Học phần: Lịch sử quan hệ quốc tế cận - hiện đại
ĐỀ TÀI: Sự thiết lập trật tự thế giới theo
Hệ thống Versailles-Washington và những tác động
của trật tự này tới quan hệ quốc tế giai đoạn sau.
Hà Nội, tháng 6 năm 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 3
I. Phần lý luận.........................................................................................................5
1. Bối cảnh ra đời của Hệ thống Versailles – Washington......................................5
2. Hệ thống Hoà ước Versailles (1919 – 1920)...................................................... 6
2.1. Bối cảnh....................................................................................................... 6
2.2. Các phiên họp chính.....................................................................................7
2.3. Hội Quốc liên............................................................................................... 7
2.4. Đối với các nước bại trận............................................................................ 9
2.5. Đối với nước Đức.......................................................................................11
2.6. Một số Hoà ước khác................................................................................. 13
3. Hệ thống Hiệp ước Washington (1921 – 1922)................................................14
3.1. Bối cảnh và nguyên nhân tổ chức.............................................................. 14
3.2. Các hiệp ước được kí kết............................................................................15
3.3. Một số Hiệp ước khác................................................................................ 17
4. Những tác động của trật tự thế giới theo hệ thống Versailles-Washington tới
quan hệ quốc tế giai đoạn sau...............................................................................18
4.1. Các Hội nghị quốc tế về hồ bình, an ninh tập thể và giải trừ quân bị....18
4.2. Vấn đề xoay quanh thực hiện Hoà ước Versailles với Đức.......................21
4.3.Những ảnh hưởng tới quan hệ quốc tế của nước Nga Xô viết....................23
II. Phần liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân..................................................... 24
1. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam................................................................. 24
2. Trách nhiệm của sinh viên Việt Nam............................................................... 25
KẾT LUẬN............................................................................................................ 26
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO............................................................. 28
LỜI MỞ ĐẦU
Khi Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc vào ngày 11/11/1918 cũng chính
là lúc nó mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế, song hậu quả nó để lại đã
gây nên sự thay đổi mạnh mẽ về chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội trên khắp ÁÂu, Châu Phi và thậm chí ở những khu vực bên ngồi những quốc gia có liên quan
trực tiếp. Như ta đã biết, trật tự quan hệ quốc tế được xác lập bởi sự tương quan so
sánh lực lượng thông qua tiềm lực tổng thể của các quốc gia, chủ yếu dựa trên sức
mạnh kinh tế, chính trị và quân sự. Chủ thể nào nắm tiềm lực tổng thể lớn sẽ giữa
vị trí vơ cùng quan trọng trong trật tự đó. Mà cụ thể ở đây, sau Thế chiến I, trật tự
thế giới được thay đổi theo hướng chia nhỏ các lãnh thổ, các đế chế lần lượt bị xóa
bỏ và thay vào đó, các quốc gia mới được hình thành, ranh giới được vẽ lại và các
tổ chức quốc tế được thành lập. Từ đây, quan hệ quốc tế chuyển sang một giai
đoạn mới giải quyết các mâu thuẫn mới nảy sinh giữa hai hệ thống xã hội chủ
nghĩa và tư bản chủ nghĩa, giữa phong trào công nhân với giai cấp tư sản, giữa
phong trào giải phóng dân tộc với chủ nghĩa đế quốc. Sự tranh chấp giữa các nước
đế quốc cũng không kém phần quyết liệt. Tất cả những mâu thuẫn phức tạp và
quan hệ chằng chéo đó chi phối q trình hình thành của Trật tự thế giới Versailles
– Washington. Có thể nói rằng, Hệ thống Versailles – Washington đã lập lại hồ
bình trong một thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn, nhưng cũng trở
thành mầm mống cho những cuộc xung đột quốc tế tương lai do những nước bất
mãn với hệ thống này.
Trong thời đại hiện nay, khi mà thế giới ngày càng phát triển và càng nhiều
quốc gia muốn mở rộng quan hệ quốc tế và hội nhập quốc tế thì việc tối thiểu nhất
như nắm vững hiểu biết về Lịch sử quan hệ quốc tế là rất quan trọng. Qua việc
nghiên cứu, phân tích về Hệ thống Versailles-Washington, chúng ta khơng chỉ nắm
được khái qt tình hình thế giới sau Chiến tranh Thế giới thứ nhất mà còn tiếp thu
3
được những những diễn biến quan trọng trong sự kiện lịch sử mang tầm quốc tế
này và nhận định r quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia, các dân tộc, nhằm nâng
cao nhận thức về sự vận động của cách mạng thế giới và Việt Nam. Chính vì
những lí do nêu trên mà sinh viên đã quyết định chọn “Sự thiết lập trật tự thế
giới theo Hệ thống Versailles-Washington và những tác động của trật tự này tới
quan hệ quốc tế giai đoạn sau” làm đề tài tiểu luận cuối kì của mình.
Sinh viên thực hiện
I. Phần lý luận
1. Bối cảnh ra đời của Hệ thống Versailles – Washington
Khi nói về quan hệ quốc tế giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918 – 1939)
thì khơng thể khơng nhắc đến sự hình thành trật tự thế giới mới sau Chiến tranh thế
giới thứ nhất (1918 – 1929). Hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ nhất đã tạo nên
sự thay đổi mạnh mẽ về chính trị, văn hóa, kinh tế và xã hội trên khắp Á- Âu, Châu
Phi và thậm chí ở những khu vực bên ngồi những quốc gia có liên quan trực tiếp.
Chiến tranh thế giới thứ nhất kết thúc đã mở ra một thời kì mới trong quan
hệ quốc tế vì kết cục của nó đã tác động mạnh mẽ đến tình hình thế giới mà đặc
biệt là đối với châu Âu. Là chiến trường chính nơi diễn ra cuộc chiến tranh, các
cường quốc châu Âu đều bị suy yếu và bị ảnh hưởng. Tuy hai nước là Anh và Pháp
chiến thắng nhưng lại trở thành con nợ của Mỹ khi nền kinh tế bị kiệt quệ sau
chiến tranh. Ba đế quốc rộng lớn bao gồm Nga, Đức, Áo – Hung lần lượt sụp đổ,
trong đó Đế quốc Đức và Áo – Hung bại trận, bị tàn phá nặng nề và những cuộc
cách mạng bùng nổ đã đẩy các nước này vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
Italia là một đồng minh ốm yếu trong chiến tranh cũng bị xâu xé bởi cuộc đấu
tranh gay gắt trong nước và khủng hoảng kinh tế.
Mặt khác, các cường quốc ở ngoài châu Âu như Mỹ và Nhật lại không bị tàn
phá bởi chiến tranh, đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản ở châu
Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt nên ngày càng bất
lợi cho các nước tư bản châu Âu khi vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư
bản chủ nghĩa trước đây. Đồng thời thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm
1917 cũng tạo ra một chuyển biến căn bản của tình hình thế giới. Sự xuất hiện của
Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới đã trở thành một thách thức to lớn
đối với thế giới tư bản chủ nghĩa vì chủ nghĩa tư bản khơng còn tồn tại như một hệ
thống duy nhất thống trị thế giới nữa. Có thể nói thắng lợi của Cách mạng tháng
Mười Nga đã tác động sâu sắc đến sự phát triển của lịch sử nhân loại nói chung và
lịch sử quan hệ quốc tế nói riêng.
Trong chính bối cảnh như vậy, nhằm giải quyết những vấn đề do chiến tranh
đặt ra, các Hội nghị hồ bình được triệu tập. Hệ thống Hồ ước Versailles và sau
đó là Hệ thống Hiệp ước Washington đã được kí kết nhằm tổ chức lại thế giới sau
chiến tranh, phù hợp với tương quan lực lượng mới.
2. Hệ thống Hoà ước Versailles (1919 – 1920)
2.1. Bối cảnh
Những nhà lãnh đạo Đồng minh gặp gỡ ở Hội nghị Hồ bình tại Versailles
(ngoại ô thủ đô Pari của Pháp) hai tháng sau khi chiến tranh kết thúc, vào ngày
18/1/1919 để thảo luận vấn đề dàn xếp hồ bình với các thế lực trung tâm, các thế
lực vốn đã đầu hàng vào mùa thu trước. Mối quan tâm chính của quan đội Đồng
minh là đặt ra một sự dàn xếp với Đức, dẫn đến Hiệp ước Versailles.
Tham dự Hội nghị có hơn một nghìn đại biểu của 27 nước thắng trận. Năm
cường quốc tham gia điều khiển Hội nghị là Tổng thống Mỹ Wilson (Uynxơn),
Thủ tướng Anh Lloyd George (Lôi Giooc) và Thủ tướng Pháp Clémenceau
(Clêmăngxơ). Bên cạnh đó, đại biểu của các nước bại trận cũng có mặt để kí vào
Hồ ước do các nước thắng trận quyết định. Tuy nhiên, nước Nga Xô viết không
được mời tham dự Hội nghị, cũng tức là nước này khơng được đưa vào chương
trình nghị sự. Điều đó thực sự đã trở thành nỗi ám ảnh đối với các nước đế quốc.
Ngay từ trước khi bắt đầu Hội nghị, các nước đế quốc đã thảo luận về vấn đề Nga
và đi đến thống nhất về nguyên tắc là tăng cường can thiệp vũ trang kết hợp với
việc ủng hộ các lực lượng phản cách mạng để tiêu diệt chính quyền Xơ viết. Điển
hình chính là các chiến hạm của Anh, Pháp sẽ tiến vào bờ biển Đen, quân Anh đổ
bộ lên Batum và Nơvơrơtxki, qn Pháp tiến vào Ơđétxa và Xêvaxtôpôn. Đến
tháng 12/1919, quân đội can thiệp của các nước đế quốc ở miền Nam nước Nga đã
lên tới 130.000 tên, ở khu vực Viễn Đông là 150.000 tên, ở phía Bắc là 20.000 tên.
2.2. Các phiên họp chính
Có ba loại phiên họp với những quyền hạn khác nhau trong Hội nghị
Versailles. Đầu tiên là Hội nghị tối cao có quyền quyết định và quyền phủ quyết
các vấn đề quan trọng nhất, bao gồm đại diện của năm cường quốc thăng trận Anh,
Pháp, Mỹ, Italia và Nhật Bản. Dù có đến năm đại diện của các cường quốc như vậy
nhưng trên thực tế, những người đứng đầu của Pháp, Anh, Mỹ đã quyết định những
vấn đề trọng đại.
Thứ hai là phiên họp của các Ủy ban chuyên môn, bao gồm đại biểu các
nước liên quan, chịu trách nhiệm thảo luận các vấn đề đã được Hội nghị tối cao
quyết định. Thứ ba là Hội nghị toàn thể, bao gồm đại biểu của các nước tham dự
Hội nghị nhưng Hội nghị này lại chả có quyền hạn gì ngồi việc biểu quyết thông
qua các quyết định của Hội nghị tối cao.
Qua ba lần có nguy cơ tan vỡ vì bất đồng gay gắt về quyền lợi sau gần nửa
năm tranh cãi, cuối cùng các văn kiện của Hội nghị Versailles được kí kết với 15
phần, gồm 432 điều. Phần I gồm 26 điều nói về Hội Quốc Liên, các phần cịn lại
gồm 406 điều nói về Hồ ước kí với Đức và các nước chiến bại khác.
2.3. Hội Quốc liên
Một trong những vấn đề cơ bản đầu tiên được các nước tham dự Hội nghị
Versailles nhất trí là việc thành lập Hội Quốc liên (League of Nations). Theo văn
kiện đầu tiên được kí kết cùng với Hiến chương của Hội – cơng ước thành lập Hội
Quốc liên thì mục đích của Hội Quốc liên là “khuyến khích sự hợp tác quốc tế,
thực hiện nền hồ bình và an ninh thế giới”. Để thực hiện mục đích đó thì người ta
đã đề ra một số nguyên tắc như: không dùng chiến tranh trong quan hệ giữa các
nước, quan hệ quốc tế phải rành mạch và dựa trên đạo lí, phải thi hành những cam
kết quốc tế,…
Hội Quốc liên được chính thức thành lập ngày 10/1/1920 với 44 nước kí vào
cơng ước sáng lập. Dù được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mỹ Wilson
nhưng Mỹ từ chối không tham gia do những tham vọng của Mỹ đã không được
thực hiện trong Hội nghị Versailles. Hội Quốc liên có ba tổ chức chính: Đại Hội
đồng (gồm tồn bộ các nước thành viên, họp mỗi năm một lần vào tháng 9), Hội
đồng Thường trực (gồm năm uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Italia
nhưng sau này còn mỗi bốn do Mỹ khơng tham gia, ngồi ra cịn một số uỷ viên có
kì hạn, họp mỗi năm ba lần), Ban Thư kí thường trực như một nội các làm việc
hành chính thường xuyên.
Nội dung hoạt động do Hội Quốc liên đề ra à giám sát việc giải trừ quân bị,
tôn trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh
chấp quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện
tự quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với
toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt dưới hai hình thức: bằng biện pháp kinh tế và
tài chính (do tất cả các nước hội viên bắt buộc phải thi hành) và bằng những biện
pháp quân sự. Sự ra đời của Hội Quốc liên, một tổ chức chính trị mang tính quốc tế
đầu tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế thế kỷ XX.
Tuy nhiên, trên thực tế, những hoạt động của Hội Quốc liên là nhằm duy trì
trật tự thế giới mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Versailles.
Các biện pháp vè giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa hình thức vì
Hội Quốc liên khơng có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định của mình.
Những sự kiện diễn ra sau này sẽ cho thấy sự bất lực của Hội Quốc liên trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế.
2.4. Đối với các nước bại trận
Do các nước cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ, tham vọng riêng
trong việc phân chia quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh nên Hội
nghị Versailles kéo dài gần hai năm, diễn ra hết sức gay go, quyết liệt. Nắm quyền
lợi là nước đăng cai Hội nghị, Pháp mong muốn vắt kiệt hoàn toàn nước Đức cả về
quân sự lẫn kinh tế, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của mình ở lục địa
châu Âu. Thế nhưng, Anh và nhất là Mỹ lại chủ trương phải duy trì một nước Đức
tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách mạng đang lên cao ở các nước
châu Âu và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Đó là chính sách “cân bằng lực
lượng” ở châu Âu mà Mỹ rất ủng hộ. Một năm trước khi chiến tranh kết thúc, đầu
năm 1918, Tổng thống Mỹ Wilson đã đưa ra Chương trình 14 điểm với mục đích
lập lại hồ bình và tổ chức lại thế giới theo quan điểm của Mỹ.
Chương trình 14 của Wilson gồm:
1. Hồ ước kí cơng khai (bãi bỏ thương lượng riêng và kín).
2. Hồn tồn tự do đi lại trên biển.
3. Huỷ bỏ những hàng rào kinh tế.
4. Giảm vũ khí các nước đến mức tối thiểu.
5. Giải quyết cơng tâm những vấn đề thuộc địa, chiếu cố các dân tộc bản xứ
và các chính phủ.
6. Rút quân khỏi Nga, để Nga tự chọn lấy Chính phủ.
7. Rút quân khỏi Bỉ, không hạn chế chủ quyền.
8. Rút quân khỏi Pháp và hoàn Andat – Loren lại cho Pháp.
9. Điều chỉnh biên giới Italia theo nguyên tắc dân tộc.
10. Đảm bảo quyền phát triển tự lập cho các dân tộc Áo – Hung.
11. Rút quân khỏi Rumani, Môngtênêgôrô. Mở đường cho Xécbi ra biển.
12.Đảm bảo quyền phát triển tự lập của các dân tộc Thổ, tự do quốc tế vùng eo
biển.
13. Phục hưng Ba Lan độc lập, có đường ra biển.
14. Thành lập “Tổng hội các dân tộc”. 1
Dù Mỹ dùng những lời lẽ bóng bảy, bề ngồi đề cao hồ bình, dân chủ
nhưng rõ ràng rằng Chương trình 14 điểm này đã thể hiện mưu đồ xác lập địa vị
bá chủ thế giới của Mỹ nhằm làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh Anh, Pháp và
Nhật Bản đồng thời tạo cơ hội để Mỹ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra
bên ngoài bằng sức mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ khơng như con
đường bành trướng lãnh thổ của các quốc gia khác. Chương trình này được các
nước coi là nguyên tắc để thảo luận tại Hội nghị Versailles.
Tuy nhiên, khi phe Đồng minh đến Versailles để thành lập một hiệp ước kết
thúc Chiến tranh thế giới lần thứ nhất với Đức và Áo – Hung thì hầu hết các điểm
trong Chương trình 14 điểm của Wilson đã bị Anh và Pháp bác bỏ. Người Anh
phản đối tự do trên biển, người Pháp phản đối bồi thường chiến phí. Lúc này,
Wilson nhận ra rằng Anh, Pháp và Ý chỉ quan tâm đến việc lấy lại những gì mình
đã mất và gom góp thêm lợi ích thơng qua việc trừng phạt nước Đức. Còn người
Đức cũng nhanh chóng nhận thấy rằng kế hoạch hịa bình thế giới của Wilson
khơng thể áp dụng cho họ. Ngồi ra, bất chấp những nỗ lực không biết mệt mỏi
của Wilson trong việc vận động, Thượng viện Mỹ cũng đã không thông qua
chương trình này cùng Hiệp ước Versailles, do những bất đồng giữa chủ nghĩa
bành trướng và chủ nghĩa biệt lập trong nội bộ nước Mỹ, đồng thời cho rằng
Wilson đã q lý tưởng hóa tình hình thực tế 2.
1
Khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao (2017), Học viện Ngoại giao, Tài liệu tham khảo Lịch sử quan hệ quốc tế
cận hiện đại, Hà Nội, tr. 17.
2
Phạm Thuỷ Tiên (2015), Chương trình 14 điểm (Fourteen Points), truy cập 10/6/2021.
Italia và Nhật Bản cũng đưa ra những tham vọng của họ khi mà Nhật đòi
nắm chủ quyền bán đảo Sơn Đông của Trung Quốc thay Đức, dự định chiếm vùng
viễn Đông của nước Nga Xô viết, mở rộng ảnh hưởng khu vực châu Á – Thái Bình
Dương cịn Italia muốn mở rộng lãnh thổ xuống vùng Địa Trung Hải và Bancăng.
Các nước nhỏ như Ba Lan và Rumani cũng có những u cầu mở rộng lãnh thổ của
mình.
2.5. Đối với nước Đức
Hồ ước Versailles với Đức kí ngày 28/6/1919, được coi là văn kiện quan
trọng nhất của hệ thống Hoà ước Versailles, đã quyết định số phận của Đức.
Hoà ước khẳng định Đức bại trận phải chịu trách nhiệm về “tội ác gây chiến
tranh” nên phải trả lại cho Pháp hai tỉnh là Alsace (Andat) và Lorraine (Loren) mà
Pháp cắt nhượng cho Đức trong cuộc chiến tranh Pháp - Phổ 1870 - 1871; nhường
cho Bỉ khu Eupen Malmedy (Ơpên Manmơđi) và Moresnet (Môrêxnet); cắt cho Ba
Lan vùng Pomerania (Pômêrani) và một “hành lang chạy ra biển”; cắt cho Đan
Mạch vùng Bắc Slesvig (Sơlexvít);…Thành phố cảng Dantzig (Đăngdích) nay là
Gdansk (Gơđanxcơ) và và các mỏ than tại Hạt Sarre (Xarơ) sẽ do Hội Quốc Liên
quản trị, và cho phép Pháp khai thác cho đến năm 1935 3. Đồng thời toàn bộ hệ
thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của Hội Quốc liên và được giao
cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí.
Vấn đề phân chia những thuộc địa của Đức là một điểm nóng trong các cuộc
tranh luận ở Hội nghị Versailles. Anh và Pháp âm mưu kí kết một hiệp ước để chia
những vùng đất thuộc dân ở Đức. Do vậy, họ chủ trương sát nhập thuộc địa của
Đức vào hệ thống thuộc địa của mình. Tuy nhiên, Mỹ phản đối ý đồ đó và chủ
trương thực hiện và chế độ ủy trị ở các thuộc địa ở Đức. Sau những cuộc thảo luận
gay gắt, cuối cùng 3 nước: Anh, Pháp, Mỹ đã đi đến quyết định không sát nhập
3
Office of the Historian, MILESTONES: 1914–1920, The Paris Peace Conference and the Treaty of Versailles,
truy cập 10/6/2021.
lãnh thổ của Đức và Thổ Nhĩ Kì vào bất cứ một nước nào, thực hiện chế độ ủy trị
của Hội Quốc Liên đối với hệ thống thuộc địa này. Chế độ uỷ trị là một hình thức
cai trị mới của chủ nghĩa thực dân nhằm đối phó với phong trào giải phóng dân tộc
ở các thuộc địa, nhưng về cơ bản nó khơng làm thay đổi thực chất chế độ thống trị
của chủ nghĩa thực dân.
Hội Quốc liên tiến hành phân định các thuộc địa thành ba loại lãnh thổ uỷ
trị. Loại A: gồm các lãnh thổ Ả Rập thuộc đế quốc Ốttôman trước đây được coi là
lãnh thổ uỷ trị tạm thời. Loại B: gồm các thuộc địa của Đức ở Trung Phi, là lãnh
thổ uỷ trị lâu dài. Loại C: gồm khu vực Tây Nam Phi và một số thuộc địa ở châu Á
– Thái Bình Dương, sẽ do các cường quốc quản thác như một phần lãnh thổ của
họ.
Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất (chỉ được giữ lại một
trăm nghìn bộ binh với vũ khí thơng thường, khơng có qn, khơng có hạm đội tàu
ngầm và thiết giáp hạm). Vùng Tả ngạn sông Ranh và ba đầu cầu vùng Hữu ngạn
sẽ do qn đội Đồng minh đóng trong vịng 15 năm và rút dần quân nếu Đức thi
hành Hoà ước. Vùng Hữu ngạn sông Ranh rộng 50 km sẽ trở thành khu phi quân
sự,…Với Hoà ước này, Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt, gần 1/3
mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích trồng trọt.
Tồn bộ gánh nặng của Hoà ước Versailles đè lên vai nhân dân Đức. Tuy nhiên,
những điều khoản khắt khe của Hệ thống hoà ước Versailles đối với các nước chiến
bại, nhất là Đức, trên thực tế chẳng những đã không thể thực hiện được mà còn làm
tăng thêm tâm lý phục thù của các nước này. Đó là mâu thuẫn nảy sinh ngay từ khi
hệ thống này mới được hình thành. Đồng thời, tham vọng lãnh đạo thế giới của
giới cầm quyền Mỹ cũng chưa được thực hiện. Chính vì thế các nước đế quốc đã
phải tiếp tục giải quyết những bất đồng về quyền lợi tại một hội nghị tiếp theo
– Hội nghị Washington.
2.6. Một số Hoà ước khác
Bên cạnh Hoà ước Versailles kí với Đức, nhiều Hồ ước khác cũng lần lượt
kí kết với các nước bại trận trong hai năm 1919 – 1920.
Với Hồ ước Saint – Germain (Xanh Giécmanh) kí với Áo ngày 10/9/1919
và Hồ ước Trianon (Trianơng) kí với Hunggari ngày 4/6/1920, đế quốc Áo –
Hung trước kia không còn nữa mà bị tách thành hai nước nhỏ: Áo chỉ cịn 6,5 triệu
dân với diện tích 84.000 km2, Hunggari cũng mất 1/3 lãnh thổ trước kia, chỉ còn lại
92.000 km2 với 8 triệu dân 4. Mỗi nước chỉ được quyền có khoảng 30.000 qn và
phải bồi thường chiến phí.
Ngồi ra, số phận hai nước thua trận là Bungari và đế quốc Ốttôman cũng
được quyết định ở bán đảo Bancăng. Với Hồ ước Neuilly (Nơiy) kí với Bungari
ngày 27/9/1919, lãnh thổ Bungari bị thu hẹp lại so với trước kia do phải cắt một số
đất đai ở biên giới phía Tây cho Nam Tư, cắt vùng Thrace (Thơraxơ) cho Hi Lạp
và cắt tỉnh Dobroudja (Đơbrútgia) cho Rumani.
Hồ ước Sevres (Xevrơ) với Thổ Nhĩ Kì kí ngày 11/8/1920 đã chính thức
xáo bỏ sự tồn tại của đế quốc Ốttôman. Ai Cập chịu sự “bảo hộ” của Anh, bán đảo
Aráp được coi là thuộc “phạm vi thế lực” của Anh. Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì
được đặt dưới quyền kiểm sốt của một uỷ ban gồm các đại biểu của Anh, Pháp,
Italia, Nhật Bản.
Tồn bộ những Hồ ước nói trên hợp thành Hệ thống Hồ ước Versailles.
Đây là văn bản chính thức đầu tiên xác định việc phân chia thế giới của chủ nghĩa
đế quốc.
4
Durdselle J.B. Lịch sử ngoại giao (1919 đến nay). Học viện Quan hệ quốc tế, 1994, tr. 15, 16.
3. Hệ thống Hiệp ước Washington (1921 – 1922)
3.1. Bối cảnh và nguyên nhân tổ chức
Ngày 25/8/1921, tức gần hai năm sau, Mỹ đã kí Hồ ước riêng rẽ với Đức và
đưa ra “sáng kiến” triệu tập một Hội nghị quốc tế ở Washington nhằm giải quyết
những vấn đề trong quan hệ quốc tế ở khu vực Viễn Đông – Thái Bình Dương, để
ngăn chặn phong trào độc lập dân tộc đang lên cao và củng cố nền thống trị thực
dân ở khu vực này.
Ngày 12/11/1921, Hội nghị Washington được khai mạc với sự tham gia của
chín nước bao gồm Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung
Quốc. Tuy nhiên, một nước lớn ở khu vực là Nga Xô viết lại không được mời tham
dự Hội nghị. Bốn nước gồm Anh, Pháp, Mĩ, Nhật nắm quyền lãnh đạo Hội nghị
trong tay nhưng quyền quyết định thuộc về Mĩ. Có tất cả ba Hiệp ước đã thể hiện
những Nghị quyết quan trọng nhất của Hội nghị Washington: Hiệp ước 4 nước,
Hiệp ước 9 nước và Hiệp ước 5 nước.
Như đã nói ở trên, hệ thống Hồ ước Versailles đã không làm thảo mãn tất
cả các nước, kể cả các nước thắng trận. Nếu để ý kĩ tình hình thực tế khi đó thì rõ
ràng Anh là nước có nhiều quyền lợi hơn cả, được giữ vững hệ thống thuộc địa và
có mục tiêu là khơng cho một đế quốc nào khác mạnh hơn và qua mặt mình. Pháp
và Nhật cũng giành được một số lợi ích đáng kể. Thế nhưng đáng chú ý hơn cả là
những quyền lợi của Mỹ không được thoả mãn nên Quốc hội Mỹ khơng phê chuẩn
Hồ ước Versailles do Mỹ bất bình trước việc Anh, Pháp làm cho Đức quá suy yếu
về việc Hồ ước Versailles trao vùng Sơn Đơng cho Nhật cũng làm Mỹ lo lắng.
Không chỉ vậy, Mỹ với Nhật cũng có mâu thuẫn về vấn đề Viễn Đơng. Việc
xây dựng kênh đào Panama để thông thương đã làm cho mâu thuẫn Nhật - Mỹ, vốn
có từ lâu trước Thế chiến I, bùng lên. Nhật sở hữu những căn cứ hải quân thuận lợi
để tự do di chuyển, phòng ngừa các cuộc tấn công như ở Đài Loan, quần đảo Lưu
Cầu, đảo Sakhalin....Trong khi đó, Mỹ mới đặt chân vào khu vực Thái Bình Dương
từ năm 1899 và đang tăng cường xây dựng lực lượng và Nhật là một vấn đề khiến
Mỹ vô cùng lo ngại.
Hơn nữa, giữa Anh và Mỹ nảy sinh mâu thuẫn về “Two Power Standard”
(Nguyên tắc sức mạnh gấp đơi). Như đã biết, Anh có ưu thế từ lâu trên Viễn Đông,
nhất là Trung Quốc, nơi người Mỹ thèm khát xâm nhập vào nhưng lúc nào cũng bị
người Anh chặn lại. Bên cạnh đó, với Hồ ước Versailles, Anh đã bảo tồn được
địa vị của mình khiến Mỹ cảm thấy bất bình. Để giải quyết vấn đề này, Mỹ sử
dụng sức mạnh tài chính và đe dọa mối quan hệ Nhật - Anh. Đồng thời, Mỹ nhận
thấy lực lượng hải quân của Anh vô cùng hùng mạnh và mong muốn thay đổi, xóa
bỏ cái gọi là “Ngun tắc sức mạnh gấp đơi” này.
Tóm lại, nhằm giải quyết những mâu thuẫn và các vấn đề trong quan hệ
quốc tế ở khu vực Viễn Đơng - Thái Bình Dương sau chiến tranh thế giới lần thứ
nhất, kìm hãm các cuộc chạy đua vũ trang trên biển của các cường quốc, ngăn chặn
phong trào độc lập dân tộc đang dâng cao và củng cố nền thống trị thực dân ở khu
vực này, Mỹ đã đề xuất sáng kiến triệu tập hội nghị Washington.
3.2. Các hiệp ước được kí kết
3.2.1. Hiệp ước 4 nước (The Four - Power Treaty)
Hiệp ước 4 nước hay cịn được gọi là “Hiệp ước khơng xâm lược ở Thái
Bình Dương” kí ngày 3/12/1921 và có giá trị trong 10 năm. Trong Hiệp ước này,
Anh, Pháp, Mỹ và Nhật đã thoả thuận “tôn trọng quyền của nhau về các đảo ở
vùng Thái Bình Dương”, thực chất là cùng nhau bảo vệ các thuộc địa ở khu vực
rộng lớn này.
Hiệp ước đã giúp Mỹ gây áp lực với liên minh Anh - Nhật (được kí kết vào
ngày 30/1/1902 bởi Lãnh chúa Lansdowne tại London), đặc biệt khiến cho điều 4:
“Các bên ký cam kết không ký kết các thỏa thuận riêng biệt với các Quyền hạn
khác làm tổn hại đến liên minh này” khơng cịn hiệu lực nữa. Trong những năm
tiếp theo sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, các nhà hoạch định chính sách Mỹ nhìn
nhận Nhật Bản như một mối đe doạ trỗi dậy về mặt quân sự lớn nhất. Bị quân sự
hoá một cách nặng nề và có ý định mở rộng sự ảnh hưởng cũng như lãnh thổ của
mình, Nhật Bản có tiềm năng đe doạ các tài sản thuộc địa của Mỹ ở Châu Á và
những cuộc buôn bán sinh lời của Trung Quốc. Tuy nhiên, do sự đồng thuận năm
1902 giữa Anh và Nhật, nếu Mỹ và Nhật xung đột, Anh sẽ có thể bị bắt buộc tham
gia cùng Nhật Bản để chống lại Mỹ.
Với Hiệp ước này, Mỹ không chỉ thủ tiêu được liên minh Anh - Nhật mà cịn
trở thành nước đóng vai trò chủ đạo trong bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình
Dương. Hiệp ước 4 nước là thắng lợi quan trọng của Mỹ trong cuộc cạnh tranh với
các đế quốc khác ở khu vực này vì nó đã xác định địa phận nước nào giữ nguyên
nước đó, đồng thời ngăn chặn sự bành trướng của Nhật ra các thuộc địa khác. Nó
cũng phá vỡ liên minh Anh - Nhật, giờ đây dù quan hệ Mỹ - Nhật có căng thẳng
hơn nữa thì Nhật cũng mất chỗ dựa để chống lại Mỹ.
3.2.2. Hiệp ước 9 nước (The Nine – Power Treaty)
Hiệp ước kí ngày 6/2/1922, cam kết rằng mỗi nước kí kết bao gồm Anh,
Pháp, Mỹ, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung Quốc cam kết tôn trọng
“chủ quyền, độc lập sự toàn vẹn lãnh thổ và quyền hành chính của Trung Hoa”,
đồng thời đánh dấu sự quốc tế hố chính sách “mở cửa” của Mỹ ở Trung Quốc.
Hiệp ước nhận ra sự thống trị của Nhật Bản ở Mãn Châu nhưng vẫn xác
nhận tầm quan trọng của cơ hội bình đẳng cho tất cả các quốc gia đang kinh doanh
trong nước. Về phần của mình, Trung Quốc đồng ý rằng sẽ không phân biệt bất cứ
đất nước nào đang tìm kiếm cơ hội kinh doanh ở đây. Như vậy, qua Hiệp ước này,
Trung Quốc đã trở thành một thị trường chung của các cường quốc phương Tây và
Nhật Bản. Điều này đã phần nào thể hiện sự bành trướng của Mỹ vào Trung Quốc
đã được hợp pháp hố khi mà nó khơng thể thực hiện được trong Hội nghị
Versailles. Đây giống như một thắng lợi lớn của Mỹ ở Hội nghị, và người bị mất
các “đặc quyền” không ai khác hơn là Nhật.
3.2.3. Hiệp ước 5 nước (The Five – Power Treaty)
Được kí kết cùng ngày 6/2/1922 bởi Anh, Pháp, Mỹ, Nhật, Italia và gọi là
“Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân”. Hiệp ước kêu gọi duy trì tỉ lệ trọng tải
tàu chiến của các nước ở khu vực Thái Bình Dương. Theo đó, Mỹ và Anh bằng
nhau: 525.000 tấn, Nhật: 315.000 tấn, Pháp và Italia bằng nhau: 175.000 tấn.
Trong khi Nhật Bản thiên về được phân bổ ở mức 10:10:7 thì Hải quân Mỹ
lại muốn tỉ lệ 10:10:5. Hội nghị cuối cùng đã đặt ra giới hạn tỉ lệ là 5:5:3. Vì Anh
và Mỹ duy trì hải quân ở cả Thái Bình Dương và Đại Tây Dương để hỗ trợ lãnh
thổ thuộc địa của các nước này nên Hiệp ước đã phân bổ cho hai nước trọng tải lớn
nhất. Đồng thời các nước này cũng quy định tỉ lệ về hai loại tàu chở máy bay và
tàu tuần dương hạm.
Tuy bất mãn, Bộ trưởng hải qn và trưởng phái đồn Nhật là đơ đốc Kato
Tomosaburo đã nhượng bộ để duy trì nguyên trạng các căn cứ hải quân ở Thái
Bình Dương: Hoa Kỳ thảo thuận khơng thiết lập căn cứ hải qn trong khu vực
phía Đơng của Singapore và phía Tây của Hawaii. Bằng hiệp định này, Mỹ đã
nâng tỉ trọng hải quân của mình và nghiễm nhiên sánh vai cùng Anh đóng vai trị
bá chủ trên biển còn tham vọng phát triển hải quân của Nhật bị hạn chế.
Ngoài ra, mặc dù Hiệp ước 5 nước kiểm soát trọng tải của mỗi tàu chiến,
một số hạng tàu lại không được hạn chế. Điều này đã dẫn đến một cuộc đua xây
tàu tuần dương hạm nổi lên sau năm 1922, dẫn đến việc năm nước phải trở lại bàn
đàm phán vào năm 1927 và 1930 với nỗ lực nhằm khắc phục những sơ hở trong
Hiệp ước.
3.3. Một số Hiệp ước khác
Bên cạnh những hiệp định đa phương, các nước tham gia cũng đã hoàn thiện
thêm một số hiệp ước song phương ở Hội nghị. Nhật Bản và Trung Quốc đã kí kết
một thoả thuận song phương mang tên Hiệp ước Sơn Đơng nhằm trao trả quyền
kiểm sốt tỉnh này và đường sắt của nó cho Trung Quốc. Nhật chiếm lấy quyền
kiểm soát nhiều khu vực của người Đức trong Thế chiến I và duy trì kiểm sốt vào
những năm sau đó.
Sự kết hợp giữa Hiệp ước Sơn Đông và Hiệp ước 9 nước vốn dùng để trấn
an Trung Quốc rằng lãnh thổ nước này sẽ không tổn hại bởi sự bành trướng của
Nhật. Thêm vào đó, Nhật đã đồng ý rút qn đội của mình khỏi Siberia, Mĩ và
Nhật chính thức thoả hiệp trong việc được công bằng sử dụng cáp và phương tiện
vô tuyến trên đảo Yap – nơi mà Nhật kiểm soát.
4. Những tác động của trật tự thế giới theo hệ thống
Versailles-Washington tới quan hệ quốc tế giai đoạn sau
4.1. Các Hội nghị quốc tế về hồ bình, an ninh tập thể và giải
trừ quân bị
Nhìn chung, các nước tư bản đều bước vào thời kì ổn định và đạt được sự
phát triển nhanh chóng về kinh tế khi tiến vào thập niên 20. Sự ổn định về kinh tế
và chính trị của chủ nghĩa tư bản đã tác động không nhỏ đến chiều hướng phát
triển của quan hệ quốc tế 5. Sau Hội nghị Versailles – Washington, hàng loạt
những Hội nghị quốc tế và các vấn đề hồ bình, an ninh tập thể, giải trừ qn bị,…
đã diễn ra trong khuôn khổ hệ thống Versailles – Washington.
Trong số đó phải kể đến Hội nghị quốc tế Giênơvơ (Italia) - Hội nghị quốc
tế lớn nhất kể từ sau Chiến tranh thế giới thứ nhất đến lúc bấy giờ. Hội nghị diễn ra
từ ngày 4 đến ngày 19/5/1922 với sự tham gia của đại biểu 29 nước trên thế giới.
5
Khoa Chính trị quốc tế và Ngoại giao (2017), Học viện Ngoại giao, Tài liệu tham khảo Lịch sử quan hệ quốc tế
cận hiện đại, Hà Nội, tr. 24.
Mỹ khơng chính thức tham gia mà chỉ cử quan sát viên tham dự mà thôi nhưng
nước Nga Xô viết lại lần đầu tiên chính thức được mời tham dự.
Nội dung của Hội nghị Giênôvơ là bàn về những vấn đề kinh tế - tài chính
của tất cả các nước châu Âu sau chiến tranh và “vấn đề Nga” là vấn đề gây tranh
cãi nhiều nhất. Bởi vì những bất đồng về việc giải quyết những khoản nợ của Nga
hoàng và Chính phủ lâm thời tư sản Nga, cùng với vấn đề bồi thường chiến tranh
cho nước Nga Xô viết mà Hội nghị hầu như không đạt được kết quả đáng kể nào.
Trong khi đó, ngồi lề Hội nghị này, hai nước Đức và Nga đã kí kết Hiệp ước
Rapallo (Rapalô) vào ngày 16/4/1922 nhằm khôi phục lại các quan hệ ngoại giao,
cam kết từ bỏ các khoản nợ và bồi thường chiến tranh, đồng thời áp dụng chính
sách tối huệ quốc (Most favoured nation hay còn gọi là MFN) cho các quan hệ
kinh tế - thương mại giữa hai nước. Nguyên tắc MFN được hiểu là nếu một nước
dành cho một nước thành viên một sự đối xử ưu đãi nào đó thì nước này cũng sẽ
phải dành sự ưu đãi đó cho tất cả các nước thành viên khác. Thông thường nguyên
tắc MFN được quy định trong các hiệp định thương mại song phương 6.
Ngoài ra, do những chuyển biến quan trọng của cuộc chiến tranh giải phóng
dân tộc ở Thổ Nhĩ Kì, các nước tư bản phương Tây triệu tập một Hội nghị quốc tế
ở Lausannes (Lôdan) - Thuỵ Sĩ để bàn về việc kí kết một Hiệp ước hồ bình mới
với Thổ Nhĩ Kì cùng những vấn đề khác liên quan đến các eo biển ở vùng biển Hắc
Hải. Hội nghị được khai mạc ngày 20/11/1922, tham gia bởi các quốc gia có liên
quan đến những vấn đề khác nhau của Hội nghị. Một trong số đó chính là vấn đề kí
Hồ ước mới với Thổ Nhĩ Kì, có sự góp mặt của Anh, Pháp, Ý, Nhật, Rumai, Hi
Lạp, Nam Tư và Thổ Nhĩ Kì. Hồ ước với Thổ Nhĩ Kì đã xác định lãnh thổ của
nước này bao gồm vùng Tiểu Á và vùng Đông Thessaly (Têsaly) ở phần châu Âu.
6
Cổng thông tin điện tử Chính phủ,
/>yOrgId=125, truy cập 10/6/2021.
Nước Nga Xô viết đã kiên quyết đấu tranh để được tham gia vào việc giải quyết
vấn đề eo biển ở khu vực này vì là một cường quốc ở vùng biển Hắc Hải cùng với
các nước kể trên và các nước Ucraina, Grudia, Bungari. Dưới sự chi phối của các
nước Pháp, Anh, Italia, Hiệp ước về eo biển Dardanelles (Đácđanen) và Bosporus
(Bơxpơrút) ở vùng biển Hắc Hải được kí kết. Theo đó, vùng eo biển sẽ được phi
quân sự hoá và các loại tàu thuyền được tự do qua lại. Trên thực tế, Hiệp ước này
đã ảnh hưởng đến an ninh các nước vùng biển Hắc Hải nói chung và Nga Xơ viết
nói riêng. Chính vì thế, Chính phủ Xô viết đã không phê chuẩn Hiệp ước này.
Để xây dựng một nền an ninh tập thể ở châu Âu trong khuôn khổ Hệ thống
Versailles – Washington, một Hội nghị quốc tế giữa các nước tư bản châu Âu đã
được triệu tập ở Locarno (Lôcácnô) - Thuỵ Sĩ vào ngày 5 đến ngày 16/10/1925.
Hội nghị đã đi đến kí kết hệ thống Hiêp ước Locarno gồm có: các Hiệp ước Pháp –
Đức, Đức - Bỉ, Đức – Tiệp, Đức – Ba Lan về trọng tài; Hiệp ước đảm bảo chung
giữa Anh, Pháp, Đức, Italia và Bỉ và các Hiệp ước đảm bảo Pháp – Ba Lan, Pháp –
Tiệp. Các Hiệp ước nêu trên là sự cam kết đảm bảo đường biên giới giữa các nước
có liên quan theo những điều khoản của Hệ thống Versailles. Cũng tại Hội nghị
này, các nước đã đi đến thảo thuận đồng ý để nước Đức tham gia Hội Quốc liên dù
phải đến tận tháng 9/1926, Đức mới trở thành thành viên chính thức. Với việc kí
kết hệ thống Hiệp ước Locarno và việc nước Đức tham gia Hội Quốc liên, mâu
thuẫn giữa các cường quốc phương Tây dường như dịu đi và như Duroselle J.B đã
viết trong cuốn Lịch sử ngoại giao (1919 đến nay): “một kỉ nguyên xích lại gần
nhau trên thế giới”.
Trong bối cảnh lòng tin vào an ninh tập thể lên đến đỉnh cao, theo sáng kiến
của Pháp và Mỹ, ngày 27/8/1928, tại Paris diễn ra lễ kí kết Hiệp ước từ bỏ chiến
tranh nói chung, cịn được gọi là Hiệp ước Briand – Kellogg. Hiệp ước này đã
được nhiều nước trên thế giới hưởng ứng và có đến 57 quốc gia tham gia kí kết bao
gồm cả Liên Xô - một trong những quốc gia đầu tiên phê chuẩn và mong muốn
Hiệp ước này sớm có hiệu lực. Tuy được đánh giá là Hiệp ước “đánh dấu đỉnh cao
của làn sóng hồ bình trong thập niên 20” nhưng thực tế lại cho thấy đặt niềm tin
vào Hiệp ước này là “một ảo tưởng nguy hiểm” vì chỉ vài ngày sau khi kí kết Hiệp
ước, Pháp và Anh đã tiến hành kí kết ngay một thoả hiệp riêng rẽ về vũ khí.
4.2. Vấn đề xoay quanh thực hiện Hoà ước Versailles với Đức
Trong quan hệ quốc tế những năm 20, việc thực hiện các điều khoản của
Hồ ước Versailles kí với Đức chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng.
Về vấn đề bồi thường chiến tranh, Hội nghị London ngày 30/4/1921 đã quy
định số tiền bồi thường của Đức là 132 tỉ mác vàng và Đức bắt đầu phải trả rừ mùa
hè năm 1921. Dù vậy, Đức khơng có khả năng thực tế để trả món nợ đó do tình
trạng khủng hoảng kinh tế - tài chính trầm trọng diễn ra ở nước này. Sau việc liên
quan Pháp - Bỉ chiếm đóng vùng Rua, nơi sản xuất 90% sản lượng than và 70%
sản lượng gang của Đức, không mang lại hiệu quả trong vấn đề bồi thường của
Đức, một Hội nghị quốc tế đã được triệu tập ở London để xem xét lại vấn đề này.
Hội nghị London khai mạc ngày 16/7/1924, được tham gia bởi các đại diện Anh,
Pháp, Nhật, Bỉ, Italia, Bồ Đào Nha, Rumani, Hy Lạp và Mỹ (về danh nghĩa Mỹ chỉ
tham gia với một số quyền hạn chế nhưng trên thực tế, Mỹ có ảnh hưởng lớn trong
Hội nghị).
Hội nghị London đã thơng qua kế hoạch Dawes (Đât) có giá trị trong
vòng 5 năm với nội dung chủ yếu là Mỹ và Anh sẽ giúp đỡ Đức trong việc phục
hồi và phát triển kinh tế - tài chính để nước này có khả năng trả được các khoản
bồi thường chiến tranh. Theo lịch trình được Ủy ban 5 nước Pháp, Anh, Mỹ, Italia
quy định như sau: Năm thứ nhất trả 1 tỉ mác vàng; Năm thứ hai trả 1,22 tỉ mác
vàng; Năm thứ 3 trả 1,2 tỉ mác vàng; Năm thứ 4 trả 1,75 tỉ mác vàng; Từ năm thứ
5, mỗi năm trả 2,5 tỉ mác vàng. Với kế hoạch này, Pháp đã phải có nhượng bộ quan
trọng đối với Đức khi Pháp phải rút khỏi vùng Rua (năm 1925), trong khi đó Mỹ
và Anh có điều kiện mở rộng ảnh hưởng về kinh tế - tài chính vào nước Đức. Kế
hoạch Dawes góp phần quan trọng vào việc phục hồi và phát triển kinh tế Đức bởi
những trận “mưa đô la” từ Anh và Mỹ qua kế hoạch này đã tạo điều kiện trang bị
những kĩ thuật hiện đại và nâng cao năng lực sản xuất của nền kinh tế Đức.
Cũng trong năm 1929, kế hoạch Dawes lại được điều chỉnh theo hướng giảm
bớt gánh nặng bồi thường chiến tranh cho Đức. Sau một thời gian dài thảo luận,
vào tháng 8/1929, Hội nghị quốc tế của 12 nước tư bản hợp ở La Hay đã chính
thức thơng qua kế hoạch Yơng. Theo đó, số tiền bồi thường của Đức giảm xuống
còn 113,9 tỉ mác vàng và được trả trong thời hạn kéo dài tới 60 năm. Đồng thời,
quân đội chiếm đóng Pháp, Bỉ sẽ phải rút khỏi vùng Rênani trước ngày 30/6/1930.
Như vậy, giai cấp tư sản Đức đã sử dụng những khoản tiền vay của Mỹ, Anh
thông qua các kế hoạch Dawes (1924) và Yơng (1929) để ổn định tài chính, khơi
phục cơng nghiệp và nâng cao năng lực sản xuất. Thực chất của các kế hoạch này
là dọn đường cho tư bản nước ngoài, nhất là tư bản Mỹ, có thể đầu tư rộng rãi vào
Đức. Từ năm 1924 - 1929, các nước đầu tư của Đức khoảng 10 - 15 tỉ mác, trong
đó 70 % là của Mỹ 7. Nhờ sự “hà hơi tiếp sức” của Anh và Mỹ với ý đồ sử dụng
Đức như một “con đập” ngăn làn sóng cách mạng có khả năng tràn sang phía Tây
từ Liên Xơ, chỉ trong một thời gian ngắn, Đức không chỉ phục hồi nhanh chóng mà
cịn tăng cường tiềm lực kinh tế - quân sự của mình. Từng bước một, Đức đã tìm
cách thoát ra khỏi những ràng buộc của hệ thống Versailles, khơi phục chủ
quyền kinh tế - tài chính và ngoại giao của mình.
7
Đồn thị Hồng Điệp sưu tầm và biên tập, Nước Đức giữa hai cuộc chiến tranh thế giới (1918-1939),
truy cập 10/6/2021.
4.3.Những ảnh hưởng tới quan hệ quốc tế của nước Nga Xơ viết
Trong quan hệ quốc tế, Chính phủ Xơ viết đã phản đối gay gắt tính chất nơ
dịch của các hoà ước, đặc biệt là Hoà ước Versailles. Lênin cho rằng: “Đấy khơng
phải là hồ ước, đấy là những điều kiện mà bọn ăn cướp tay cầm dao, buộc nạn
nhận khơng có gì tự vệ phải chấp nhận 8”. Như đã phân tích trước đó, trong lúc các
cường quốc phương Tây thi hành chính sách thù địch, bác bỏ sự tham dự của nước
Nga Xô viết tại hai Hội nghị Versailles và Washington, ngày 28/11/1921, Chính
phủ Xơ viết đã gửi Cơng hàm tới các Chính phủ Anh, Mỹ, Pháp, Italia, Nhật nêu rõ
những nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình của nước Nga với phần cịn lại của thế
giới.
Năm 1922, khi lần đầu tiên được mời chính thức tham dự Hội nghị quốc tế
Giênơvơ, đồn đại biểu Xơ viết đã đưa ra đề nghị về việc thiết lập các quan hệ
ngoại giao và kinh tế, thực hiện chung sống hồ bình và tiến hành giải trừ qn bị.
Nga sẵn sàng bình thường hố quan hệ với tất cả các nước trên cơ sở bình đẳng,
tơn trọng chủ quyền và tồn vẹn lãnh thổ của nhau, hợp tác cùng có lợi và cùng tồn
tại hồ bình.
Mặc dù Hội nghị Giênơvơ thất bại nhưng việc Nga và Đức kí kết Hiệp ước
Rapalơ đã giáng một địn chí mạng vào âm mưu bao vây, cô lập nước Nga của các
cường quốc phương Tây. Đồng thời đánh dấu một thắng lợi ngoại giao cực kì quan
trọng của Nhà nước Xơ viết và Đức đã trở thành nước phương Tây đầu tiên thiết
lập quan hệ ngoại giao với nước Nga.
8
Lênin, Toàn tập, T.31, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1996, tr.396.
II. Phần liên hệ thực tiễn và liên hệ bản thân
1. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Sau những phân tích nêu trên, ta có thể thấy rằng Hệ thống Hiệp ước
Versailles và sau đó là Hệ thống Hiệp ước Washington được ra đời nhằm tổ chức
lại thế giới thời hậu chiến sao cho phù hợp với tương quan lực lượng mới, song
thực chất là các đế quốc phân chia lại thuộc địa, cũng như xác lập lại sự áp đặt, nô
dịch đối với các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. Thế nhưng, cuộc phân chia lại lợi
ích ấy không những không giải quyết được những mâu thuẫn gốc rễ mà còn làm
cho chúng trở nên trầm trọng hơn và thậm chí trở thành nguyên nhân chính dẫ tới
Chiến tranh Thế giới thứ hai bùng nổ (1939 – 1945). Trong một trăm năm qua, thế
giới không ngừng biến đổi nhưng những nguy cơ và thách thức của bạo lực và
chiến tranh vẫn cịn đó.
Biết rằng những vấn đề dân tộc cực đoan, khác biệt về tôn giáo,…rất dễ trở
thành ngịi nổ để kích động sự xung đột hay mầm mồng cho một cuộc chiến tranh
toàn cầu với sức hủy diệt tàn khốc , đặc biệt khi chúng ta đang sống trong một thế
giới hiện đại với công nghệ phát triển như này nay mà Việt Nam đã rút ra được cần
phải thận trọng với những mâu thuẫn lợi ích. Bởi lẽ mâu thuẫn lợi ích chính là
nguyên nhân của sự căng thẳng và đụng độ, phớt lờ lợi ích của các nước khác, có
thể gây nên xung đột vũ trang và đẩy thế giới xuống bờ vực chiến tranh. Chính vì
thế, trong cơng tác đối ngoại, Việt Nam ta ln phải đặt lợi ích quốc gia – dân tộc
lên trên hết, giữ vững thái độ kiên định, độc lập và tự chủ. Đồng thời, cần xây dựng
một mối quan hệ quốc tế vững mạnh dựa trên cơ sở duy trì hịa bình và an ninh thế
giới; lên án các hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia, dân tộc, các hành động
gây chiến, đe dọa nền hịa bình thế giới.