lĩnh vực
khác. Đại hội VI cho rằng, trình độ phát triển kinh tế là điều kiện vật chất để
thực hiện chính sách xã hội, nhưng những mục tiêu xã hội lại là mục đích của
cầc hoạt động kinh tế. Do đó, cẩn có chính sách xã hội cơ bản, lâu dài phù
hợp với yêu cầu, khả năng trong chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ.
Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế là
đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người. Phát triển kinh tế là cơ
sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, đồng thời thực hiện tốt các
chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế
Đại hội VllI của Đảng (tháng 6-1996) nêu rõ hệ thống chính sách xã hội phải
được hoạch định theo những quan điểm sau:
- Tăng trưởng kinh tế phải gấn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay
trong từng bước và trong suốt q trình phát triển. Cơng bằng xã hội phải thể
hiện cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả
sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người đều có cơ hội phát triển và sử
dụng tốt năng lực của mình.
-
Thực hiện nhiều hình thức phân phối.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đơi với tích cực xố đói, giảm
nghèo.
Các vấn đề chính sách xã hội phải được giải quyết theo tinh thần xã
hội hoá. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân,
các doanh nghiệp, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải
quyết những vấn đề xã hội.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (tháng 4-2001) chủ trương
các chính sách xã hội phải hướng vào phát triển và làm lành mạnh hoá xã hội,
thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản
xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ
xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp.
Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) chủ trương phải kêt hợp các mục tiêu
kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, ở từng lĩnh vực, địa
phương. Chính sách xã hội vì hạnh phúc con người. Phương hướng lớn của
chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm cơng
bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết hợp tốt tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ, công bầng xã hội trong từng bước và từng chính sách phát
triển; giữa đời sống vật chất với đời sống tinh thần: giữa đáp ứng các nhu cầu
trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cơng bằng
xã hội. Chính sách xã hội được thực hiện trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó
hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, giữa cống hiến và hưởng thụ. Đồng thời
quan điểm coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát
triển con ngưòi (HDI) và chỉ tiêu phát triển các lĩnh vực xã hội.
b)
Chủtrương giải quyết các vấn đề xã hội
Một là, khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện có
hiệu quả các chính sách xố đói giảm nghèo.
Hai là, xây dựng, hồn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm cung ứng dịch vụ
cơng cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, tạo
việc làm và thu nhập, chăm sóc sức khỏe cộng đồng văn hóa thơng tin, thể
dục thể thao. Xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa dạng, phát triển mạnh hệ
thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, tiến tới bảo hiếm y tế toàn dân. Đa dạng
hóa các loại hình cứu trợ xã hội..., Tiếp tục đổi mới chính sách tiền lương,
chính sách phân phối thu nhập.
Ba là, phát triển hệ thống y tế công bằng và hiệu quả, bảo đảm mọi người dân
đều được chăm sóc và bảo vệ sức khỏe.
Bốn là, xây dựng chiến lược quốc gia về nâng cao sức khoẻ, tầm vóc con
người Việt Nam, tăng tuổi thọ và cải thiện chất lượng giống nòi.
Năm là, thực hiện tốt các chính sách dân số và kế hoạch hố gia đình.
Sáu là, chú trọng chính sách ưu đãi xã hội. Vận động toàn dân tham gia các
hoạt động "đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn" đối với các lão thành
cách mạng, với những người có cơng với nước, người hưởng chỉnh sách xã
hội. Chăm sóc lối sống vật chất và tinh thần của người già, nhất là những
người già cô dơn không nơi nương tựa. Giúp đỡ nạn nhân chất độc da cam,
người tàn tật, trẻ mồ côi, lang thang.
Bảy là, đổi mới cơ chế quản lý và phương thức cung ứng các dịch vụ công
cộng phát triển về quy mô gắn với chất lượng và hiệu quả các dịch vụ công
cộng, nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước.
c)
Kết quả thực hiện đường lối đổi mới chính sách xã hội
Sau hơn 20 năm đổi mới chính sách xã hội, nhận thức về vấn đề phát triển xã
hội của Đảng và nhân dân ta đã có những thay đổi:
- Từ tâm lý thụ động, ỷ lại vào Nhà nước và tập thể, trông chờ sự viện trợ đã
chuyển sang tính năng động, chủ động và tính tích cực xã hội của tất cá các
tầng lớp dân cư.
- Từ chỗ đề cao quá mức lợi ích của tập thể một cách chung chung, trừu
tượng: thi hành chế độ phân phối theo lao động trên danh nghĩa nhưng thực tế
là bình quân - cào bằng đã từng bước chuyển sang thực hiện phân phối chủ
yếu theo kết quả lao dộng và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức
đóng góp các nguồn lực khác vào sản xuất - kinh doanh và thông qua phúc lợi
xã hội. Nhờ vậy công bằng xã hội được thế hiện ngày càng rõ hơn.
- Từ chỗ không đặt đúng tầm quan trọng của chính sách xã hội trong mối
quan hệ tương tác với chính sách kinh tế, đã đi đến thống nhất chính sách
kinh tế với chính sách xã hội.
- Từ chỗ Nhà nước bao cấp toàn bộ trong việc giải quyết việc làm đã dần
dần chuyển trọng tâm sang thiết lập cơ chế, chính sách để các thành phần kinh
tế và người lao động đều tham gia tạo việc làm.
Từ chỗ khơng chấp nhận có sự phân hố giàu - nghèo đã đi đến khuyến
khích mọi người làm giàu hợp pháp đi đơi với liên tục xố đói, giảm nghèo,
coi việc một bộ phận dân cư giàu trước là cần thiết cho sự phát triển.
Từ chỗ muốn nhanh chóng xây dựng một cơ cấu xã hội "thuần nhất" chỉ
cịn có giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức đã đi đến
quan niệm cần thiết xây dựng một cộng đồng xã hội đa dạng, trong đó giai
cấp, các tầng lớp dân cư đề có nghĩa vụ quyền lợi chính đáng, đồn kết chặt
chẽ, góp phần xây dựng nước Việt Nam giàu mạnh.
Qua hơn 20 năm đổi mới, lĩnh vực phát triển xã hội đạt nhiều thành tựu:
- Tính năng động xã hội khác hẳn thời bao cấp. Một xã hội đang dần dần
hình thành với những con người khơng chờ bao cấp, dám nghĩ, dám chịu trách
nhiệm. Khơng chấp nhận đói nghèo, lạc hậu, biết làm giàu, biết cạnh tranh và
hành động vì cộng đồng, vì Tổ quốc.
Cách thức quản lý xã hội dân chủ, cởi mở hơn, đề cao pháp luật hơn.
Đã coi phát triển giáo dục và đào tạo, cùng khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền
vững.
Có cố gắng thực hiện cơng bằng xã hội trong giáo dục, trong chăm sóc
sức khoẻ nhân dân, tạo điều kiện để ai cũng được học hành, có chính sách trợ
cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo.
d)
Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế
Áp lực gia tăng dân số vẫn còn lớn. Chất lượng dân số còn thấp đang là
cản trở lớn đối với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế
quốc tế. Vấn dề việc làm rất bức xúc và nan giải.
- Sự phân hoá giàu - nghèo và bất công xã hội tiếp tục gia tăng đáng lo ngại.
- Tệ nạn xã hội gia tăng và diễn biến phức tạp, gây thiệt hại lớn về kinh tế và
an sinh xã hội.
- Môi trường sinh thái tiếp tục bị ô nhiễm; tài nguyên bị khai thác bừa bãi
và tàn phá.
- Hệ thống giáo dục, y tế lạc hậu, xuống cấp, có nhiều bất cập, an sinh xã
hội chưa được bảo đảm.
Nguyên nhân của những hạn chế nêu trên là do:
- Tăng trưởng kinh tế vẫn tách rời mục tiêu và chính sách xã hội, chạy theo
số lượng, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triền bền vững xã hội.
- Quản lý xã hội cịn nhiều bất cập, khơng theo kịp sự phát triển kinh tế - xã
hội.
Thực trạng tham nhũng tham ô hiện nay ở nước ta ? cách giải quyết
như ơng Nguyễn Phú Trọng có đúng hay khộng ? hay phải làm như thế
nào?
Tình trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay:
Tham nhũng đang là vấn đề vô cùng nhức nhối trong xã hội.Nhận thức
được sự nghiêm trọng và tính chất đặc biệt của nạn tham nhũng, từ rất sớm và
trong suốt q trình lãnh đạo cơng cuộc đổi mới, Đảng và nhà nước ta đã đặt
ra nhiều chủ trương, biện pháp nhằm ngăn chặn bài trừ tham nhũng. Tuy
nhiên, thực trạng tham nhũng hiện nay diễn biến một cách hết sức phức tạp
mà khó lường, trên nhiều lĩnh vực và có xu hướng tăng về quy mơ, tính chất
ngày càng nghiêm trọng, thể hiện số tài sản của nhà nước bị chiếm đoạt, thất
thoát và lãng phí ngày càng lớn. Địi hỏi những người trong cuộc chiến chống
tham nhũng phải hết sức tỉnh táo, khách quan và phải có tinh thần thép trước
những cám dỗ của tham nhũng.
Các dạng của tham nhũng:
Dựa vào hình thức tham nhũng được chia thành nhiều dạng khác nhau và có
những cách gọi khác nhau:
Tham ơ: là hành vi lợi dụng quyền hành để lấy cắp của công
Hối lộ là hành vi đưa tiền, hoặc vật phẩm có giá trị, hoặc những thứ khác
khiến cho người nhận cảm thấy hài lịng, để mong muốn người nhận giúp đỡ
mình thực hiện hành vi trái pháp luật.
Đặc điểm của tham nhũng:
Người tham nhũng là người có chức vụ quyền hạn, hay có trách nhiệm trong
một cơ quan quản lý của nhà nước của đảng, các cơ quan hành chính sự
nghiệp có quyền lực về chính trị, hay các tổ chức kinh tế tư nhân.
Hành vi tham nhũng được thể hiện bằng cách: người thực hiện hành vi tham
nhũng lợi dụng chức vụ, quyền lực, lợi dụng nhiệm vụ, trọng trách cũng như
vị trí, địa vị cơng tác mà mình được giao phó để không làm hoặc làm trái với
những nguyên tắc quản lý Nhà nước, trái với nội dung công việc được giao,
gây thiệt hại đến lợi ích chung của Nhà nước, xã hội, các tổ chức….
VD: Vụ án Trương văn Cam và đồng bọn có liên quan đến rất nhiều quan
chức trong ngành tư pháp từ trung ương đến địa phương, có đến 155 bị can
trong đó có 21 người nguyên là cán bộ công chức nhà nước và cơ quan bảo vệ
pháp
luật;
17
đảng
viên
Đảng
Cộng
sản
Việt
Nam
Ngồi ra theo Điều 3 Luật phịng chống tham nhũng thì những hành vi sau
đây là tham nhũng:
•
Tham ơ tài sản.
•
Nhận hối lộ.
•
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản.
•
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì
vụ lợi.
•
Lạm quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
•
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng với người khác để trục
lợi.
•
Giả mạo trong cơng tác vì vụ lợi.
•
Đưa hối lộ, môi giới hối lộ được thực hiện bởi người có chức vụ, quyền
hạn để giải quyết cơng việc của cơ quan, tổ chức, đơn vị hoặc địa phương vì
vụ lợi.
•
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản của Nhà nước vì
vụ lợi.
•
Nhũng nhiễu vì vụ lợi.
•
Khơng thực hiện nhiệm vụ, cơng vụ vì vụ lợi.
•
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để bao che cho người có hành vi vi phạm
pháp luật vì vụ lợi; cản trở, can thiệp trái pháp luật vào việc kiểm tra, thanh
tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án vì vụ lợi..
Thực trạng tham nhũng ở việt nam:
Tình trạng tham nhũng ở nước ta vẫn đang diễn biến phức tạp và trầm trọng
hơn. Số tài sản thâm hụt do tham nhũng là rất lớn nhưng khi thu hồi lại thì nó
đã bị “bóc khói” khá nhiều. Điều này làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến ngân
sách nhà nước và nền kinh tế của nước ta. Nếu tình trạng này cứ kéo dài thì
đất nước ta rất khó để phát triển tồn diện. Tham nhũng sẽ trở thành “chiếc
gơng” kìm chặt sự phát triển của đất nước.
•
Trong lĩnh vực quản lý, sửdụng đất đai, tài nguyên, khoángsản: tham
nhũng chủ yếu diễn ra trong việc quy hoạch; chuyển đổi mục đích sử dụng
đất, thu hồi đất… Một số đối tượng đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để giao
đất không đúng thẩm quyền; lập hồ sơ khống hoặc khai tăng diện tích đất khi
đền bù.
VD: vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ xảy ra tại dự
án phát triển cơ sở hạ tầng đơ thị Bắc Thăng Long - Vân Trì, Hà Nội, thiệt hại
ước tính khoảng 14 tỷ đồng.
•
Trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng: nổi lên tình trạng tham nhũng, tiêu
cực của một bộ phận cán bộ trong ngành ngân hàng, nhất là các ngân hàng
thương mại hoặc cán bộ trong ngành ngân hàng tiếp tay, móc nối với các đối
tượng bên ngồi thơng qua các hoạt động cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài
chính, đầu tư tài chính, ủy thác cho vay, ủy tác đầu tư… để chiếm đoạt tài sản,
gây thất thoát lớn.
VD: Dương Thanh Cường và đồng phạm trong vụ đại án gây thất thoát 966 tỉ
đồng (gần 1.000 tỷ đồng) xảy ra tại Ngân hàng nông nghiệp và phát triển
nông thôn chi nhánh 6 (Agribank CN6 tại TP. HCM).
•
Trong cơng tác cán bộ: dư luận về tình trạng “chạy chức, chạy quyền,
chạy cơng chức” vẫn cịn nặng nề, nhưng trong trong việc phát hiện và xử lí
thì chưa đáng kể. Dư luận nói nhiều đến hiện tượng một số cán bộ tiến thân
bằng con đường chạy chọt, nịnh bợ cấp trên (tìm hiểu sở thích, nhu cầu cá
nhân của cấp trên và gia đình họ để tìm cách đáp ứng; sẵn sàng biếu cấp trên
những món quà có giá trị lớn như nhà ở, đất ở, cổ phần trong các dự án, công
ty...). Nhiều người nói rằng, hiện nay mọi thứ đều “có giá”, từ việc tuyển
dụng, phân công công việc đến bổ nhiệm, đề bạt, khen thưởng, kỷ luật cán bộ.
VD: Vụ sai phạm trong điều động và bổ nhiệm cán bộ, luân phiên cán bộ, ban
cán sự Đảng Bộ Công Thương đã thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, chỉ
đạo, vi phạm các quy định của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ. Cụ thể đã
tiếp nhận, điều động, bổ nhiệm Trịnh Xuân Thanh và một số cán bộ vi phạm
nguyên tắc, quy trình, thủ tục, tiêu chuẩn, điều kiện. Vi phạm Quyết định
83/2004 của Bộ Nội vụ và Quyết định 81-QĐ/BCS của ban cán sự Đảng Bộ
Công Thương trong việc bổ nhiệm Trịnh Xn Thanh giữ chức phó chánh
Văn phịng, trưởng Văn phòng Bộ tại Đà Nẵng, chánh văn phòng ban cán sự
Đảng, vụ trưởng, thường trực Ban Đổi mới và Phát triển doanh nghiệp. Đánh
giá, quy hoạch cán bộ một số trường hợp khơng đúng quy trình, để ơng Vũ
Huy Hồng, Bí thư ban cán sự Đảng, tự ý đề nghị phê duyệt bổ sung quy
hoạch chức danh thứ trưởng Bộ Công Thương đối với Trịnh Xuân Thanh và
một số trường hợp khác. Mặc dù biết Trịnh Xuân Thanh có sai phạm, khơng
đủ tiêu chuẩn nhưng vẫn đồng ý với đề nghị của Tỉnh ủy Hậu Giang trong
việc thuyên chuyển Trịnh Xuân Thanh để bổ nhiệm chức vụ phó chủ tịch
UBND tỉnh Hậu Giang... Vi phạm Luật Phòng, chống tham nhũng và Luật
Doanh nghiệp trong việc bổ nhiệm ông Vũ Quang Hải (con trai Bộ trưởng Vũ
Huy Hoàng) làm kiểm sốt viên Tổng Cơng ty Thuốc lá Việt Nam (Vinataba);
điều động, đề cử tham gia HĐQT và giữ chức phó tổng giám đốc Tổng Cơng
ty Cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Sài Gịn (Sabeco).
•
Trong lĩnh vực tư pháp: hành vi tham nhũng chủ yếu là cán bộ tư pháp
lợi dụng chức vụ, quyền hạn để nhận hối lộ nhằm bỏ lọt hoặc giảm nhẹ tội
phạm trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án.
VD: Vụ án Trương Văn Cam: Đầu năm 1995, Năm Cam phát hiện đang bị
Công an điều tra về hoạt động tội phạm của mình, nên rất lo sợ và tìm cách lo
chạy các cơ quan pháp luật để giảm thoát tội. Năm Cam đã ra Hà Nội nhờ
Nguyễn Văn Thắng (Thắng Tài Dậu) dẫn đến nhà Trần Văn Thuyết lo chạy
giúp (vì biết Thuyết quen biết nhiều cơng chức pháp luật và nhà báo), Thuyết
hướng dẫn Năm Cam đến nhà Cao Huy Phước (Cơng an hưu trí) ở 111 Hàng
Bơng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. Tại đây, Thuyết đặt vấn đề nhờ ông Phước
chuyển đơn kêu oan của Năm Cam đến Bộ trưởng Bộ Nội vụ, ông Phước
đồng ý. Năm Cam đã đưa cho Trần Văn Thuyết 10.000 USD để lo chạy tội.
Thuyết nhờ Nguyễn Thập Nhất (Trưởng phòng Kiểm sát giam giữ Viện Kiểm
sát Nhân dân Hà Nội) thảo đơn và sắp xếp trình tự gửi các cơ quan bảo vệ
pháp luật và cơ quan công luận, gửi qua đường bưu điện đến các nơi cần thiết.
Thuyết đã đưa hối lộ cho quan chức, nhà báo bằng tiền và hiện vật có giá trị
cao (như đồng hồ Rolex...) nhằm chạy tội cho Năm Cam.
Ngồi những lĩnh vực trên, tình trạng nhũng nhiễu cịn khá phổ biến trong
quan hệ giữa cơ quan nhà nước và công chức nhà nước với người dân và
doanh nghiệp, giữa nhân viên các cơ sở dịch vụ công với khách hàng, người
dân, như: cảnh sát giao thông, cán bộ thuế, các cơ quan cấp phép, cơ sở khám,
chữa bệnh, các trường học… gây bức xúc trong dư luận xã hội.
Tóm lại, tình hình tham nhũng ở Việt Nam là nghiêm trọng, với những biểu
hiện vừa tinh vi, phức tạp, vừa trắng trợn, lộ liễu, xảy ra trên nhiều lĩnh vực,
nhiều cấp, nhiều ngành, và ngày càng phổ biến phổ biến. Trước đây, tham
nhũng chủ yếu xảy ra trong các lĩnh vực kinh tế, nhưng ngày nay đã lan sang
các lĩnh vực vốn được coi trọng về đạo lý như giáo dục, y tế, thực hiện chính
sách xã hội, nhân đạo, từ thiện, phòng, chống dịch bệnh… Tham nhũng còn
len lói ngay trong chính các cơ quan bảo vệ pháp luật, những cơ quan cầm
cân, nảy mực, đại diện cho công lý và công bằng xã hội, như: Công an, Viện
kiểm sát, Tòa án... Những trường hợp thanh tra viên, điều tra viên, kiểm sát
viên, thẩm phán tòa án nhận hối lộ đã xuất hiện ở nhiều nơi.
Khơng ít cán bộ, công chức và người dân coi việc hối lộ cho công chức và
việc công chức nhận hối lộ khi giải quyết cơng việc là chuyện bình thường.
Số đối tượng tham nhũng là cán bộ, cơng chức, viên chức có chức vụ thấp
hoặc khơng có chức vụ lãnh đạo, quản lý, như: nhân viên cảnh sát, thuế vụ,
bác sỹ, y tá v.v... chiếm tỷ lệ khá cao; trong khi ở nhiều nước khác, đối tượng
tham nhũng chủ yếu là các chính khách, các quan chức và doanh nhân.
Ảnh hưởng:
Tham nhũng là một thách thức mang tính tồn cầu – đó là một nhận định
được cả thế giới thừa nhận. Bởi tham nhũng là một trong những trở ngại lớn
nhất đối với tăng trưởng và giảm đói nghèo. Ở Việt Nam, tham nhũng cũng đã
được nhận thức khá sâu sắc rằng đó là một trở lực nghiêm trọng đối với chiến
lược phát triển quốc gia, bởi nó làm suy giảm hiệu quả quản lý nhà nước, xói
mịn ngun tắc pháp quyền, cản trở tăng trưởng kinh tế và những nỗ lực xố
đói giảm nghèo.
Ảnh hưởng nói chung trên các phương diện:
Đối với chính trị: Làm xói mịn lịng tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước.
Làm cho chế độ chính trị bị suy yếu từ bên trong tạo điều kiện cho các thế lực
thù địch chống phá nhà nước, dẫn đến nguy cơ sụp đổ nếu không được chấn
chỉnh kịp thời.
Đối với kinh tế: Tham nhũng là hành vi gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự
phát triển bền vững của Đất nước. Đặt biệt là đối với các nước đang phát triển
như Việt Nam. Nó làm cho kinh tế chậm phát triển, thất thốt, lãng phí tài sản
của nhân dân, thiệt hại ngân sách Nhà nước, gây rối loạn kinh tế. Vì lợi ích cá
nhân mà những kẻ tham nhũng sẵn sàng nhập cả một dây chuyền sản xuất đã
lạc hậu hay một con tàu mục về chỉ có thể bán sắt vụn, những cơng trình xây
dựng chưa sử dụng đã hư hỏng...
Đối với xã hội: Làm gia tăng khoảng cách giàu nghèo và bất bình đẳng trong
xã hội. Tình trạng nghèo đói diễn ra trầm trọng hơn. Làm xấu đi hình ảnh
nước ta trên trường quốc tế.
Như đã nói trên, tham nhũng khơng chỉ xuất hiện trong các lĩnh vực kinh tế
mà còn hiện ở nhiều ngành nghề khác nhau và xuất hiện ngay cả trong cơ
quan công quyền nhà nước. Ảnh hưởng trực tiếp không chỉ về lợi ích kinh tế
mà cịn ảnh hưởng nghiêm trọng đến chính trị và tồn xã hội. Khơng ích
những vấn đề nổi cộm, bức xúc như: bao che, để lọt người lọt tội, chạy tội,
chạy chức chạy quyền…….mà cụ thể là:
Trong lĩnh vực tư pháp, tham nhũng làm cho cán cân công lý bị lệch, gây ra
những bản án oan sai cho những người vơ tội mà khơng gì có thể bù đắp được
về tinh thần, thể xác và cả những người thân trong gia đình của họ hay làm
cho những kẻ đã gây thiệt hại về lợi ích kinh tế và xã hội lọt qua khỏi gông
xiềng pháp luật, tiếp tục thực hiện những hành vi gian dối phi pháp, để rồi
mang lại những bi kịch cho nhiều gia đình. Tham nhũng đã lấy đi sự công
bằng dân chủ, lấy đi niềm tin của nhân dân vào công lý mà Đảng ln hướng
đến đó là “Xã Hội Cơng Bằng Dân Chủ Văn Minh”
Trong lĩnh vực quản lý vốn và sử dụng tài sản của nhà nước, tham nhũng làm
thất thoát ngân sách nhà nước lên đến hàng chục tỷ đồng. Việt Nam là nước
đang phát triển, chính vì vậy việc hao hụt một khoảng ngân sách lớn do tham
nhũng gây đang làm ảnh hưởng đến người dân, làm nợ công tăng cao, chính
sách xóa đói giảm nghèo của nhà nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Vinashin
từng được coi là con rồng biển đông, từng là niềm tự hào to lớn của Đảng và
nước ta, vậy mà chỉ vì đặt lợi ích cá nhân lên hàng đầu, đã làm giảm đi uy
tính của doanh nghiệp nhà nước, làm mất uy tính của nhà nước Việt Nam trên
trường quốc tế, Hàng nghìn tỷ đồng ngân sách nhà nước cũng vì thế đã trôi ra
biển đông vĩnh viễn.
Trong lĩnh vực công tác cán bộ, tham nhũng đã làm mất lòng tin của người
dân vào bộ máy hành chính nhà nước. Xâm phạm, thậm chí làm thay đổi, đảo
lộn những chuẩn mực đạo đức xã hội, tha hố đội ngũ cán bộ, cơng chức nhà
nước, khơng cịn làm việc vì mục đích phục vụ nhân dân mà hướng tới việc
thu được các lợi ích bất chính, bất chấp việc vi phạm pháp luật, làm trái công
vụ, trái lương tâm, đạo đức nghề nghiệp. Đáng chú ý, tham nhũng xuất hiện
ngay cả những người đảng viên có tư tưởng chính trị vững mạnh rõ ràng và
tinh thần thép, qua đó cho ta thấy, tham nhũng đã làm suy thoái đạo đức của
một bộ phận đảng viên, làm phai mờ đi câu nói “Đảng viên đi trước làng nước
theo sau”.Ảnh hưởng xấu của tham nhũng xuất hiện trong bộ phận cán bộ
công chức nhà nước đã làm cơng tác hành chính giấy tờ gặp phải nhiều vướng
mắt bất cập, không được giải quyết, khiến cho nhân dân bất bình phản ánh.
Đó là điển hình một số ảnh hưởng của tệ nạn tham nhũng trên các ngành
nghề khác nhau, tham nhũng như một loại virut đang lây lan khắp các lĩnh
vực khơng chỉ trong các lĩnh vực nói trên mà cịn trong cả ngành giáo dục,
ngành an ninh quốc phòng trật tự xã hội. Mà nguyên nhân sâu xa, xuất phát từ
tình hình kinh tế hiện nay đang diễn biến phức tạp, đời sống người cán bộ,
đảng viên chưa được nâng cao nếu khơng có tinh thần chính trị vừng vàng,
suy nghĩ sáng suốt, thì dễ dàng mang nặng chủ nghĩa nghĩa cá nhân, việc gì
cũng nghĩ đến lợi ích của riêng mình.
Giải pháp:
1 - Nâng cao vai trị, trách nhiệm của các cấp ủy, tổ chức Đảng, chính quyền,
người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị trong phòng chống tham nhũng, lãng
phí. Nâng cao vai trị, trách nhiệm, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở Đảng,
tính tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên. Cơ quan Kiểm tra của
Đảng phối hợp chặt chẽ với các cơ quan có chức năng phịng chống tham
nhũng của Nhà nước để kiểm tra, giám sát, phát hiện, xử lý kịp thời và công
khai kết quả xử lý tổ chức, cán bộ, đảng viên có vi phạm.
2 - Tiếp tục hồn thiện thể chế về quản lý kinh tế - xã hội để phịng chống
tham nhũng, lãng phí. Sớm sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai và pháp luật liên
quan đến quản lý, sử dụng đất đai, tài nguyên, khoáng sản. Hồn thiện các
quy định để quản lý, kiểm sốt chặt chẽ việc thu, chi ngân sách; việc chi tiêu
công, nhất là mua sắm và đầu tư cơng. Hồn thiện thể chế quản lý doanh
nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp có vốn của Nhà nước. Hồn thiện cơ chế,
chính sách để kiểm sốt chặt chẽ hoạt động tín dụng, đầu tư xây dựng.
3 - Tiếp tục hoàn thiện và thực hiện nghiêm cơ chế, chính sách về cơng tác tổ
chức, cán bộ để phịng chống tham nhũng, lãng phí. Thực hiện dân chủ, công
khai, minh bạch trong công tác cán bộ, nhất là trong các khâu tuyển dụng, quy
hoạch, bổ nhiệm, điều động, luân chuyển, đánh giá, khen thưởng, kỷ luật…
Có quy định cụ thể để điều chuyển, thay thế những cán bộ lãnh đạo, quản lý
có nhiều dư luận, biểu hiện tham nhũng, lãng phí, uy tín giảm sút, khơng đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Nghiên cứu ban hành quy định về kiểm sốt thu nhập
của người có chức vụ, quyền hạn. Từng bước thực hiện chế độ tiền lương theo
hướng bảo đảm cho cán bộ, công chức, viên chức có nguồn thu nhập chủ yếu
bằng lương, sống bằng lương và có mức sống khá trong xã hội.
4 - Tiếp tục hồn thiện thể chế và tăng cường cơng tác kiểm tra, thanh tra,
kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử để nâng cao hiệu quả cơng tác phịng
chống tham nhũng, lãng phí. Đẩy nhanh tiến độ xử lý các vụ việc tham nhũng,
lãng phí nghiêm trọng, phức tạp mà dư luận xã hội quan tâm. Tập trung kiểm
tra, thanh tra, kiểm toán đối với một số lĩnh vực trọng điểm; tăng cường kiểm
tra, giám sát việc thanh tra, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ việc, vụ án
tham nhũng; xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm, gây lãng phí.
5 - Tăng cường vai trò giám sát của cơ quan dân cử và nhân dân trong phòng
chống tham nhũng, lãng phí. Ban hành quy chế về việc nhân dân giám sát tổ
chức Đảng và cán bộ, đảng viên. Có biện pháp bảo vệ an toàn và kịp thời biểu
dương, khen thưởng những cán bộ, đảng viên, người dân dũng cảm tố cáo,
phát hiện hành vi tham nhũng, lãng phí và những tập thể, cá nhân có thành
tích đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí.
6 - Đổi mới, nâng cao năng lực của cơ quan lãnh đạo, chỉ đạo và cơ quan
thường trực, tham mưu về cơng tác phịng chống tham nhũng. Ở Trung ương,
thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phịng chống tham nhũng trực thuộc Bộ
Chính trị, do đồng chí Tổng Bí thư làm Trưởng ban. Lập lại Ban Nội chính
Trung ương là cơ quan tham mưu cho Ban Chấp hành Trung ương, mà trực
tiếp, thường xuyên là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, về chủ trương, chính sách lớn
thuộc lĩnh vực nội chính; đồng thời, là cơ quan thường trực của Ban Chỉ đạo
Trung ương về phịng chống tham nhũng.
Q trình đấu tranh với “nguy cơ” này để bảo vệ sự sống còn của chế độ vẫn
cịn khơng ít thử thách, chơng gai. Chống tham nhũng là cuộc đấu tranh quyết
liệt, lâu dài bền bỉ, là vấn đề hệ trọng liên quan đến sinh mệnh của Đảng và
công cuộc đổi mới; là cuộc đấu tranh giữa tiến bộ với lạc hậu, giữa văn hóa phát triển với phản văn hóa - phản phát triển ở nước ta. Vì vậy, phải huy động
sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của các tầng lớp nhân dân vào
cuộc chiến đấu này. Trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng, cần phải thấm
nhuần và vận dụng sáng tạo tư tưởng, đạo đức Hồ Chí Minh, cần phải coi
cuộc đấu tranh này là công việc “cần làm ngay” và làm thường xuyên của
toàn Đảng, toàn dân, trước hết là các cấp ủy Đảng, chính quyền các cấp, đặc
biệt là cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các đơn vị, phải xây dựng cơ quan
chống tham nhũng thực quyền và đủ mạnh. Và điều không kém phần quan
trọng là phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục sâu rộng trong toàn xã
hội về những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước về vấn đề quan trọng và cấp thiết này, trong đó có luật phịng chống
tham nhũng…
Hướng giải quyết của ơng Nguyễn Phú Trọng :
Từ xa xưa, ông cha ta cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của giặc
"nội xâm". Nó thậm chí còn nguy hiểm hơn cả giặc ngoại đang lâm le ở biên
cương, nó tàn phá cả bộ máy nhà nước thậm chí là cả nền kinh tế, giáo dục,...
mà những người đi trước đã gây dựng nên. Vị vua Lê Thánh Tơng là một vị
vua điển hình cho việc nghiêm trị những giặc "nội xâm" ấy. Ông đã xác định
rằng "Nước trị hay loạn cốt ở trăm quan, được người giỏi thì nước trị, dùng
người xấu thì nước loạn. Các bậc đế vương đời trước sở dĩ hưng được nghiệp
là nhờ dùng người quân tử, bị mất nước là vì dùng kẻ tiểu nhân". Nên cũng đã
sớm ý thức kiến thiết, xây dựng đội ngũ quan lại liêm chính, minh bạch, kỷ
cương để củng cố giang sơn phát triển nước nhà. Đưa thời của ông trở thành
thời kì thịnh vượng nhất trong lịch sử Việt Nam. Các biện pháp phịng chống
tham nhũng của ơng cũng được người đời sau áp dụng học hỏi. Sau đây là
những biện pháp của ông:
Thực hiện chế độ lương bổng và đãi ngộ hợp lý
Xây dựng chế độ thanh tra, giám sát chặt chẽ
Nghiêm trị tội tham nhũng
Đề cao quan lại liêm khiết
Cá nhân phải chịu trách nhiệm về quan lại mà mình bảo cử hoặc
tiến cử
Nhìn về hoạt động của bộ máy chính quyền, những đóng góp của đội ngũ
quan lại, sự hưng trị của triều đại Lê Thành Tông đã thấy được công hiệu của
các chính sách tham ơ, tham nhũng. Sự thành cơng đó được sử sách ghi chép
khá chân thực: “Ngủ đêm mọi nhà khơng đóng cửa, ngồi đường khơng ai
nhặt của rơi”, dân chúng an cư, lạc nghiệp. Nhưng dù có cố gắng đến đâu thì
cơng cuộc ấy vẫn chưa giải quyết triệt để được vấn nạn này và nó vẫn cịn tới
ngày nay thậm chí cịn nghiêm trọng hơn trước đó. Chưa có một quốc gia nào
trên thế giới nói rằng đất nước mình hồn tồn khơng có tham nhũng mà chỉ
có tham nhũng ít hay nhiều mà thơi, một đất nước ít tham nhũng thì sẽ có cơ
hội phát triển nhiều hơn những quốc gia khác. Nắm bắt được điều này, Tổng
Bí Thư Nguyễn Phú Trọng cũng đã đích thân mình đề ra những biện pháp phù
hợp với thực trạng của đất nước để làm giảm bớt nạn giặc này.
"Lị nóng lên rồi thì củi tươi cũng phải cháy"
"Từ nay trở đi, bất cứ trường hợp nào mà vi phạm kỷ luật, chúng ta phải xử lý
nghiêm, làm nghiêm từ trên xuống dưới để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của
Đảng, để lấy lại và củng cố lòng tin và tình thương yêu, quý trọng của nhân
dân”
"Việc xử lý kỷ luật cán bộ có sai phạm, trước nói đánh từ vai đánh xuống,
nhưng giờ đánh trên đầu nhiều hơn", Tổng Bí thư nhấn mạnh và cho rằng các
tỉnh "phải đẩy mạnh hơn nữa việc này, nếu không sẽ mất uy tín"
"Đồn phải coi trọng giáo dục bằng hành động, qua thực tiễn phong trào, lựa
chọn phương thức giáo dục phù hợp với lứa tuổi thanh niên. Đặc biệt, Đoàn
cần định hướng, giáo dục thanh niên có ý thức nhạy bén chính trị, tích cực
đấu tranh ngăn chặn, phản bác những thông tin và luận điệu sai trái, tăng sức
đề kháng cho thanh niên trước sự chống phá, xuyên tạc của các thế lực thù
địch, nhất là trên mạng xã hội; tránh tình trạng "nhạt Đảng", "khơ Đồn", "xa
rời chính trị"".
"Kiên quyết đấu tranh loại bỏ những người tham nhũng, hư hỏng; chống mọi
biểu hiện chạy chức, chạy quyền, ưu ái tuyển dụng người thân, khơng đủ tiêu
chuẩn"
"Tăng cường phịng, chống, phát hiện, xử lý nghiêm các vụ việc tham nhũng,
tiêu cực, vi phạm pháp luật; đẩy nhanh tiến độ điều tra, truy tố, xét xử các vụ
việc nghiêm trọng, xã hội quan tâm; thu hồi tối đa tài sản bị chiếm đoạt, thất
thốt"
“Khơng chỉ kêu gọi suông, giáo dục tư tưởng suông. Phải bằng luật pháp.
Như tơi đã nói là phải “nhốt” quyền lực vào trong lồng cơ chế, luật pháp.
Giao cho anh quyền thì cũng phải có cái roi, cái địn để anh khơng thể, không
dám và không muốn làm. Cử tri cả nước đồng thuận, Quốc hội đồng thuận, thì
Trung ương có điều kiện để làm tốt hơn. Chúng ta phải đi từng bước vững
chắc, theo kinh nghiệm của chúng ta”
Những biện pháp mà Tổng Bí Thư đề ra thật sự phù hợp trong tình hình nước
ta hiện nay. Bác Trọng đã và đang làm cơng cuộc chống giặc này rất tốt. Lị
lửa để đốt những quan tham nhũng của bác đang ngày càng bùng cháy mãnh
liệt đúng như mong muốn của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng "Lị đã nóng
lên rồi thì củi tươi vào cũng phải cháy".Chiếc lị đó đã bắt đầu và sẽ liên tục
thiêu ra tro những củi gộc mối mọt, độc địa. Ngọn lửa nghìn độ đó khơng chỉ
được ni bằng lương tâm, dũng khí mà cịn bằng trí tuệ, tài thao lược bài
bản, có lớp lang của một kẻ sĩ có tâm, có tài, có dũng. Nhờ có chiếc lò và
ngọn lửa hợp lòng dân như vậy nên chưa bao giờ cuộc chiến đấu chống tham
nhũng lại quyết liệt, cơng bằng và có kết quả như lúc này.