Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

SỰ THIẾT LẬP TRẬT TỰ THẾ GIỚI THEO HỆ THỐNG VERSAILLES – WASHINGTON VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA TRẬT TỰ NÀY TỚI QUAN HỆ QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN SAU

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (370.7 KB, 23 trang )

HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
KHOA CHÍNH TRỊ QUỐC TẾ VÀ NGOẠI GIAO

Học phần: LỊCH SỬ QUAN HỆ QUỐC TẾ CẬN HIỆN ĐẠI

ĐỀ TÀI:
SỰ THIẾT LẬP TRẬT TỰ THẾ GIỚI THEO HỆ THỐNG
VERSAILLES – WASHINGTON VÀ NHỮNG TÁC ĐỘNG CỦA
TRẬT TỰ NÀY TỚI QUAN HỆ QUỐC TẾ GIAI ĐOẠN SAU.

Hà Nội, ngày 10 tháng 06 năm 2021


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................3
NỘI DUNG...............................................................................................................4
1. Bối cảnh...........................................................................................................4
2. Hệ thống Hòa ước Versailles (1919 – 1920)..................................................5
2.1. Hoàn cảnh triệu tập Hội nghị Versailles................................................. 5
2.1.1. Hiệp ước Brest-Litovsk........................................................................5
2.1.2. Chương trình 14 điểm..........................................................................6
2.2. Nội dung của Hội nghị Versailles............................................................ 8
2.2.1. Quan điểm, ý đồ của các nước............................................................ 8
2.2.2. Sự thành lập Hội Quốc Liên..............................................................10
2.2.3. Hòa ước Versailles với Đức...............................................................12
2.2.4. Các Hòa ước khác............................................................................. 13
2.3. Kết quả của Hội nghị Versailles.............................................................14
3. Hệ thống Hiệp ước Washington (1921 – 1922).......................................... 16
3.1. Nguyên nhân ký Hiệp ước Washington................................................. 16
3.2. Nội dung Hiệp ước Washington.............................................................17
3.2.1. Hiệp ước 4 nước................................................................................ 17


3.2.2. Hiệp ước 9 nước................................................................................ 18
3.2.3. Hiệp ước 5 nước................................................................................ 18
3.3. Kết quả của Hiệp ước Washington.........................................................18
4. Những tác động của trật tự này lên quan hệ quốc tế giai đoạn sau........19
KẾT LUẬN............................................................................................................ 21
TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................................................22

2


MỞ ĐẦU
Cựu Thủ tướng Anh Winston Churchill đã từng nói: “Thế giới này khơng có
bạn bè hay kẻ thù vĩnh viễn, chỉ có lợi ích quốc gia là vĩnh viễn”. Khơng có ai mãi
là bạn hay là thù, bởi hai vị trí đó sẽ biến đổi khơng ngừng. Thứ khơng thay đổi
theo thời gian và tồn tại mãi mãi chính là những điều có lợi cho quốc gia. Vậy nên,
trong quan hệ quốc tế, tiêu chí cao nhất để lựa chọn làm bạn hay thù chính là lợi
ích của quốc gia, của dân tộc.
Thời gian nửa sau thế kỉ XIX, các cuộc tranh giành quyền lợi giữa các quốc
gia diễn ra rất quyết liệt. Cách mạng công nghiệp nổ ra, nhu cầu tìm kiếm thị
trường trở thành tất yếu. Từ nhu cầu thị trường dẫn đến độc quyền thuộc địa, và
xuất hiện khái niệm “chủ nghĩa đế quốc”. Thời kì này các cuộc chiến xâm lược,
chiến tranh nội bộ châu Âu diễn ra triền miên để tranh giành ảnh hưởng, thuộc địa.
Cho đến năm 1914, Chiến tranh thế giới giới thứ nhất bùng nổ giữa phe Liên minh
gồm Đức, Áo – Hung, Bulgaria, Ottoman và phe Hiệp ước là Anh, Pháp, Nga, sau
thêm Mĩ, Nhật, Italia. Trong đó mâu thuẫn lớn nhất là giữa Đức với Pháp. Vào
năm 1917 – giai đoạn cuối của cuộc chiến, Cách mạng tháng Mười Nga đã khai
sinh ra Nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới, mở ra một thời kì mới cho
cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp và dân tộc.
Sau khi Thế chiến I kết thúc, các quốc gia chiến thắng bắt đầu phân chia lại
thế giới và tạo ra một hệ thống quan hệ quốc tế mới. Nền tảng của trật tự thế giới

mới được đặt ra bởi các hiệp định trong Hiệp ước Hịa bình Versailles năm 1919 và
Hội nghị Washington 1921 – 1922. Do đó, trật tự mới nhận được tên gọi “Hệ
thống quan hệ quốc tế Versailles – Washington”. Được tạo ra bởi các nước thắng
trận, mục tiêu của nó là phân chia lại trật tự của thế giới, xác lập sự áp đặt nô dịch
của các nước đế quốc thắng trận với các nước bại trận. Đồng thời nó cịn là hệ
thống chống lại Liên Xơ, duy trì các nước thuộc địa phụ thuộc và đàn áp phong


trào giải phóng dân tộc thuộc địa. Hệ thống Versailles – Washington đã tạo ra
nhiều thay đổi trong quan hệ giữa các quốc gia và tác động lên tình hình quan hệ
quốc tế ở cả giai đoạn sau.
Chính vì vậy, sinh viên lựa chọn đề tài “Sự thiết lập trật tự thế giới theo Hệ
thống Versailles – Washington và những tác động của trật tự này tới quan hệ quốc
tế giai đoạn sau” làm đề tài tiểu luận cuối kì cho học phần Lịch sử Quan hệ Quốc
tế cận hiện đại.
NỘI DUNG
1. Bối cảnh
Sự thất bại của phe Đức, Áo – Hung đã đánh dấu hồi kết của Chiến tranh thế
giới lần thứ nhất. Nó mở ra một thời kì mới trong quan hệ quốc tế và có tác động
mạnh mẽ đến tình hình thế giới, đặc biệt là đối với châu Âu.
Trong Thế chiến I, chiến trường chính đã diễn ra ở châu Âu, bởi vậy mà các
cường quốc châu Âu đều bị chịu thiệt hại nặng nề sau chiến tranh. Tuy là nước
chiến thắng nhưng hai cường quốc tư bản lâu đời Anh và Pháp chịu nhiều tổn thất
với nền kinh tế kiệt quệ và trở thành con nợ của Mĩ. Ba đế quốc rộng lớn ở châu
Âu là Nga, Đức và Áo – Hung lần lượt sụp đổ. Đế quốc bại trận Đức, Áo – Hung
bị tàn phá nặng nề và những cuộc cách mạng bùng nổ đã đẩy các nước này vào
tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.
Trong khi đó, các cường quốc ở ngồi châu Âu không bị tàn phá bởi chiến
tranh như Mĩ và Nhật đã vươn lên nhanh chóng, vượt qua nhiều nước tư bản ở
châu Âu. Tương quan lực lượng giữa các cường quốc thay đổi rõ rệt, ngày càng bất

lợi cho các nước tư bản châu Âu vốn chiếm vị trí trung tâm trong thế giới tư bản
trước đây 1.
1

Tài liệu tham khảo Lịch sử quan hệ quốc tế cận hiện đại, Khoa chính trị và Ngoại giao, Học viện ngoại giao, 2017.


Đồng thời, thắng lợi của Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã dẫn tới
một thời đại mới cùng sự tác động sâu sắc đến lịch sử nhân loại nói chung và lịch
sử quan hệ quốc tế nói riêng. Liên Xô trở thành một thách thức to lớn đối với thế
giới tư bản chủ nghĩa. Giờ đây, chủ nghĩa tư bản khơng cịn là duy nhất trên thế
giới mà phải đối mặt với sự tồn tại và phát triển ưu việt của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa đầu tiên trên thế giới.
Vì vậy, các Hội nghị Hịa bình được triệu tập để giải quyết những vấn đề do
chiến tranh đặt ra. Hệ thống Hịa ước Versailles và sau đó là Hệ thống Hiệp ước
Washington đã được ký kết nhằm tổ chức lại trật tự thế giới sau chiến tranh sao
cho phù hợp với tương quan lực lượng mới.
2. Hệ thống Hịa ước Versailles (1919 – 1920)
2.1.

Hồn cảnh triệu tập Hội nghị Versailles

2.1.1. Hiệp ước Brest-Litovsk
Trước cuộc Cách mạng tháng Mười, Đế quốc Nga đã tham gia Thế chiến I
theo phe Hiệp ước ba bên chống lại Đế quốc Đức và Áo – Hung. Thắng lợi của
Cách mạng tháng Mười Nga vào ngày 7/11/1917 tạo ra một chuyển biến căn bản
của tình hình thế giới.
“Hiệp ước Brest-Litovsk” là một Hiệp ước Hịa bình được ký ngày 3/3/1918
để Nga chấm dứt sự tham chiến trong Thế chiến I sau khi Cách mạng tháng Mười
Nga thành công. Theo các điều khoản, Nga buộc phải nhường vùng Baltic cho

Đức, Kars Oblast cho Ottoman và cơng nhận độc lập của Ukraine. Hịa ước lấy đi
phần lãnh thổ gồm 1/4 dân số cùng với 9/10 mỏ than của Nga. Theo Spencer
Tucker, “Bộ Tổng tham mưu Đức đưa ra những điều khoản cực kỳ khắc nghiệt
trong bản Hịa ước đến nỗi nó đã gây sốc cho cả các nhà đàm phán của Đức” 2.
2

Spencer C. Tucker (2005), World War One, ABC-CLIO, p.225.

5


Sau này khi người Đức phàn nàn rằng các điều khoản của Hòa ước Versailles là
quá khắc nghiệt đối với Đức, các cường quốc phe Hiệp ước đã trả lời rằng nó vẫn
chưa khắc nghiệt bằng các điều khoản của Hiệp ước Brest-Litovsk 3.
2.1.2. Chương trình 14 điểm
Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, trong khi các nước tham chiến bị thiệt hại
nặng nề, Mĩ lại không bị ảnh hưởng nhiều do tham chiến muộn. Nhờ bn bán vũ
khí cho các nước tham chiến, đầu tư tư bản của Mĩ ở nước ngoài tăng lên; số nợ
của Mĩ với các nước được giảm xuống; đồng thời tư bản Mĩ cho các nước tham
chiến vay nợ mà số nợ các nước châu Âu nợ Mĩ lên tới 10 tỷ USD; Mĩ nắm giữ
40% trữ lượng vàng trên thế giới. Đó là một trong những điều kiện cho Mĩ vươn
lên với mong muốn trở thành bá chủ thế giới và đề ra “Chương trình 14 điểm.”
“Chương trình 14 điểm” là một giải pháp hịa bình cho Chiến tranh thế giới
thứ nhất do Tổng thống Hoa Kỳ W. Wilson đề ra và trình bày trước Quốc hội Mĩ
vào ngày 8/1/1918. Mặc dù ra đời 10 tháng trước khi quân Đức đưa ra thỏa thuận
ngừng chiến nhưng “Chương trình 14 điểm” được sử dụng rất nhiều trong Hội
nghị Hịa bình Paris 1919 cũng như Hiệp ước Versailles bởi nó đưa ra các quy định
và điều khoản hậu chiến cho các nước tham gia Chiến tranh thế giới lần thứ nhất.
Không chỉ vậy, dưới ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, phong trào
đấu tranh của công nhân châu Âu và nhân dân ở các thuộc địa phụ thuộc phát triển

rất mạnh mẽ, “Chương trình 14 điểm” cũng được xem là phản ứng đầu tiên của Mĩ
trước “Sắc lệnh hịa bình” năm 1917 do chính quyền Nga Xơ viết đề xướng.
Nội dung của “Chương trình 14 điểm” bao gồm:
1. Đưa ra những hiệp định rõ ràng, khơng bí mật.
2. Tự do thơng thương của các đại dương.
3

Zara S. Steiner (2005), The Lights that Failed: European International History 1919–1933, Oxford U.P, p.68.

6


3. Bãi bỏ các rào cản kinh tế.
4. Cắt giảm vũ khí.
5. Dàn xếp các yêu sách của thuộc địa theo quyền lợi của các dân tộc bị trị.
6. Quân Đức rút khỏi Nga, quyền tự do về chính sách quốc gia cho Nga.
7. Quân Đức rút khỏi Bỉ, Bỉ là nước độc lập.
8. Quân Đức rút khỏi Pháp, Alsace-Lorraine thuộc về Pháp.
9. Điều chỉnh biên giới Italia.
10. Các dân tộc của đế quốc Áo có quyền tự quyết.
11. Quân Đức rời khỏi Romania, Serbia và Montenegro, Serbia có một lối đi ra
biển.
12. Các dân tộc của đế quốc Ottoman có quyền tự quyết, eo biển Dardanelles cho
phép tàu của mọi quốc gia.
13. Ba Lan độc lập, có một lối đi ra biển.
14. Thành lập một tổ chức quốc tế để giữ gìn hịa bình
Với 14 điểm này, mưu đồ xác lập địa vị bá chủ thế giới của Mĩ đã được thể
hiện rõ ràng, Mĩ muốn làm suy yếu các đối thủ cạnh tranh Anh, Pháp và Nhật Bản,
tạo cơ hội để Mĩ vượt khỏi sự biệt lập của châu Mĩ, vươn ra bên ngoài bằng sức
mạnh kinh tế và ảnh hưởng chính trị chứ khơng phải bằng con đường bành trướng

lãnh thổ như các cường quốc khác.
“Chương trình 14 điểm” của Wilson có ảnh hưởng to lớn trong việc định
hình lại trật tự thế giới sau chiến tranh cũng như trong việc truyền bá hịa bình và
dân chủ trên tồn thế giới 4. Nó được coi là cơ sở cho các cuộc thảo luận tại Hội
nghị Versailles – Washington (1919 – 1921).

4

Erez Manela (2009), The Wilsonian Moment: Self-Determination and the International Origins of Anticolonial
Nationalism, New York: Oxford University Press.


2.2.

Nội dung của Hội nghị Versailles

Vào ngày 18/1/1919, Hội nghị Hồ bình tại Versailles diễn ra tại ngoại ơ thủ
đơ Paris của Pháp với hơn 1000 đại biểu đến từ 27 nước thắng trận tham gia đàm
phán. Đại biểu của các nước bại trận cũng có mặt để ký vào các hoà ước do các
nước thắng trận quyết định. Trên thực tế, hầu hết các đại biểu hồn tồn khơng có
tiếng nói. Năm cường quốc tham gia điều khiển Hội nghị là Mĩ, Anh, Pháp, Italia
và Nhật Bản, nhưng thực sự nắm quyền quyết định hội nghị là “Big Three” gồm
Tổng thống Mĩ Wilson, Thủ tướng Anh Lloyd George và Thủ tướng Pháp
Clémenceau.
Tại hội nghị Versailles, “Vấn đề Nga Xô viết” được đặt ra khi chủ tọa Hội
nghị không mời bất cứ một đại diện nào của nước Nga Xô viết, chỉ mời đại diện
bọn phản cách mạng của Nga Xô viết tham gia.Vấn đề Nga không được đưa vào
chương trình nghị sự nhưng nó là nỗi ám ảnh đối với các nước đế quốc. Ngay từ
trước khi Hội nghị bắt đầu, các nước đã thảo luận vấn đề Nga và đi đến thỏa thuận
sẽ tăng cường can thiệp vũ trang và ủng hộ lực lượng phản động để chống lại chính

quyền Xơ viết.
2.2.1. Quan điểm, ý đồ của các nước
Hội nghị Versailles kéo dài gần 2 năm và diễn ra rất quyết liệt bởi các nước
cường quốc thắng trận đều có những mưu đồ tham vọng riêng trong việc phân chia
quyền lợi và thiết lập trật tự thế giới sau chiến tranh. Mâu thuẫn giữa các đế quốc
tại Hội nghị Versailles khiến Hội nghị tới ba lần có nguy cơ tan vỡ.
Theo quan điểm của Pháp, Clémenceau quyết tâm làm tê liệt nước Đức về
mặt quân sự, chính trị và kinh tế. Pháp muốn làm suy yếu nước Đức ở mức độ lớn
nhất có thể 5, nhằm đảm bảo an ninh và địa vị bá chủ của mình ở lục địa châu Âu.
5

William R. Keylor (1998), The Legacy of the Great War: Peacemaking, 1919, Boston, MA: Houghton Mifflin,
p.34.

8


Pháp phải chịu phần lớn sự tàn phá và thương vong từ chiến tranh do là cường
quốc phe Hiệp ước duy nhất có chung đường biên giới với Đức. Pháp địi Đức trả
lại vùng đất giàu có than đá và đông dân Alsace-Lorraine – nơi đã bị Đức tước
đoạt trong Chiến tranh Pháp–Phổ 1870 – 1871; đòi chiếm hạt Sarre; đòi Đức bồi
thường số tiền khổng lồ; cướp đoạt thuộc địa của Đức... Bộ Tổng tham mưu Pháp
còn muốn đi xa hơn thế: họ muốn Pháp có Rhineland – vùng biên giới giữa hai
nước.
Thủ tướng Anh Lloyd George cũng muốn làm giảm sức mạnh kinh tế và
quân sự của Đức, nhưng khơng muốn hủy diệt nước Đức hồn tồn. Ơng nhận thức
rằng nếu Pháp hoàn toàn đánh quỵ Đức, Pháp có thể trở thành quốc gia mạnh nhất
lục địa, và cán cân quyền lực ở châu Âu có thể bị đảo lộn. Bởi vậy mà Anh chủ
trương phải duy trì một nước Đức tương đối mạnh để đối phó với phong trào cách
mạng đang lên cao ở các nước châu Âu và âm mưu bá chủ châu Âu của Pháp. Anh

muốn giữ và cân bằng lực lượng của mình với Pháp.
Với quan điểm của nước Mĩ, Wilson không giấu giếm tham vọng làm bá chủ
thế giới khi đưa “Chương trình 14 điểm” ra thảo luận tại Hội nghị Versailles nhằm
lập lại hồ bình và tổ chức lại thế giới sau chiến tranh theo quan điểm của Mĩ. Mĩ
xúc tiến thành lập Hội Quốc Liên và yêu cầu Hội Quốc Liên phải do Mĩ cầm đầu
để lãnh đạo thế giới. Mĩ mong muốn bước chân vào trật tự thế giới, tìm kiếm lợi
ích và vị thế của mình. Mĩ đồng ý việc Đức phải bồi thường một khoản tiền khổng
lồ để có thể mở rộng ảnh hưởng vào châu Âu bằng cách cho Đức vay nợ. Phần lớn
số tiền mà người Đức trả cho Anh và Pháp sẽ nằm gọn trong các ngân hàng Mĩ.
Không chỉ vậy, các quốc gia khác cũng đưa ra ý đồ của mình. Là một nước
tham chiến muộn và đóng vai trị rất nhỏ nhưng Italia lại không hề giấu giếm tham
vọng với tới lãnh thổ ở khu vực Balkan và Địa Trung Hải, nhất là vùng Dalmatia

9


và cảng Fiume của Đế quốc Áo – Hung đã tan rã. Các nước nhỏ như Ba Lan và
Romania cũng có những u cầu mở rộng lãnh thổ của mình.
Nhật Bản cũng muốn được bình đẳng như các quốc gia châu Âu. Nhật muốn
bành trướng hơn nữa ở Trung Quốc, cụ thể là đòi thay thế Đức nắm chủ quyền bán
đảo Sơn Đông, dự định chiếm vùng viễn Đông của nước Nga Xô viết, mở rộng ảnh
hưởng ở khu vực châu Á – Thái Bình Dương. Điều này tạo ra xung đột trực tiếp tới
tham vọng của Anh và Mĩ. Người Nhật còn cố gắng thêm điều khoản cấm phân
biệt đối xử về chủng tộc hoặc quốc tịch.
2.2.2. Sự thành lập Hội Quốc Liên
Ngoài việc đàm phán Hiệp ước Versailles, Hội nghị Hịa bình Paris đã thành
lập Hội Quốc Liên – một tổ chức gìn giữ hịa bình quốc tế có nhiệm vụ giải quyết
các tranh chấp quốc tế mà không cần dùng đến vũ lực quân sự 6. Hội Quốc Liên
(tiền thân của Liên Hợp Quốc) được cho là thắng lợi to lớn nhất của “Chương
trình 14 điểm” của Wilson. Sự ra đời của Hội Quốc Liên – một tổ chức chính trị

mang tính quốc tế đầu tiên, đã đánh dấu bước phát triển mới của quan hệ quốc tế
thế kỷ XX.
Ngày 10/1/1920, Hội Quốc Liên chính thức thành lập với 44 nước ký vào
công ước sáng lập. Các cường quốc châu Âu không muốn rời tổ chức khỏi châu Âu
nên trụ sở Hội Quốc Liên được đặt tại Genève, Thụy Sĩ. Hội Quốc Liên có 3 tổ
chức chính: Đại hội đồng gồm tất cả các nước thành viên, Ban thư ký thường trực
giám sát các chức năng hành chính thường xuyên và Hội đồng thường trực 7. Hội
đồng thường trực gồm 5 uỷ viên các cường quốc Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia – sau
đó cịn lại 4 vì Mĩ khơng tham gia, và một số uỷ viên có kì hạn. Hội Quốc Liên bao

6

George Scott (1974), The Rise and Fall of the League of Nations, New York: Macmillan.
Susan Pedersen (2015), The Guardians: The League of Nations and the Crisis of Empire, New York: Oxford
University Press.
7


gồm 58 quốc gia thành viên, Liên Xô gia nhập vào năm 1934 nhưng bị trục xuất
năm 1939 vì xâm lược Phần Lan.
Hội Quốc Liên có nội dung hoạt động là giám sát việc giải trừ quân bị, tôn
trọng và bảo vệ sự toàn vẹn lãnh thổ và độc lập chính trị, giải quyết các tranh chấp
quốc tế, thực hiện “chế độ uỷ trị” đối với một số lãnh thổ “chưa đủ điều kiện tự
quản”... Nước nào vi phạm công ước, gây chiến tranh sẽ bị xem là gây chiến với
toàn thể hội viên và sẽ bị trừng phạt bằng biện pháp kinh tế, quân sự. Mục đích của
Hội bao gồm giải giáp vũ trang; ngăn ngừa chiến tranh thông qua an ninh tập thể;
giải quyết tranh chấp giữa các nước thông qua đối thoại và ngoại giao; và cải thiện
sự thịnh vượng toàn cầu.
Thực tế, những hoạt động của Hội quốc Liên là nhằm duy trì trật tự thế giới
mới do các cường quốc chiến thắng áp đặt tại Hội nghị Versailles. Với "chế độ uỷ

trị", Anh, Pháp đã chia nhau hầu hết các thuộc địa của Đức và lãnh thổ của đế quốc
Thổ Nhĩ Kì. Các biện pháp về giải trừ quân bị và sự trừng phạt chỉ mang ý nghĩa
hình thức vì Hội Quốc liên khơng có sức mạnh thực tế để thực thi các quyết định
của mình. Để Hội Quốc Liên có thể trở thành một cơng cụ có hiệu quả, tổ chức này
phải có ý chí chính trị thống nhất và có khả năng qn sự cần thiết. Sau này, Hội
Quốc Liên cuối cùng đã thất bại trong việc ngăn chặn sự bùng nổ của Chiến tranh
thế giới thứ hai, và do vậy các nhà sử học coi nó là một tổ chức yếu kém, không
hiệu quả và về cơ bản là bất lực 8.
Mặc dù Hội Quốc Liên được thành lập theo sáng kiến của Tổng thống Mĩ
Wilson, ông lại thất bại trong việc thuyết phục Thượng viện Mĩ đưa Mĩ gia nhập
Hội Quốc Liên. Theo các thượng nghị sĩ, Mĩ được cho quá ít quyền lợi tại Hội nghị
Versailles. Do sự phản đối đó, Hiệp ước Versailles khơng bao giờ được Quốc hội

8

George Scott (1974), The Rise and Fall of the League of Nations, New York: Macmillan.


phê chuẩn, và Hoa Kỳ không bao giờ trở thành thành viên của Hội Quốc Liên 9.
Wilson sau này từng nói, việc Mĩ vắng mặt ở Hội Quốc Liên sẽ dẫn tới một cuộc
chiến tranh thế giới khác trong vòng một thế hệ. Và Chiến tranh thế giới lần thứ hai
đã chứng minh điều đó.
2.2.3. Hịa ước Versailles với Đức
Hịa ước Versailles được ký vào ngày 28/6/1919 đã hệ thống hóa các điều
khoản hịa bình giữa các nước phe Hiệp ước và Đức. Đây là văn kiện quan trọng
nhất của hệ thống Hoà ước Versailles buộc Đức phải nhận toàn bộ trách nhiệm về
việc bắt đầu Thế chiến I và bồi thường thiệt hại to lớn cho các nước thắng trận về
lãnh thổ, quân sự và kinh tế.
Theo các điều khoản hà khắc của Hòa ước, nước Đức phải trả lại cho Pháp
hai tỉnh Alsace-Lorraine; nhường Bỉ Eupen Malmedy và Moresnet; cắt cho Đan

Mạch Bắc Schleswig – tùy kết quả trưng cầu ý dân; cắt cho Ba Lan Pomeranian và
một “hành lang chạy ra biển,” một số nơi khác tùy vào trưng cầu ý dân. Thành phố
cảng Dantzig (nay là Gdansk, Ba Lan) và đảo Heligoland sẽ do Hội Quốc Liên
quản trị. Điều khoản này khiến người Đức rất tức giận. Nước Đức không thể chấp
nhận việc cắt đất và nhất là vùng đất phía Đơng, và cịn ghét bỏ người Ba Lan.
Ngoài ra, hạt Sarre của Đức cũng giao cho Hội Quốc Liên và các mỏ than ở đây
thuộc về Pháp. Toàn bộ hệ thống thuộc địa của Đức đều trở thành đất uỷ trị của
Hội Quốc liên và được giao cho các cường quốc Anh, Pháp, Nhật, Bỉ... quản lí 10.
Điều 231 của Hịa ước quy định Đức là nước duy nhất sẽ phải chịu trách
nhiệm gây ra chiến tranh. Mọi trách nhiệm về những thiệt hại gây ra trong chiến
tranh đổ lên vai của cựu Hoàng đế Đức Wilhelm II.

9

John Milton Cooper, Jr. (2010), Breaking the Heart of the World: Woodrow Wilson and the Fight for the League of
Nations, New York: Cambridge University Press.
10
Alan Woods (2019), The First World War: A Marxist Analysis of the Great Slaughter, Wellred Books.


Nước Đức còn bị hạn chế vũ trang đến mức thấp nhất: chỉ được giữ lại
100.000 bộ binh với vũ khí thơng thường, khơng có khơng qn, khơng có hạm đội
tàu ngầm và thiết giáp hạm. Vùng sông Rhein sẽ trở thành khu phi quân sự do Anh
và Pháp quản lý.
Tổng số tiền bồi thường chiến tranh mà Đức phải trả lên tới con số đáng kinh
ngạc là 226 tỷ Reichsmarks bằng vàng – một số tiền lớn đến mức khơng ai có thể
trả đủ. Năm 1921, nó được giảm xuống còn 132 tỷ Reichsmarks – tương đương
4.99 tỷ bảng Anh, trong đó trả cho Pháp 52% Anh 22%, Italia 10%, Bỉ 8%...
Khoản bồi thường được trả dưới nhiều hình thức như than đá, thép, các sản phẩm
nông nghiệp, hay thậm chí cả tài sản trí tuệ 11.

Với Hồ ước này, nước Đức mất 1/8 đất đai, gần 1/12 dân số, 1/3 mỏ sắt,
gần 1/3 mỏ than, 2/5 sản lượng gang, gần 1/3 sản lượng thép và gần 1/7 diện tích
trồng trọt. Tồn bộ gánh nặng của Hịa ước Versailles đè lên vai người dân nước
Đức. Tuy nhiên, sau này với sự trợ giúp của Mĩ, Anh, chỉ trong vòng một thời gian
ngắn, nước Đức đã khôi phục và trở thành một lò lửa chiến tranh nguy hiểm nhất ở
châu Âu trong thập niên 30.
2.2.4. Các Hòa ước khác
Trong hai năm 1919 – 1920, những Hiệp ước khác cũng được Ủy ban Tứ
cường ký kết với các nước bại trận. Ngày 10/9/1919, Hiệp ước Saint – Germain ký
với Áo và Hiệp ước Trianon ký với Hungary ngày 4/6/1920 đã khiến cho đế quốc
Áo – Hung tan rã với Nam Tư và Tiệp Khắc ra đời. Áo chỉ còn 6,5 triệu dân với
diện tích 84.000km2, Hungary cũng chỉ cịn lại 92.000km2 với 8 triệu dân 12. Một
số nước được mở rộng thêm đất đai từ lãnh thổ của đế quốc Áo – Hung.

11
12

Alan Woods (2019), The First World War: A Marxist Analysis of the Great Slaughter, Wellred Books.
Durdselle J.B. Lịch sử ngoại giao (1919 đến nay), Học viện Quan hệ quốc tế, 1994, tr.15-16.


Ngày 27/11/1919 Hiệp ước Neuilly ký với Bulgaria đã khiến Bulgaria phải
cắt lãnh thổ ở biên giới phía Tây cho Nam Tư, cắt vùng Thrace cho Hi Lạp do vậy
bị mất cảng Dédéagatch và lối ra biển Egée và cắt tỉnh Dobroudja cho Romania.
Ngoài ra, Bulgaria phải bồi thường chiến phí và nộp gia súc, đồng thời hạn chế lực
lượng vũ trang.
Ngày 11/8/1920 Hiệp ước Sevres ký với Thổ Nhĩ Kì đã chính thức xố bỏ sự
tồn tại của Đế quốc Ottoman. Nhiều nước tách khỏi Thổ Nhĩ Kì và chịu sự “bảo
hộ” của Anh, Pháp. Hy Lạp có được phần đất châu Âu của Thổ Nhĩ Kì, trừ
Istanbul và vùng ngoại ơ. Các eo biển của Thổ Nhĩ Kì được đặt dưới quyền kiểm

soát của một uỷ ban gồm các đại biểu Anh, Pháp, Italia, Nhật Bản.
2.3.

Kết quả của Hội nghị Versailles

Sau khi bị bác bỏ những tham vọng của mình, Nhật Bản, Italia và những
nước khác phẫn nộ rời khỏi cuộc đàm phán. Các thủ tục, điều khoản của Hội nghị
hoàn toàn bị chi phối bởi các nhà lãnh đạo của “Big Three” gồm Anh, Pháp và Mĩ.
Các điều khoản cuối cùng được quyết định bởi David Lloyd George, Georges
Clémenceau, Woodrow Wilson và lợi ích mà họ đại diện. Sau nhiều tháng tranh cãi
và đám phán, Hiệp định được ký kết vào ngày 28/6/1919 với 15 phần, 440 điều về
thuộc địa, quân sự, tài chính... Bởi những mâu thuẫn trong lợi ích quốc gia mà Hịa
ước Versailles dẫn đến kết quả là khơng một ai hài lịng.
Hịa ước Versailles đã làm thay đổi nhiều đường biên giới lãnh thổ các nước
Đức, Áo – Hung, Nga,... dựa trên cơ sở toan tính và tương quan lực lượng của các
nước thắng trận. Hai đế quốc Áo – Hung và Thổ Nhĩ Kì tan rã, Đế quốc Đức bị thu
hẹp lãnh thổ; nhiều quốc gia mới được hình thành ở Đơng Âu và Trung Cận đông.
Điều này vi phạm vào sự thống nhất lãnh thổ và biên giới của các dân tộc châu Âu,
làm nảy sinh nhiều mâu thuẫn dân tộc.


Không chỉ vậy, giữa các nước thắng trận cũng tồn tại nhiều mâu thuẫn. Mĩ
không đạt được ý muốn lãnh đạo thế giới và chịu sự phản đối từ phía Anh, Pháp.
Pháp thì cho rằng Hịa ước đã khơng làm suy yếu hoàn toàn được Đức và nhân
nhượng quá nhiều với Mĩ. Ngay sau Hội nghị, Pháp còn tuyên bố là Hịa ước phải
được sửa đổi. Phía Italia và Nhật Bản chỉ thỏa mãn một phần nhỏ tham vọng của
mình. Nhật được bán đảo Sơn Đông và một số đảo ở Thái Bình Dương, song điều
Nhật muốn đưa vào Hiến chương Hội Quốc Liên điều khoản “quyền bình đẳng
giữa các chủng tộc” khơng được các nước chấp nhận. Chỉ có Anh là nước tạm thời
hài lịng nhất với những gì mình đạt được: duy trì địa vị đứng đầu thế giới về hải

quân, mở rộng thêm thuộc địa, tranh thủ sự vắng bóng của Mĩ trong Hội Quốc Liên
để nắm lấy tổ chức và đạt nhiều thỏa thuận với Mĩ.
Bằng các điều khoản trừng phạt về kinh tế khiến Đức vay nợ Mĩ, hệ thống
Hịa ước Versailles đã khơng kiềm chế được nước Đức mà ngược lại tạo điều kiện
cho Đức có cơ hội phục thù. Khủng hoảng kinh tế và sự phẫn nộ đối với Hiệp ước
ở Đức đã giúp thúc đẩy chủ nghĩa dân tộc cực đoan dẫn đến sự trỗi dậy của Adolf
Hitler và Đức Quốc xã, dẫn tới sự bùng nổ của Chiến tranh Thế giới thứ hai chỉ hai
thập kỷ sau đó. Hiệp ước cũng tạo cơ hội để Mĩ can dự sâu hơn vào châu Âu về
kinh tế. Kết quả là Hội nghị Versailles đã khơng đảm bảo được hịa bình cho các
dân tộc mà càng làm sâu sắc thêm mâu thuẫn giữa các nước đế quốc. Như Thống
chế Pháp Ferdinand Foch đã nói: “Đây khơng phải là một hội nghị hịa bình. Đây
là một thỏa ước ngừng bắn trong vòng 20 năm” 13. Để tiếp tục giải quyết những
bất đồng về quyền lợi, các quốc gia tiếp tục tham gia đàm phán tại một hội nghị
tiếp theo ở Washington.

13

Dennis E. Showalter, History in Dispute: World War I, First series, Benjamin Frankel, p. 281.


3. Hệ thống Hiệp ước Washington (1921 – 1922)
3.1.

Nguyên nhân ký Hiệp ước Washington

Hội nghị Versailles kết thúc nhưng những mâu thuẫn mới lại nảy sinh giữa
các cường quốc thắng trận, đặc biệt là mâu thuẫn giữa Anh, Mĩ và Nhật. Nói cách
khác, đó chính là ngun nhân dẫn đến việc ký kết Hiệp ước Washington. Cụ thể
như sau:
Thứ nhất, Hịa ước Versailles khơng giải quyết được mâu thuẫn giữa các

nước đế quốc. Mĩ cho rằng mình chưa giành được quyền lợi nào đáng kể và rất bất
bình trước việc Đức bị làm cho quá suy yếu, cũng như việc Hiệp ước Versailles
quyết định trao Sơn Đông cho Nhật – đối thủ cạnh tranh nguy hiểm của Mĩ ở Viễn
Đông. Mĩ đã nhân cơ hội các nước châu Âu lệ thuộc vào Mĩ về kinh tế để chấp
nhận cho Mĩ những quyền lợi chưa đạt được tại Hội nghị Versailles
Thứ hai, mâu thuẫn Anh – Mĩ về nguyên tắc “Two Power Standard” và sức
ép từ Mĩ lên liên minh Anh – Nhật. Từ trước, Anh đã có lợi thế trên Viễn Đông,
nhất là Trung Quốc, nơi người Mĩ luôn thèm khát. Hơn thế, với Hịa ước 1919,
Anh bảo tồn được địa vị của mình ở Viễn Đơng, điều này khiến Mĩ rất bất bình.
Để giải quyết, Mĩ sử dụng sức mạnh tài chính buộc Anh trả khoảng nợ 850 tỷ bảng
cho mình, vấn đề Ireland và đe dọa mối quan hệ Anh – Nhật. Chính phủ Anh đề ra
nguyên tắc “Two Power Standard” từ năm 1914, quy định hải quân Anh có hạm
đội bằng hai hạm đội mạnh nhất thế giới cộng lại, và điều đó khiến người Mĩ bất
bình và muốn thay đổi, xóa bỏ nguyên tắc này.
Thứ ba, chính là mâu thuẫn Mĩ và Nhật, đặc biệt về vấn đề Viễn Đông. Nhật
và Mĩ cùng chạy đua ảnh hưởng vào châu Âu, Nhật cũng là chủ nợ lớn thứ hai sau
Mĩ. Hơn hết, mục tiêu của Mĩ là vùng châu Á – Thái Bình Dương, điều này đặc
biệt gây xung đột lợi ích với Nhật Bản. Nhật có các căn cứ Hải quân thuận lợi,


cùng với việc mở rộng ảnh hưởng ở châu Á – Thái Bình Dương bằng “Hiệp ước
21 điểm” với Trung Quốc 14, đưa ra chính sách “Châu Á của người Châu Á” để
loại các đối thủ ra khỏi khu vực mà trước hết là Mĩ. Hơn nữa, việc xây dựng kênh
đào Panama để thông thương đã làm cho mâu thuẫn Nhật – Mĩ ngày càng tăng
thêm.
3.2.

Nội dung Hiệp ước Washington

Vào ngày 12/11/1921, Hội nghị Washington được khai mạc với sự tham gia

của 9 nước gồm Anh, Pháp, Mĩ, Italia, Nhật, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha và Trung
Quốc 15. Nước Nga Xô viết – một nước lớn ở khu vực đã không được mời tham dự
hội nghị. Quyền lãnh đạo Hội nghị nằm trong tay bốn nước Anh, Pháp, Mĩ, Nhật,
nhưng quyền quyết định thuộc về Mĩ. Những nghị quyết quan trọng nhất của Hội
nghị Washington được thể hiện trong ba hiệp ước sau.
3.2.1. Hiệp ước 4 nước
Hiệp ước 4 nước gồm Anh, Pháp, Mĩ, Nhật được gọi là “Hiệp ước khơng
xâm lược ở Thái Bình Dương” ký ngày 13/12/1921. Hiệp ước này cam kết duy trì
nguyên trạng ảnh hưởng của các nước ở Thái Bình Dương. Mục đích của Mĩ chính
là để giới hạn, khống chế ảnh hưởng của Nhật Bản tại khu vực này. Đồng thời Mĩ
còn can thiệp quan hệ Anh và Nhật ký kết từ năm 1902 nhằm cơ lập, khiến Nhật
khơng có chỗ dựa để chống Mĩ và ngăn Anh liên kết với Nhật để thốt khỏi ảnh
hưởng của Mĩ. Như vậy, Mĩ khơng chỉ phá vỡ liên minh Anh – Nhật mà còn trở
thành nước đóng vai trị chủ đạo trong bốn cường quốc ở khu vực Thái Bình
Dương.

14

Wilson (1960), Volume III: The Struggle for Neutrality 1914–1915, Arthur S. Link, p.267–308.
Thorson, Winston B. (1 January 1946), “Pacific Northwest Opinion on the Washington Conference of 19211922”, The Pacific Northwest Quarterly, p.109–127.
15


3.2.2. Hiệp ước 9 nước
Hiệp ước 9 nước gồm Anh, Pháp, Mĩ, Nhật, Italia, Bỉ, Hà Lan, Bồ Đào Nha,
Trung Quốc ký ngày 6/2/1922 gồm 9 điều công nhận nguyên tắc “hồn chỉnh về
lãnh thổ và tơn trọng chủ quyền của Trung Quốc”. Ngồi ra, cịn ký kết cơng ước
về thuế hải quan của Trung Quốc. Điều này nghĩa là Nhật Bản phải mở cửa cho
các quốc gia phương Tây đến Trung Quốc. Như vậy, Mĩ đã gạt bỏ được đặc quyền
của Nhật Bản ở Trung Quốc và hợp pháp hố sự bành trướng của mình vào Trung

Quốc – điều không thực hiện được trong Hội nghị Versailles.
3.2.3. Hiệp ước 5 nước
Hiệp ước 5 nước gồm Anh, Pháp, Mĩ, nhật, Italia ký kết cùng ngày 6/2/1922,
được gọi là “Hiệp ước hạn chế vũ trang và hải quân” phân chia trọng tải hải quân
các nước ở khu vực Thái Bình Dương. Trong đó, Mĩ và Anh bằng nhau: 525.000
tấn, Nhật: 315.000 tấn, Pháp và Italia bằng nhau: 175.000 tấn. Đồng thời cũng quy
định tỉ lệ tàu chở máy bay và tàu tuần dương hạm. Với hiệp ước này, Mĩ giành
được cân bằng hải quân với Anh – vốn là bá chủ trên mặt biển và nguyên tắc “Two
Power Standard” bị phá vỡ. Tuy khơng hài lịng, song Nhật đành chấp nhận sự
duy trì nguyên trạng các căn cứ hải quân ở châu Á – Thái Bình Dương bởi khi đã
mất đồng minh với Anh, Nhật khơng đủ khả năng đối phó với Mĩ.
3.3.

Kết quả của Hiệp ước Washington

Với hệ thống Hiệp ước Washington, Mĩ đã chi phối và lập nên một khn
khổ trật tự mới ở châu Á – Thái Bình Dương nhằm giải quyết quyền lợi cho mình.
Hội nghị Washington cũng khiến các cho quốc gia bất mãn, và nhất là Nhật Bản.
Hiệp ước Washington hồn tồn có lợi cho Mĩ, trong đó, Anh phải nhượng bộ từ
bỏ nguyên tắc “Two Power Standard”, đồng thời phải hủy bỏ liên minh Anh –
Nhật. Nhật Bản bị suy giảm sức mạnh trên biển, đồng thời phải chấp nhận nhượng


bộ trong vấn đề Trung Quốc. Từ đây Mĩ có thể xâm nhập vào thị trường Viễn
Đông và Trung Quốc thơng qua chính sách “mở cửa.”
Như vậy, các Hiệp ước ở Hội nghị Washington kết hợp với hệ thống Hòa
ước Versailles đã tạo nên “Hệ thống Versailles – Washington”. Đó là trật tự thế
giới mới mà chủ nghĩa đế quốc xác lập, trong đó “Big Three” Anh, Pháp, Mĩ giành
được nhiều ưu thế nhất và “7/10 dân cư thế giới trong tình trạng bị nơ dịch” theo
cách nói của Lênin. Với hệ thống này, nội bộ phe đế quốc cũng bị phân chia thành

những nước thỏa mãn và những nước bất mãn, là mầm mống nảy sinh những cuộc
xung đột quốc tế trong tương lai. Như thế, sau cuộc chiến tranh thế giới kéo dài
bốn năm từ 1912 – 1918 với những tổn thất nặng nề cho toàn nhân loại, hịa bình
đã được lập lại trong một thế giới chứa đựng nhiều mâu thuẫn và bất ổn.
4. Những tác động của trật tự này lên quan hệ quốc tế giai đoạn sau
Kết quả hệ thống Hòa ước Versailles – Washington rất rõ ràng là khơng ai
thấy hài lịng. Chính bởi cách phân chia lợi ích chỉ dựa trên lợi ích quốc gia là tối
thượng mà khơng xét đến lợi ích chung đã dẫn đến mâu thuẫn gay gắt giữa các đế
quốc, làm cho trật tự thế giới có nguy cơ tan vỡ.
Trong đó, tất cả các quốc gia đều có xu hướng muốn xóa bỏ trật tự thế giới
mới này, và ngay từ khi được thiết lập thì đã bị xói mịn bởi các quốc gia muốn lợi
ích riêng rẽ của họ. Đầu tiên là sự bất bình từ các nước thắng trận. Tại Hội nghị
Washington, nước Mĩ tuy đã phá vỡ được quan hệ liên minh Anh – Nhật và tạo ảnh
hưởng của mình lên Viễn Đơng nhưng vẫn khơng thấy hài lịng. Nước Pháp thì vẫn
muốn vắt kiệt nước Đức hơn nữa, trong khi nước Anh muốn Đức có thể đối trọng
với Pháp. Anh phải chấp nhận bỏ rơi đồng minh Nhật Bản và từ bỏ một phần lớn
ưu thế giành được tại Trung Quốc. Những Hiệp ước đã ký kết tại Hội nghị
Washington khiến Nhật Bản mất đi liên minh với Anh và lợi ích của mình tại châu
Á – Thái Bình Dương bị giảm đi đáng kể. Đây là cơ sở để Nhật Bản trong giai


đoạn lịch sử sau vươn lên trở thành một nước phát xít để giành lại lợi ích quốc gia
của mình. Bởi vậy, sau năm 1922, xu hướng quan hệ quốc tế là các quốc gia đều
muốn xóa Versailles – Washington để thiết lập một trận tự thế giới mới.
Thứ hai, trật tự thế giới này rõ ràng khiến Đức có nguy cơ mở ra một cuộc
chiến tranh khác trong lịch sử. Các điều khoản khắc nghiệt của Hòa ước Versailles
– Washington mà các nước thắng trận đã áp đặt đã gây nên phẫn nộ cùng chủ nghĩa
dân tộc cực đoan ở nước Đức. Hệ thống này khiến Đức phải chịu toàn bộ trách
nhiệm trong Thế chiến I, làm cho người Đức nhục nhã khi Đế chế hùng mạnh của
mình tan vỡ. Một yếu tố khác đã định trước sự sụp đổ của hệ thống Versailles –

Washington là các cường quốc khơng tính đến hậu quả kinh tế của các hiệp ước mà
họ ký kết, điều này gây gánh nặng lớn cho nền kinh tế thế giới với những khoản
thanh toán mà Đức khơng thể trả được. Các khoản thanh tốn bồi thường đã dẫn
đến sự xói mịn mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia đã hình thành trong nhiều
thế kỷ. Tất cả điều này khiến cho làn sóng chủ nghĩa dân tộc ở Đức dâng cao hơn
bất cứ lúc nào. Hơn nữa, việc Mĩ cho Đức vay nợ chính là một cơ hội để sau này
Đức mở ra một cuộc chiến tàn khốc hơn. Đồng thời, Hội Quốc Liên q yếu kém,
khơng hiệu quả và khơng có khả năng ngăn chặn được cuộc chiến tranh trong
tương lai.
Thứ ba, Hệ thống Hòa ước Versailles – Washington còn đặt ra những vấn đề
về các quốc gia thuộc địa và phục thuộc. Cụ thể, Hội Quốc Liên đã hệ thống hóa sự
bất bình đẳng dân tộc trong luật pháp quốc tế. Điều 22 đã từ chối trao quyền độc
lập cho Ả Rập, châu Phi và các đảo Thái Bình Dương từng do người Ottoman và
người Đức cai trị mà các nước này trở thành thuộc địa của đế quốc thắng trận. Kết
quả là có đến 70% dân cư thế giới bị nô dịch dưới ách thống trị của chủ nghĩa đế
quốc. Điều này là tiền đề tác động mạnh mẽ đến các phong trào dân tộc nổi dậy
chống lại đế quốc thực dân đến từ khắp nơi trên toàn thế giới vào giai đoạn sau.


KẾT LUẬN
Hệ thống Hòa ước Versailles – Washington của thế giới được tạo ra bởi các
quốc gia chiến thắng sau Thế chiến thứ nhất nhằm phản ánh tương quan lực lượng
mới giữa các nước tư bản. Bản chất của nó là xác lập sự áp đặt nô dịch của các
nước đế quốc thắng trận với các nước bại trận, đặc biệt là các dân tộc thuộc địa và
phụ thuộc. Các nước thắng trận, trước hết là Anh, Pháp, Mĩ, Nhật Bản giành được
nhiều quyền lợi về kinh tế còn các nước bại trận bị giày xéo một cách bất bình
đẳng sau chiến tranh.
Đằng sau những cụm từ hoa mỹ về “tự do”, “chủ nghĩa nhân đạo”, “chủ
nghĩa hịa bình” và “dân chủ” tại Hội nghị Versailles thực chất chính là tranh giành
ảnh hưởng, quyền lực và lợi ích giữa các quốc gia. Có thể thấy Hệ thống Hịa ước

Versailles – Washington là một hệ thống không ổn định, mất cân bằng và mong
manh. Điều này là cơ sở cho sự sụp đổ của nó và khởi đầu những cuộc xung đột
trực tiếp dẫn đến Chiến tranh thế giới thứ hai thậm chí cịn đẫm máu hơn sau này.
Qua trật tự thế giới thiết lập bởi hệ thống Hòa ước Versailles – Washington,
còn rút ra được bài học: Trong quan hệ quốc tế, các nước ln đặt lợi ích quốc gia
là tối thượng, là kim chỉ nam trong đối ngoại để hòa nhập vào trật tự thế giới, để
vận hành cho một quốc gia. Thắng bại trong cuộc chiến tranh quan trọng, quan
trọng là lợi ích mà quốc gia đạt được. Và đặc biệt khơng dồn bất cứ cái gì vào
đường cùng, giống như việc chủ nghĩa dân tộc Đức bị xúc phạm một cách nhục
nhã – tạo nên cơ sở hình thành cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai.
Như vậy, sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, hệ thống Hịa ước Versailles –
Washington được hình thành vẫn mang đầy đủ các mâu thuẫn trước đó, và cịn kết
hợp với nhiều mâu thuẫn mới. Cụ thể đó là mâu thuẫn giữa các nước tư bản thắng
trận trong chiến tranh, các nước tư bản thắng trận với các nước bại trận, các nước
đế quốc với các nước dân tộc thuộc địa.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu tiếng Việt
1. Vũ Dương Ninh (2006), Lịch sử Quan hệ Quốc tế, Tập 1, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
2. Tập tài liệu đọc (2017), Lưu hành nội bộ Khoa Chính trị Quốc tế và Ngoại
giao, Học viện Ngoại giao, 2017.
3. Đào Huy Ngọc (1995), Lịch sử quan hệ quốc tế 1870 – 1964, Học viện Quan
hệ Quốc tế, Hà Nội.
4. Trần Thị Vinh (2008), Lịch sử Thế giới hiện đại, Quyển 2, Nxb. Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
5. Lê Văn Quang (2002), Lịch sử Quan hệ Quốc tế 1917 – 1945, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
6. Đào Minh Hồng, Lê Hồng Hiệp (2013), Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế,

Khoa Quan hệ Quốc tế – Đại học KHXH&NV TPHCM.
Tài liệu tiếng nước ngoài
7. Joseph S. Nye (2007), “The Failure of Collective Security and World War
II” (Chapter 4), in Joseph S. Nye, “Understanding International Conflicts”,
New York: Longman.
8. Spencer C. Tucker (2005), World War One, ABC-CLIO, p.225.
9. Zara S. Steiner (2005), The Lights that Failed: European International
History 1919–1933, Oxford U.P, p.68.
10.George Scott (1974), The Rise and Fall of the League of Nations, New
York: Macmillan.
11.Erez Manela (2009), The Wilsonian Moment: Self-Determination and the
International Origins of Anticolonial Nationalism, New York: Oxford
University Press.


12.William R. Keylor (1998), The Legacy of the Great War: Peacemaking,
1919, Boston, MA: Houghton Mifflin, p.34.
13.John Milton Cooper, Jr. (2010), Breaking the Heart of the World: Woodrow
Wilson and the Fight for the League of Nations, New York: Cambridge
University Press.
14.Susan Pedersen (2015), The Guardians: The League of Nations and the
Crisis of Empire, New York: Oxford University Press.
15.Dennis E. Showalter, History in Dispute: World War I, First series,
Benjamin Frankel, p. 281.
Tài liệu trực tuyến
16.Nguyễn Thị Kim Hoa, “Hệ thống Hòa ước Véc-xai đối với các nước bại
trận”, THPT Nghèn, cập nhật lúc 15:24 ngày 22/10/2018.
17.Thái Minh Quân, “Một số vấn đề về sự thiết lập trật tự Versailles Washington sau chiến tranh thế giới thứ nhất”, Học mãi,
cập nhật
ngày 15/11/2019.

18.Nguyễn Hồng Bảo Thi, “Hội Quốc Liên (League of Nations), Nghiên cứu
quốc tế, cập nhật
ngày 12/09/2015.
19.Lê Hồng Hiệp, “Sự thất bại của chiến lược an ninh tập thể và chiến tranh
thế giới lần thứ hai”, Nghiên cứu quốc tế,
cập nhật ngày 06/01/2014.



×