TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỀU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Vận dụng lý thuyết về khủng hoảng kinh tế của Mác để phân tích
cuộc Đại suy thoái 1929-1939.
Họ và tên: Nguyễn Thị Thanh Xuân
Lớp: Anh 13 – KTKT – K59
Chuyên ngành: Kế toán kiểm toán
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Hoàng Văn Vinh
QUẢNG NINH – THÁNG 6 NĂM 2021
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU........................................................................................1
Chương I: QUAN ĐIỂM CỦA MARX VỀ KHỦNG HOẢNG KINH
TẾ.............................................................................................................2
1. Những lý luận của Marx về khủng hoảng kinh tế và bản chất
của nó..............................................................................................2
2. Những nguyên nhân gây ra khủng hoảng kịnh tế dưới cái nhìn
của Marx........................................................................................4
3. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế.........................................5
4. Lý thuyết của Mác về khủng hoảng kinh tế đối với cuộc khủng
hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua....................................................6
Chương II: CUỘC ĐẠI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ 19291933 ...........................................................................................................
.......8
1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933...................8
2. Nội dung cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933..........................8
3. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đến Việt
Nam...............................................................................................11
Chương III: NHỮNG BIỆN PHÁP CỦA MARX ĐỂ CHỐNG
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ...............................................................12
LỜI NĨI ĐẦU
Lehman Brothers – một tập đồn tư bản tài chính có lịch sử phát triển
suốt 158 năm và là một trong những tập đoàn lớn nhất nước Mỹ, mới
đây đã phải tuyên bố phá sản trước sức ép từ cuộc khủng hoảng kinh tế
thế giới. Trong khi đó hàng loạt các tập đoàn và ngân hàng khổng lồ
thậm chí đã phải cần đến sự cứu trợ khẩn cấp của chính phủ để tránh
khỏi kết cục xấu nhất. Tuy nhiên, có vẻ như điều đó đã được dự đốn
trước trong cuốn sách Das Kapital của Karl Marx. Marx đã đúng khi cho
rằng chủ nghĩa tư bản luôn tiềm tàng nguy cơ khủng hoảng. Marx đã
thấy trước được sự tồn tại song song của sức mạnh hủy diệt nằm bên
trong hệ thống TBCN dù ông chưa bao giờ dự báo hệ thống sẽ sụp đổ
một cách không thể tránh khỏi.
Những lý luận và quan điểm của Marx cùng cách giải thích của ơng
về chủ nghĩa tư bản và khủng hoảng kinh tế đã giúp chúng ta có những
cái nhìn đúng đắn va xác thực nhất về vấn đề này. Marx cũng đưa ra
nhiều biện pháp để chống khủng hoảng và kiềm chế sự suy thoái trong
kinh tế. Những biện pháp của Marx vẫn có ý nghĩa rất lớn trong bối cảnh
hiện nay, chúng vẫn phát huy được tác dụng ở tầm vĩ mô khi được vận
dụng một cách hợp lý và linh hoạt. Một học giả nổi tiếng đã nhận định:
“Càng suy xét về cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu hiện nay, ta càng
thấy Karl Marx vĩ đại.”
Chương I: QUAN ĐIỂM CỦA MARX VỀ KHỦNG
HOẢNG KINH TẾ
1. Những lý luận của Marx về khủng hoảng kinh tế và bản chất
của nó
Ngay từ khi tiền tệ xuất hiện trong hang hóa giản đơn, nó đã mang
trong mình mầm mống của sự khủng hoảng. Đến chủ nghĩa tư bản,
khi mà nền sản xuất đã được xã hội hóa cao độ, khủng hoảng kinh
tế là điều không thể tránh khỏi. Sự ra đời của cuộc đại cơng nghiệp
cơ khí đầu thế kỉ XIX đã làm cho quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa bị gián đoạn bởi cuộc khủng hoảng mang tính chu kỳ. Hình
thức đầu tiên và phổ biến trong nền sản xuât tư bản chủ nghĩa
chính là khủng hoảng sản xuất “thừa” với các biểu hiện chủ yếu
sau:
• Khủng hoảng sản xuất thừa của tư bản công nghiệp do sự
tắc nghẽn trong q trình lưu thơng hàng hóa của tư bản
thương nghiệp.
• Khủng hoảng tài chính tiền tệ do sự dư thừa của các loại
giấy tờ có giá. Sự dư thừa của tư bản tiền tệ trong hệ thống
các ngân hàng dẫn đến những cuộc khủng hoảng tiền tệ giữa
các quốc gia do sự di chuyển của các dịng vốn lưu thơng, gây
nê sự thiếu tiền ở thị trường này nhưng thừa tiền ở thị trường
khác.
• Khủng hoảng nợ cơng do sự dư thừa của trái phiếu Chính
phủ, thứ để biến những khoản tiền tiết kiệm cuối cùng của
người dân trở thành tư bản.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học thuyết kinh tế
chính trị Marx-Lenin. Theo Marx, khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá
trình tái sản xuất đang bị suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm
những xung đột giữa các giai cấp trong xã hội thêm căng thẳng đồng
thời nó tái khởi động một q trình tích tụ tư bản mới. Nhiều học giả cho
rằng tự bản thân Karl Marx không đưa ra kết luận cuối cùng về bản chất
của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. Thực vậy, những
nghiên cứu của ông gợi ý nhiều lý luận khác nhau mà tất cả chúng đều
gây tranh cãi. Một đặc điểm chủ yếu của những lý luận này là khủng
hoảng không phải ngẫu nhiên và khơng phải mà nó bắt nguồn từ bản
chất của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một hinh thái xã hội. Marx viết:
“Cản trở của nền sản xuất tư bản chính là tư bản.”
Những lý luận này bao gồm:
Xu hướng giảm tỷ suất lợi nhuận: Tích tụ tư bản gắn liền
xu hướng chung của mức độ tập chung tư bản. Điều này nó
làm giảm tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và
có thể đưa đến khủng hoảng.
Tiêu thụ dưới mức: Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc
đấu tranh giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc lột
thêm lao động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi đó
nền kinh tế tư bản đối với vấn đề thường xuyên là nhu cầu
tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và tổng
cầu không tương xứng với tổng cung.
Sức ép lợi nhuận từ lao động: Tích tụ tư bản có thể đẩy nhu
cầu th mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền
lương tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt
đến một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thối kinh tế.
Theo đó, khi khủng hoảng nổ ra, hàng hóa khơng tiêu thụ được, sản xuất
bị thu hẹp, nhiều doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, công nhân thất nghiệp,
thị trường rối loạn. Hàng hóa bị thừa so với sức mua có hạn của quần
chúng lao động phải phá hủy trong khi hàng triệu người lao động lại lâm
vào tình trạng đói khổ vì họ khơng có khả năng thanh toán.
Cuộc khủng hoảng kinh tế đầu tiên trong chủ nghĩa tư bản diễn ra ở Anh
năm 1825 và cuộc khủng hoảng đầu tiên diễn ra trên quy mơ tồn thế
giới nổ ra năm 1847. Các cuộc khủng hoảng diễn ra mang tính chu kỳ đã
gây nhiều thiệt hại cho giai cấp tư bản và đẩy người dân lao động vào
bần cùng hóa. Marx đã nói: ” Khủng hoảng kinh tế là người bạn đồng
hành của chủ nghĩa tư bản.”
2. Những nguyên nhân gây ra khủng hoảng kinh tế dưới cái nhìn
của Marx
Theo Marx, nguyên nhân của khủng hoảng tư bản chủ nghĩa bắt nguồn
từ chính mâu thuẫn cơ bản của chủ nghĩa tư bản.
Thứ nhất, đó là những mâu thuẫn nội tại của chủ nghĩa tư bản:
Mâu thuẫn giữa nền sản xuất đại kế hoạch của tư bản công
nghiệp và giới hạn thị trường với sự gia nhập tự do của tư bản
thương nghiệp làm giảm dần tỷ suất lợi nhuận bình qn.
Mâu thuẫn giữa tính chun mơn hóa trong lao động của nền
kinh tế tư bản chủ nghĩa với cơ cấu lao động bất hợp lý.
Mâu thuẫn từ việc nguồn gốc giá trị thặng dư được tạo ra từ
khu vực sản xuất nhưng bị tước đoạt quá nhiều do sự phát
triển ngày càng phình to của khu vực phi sản xuất (chứng
khoán, bất động sản)
Mâu thuẫn do mất cân đối giữa tiết kiệm, đầu tư và tiêu dùng.
Đầu tư và tiêu dùng thường lớn hơn nhiều so với tiết kiệm khi
tiền tệ được luân chuyển qua hệ thống các ngân hàng đồng
thời tạo lên gánh nặng lạm phát rất cao vào các thời điểm nền
kinh tế đang hưng thịnh, mở đầu cho một sự gia tăng lãi suất
đột biến, dẫn đến sự bùng nổ của khủng hoảng.
Thứ hai, đó là mâu thuẫn giữa trình độ xã hội hóa cao của lực lượng sản
xuất với chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất chủ
yếu của xã hội:
Mâu thuẫn giữa tính tổ chức, tính kế hoạch trong từng xí
nghiệp rất chặt chẽ và khoa học với khuynh hướng tự phát vơ
chính phủ trong xã hội.
Mâu thuẫn giữa khuynh hướng tích lũy, mở rộng vô giới hạn
của tư bản với sức mua ngày càng eo hẹp của quần chúng do
bị bần cùng hóa.
Mâu thuẫn đối khàng giữa giai cấp tư bản và giai cấp vô sản
và những người lao động làm thuê.
Marx đã mổ xẻ những nguyên nhân cốt lõi gây nên khủng hoảng kinh tế
và điều đó khơng chỉ chính xác với những cuộc khủng hoảng nửa cuối
thế kỷ XIX, nửa đầu thế kỷ XX mà cịn có phần đúng đắn đối với cuộc
khủng hoảng kinh tế tồn cầu hiện nay.
3. Tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế xuất hiện làm cho quá trình sản xuất tư bản của
chủ nghĩa tư bản mang tính chu kỳ. Chu kỳ kinh tế của chủ nghĩa tư bản
là khoảng thời gian nền kinh tế tư bản vận động từ đầu cuộc khủng
hoảng này đến đầu cuộc khủng hoảng sau. Một chu kỳ kinh tế kéo dài
khoảng từ 8 đến 12 năm. Karl Marx chính là người đầu tiên phát hiện ra
tính chu kỳ của khủng hoảng kinh tế gồm có bốn giai đoạn theo thứ tự:
Khủng hoảng, tiêu điều, phục hồi và hưng thịnh.
- Khủng hoảng: Là giai đoạn khởi điểm của chu kỳ kinh tế mới. Ở
giai đoạn này, hàng hóa ế thừa, giá cả giảm mạnh, sản xuất đình
trệ, xí nghiệp đóng cửa, cơng nhân thất nghiệp hàng loạt, tiến cơng
hạ xuống. Tư bản mất khả năng thanh tốn các khoản nợ, phá sản,
lực lượng sản xuất bị phá hoại nghiêm trọng. Đây là giai đoạn mà
các mâu thuẫn biểu hiện dưới hình thức xung đột dữ dội.
- Tiêu điều: Đặc điểm ở giai đoạn này là sản xuất ở trạng thái trì trệ,
khơng cịn tiếp tục đi xuống nhưng cũng khơng tăng lên, thương
nghiệp vẫn đình đốn, hàng hóa được đem bán hạ giá, tư bản rảnh
rỗi nhiều vì khơng có nơi để đầu tư. Trong giai đọa này để thốt
khỏi tình trạng bế tắc, các nhà tư bản trụ lại dược tìm cách giảm
chi phí bằng cách hạ giá tiền công, tăng cường độ và thời gian lao
động của công nhân, đổi mới tư bản cố định làm tăng nhu cầu về tư
liệu sản xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi
chung của nền kinh tế.
- Phục hồi: Là giai đoạn mà các xí nghiệp được khơi phục và mở
rộng sản xuất. Công nhân lại được thu hút vào làm việc, mức sản
xuất đạt đến quy mô cũ, giá cả hảng hóa tăng lên từ đó lợi nhuận tư
bản cũng tăng lên.
- Hưng thịnh: Là giai đoạn sản xuất phát triển vượt quá thời điểm
cao nhất mà chu kỳ trước đã đạt được. Nhu cầu và khả năng tiêu
thụ hàng hóa tăng, xí nghiệp được mở rộng và xây dựng thêm. Nhu
cầu tín dụng tăng, ngân hàng tung tiền cho vay, năng lực sản xuất
lại vượt quá sức mua của xã hội. Do đó lại tạo điều kiện cho một
cuộc khủng hoảng kinh tế mơi ra đời.
Marx đã khẳng định rằng khủng hoảng kinh tế là điều không thể tránh
khỏi trong thế giới tư bản chủ nghĩa. Tuy nhiên, cần có sự can thiệp tích
cực của nhà nước tư sản vào quá trình kinh tế. Sự nghiệp can thiệp này
dù không triệt tiêu được khủng hoảng và tính chu kỳ của nó trong nền
kinh tế nhưng cũng có thể hạn chế được những tác động xấu của khủng
hoảng.
4. Lý thuyết của Marx về khủng hoảng kinh tế đối với cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua
a, Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế
Có thể miêu tả quá trình dẫn tới khủng hoảng một cách cụ thể như sau:
nhà sản xuât dùng giấy ghi nợ của người tiêu dùng làm thế chấp để vay
tiền ngân hàng. Ngân hàng chuyến các thế chấp này thành cổ phiếu để
bán trên thị trường chứng khốn. Vì được dùng trước trả sau nên người
tiêu dùng tăng tiêu dùng, dẫn đến tăng cầu. Do tăng cầu nên nhà sản xuât
tăng giá sản phẩm (dù thu về chỉ là giấy ghi nợ) do đó cổ phiếu cũng
tăng giá trên thị trường chứng khoán, tạo nên một ảo tưởng là ai cũng
giàu lên. Dây chuyền này chỉ bị phá vỡ khi ngân hàng địi nhà sản xuất
thanh tốn thực thụ và vì người tiêu dùng đã tiêu dùng vượt quá khả
năng thanh toán thực thụ nên các giấy ghi nợ mà nhà sản xuất dùng làm
thế chấp khơng đưa lại đúng giá trị của nó. Nhà sản xuất tuyên bố vỡ nợ.
Giá của các cổ phiếu giảm mạnh và mất gái trị. Các Ngân hàng đứng
trước nguy cơ phá sản vì nợ xấu. Lúc này Chính phủ quyết định dùng
ngân sách để cứu một số ngân hàng lớn để tránh khỏi việc sụp đổ toàn
bộ hệ thống.
b, Chủ nghĩa Marx và sự phê phán hệ thống TBCN
Một trong những nguyên nhân nền tảng được những người theo chủ
nghĩa tân tự do nhắc đến là “sự tham lam quá độ” tính ích kỷ của con
người. Với cách nhìn nhận này nguyên nhân được gắn cho các cá nhân
va các bản chất cố hữu của họ, còn bản thân cấu trúc thể chế là tốt. Các
phân tích khác thì gán cho các tổng giám đốc các nhà điều hành không
đủ năng lực và sự công tâm. Hiển nhiên, các lập luận này có phần đúng
tuy nhiên cần phải thấy rằng trong một thế giới phức tạp với vô số các
kênh tác động của các công cụ tài chính như hiện nay vấn đề khơng thể
là tìm ra người tồn tài như vậy. Vấn đề chính là xây dựng một cỗ máy
thể chế mà những con người như hiện tại có thể điều hành được nó.
Khi nhìn nhận như vậy, người ta tất yếu sẽ quay lại với cách nhìn tổng
thể kinh tế chính trị của CNTB như Marx đã từng nhìn nhận. Thậm chí
sâu xa hơn cỗ máy thể chế này cũng phải thúc đẩy sự phát triển của bản
chất con người với các bản chất mới giá trị mới. Tức là những thể chế đó
có chức năng khai mờ nhận thức, biến đổi con người trở nên vị tha và
khôi phục đúng bản chất con người.
Quay lại với cuộc khủng hoảng có thể thấy nguyên nhân sâu xa là bắt
đầu từ cuộc khủng hoảng những năm 1970. Trong suốt thời gian này số
liệu cho thấy: thu nhập thực tế của người lao động đã không tăng mặc dù
năng suất lao động tăng đáng kể (wolff 2008). Nói cách khác xét về mặt
tổng thể, mặc dù số lượng hàng hóa tăng lên đáng kể nhưng khả năng
thanh toán cuẩ người lao động vẫn giữ nguyên. Do vậy, việc cho vay
tiêu dùng là tất yếu. Việc cho vay như vậy rõ ràng chỉ có thể trì hỗn
được khủng hoảng chứ không chữa được căn bệnh kinh niên là người
lao động tiêu dùng phần khơng thuộc về mình trong tổng sản phẩm.
Phần khơng thuộc về mình là phần mà đáng ra nó (sản phẩm thặng dư
đó) phải thuộc về người lao động, nhưng cấu trúc sở hữu và hệ thống
chính trị pháp lý đã đảm bảo rằng nó thuộc về giới chủ tư bản. Đây là
nguyên nhân sâu xa nhất mà nếu không giải quyết được mức hệ thống sẽ
không bao giờ giải quyết được căn bệnh khủng hoảng chu kỳ.
Ngoài ra khi nhìn vào hệ thống kinh tế TBCN hiện đại, sự cạnh tranh vì
lợi nhuận đã dẫn đến các doanh nghiệp, vốn có tính chất cơng, như các
doanh nghiệp đánh giá mức độ rủi ro, cung cấp thông tin về khả năng
sinh lợi của các giấy tờ có giá (cổ phiếu, trái phiếu,...) lại khơng có động
cơ làm tốt việc đó. Chính vì thiếu các thơng tin và sự kiểm soát này mà
mâu thuẫn nền tảng giữa chủ và thợ về phân phối lợi ích rịng, giá trị
thặng dư đã được che dấu và tích tụ dưới sự phức tạp của các cơng cụ tài
chính, các bong bóng chứng khoán hay bất động sản cho đến khi chúng
chạm trần giới hạn.
c, Các ý nghĩa chính trị
Với tất cả sự hồi sinh của cách nhìn phê phán Marx, cần phải nói rằng
việc hệ thống TBCN có các nhược điểm như vậy không chứng tỏ việc
hơn hẳn của hệ thống kinh tế kế hoạch tập trung XHCN như đã từng có.
Cũng như việc chỉ ra người khác xấu cũng chưa chứng tỏ rằng mình là
người tốt, và đây là điều cần cảnh báo đầu tiên bởi vì chúng ta đã thấy
có những kết luận khoa học kiểu này, và thậm chí cịn được tán đống bởi
các nhóm lợi ích muốn giữ nguyên trạng những điều bất hợp lý. Theo
nhiều chỉ số kinh tế, hệ thống kinh tế như hiện tại của chúng ta cũng
chưa có gì để khẳng định tính ưu việt.
CHƯƠNG II: CUỘC ĐẠI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ 1929 –
1933
1. Nguyên nhân cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933
Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929-1933 bắt nguồn từ các nước
tư bản với sự chạy đua sản xuất hàng loạt hàng hóa số lượng lớn, mong
đạt lợi nhuận khổng lồ. Từ đó, người dân khơng tiêu thụ hết dẫn tới thừa
hàng hóa tràn lan, tạo nên sự mất cân bằng về cung cầu, tiền mất giá,
kinh tế đi xuống trầm trọng. Đong thời làm các mối quan hệ các nước
xấu đi, xảy ra nhiều mâu thuẫn và tranh chấp quyền lợi.
Về bản chất, cuộc khủng hoảng này xảy ra bởi các nước tư bản chạy
theo lợi nhuận, vì thế sản xuất hàng hóa một cách ồ ạt. Tuy nhiên sức
mua của người dân lại giảm sút vì quần chúng quá nghèo khổ. Đây được
xem là cuộc khủng hoảng sản xuất thừa.
Cuộc khủng hoảng này đã phản ánh chính xác những mâu thuẫn sâu sắc
trong nội bộ phe đế quốc cũng như những căn bệnh của chủ nghĩa tư
bản.
2. Nội dung cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933
a, Diễn biến cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933
Vào tháng 9/1929, cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu bùng nổ bắt nguồn
từ nước Mỹ (đây là nước tư bản phát triển nhất thời điểm đấy). Do vậy,
đây cũng là khủng hoảng lớn nhất thời điểm đó với sức tàn phá nặng nề
khiến cho kinh tế nước Mỹ kiệt quệ, công nhân thất nghiệp, các cơ sở
sản xuất phải đóng cửa. Lạm phát cao người dân thống khổ, nghèo đói.
Nước Mỹ chạy đua ồ ạt sản xuất các mặt hàng nhưng khó tiêu thụ, hàng
ế tràn lan. Sản lượng cơng nghiệp giảm sút 50% vì trì trệ với gang thép
giảm 75%, ơ tơ giảm 90%. Hàng loạt xí nghiệp lớn bị phá sản, nông dân
thất thu nghèo khổ.
Cuộc khủng hoảng này cũng ảnh hưởng đến các nước tư bản khác. Hàng
loạt các nước Anh , Pháp cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Pháp kéo dài
khủng hoảng từ 1930 đến 1936 với công nghiệp giảm 30%, nông nghiệp
giảm 40%, thu nhập quốc dân giảm 30%. Bên cạnh đó thì ở Anh, sản
lượng gang năm 1931 cũng giảm sụt 50%, thép sụt gần 50%, thương
nghiệp sút giảm nặng nề 60%. Nước Đức đến năm 1930, sản lượng công
nghiệp cũng giảm nghiêm trọng 77%. Không những thế, các nước Ba
Lan, Ý, Ru-ma-ni, Nhật,... đều có những khủng hoảng kinh tế.
Các nhà tư bản lựa chọn giải pháp thà đổ hàng hóa, tiêu hủy chứ khơng
bán rẻ, hạn chế lạm phát vẫn không ăn thua. Tư bản đánh sưu thuế tăng
cao để bù lỗ càng khiến nhân dân thêm lầm than, oán hận.
b, Đặc điểm cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933
Cuộc khủng hoảng kinh tế tầm thế giới thực chât là sự tham lam, tàn độc
của đế quốc và thực dân dẫn tới cảnh người dân khốn cùng cực khổ, điêu
đứng rồi phải vùng dậy đấu tranh dành lại cuộc sống. Từ đó khiến cho
mâu thuẫn giữa nội bộ quốc gia và giữa các nước bùng cháy, khởi nguồn
cho cuộc chiến tranh thế giới mới.
Cuộc khủng hoảng kéo dài tận 4 năm và để lại nhiều hậu quả tàn phá đất
nước và kinh tế nặng nề. Sau đó các nước phải mất nhiều năm cố gắng
để phục hồi lại mọi thứ.
c, Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933
Thứ nhất là nạn thất nghiệp
Năm 1933 ở nước Mỹ có 17 triệu người thất nghiệp, cùng với vô số
nông dân bị phá sản và phải bỏ ruộng vườn đi ra thành phố sống lang
thang. Năm 1931 ở nước Anh có 3 triệu ngườ thất nghiệp. Các nước tư
bản khác cũng xảy ra những tình trạng tương tự...
Thứ hai là tiền lương giảm xuống nhiều
Lương công nhân cơng nghiệp ở nước Mỹ chỉ cịn 56%. Tại nước Anh
lương giảm còn 66%. Tại nước Pháp lương giảm từ 30 đến 40%. Bên
cạnh đó giá đồng bạc giảm xuống làm cho tiền lương thực tế giảm sút rất
nhiều. Mức sống nông dân giảm 2,7 lần ở Pháp, nhiều người dân phá
sản. Chính vì thế mà đời sống nhân dân lao động rất khổ cực.
Thứ ba là sự vùng lên đấu tranh của nhân dân
Công nhân và nhân dân lao động vùng lên đấu tranh bởi cuộc sống quá
khổ cực bị dồn đến đường cùng. Năm 1930 ở Mỹ có 2 vạn cơng dân thị
uy. Bên cạnh đó, từ năm 1929-1933 có hơn 3 triệu cơng nhân tham gia
bãi cơng. Cịn với nước Đức, năm 1930 cũng có 15 vạn cơng nhân bãi
cơng và năm 1933 lại có 35 vạn cơng nhân mỏ bãi công.
d, Nhận xét về cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933
Lĩnh vực kinh tế
Cuộc khủng hoảng kinh tế 1929 đến 1933 khiến nền kinh tế bị tàn phá
nặng nề khơng chỉ ở các nước tư bản mà cịn ở các nước thuộc địa và
phụ thuộc. Hàng loạt nhà máy, xí nghiệp, doanh nghiệp, cửa hàng đóng
cửa, nơng dân mất ruộng đất rơi vào cảnh lầm than nghèo đói.
Lĩnh vực chính trị - xã hội
Kinh tế khủng hoảng khiến chính trị bất ổn, xã hội loạn lạc với các cuộc
đấu tranh, biểu tình triền miên. Cuộc sống khơng bình n, khắp nơi ốn
than căm phẫn.
Về quan hệ quốc tế
Hình thành hai khối đế quốc đối đầu với nhau: Một bên là Mỹ, Anh,
Pháp một bên là Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản. Các nước tăng cường chạy đua
vũ trang ráo riết chuẩn bị cho cuộc chiến tranh thế giới mới chia lại thị
phần.
3. Ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-1933 đến Việt
Nam
Những tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế từ 1929 đến 1933 là gì?
Có thể thấy, giai đoạn 1929-1933 ở các nước tư bản chủ nghĩa nói chung
hay nước Pháp nói riêng đêu bị ảnh hưởng nặng nề bởi những hậu quả
do cuộc khủng hoảng thừa gây ra. Cuộc khủng hoảng này đã tác đọng
trực tiếp đến nền kinh tế nước ta:
- Thực dân Pháp đã rút vốn đầu tư ở Đông Dương về các ngân hàng
Pháp, đồng thời lại dùng ngân sách Đông Dương để hỗ trợ cho tư
bản Pháp. Chính điều này đã làm sản xuất cơng nghiệp ở Việt Nam
bị thiếu vốn lại dẫn đến trì trệ.
- Lúa gạo trên thị trường thế giới bị mất giá cũng khiến cho lúa gạo
Việt Nam không xuất khẩu được => Dẫn đến tình trạng ruộng đất
bị bỏ hoang.
- Hậu qủa là nền kinh tế của Việt Nam lâm vào tình trạng khủng
hoảng nghiêm trọng: ruộng đất bỏ hoang, cơng nghiệp suy sụp,
xuất khẩu bị đình đốn,... Những điều này đã làm cho đời sống của
đại bộ phận nhân dân Việt Nam lâm vào cảnh khó khăn khốn cùng.
* Cơng nhân thất nghiệp ngày càng đơng, số người có việc làm thì
tiền lương giảm 30 đến 50%
* Nơng dân tiếp tục bị bần cùng hóa và phá sản trên quy mô lớn.
* Tiểu tư sản lâm vào cảnh điêu đứng: Nhà bn nhỏ đóng cửa,
viên chức bị sa thải, học sinh, sinh viên ra trường bị thất nghiệp.
* Một bộ phận lớn tư sản dân tộc lâm vào cảnh khó khăn do khơng
thể bn bán và sản xuất.
- Khơng những thế, thực dân Pháp còn tăng sưu thuế lên gấp 2, 3 lần
cùng với việc đẩy mạnh các chính sách khủng bố trắng nhằm dập
tắt phong trào cách mạng Việt Nam... Có thể thấy cuộc sống người
dân Việt Nam ngày càng khốn khổ tột cùng.
CHƯƠNG III: NHỮNG BIỆN PHÁP CỦA MARX ĐỂ CHỐNG
KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
Theo Marx, để chống khủng hoảng kinh tế và tác động xấu của tính chu
kỳ trong khủng hoảng, ta cần kéo dài thời gian phục hồi, hưng thịnh và
rút ngắn thời gian khủng hoảng, tiêu điều trong một chu kỳ kinh tế.
Trong luận thuyết đó, Marx đã đề ra những biện pháp chống khủng
hoảng kinh tế chủ yếu sau:
• Hạn chế và cố gắng triệt để những mâu thuẫn sẵn có và mâu
•
•
•
•
•
•
thuẫn mới phát sinh trong hệ thống tư bản chủ nghĩa. Việc
giải quyết thỏa đáng được các mâu thuẫn có thể giúp ngăn
chặn khủng hoảng kinh tế và giảm trừ được thiệt hại to lớn
một khi khủng hoảng kinh tế xảy ra.
Khi xảy ra khủng hoảng các nhà tư bản phải giảm chi phí sản
xuất bằng cách hạ thấp tiền công, tăng cường độ và tời gian
lao động của công nhân đồng thời đổi mới tu bản cố định
(máy móc, thiết bị,..). Từ đó làm tăng nhu cầu về tư liệu sản
xuất và tư liệu tiêu dùng, tạo điều kiện cho sự phục hồi chung
của nền kinh tế.
Nhà nước cần có tác động trong việc xây dựng một hệ thống
ngân hàng thống nhất, đảm bảo mức cung ứng tiền tệ ổn định
trong nền kinh tế, đảm bảo mức lãi suất chênh lệch giũa các
ngành có tỷ suất lợi nhuận khác nhau.
Giảm thuế và hạ lãi suất cho vay để kích cầu nền kinh tế để từ
đó giảm được khó khăn về tài chính cho các doanh nghiệp và
người lao động.
Các nhà tư bản cần phải kết hợp quá trình đào tạo qua sự phát
triển của lực lượng sản xuất với khoa học kỹ thuật để đảm
bảo cho cơ cấu lao động ở mức hợp lý, phù hợp với điều kiện
sản xuất của từng quốc gia nhưng không bị chi phối của giới
hạn thị trường.
Cân bằng hợp lý giữa cung và cầu trên thị trường. Qua đó
thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định và tránh khỏi những
biến động lớn.
Các tập đồn, cơng ty lớn phải được đặt dưới sự bảo trợ của
nhà nước, hay nói cách khác là quốc hữu hóa một phần kinh
tế tư nhân tư bản chủ nghĩa. Từ đó nâng cao sự hiệu quả trong
tổ chức quản lý và hạn chế được nhiều rủi ro trong hoạt động.
Các biện pháp chống khủng hoảng và suy giảm kinh tế của Marx là rất
thiết thực và mang tính vận dụng cao. Chúng có thể phát huy hiệu quả
cao nếu được áp dụng hợp lý trong từng hoàn cảnh và điều kiên cụ thể.
Những tư tưởng cua Marx mang cá tính thời đại lẫn tiên tri, điều đó tạo
nên giá trị của học thuyết Marx.
KẾT LUẬN
Marx đi trước thời đại của mình rất xa, ơng đã dự đốn được sự tồn cầu
hóa thành công của chủ nghĩa tư bản trong mấy chục năm gần đây. Marx
dự đốn chính xác một số yếu tố quan trọng gây ra khủng hoảng kinh tế:
trong một thế giới gồm các thị trường cạnh tranh nhau, nền sản xuất
hàng hóa và sự đầu cơ tài chính tiền tệ, những gì ơng gọi là “mâu thuẫn”
chính là thứ cố hữu bẩm sinh của thế giới đó.
Dù ở thời đại Marx hay thời đại chúng ta, Marx đều không phải là người
thúc đẩy cơng cuộc tồn cầu hóa tư bản. Nhưng Marx cho rằng “ Nhu
cầu không ngừng mở rộng thị trường tiêu thủj sản phẩm đã thúc đẩy giai
cấp tư sản đi khắp nơi trên toàn cầu”, và thấy được sự phát triển của chủ
nghĩa tư bản sẽ không thể tránh khỏi dẫn tới việc “mở đường cho những
cuộc khủng hoảng sâu sắc rộng khắp hơn”. Marx hiểu rõ các hành vi đầu
cơ sẽ gây ra khủng hoảng và làm cho nó xấu đi, các hành vi ấy có swucs
phá hoại rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế. Hơn nữa ơng cịn nhìn rõ biện
pháp gọi là thơng qua cải cách kiểu tiệm tiến (Incremental reform) để
mãi mãi tránh khỏi khủng hoảng chẳng qua là một ảo tưởng chính trị.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình kinh tế chính trị Marx-Lenin,
Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, Năm 2006.
2. Vũ Khoan. Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và một số vấn đề đặt ra
với nền kinh tế Việt Nam. Tạp chí Cộng sản số 9 năm 2009.
3. Michael Robert. The Great Depression. www.marxist.com/world,
26 September 2008.
4. Marx hoàn toàn hiện đại (Throughly Modern Marx), GS Leo
Panitch ở Đại học York tại Toronto, Canada, biên tập viên tập san
Socialist Register, đăng trên tạp chí Mỹ Chính sách ngoại giao
(Foreign Policy) số 5-6 năm 2009.