TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: Vận dụng quan điểm của Mác về lạm phát để phân tích
siêu lạm phát ở Đức năm 1923
Họ và tên:Tương Ngọc Văn
Lớp: Anh 13– KTKT – K59
Chuyên ngành: Kế toán kiểm toán
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Văn Vinh
QUẢNG NINH – THÁNG 6 NĂM 2021
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU….…………………………………………………………………1
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VỀ LẠM PHÁT, PHƯƠNG THỨC
ĐO LƯỜNG VÀ CÁCH KIỂM SOÁT LẠM PHÁT……………………..2
LẠM PHÁT LÀ GÌ VÀ VÌ SAO CĨ LẠM PHÁT………………3
1.1.1. KHÁI NIỆM LẠM PHÁT…………………….……………….3
a, khái niệm…………………………………………………………3
b, một số khái niệm liên quan………………………………………3
1.1.2. NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN VIỆC LẠM PHÁT…………….4
1.2.
PHƯƠNG THỨC ĐO LƯỜNG VÀ CÁCH KIỂM SOÁT LẠM
PHÁT……………………………………………………………….4
1.2.1. PHƯƠNG THỨC ĐO LƯỜNG PHỔ BIẾN………………….4
1.2.2. CÁCH KIỂM SOÁT LẠM PHÁT …...………………………..5
a, tác động của lạm phát tới nền kinh tế………………………….5
b, cách kiểm soát…………………………………………………6
1.1.
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ SIÊU LẠM PHÁT Ở ĐỨC NĂM 1923………………..7
2.1.
SIÊU
GÌ?....................................................................7
LẠM
PHÁT
LÀ
2.1.1. SIÊU LẠM PHÁT……………………………………………….7
a, Khái niệm………………………………………………………7
b, Đặc điểm……………………………………………………….7
c, Điểm khác so với lạm
phát……………………………………..7
2.2. SIÊU LẠM PHÁT Ở ĐỨC NĂM 1923…………………………….8
2.2.1. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở ĐỨC NĂM 1923………………..8
a, Sơ lược về siêu lạm phát của Đức……………………………..8
b, Nguyên nhân dẫn tới siêu lạm phát của Đức…………………11
c, Giải pháp của Đức ……………………………………………
12
KẾT LUẬN………………………………………………………………………15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO……………………………………….16
LỜI NĨI ĐẦU
Hiện nay vấn đề lạm phát vẫn cịn xảy ra ở một số nơi trên thế giới. Lạm phát
dẫn đến ảnh hưởng rất nhiều tới tình hình kinh tế của các quốc gia và liên quan đến
toàn cầu. Nó làm cho đồng tiền khơng cịn có giá trị như bình thường, làm cho ảnh
hưởng rất nhiều tới các doanh nghiệp tư nhân và thị trường tài chính của các quốc
gia.
Một trong những số đó là siêu lạm phát ở Đức năm 1923. Nó dẫn đến một
hiện tượng khủng hoảng kinh hoàng ở Đức đánh thẳng vào quần chúng nhân dân ở
Đức. Nguyên nhân là do sau chiến tranh thế giới thứ nhất, do Đức là nước thua trận
nên phải bồi thường và bị chịu những hình phạt của các nước thắng trận. Từ đó nó
dẫn tới sự lạm phát kinh hoàng, đồng tiền ở Đức gần như là mất giá hồn tồn.
Người dân ở Đức cịn dùng tiền để đốt thay củi vì dùng tiền đi mua củi cịn tốn hơn
là đốt ln tiền, trẻ con ở Đức dùng tiền để làm diều và làm đồ chơi cho chúng.
Cho chúng ta thấy mức độ kinh hoàng của lạm phát ở Đức nó lớn đến mức nào. Từ
đó để chúng ta rút ra kinh nghiệm và cách giải quyết cho vấn đè lạm phát một cách
thỏa mãn được dân chúng và làm ít ảnh hưởng tới các quốc gia láng giềng của
chúng ta.
Do vậy, em đã lựa chọn đề tài “Vận dụng quan điểm của Mác về lạm phát để
phân tích siêu lạm phát ở Đức năm 1923” để phân tích rõ về siêu lạm phát ở Đức
dựa trên quan điểm của Mác về vấn đề lạm phát. Từ đó rút ra một số kinh nghiệm
và bài học để tránh đi vào vết xe đổ của các cường quốc kinh tế thời trước.
5
CHƯƠNG 1: QUAN ĐIỂM CỦA MÁC VỀ LẠM PHÁT, PHƯƠNG THỨC
ĐO LƯỜNG VÀ CÁCH KIỂM SOÁT LẠM PHÁT.
1.1.
LẠM PHÁT LÀ GÌ VÀ VÌ SAO
1.1.1. KHÁI NIỆM LẠM PHÁT
CĨ LẠM PHÁT.
a, Khái niệm
-
-
-
Thuật ngữ “lạm phát” ban đầu được sử dụng để chỉ sự gia tăng số lượng tiền
trong lưu thông. Hiện nay một số nhà kinh tế vẫn sử dụng từ này theo cách
này.
Tuy nhiên, hầu hết các nhà kinh tế hiện nay đều sử dụng thuật ngữ “lạm
phát” để chỉ một sự gia tăng trong mức giá.
Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và dịch
vụ theo một khoảng thời gian nhất định, làm cho đồng tiền bị mất giá trị hơn
so với trước.
Khi mức giá chung tăng cao, vẫn với một số tiền nhất định thì sẽ mua được
ít hàng hóa và dịch vụ hơn so với trước đây. Do đó nó cịn phản ánh sự suy
giảm sức mua của đồng tiền.
Khi so sánh với các nền kinh tế khác thì lạm phát được hiểu là sự giảm giá
trị đồng tiền của quốc gia này so với đồng loại của quốc gia khác.
Đây là một hiện tượng kinh tế tự nhiên xảy ra ở tất cả nền kinh tế dùng tiền
mặt để làm trung gian thanh tốn. Đơn vị tính của là phần trăm (%). Hiện
nay, lạm phát có 3 mức độ gồm:
• Tự nhiên: 0 – dưới 10%
• Phi mã: 10% đến dưới 1000%
• Siêu lạm phát: trên 1000%c.
6
(Trên thực tế, các quốc gia chỉ kì vọng chỉ xảy ra khoảng 5% trở xuống là
con số lí tưởng)
-
b, Các khái niệm liên quan
Để phân biệt với sự tăng giá cả, mà cũng có thể được gọi cho rõ ràng là ‘lạm
phát giá cả. Các khái niệm kinh tế khác liên quan đến bao gồm:
•
•
•
•
•
1.1.2.
Giảm phát– là sự sụt giảm trong mức giá chung.
Thiểu phát– là làm giảm tỷ lệ.
Siêu lạm phát– là một vịng xốy ngồi tầm kiểm sốt.
Tình trạng lạm phát– là một sự kết hợp của nhiều vấn đề. Tăng trưởng
kinh tế chậm và thất nghiệp cao.
Tái lạm phát– là một sự nỗ lực nâng cao mức giá chung để chống lại áp
lực giảm phát.
NGUYÊN NHÂN DẪN ĐẾN VIỆC LẠM PHÁT
Có rất nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, trong đó “lạm phát do cầu kéo”
và “do chi phí đẩy” được coi là hai nguyên nhân chính. Cân đối thu chi là việc làm
cần thiết để tránh khỏi khi xảy ra. Chi tiết các nguyên nhân như sau:
•
Do cầu kéo
Khi nhu cầu của thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ kéo theo sự tăng
lên về giá cả của mặt hàng đó. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó mà leo
thang. Dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường.
Lạm phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng) được gọi là
“lạm phát do cầu kéo”. VD: như giá xăng tăng lên, kéo theo rất nhiều sản phẩm
khác tăng theo như giá cước taxi, giá hoa quả…
•
Do chi phí đẩy
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu đầu vào,
máy móc, chi phí bảo hiểm cho cơng nhân, thuế… Khi giá cả của một hoặc vài yếu
tố này tăng lên thì tổng chi phí sản xuất của các doanh nghiệp chắc chắn cũng tăng
lên.
Vì thế mà giá thành sản phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận. Như thế
là mức giá chung của toàn thể nền kinh tế cũng sẽ tăng.
•
Do cơ cấu
7
Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công “danh nghĩa”
cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh doanh khơng hiệu
quả. Các doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền cơng cho người lao
động.
Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả. Nên khi phải tăng
tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá thành sản
phẩm. Việc này để đảm bảo mức lợi nhuận và phát sinh lạm phát.
•
Do cầu thay đổi
Khi thị trường đang giảm nhu cầu tiêu thụ về một mặt hàng nào đó. Sẽ dẫn đến
lượng cầu về một mặt hàng khác lại tăng lên. Và nếu thị trường có người cung cấp
độc quyền về giá cả có tính chất cứng nhắc (chỉ có thể tăng mà khơng thể giảm).
Như giá điện ở Việt Nam), thì mặt hàng mà lượng cầu giảm vẫn khơng giảm giá.
Trong khi đó mặt hàng có lượng cầu tăng thì lại tăng giá. Kết quả là mức giá chung
tăng lên, dẫn đến lạm phát.
•
Do xuất khẩu
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường tiêu thụ
lượng hàng nhiều hơn cung cấp).
Khi đó sản phẩm được thu gom cho xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị
trường trong nước giảm (hút hàng trong nước) khiến tổng cung trong nước thấp
hơn tổng cầu. Khi tổng cung và tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.
•
Do nhập khẩu
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả trên thế
giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức giá chung
bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
•
Lạm phát tiền tệ
Khi lượng cung tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng trung ương
mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so với ngoại tệ.
Hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà nước làm cho
lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra lạm phát.
1.2.
PHƯƠNG THỨC ĐO LƯỜNG VÀ CÁCH KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
8
PHƯƠNG THỨC ĐO LƯỜNG PHỔ BIẾN
Lạm phát được đo lường bằng cách theo dõi sự thay đổi giá cả của một
lượng lớn các hàng hóa và dịch vụ trong một nền kinh tế, thông thường dựa
trên dữ liệu được thu thập bởi các tổ chức Nhà nước…
Giá cả của các loại hàng hóa và dịch vụ được tổ hợp với nhau để đưa ra một
chỉ số giá cả đo mức giá cả trung bình, là mức giá trung bình của một tập
hợp các sản phẩm. Tỷ lệ lạm phát là tỷ lệ phần trăm mức tăng của chỉ số này.
Không tồn tại một phép đo chính xác duy nhất cho chỉ số lạm phát. Giá trị
của chỉ số này phụ thuộc vào tỷ trọng mà người ta gán cho mỗi hàng hóa
trong chỉ số. Cũng như phụ thuộc vào phạm vi khu vực kinh tế mà nó được
thực hiện.
Hiện nay, thước đo lạm phát phổ biến nhất chính là chỉ số giá tiêu dùng CPI
(consumer price index). Đây là chỉ số đo giá cả của một số lượng lớn các
loại hàng hóa và dịch vụ. Bao gồm thực phẩm, lương thực, chi trả cho các
dịch vụ y tế…, được mua bởi “người tiêu dùng thơng thường”.
1.2.1.
-
-
-
-
Ví dụ: Vào tháng 1 năm 2016, chỉ số giá tiêu dùng CPI của Mỹ là
202,416 USD; và vào tháng 1 năm 2017 thì chỉ sổ CPI là là 211,080
USD. Sử dụng công thức để tính tốn tỷ lệ phần trăm lạm phát hàng năm
bằng chỉ số CPI trong suốt năm 2017 là:
((211,080 – 202,416)/ 202,416) x 100% = 4.28%
•
Từ đó ta ra kết quả là tỷ lệ lạm phát đối với CPI trong khoảng thời gian một
năm này là 4,28%. Nghĩa là mức giá chung cho người tiêu dùng điển hình
của Mỹ trong 2017 đã tăng khoảng hơn 4% so với năm 2016.
1.2.2. CÁCH KIỂM SOÁT LẠM PHÁT
a, Tác động của lạm phát tới nền kinh tế
Ảnh hưởng đến các nền kinh tế theo nhiều cách tích cực và tiêu cực khác nhau.
Trong đó:
– Tác động tiêu cực của lạm phát là tạo ra sự gia tăng chi phí cơ hội của việc tích
trữ tiền. Sự khơng chắc chắn về tình hình lạm phát trong tương lai có thể ngăn cản
quyết định đầu tư và tiết kiệm.
9
Nếu lạm phát tăng trưởng đủ nhanh, sự khan hiếm của hàng hóa sẽ khiến người
tiêu dùng bắt đầu lo lắng về việc giá cả sẽ tăng cao trong thời gian tới.
– Tác động tích cực trong một vài trường hợp có thể làm giảm thiểu tỷ lệ thất
nghiệp dựa trên giá cả cứng nhắc.
Nhưng tác động tích cực khơng nhiều mà chủ yếu là tác động tiêu cực. Vì vậy mà
các chính phủ của các nước ln tìm cách để khắc phục lạm phát ở mức độ cho
phép.
b, Cách kiểm sốt
Có nhiều phương pháp và chính sách đã và đang được sử dụng để kiểm soát lạm
phát. Bao gồm:
– Giảm lượng tiền giấy lưu thông để giảm bớt lượng nhà rỗi dư thừa bằng cách:
+ phát hành trái phiếu
+ tăng lãi suất tiền gửi
+ giảm sức ép lên giá cả, hàng hóa dịch vụ..
=> Để từ đó làm giảm lạm phát; giảm lượng tiền là biện tình thế trong thời gian
ngắn nhất
– Thi hành chính sách tài chính thắt chặt như:
+ tạm hoãn các khoản chưa chưa cần thiết.
+ cân đối lại ngân sách Nhà nước
+ cắt giảm chi tiêu
– Tăng quỹ hàng hóa tiêu dùng để cân đối với số lượng tiền có trong lưu thơng
+ khuyến khích tự do mậu dịch
+ giảm thuế quan
+ các biện pháp hàng hóa từ ngồi vào
– Đi vay viện trợ nước ngoài
– Cải cách tiền tệ
10
CHƯƠNG 2: VẤN ĐỀ SIÊU LẠM PHÁT Ở ĐỨC NĂM 1923
2.1. SIÊU LẠM PHÁT LÀ GÌ?
2.1.1. SIÊU LẠM PHÁT
a, Khái niệm
-
Siêu lạm phát là tình trạng lạm phát cao, có tác động phá hoại nền kinh tế
nghiêm trọng. Thông thường, tốc độ tăng giá chung ở mức 3 chữ số hàng
năm thì gọi là siêu lạm phát.
Cịn có thể nói “siêu lạm pháp” là một thuật ngữ để mô tả sự tăng giá chung
nhanh chóng, q mức và ngồi tầm kiểm soát trong một nền kinh tế. Trong
khi lạm phát là thước đo tốc độ tăng giá hàng hóa và dịch vụ, siêu lạm phát
tăng giá nhanh hơn nhiều so với lạm phát, thường đo được ở mức tăng hơn
50% mỗi tháng.
b, Đặc điểm
-
-
-
Siêu lạm phát là một thuật ngữ để mơ tả sự tăng giá nhanh chóng, q mức
và ngồi tầm kiểm sốt trong một nền kinh tế, thường ở mức vượt quá 50%
mỗi tháng theo thời gian.
Siêu lạm phát có thể xảy ra trong thời kỳ chiến tranh và bất ổn kinh tế trong
nền kinh tế sản xuất cơ bản, kết hợp với một ngân hàng trung ương in một số
tiền nhiều hơn thực tế quá mức.
Siêu lạm phát có thể gây ra sự tăng giá đối với các mặt hàng cơ bản, như
thực phẩm và nhiên liệu, khi chúng trở nên khan hiếm.
Mặc dù siêu lạm phát thường rất ít khi xảy ra nhưng một khi chúng bắt đầu
chúng có thể vượt khỏi mọi tầm kiểm sốt.
c, Điểm khác so với lạm phát
-
Siêu lạm phát có tốc độ phát triển nhanh chóng và vượt tầm kiểm sốt của
lạm phát rất nhiều lần.
11
2.2. SIÊU LẠM PHÁT Ở ĐỨC NĂM 1923.
2.2.1. TÌNH HÌNH LẠM PHÁT Ở ĐỨC NĂM 1923.
a, Sơ lược về siêu lạm phát của Đức
- Năm 1923, nước Đức trải qua thời kỳ siêu lạm phát trầm trọng khi tỷ lệ lạm phát
lên tới 29.500%. Vụ lạm phát tồi tệ này đã ảnh hưởng lớn đến cuộc sống của người
dân, thậm chí người ta cịn đốt tiền thay cho củi và than.
-
Nước Đức trải qua thời kỳ siêu lạm phát kể từ năm 1921. Đến năm 1923,
Đức rơi vào lạm phát trầm trọng nhất vào hồi tháng 10/1923 khi tỷ lệ lạm
phát lên tới 29.500%.
12
Trẻ em chuẩn bị thả diều làm bằng giấy bạc ngân hàng (ảnh: Keystone/Getty Images)
-
Nhân viên các công ty mang vali và balô đi làm để nhận tiền lương, rồi sau
đó kiếm ngay cửa hàng gần nhất để tiêu ngay kẻo tỷ giá lại tăng lên. Giấy
bạc ngân hàng có mệnh giá tăng nhanh hàng tuần. Khi đồng 1000 tỷ mark ra
đời, người ta chẳng buồn nhận tiền trả lại nữa. Siêu lạm phát lên đến đỉnh
điểm vào tháng 10 năm 1923 khi mệnh giá tiền lên tới 100 nghìn tỷ mark.
Đồng tiền đã trở nên vô nghĩa.
13
-
-
Vào thời điểm 12/1923, người Đức phải bỏ ra 4.200 tỷ mác (papiermark) để
đổi lấy 1 USD. Điều này cho thấy vụ lạm phát phi mã tồi tệ này ảnh hưởng
nghiêm trọng đến cuộc sống của người dân ra sao.
Do đồng mác bị mất giá thảm hại do lạm phát nên người dân Đức dùng đến
củi và than để thay cho đồng tiền đang lưu hành vào những năm 1920.
Thậm chí, có những người cịn dùng tiền để đốt vì chúng còn rẻ hơn so với
việc bỏ tiền ra mua củi và than.
Một gia đình đã bán nhà và muốn di cư sang Mỹ, nhưng khi tới cảng
Hamburg mới nhận ra rằng số tiền họ có khơng cịn đủ cho vé tàu sang Mỹ
và thậm chí khơng cịn đủ tiền mua vé tàu về nhà nữa. Một người vào tiệm
cà phê, uống 2 ly cà phê với giá 5.000 mark một ly, nhưng khi thanh tốn, họ
bị địi trên 14.000 mark với lý do, lẽ ra ông ta phải đặt 2 ly cà phê cùng một
lúc, vì trong thời gian ông ta uống hết ly cà phê đầu, giá cà phê đã tăng lên.
Có người muốn đi xem kịch, mang theo vài trăm triệu mark, nhưng khi tới
14
-
quầy bán vé thì bọc tiền đó khơng đủ nữa, vì vé vào cửa đã lên tới một tỉ
mark.
Trong thời gian đó, tỉ lệ lạm phát lên tới hàng chục nghìn phần trăm một
tháng và trên thực tế, chẳng cịn gì chắc chắn được nữa, mọi trật tự cũ đã
mất và cùng với nó là niềm tin vào nền cộng hịa, nền dân chủ và nói chung
là niềm tin vào tương lai. Người ta cịn có thể trơng đợi vào điều gì, khi một
phần lớn cơng dân nhìn thấy những của cải dành dụm được của mình bị mất
đi, bị cướp đi, trong khi nhà nước có thể dễ dàng xóa bỏ gánh nợ của mình.
Nhà sử học Martin Geyer ở Munich nhận xét: "Nạn lạm phát đã phá hủy
nguyên tắc cơ bản của nhà nước pháp quyền về "trung thành và lòng tin".
b, Nguyên nhân dẫn tới siêu lạm phát của Đức
-
-
Ban đầu, người ta cho rằng nguyên nhân của cuộc siêu lạm phát này là việc
chính phủ Đức in quá nhiều tiền để chi tiêu cho chiến tranh. Nhưng nguyên
nhân thực sự đã được hé lộ vài năm sau. Đó là chính phủ Đức quyết định
vay mượn để chi trả chiến tranh. Năm 1919, giá cả gần như đã tăng gấp đôi
và nước Đức thất trận. Khoản tiền bồi thường sau chiến tranh được quy định
trong Hiệp ước Versailles buộc Đức phải trả bằng vàng hay ngoại tệ tương
ứng thay vì đồng mark. Để mua số ngoại tệ này, chính phủ Đức đã phải sử
dụng đồng papiermark được đảm bảo bằng nợ chính phủ và vì vậy đã làm
tăng tốc độ phá giá đồng tiền. Ngoài ra đây cũng là 1 thủ đoạn "trốn thuế"
của chính phủ Đức với quân Hiệp ước. Tình trạng càng trở nên tồi tệ hơn khi
Đức không thể trả được các khoản nợ và quân đội Pháp và Bỉ đã chiếm
thung lũng Ruhr vào tháng 1/1923 để đòi Đức phải trả bằng hiện vật. Sự việc
này đã nhanh chóng đẩy nền kinh tế Đức rơi vào lạm phát phi mã.
Bên cạnh đó, người do thái, những ông trùm tài phiệt kinh tế đã lợi dụng tình
trạng này để làm giàu một cách nhanh chóng và chiếm lấy tài sản của tồn
nước Đức vào tay mình. Cơ chế như sau: Khi lạm phát đẩy giá cả hàng hóa
lên quá cao, đồng Mark mất giá, những khoản tích lũy cả đời của những gia
đình Đức bỗng chốc trở lên vơ nghĩa, đến lúc đó, những tài sản còn lại của
họ chỉ còn là hiện kim, hiện vật. Đồ cổ trang sức có giá rẻ như bèo vì phải
bán tống bán tháo để đổi lấy thực phẩm và đồ sinh hoạt. Khi đó chỉ cần có
vài đồng Dollar thơi là bạn có thể mua cả 1 gia tài. Và tất nhiên, những tài
sản đó đã chảy hết vào túi các nhà Ngân Hàng Do Thái. Đó cũng chính là lý
do người Đức đồng lịng bầu cho Hitler khi ông tuyên bố tiêu diệt do thái để
giành lại "quyền lực" cho người Đức.
15
-
-
-
-
Về cơ bản, nạn siêu lạm phát đã bắt đầu với cuộc Chiến tranh Thế giới thứ
Nhất. Chi phí cho quân đội và vũ khí vượt qua mọi khả năng tưởng tượng,
nước Đức ước tính đã chi 160 tỉ mark cho chiến tranh, một con số khổng lồ.
Đế chế này chỉ có thể chi phí được số lượng tiền khổng lồ đó bằng cách
kiếm được tiền bằng những biện pháp bất thường.
Khi Thế chiến 1 kết thúc, khoản tiền bồi thường sau chiến tranh được quy
định trong Hiệp ước Versailles buộc Đức phải trả bằng vàng hay ngoại tệ
tương ứng thay vì đồng mác.
Để làm điều này, ngày 4/8/1914, chỉ 3 ngày sau khi nước Đức tuyên chiến
với nước Nga, Quốc hội Đức đã thông qua cái gọi là Luật tiền tệ, thay đổi
một cách cơ bản thị trường tiền tệ Đức. Việc dùng vàng bảo đảm cho đồng
mark đã bị hủy bỏ. Nói một cách khác, nước Đức tự do in tiền để lấy tiền chi
phí cho chiến tranh mà khơng có gì bảo đảm cho giá trị đồng tiền.
Khối lượng tiền mặt được đưa vào lưu hành tăng vọt, từ 13 tỉ mark vào năm
1913 đã lên tới 60 tỉ mark khi chiến tranh kết thúc. Tuy nhiên, việc in tiền
cũng khơng đủ để chi trả. Vì vậy, nhà nước phải vay của dân với tổng số lên
tới gần 100 tỉ mark. Ban đầu, người Đức nhắm mắt ký giấy cho nhà nước
vay tiền với hy vọng nhanh chóng có một chiến thắng qn sự. Vì vậy,
khoản nợ của nhà nước đã tăng vọt từ 5 tỉ lên 156 tỉ mark. Năm 1918, chính
khách thuộc Đảng Xã hội Eduard Bernstein đã cảnh báo: "Có một giới hạn
mà việc in tiền sẽ gây lạm phát, tác động tới sức mua của đồng tiền". Nhưng
chẳng ai chịu nghe và khối lượng tiền đưa vào lưu hành liên tục gia tăng,
trong khi thị trường hàng hóa ngày càng co lại. Chính điều này đã làm tăng
tốc độ phá giá đồng tiền đang lưu thông.
c, Giải pháp của Đức
-
-
Sau một thời gian dài lâm vào tình trạng lạm phát, chính phủ Đức lập một
ngân hàng trung ương đặc biệt và cho phát hành loại tiền tệ mới là
rentenmark với tỷ giá 4,2 rentenmark/USD và giảm bớt 12 số 0 trên tờ tiền
papiermark.
Lúc đó, người ta nhận ra rằng chỉ có một bước ngoặt tiền tệ mạnh mẽ mới có
thể ngăn chặn việc tiếp tục phá giá đồng tiền và thiết lập lại được trật tự.
Khi 1 USD đổi được gần 4.200 tỉ mark và tỉ lệ lạm phát ước tính 750 tỉ phần
trăm, chính phủ Đức của Thủ tướng Gustav Stresemann phải hành động với
việc ngừng các máy in tiền và tiến hành cải cách tiền tệ vào ngày 15/11/1923
và đưa đồng rentenmark vào lưu hành. Do khơng có vàng để bảo đảm giá trị
đồng tiền, chính phủ tuyên bố thế chấp bằng bất động sản của các ngành
16
-
-
-
-
-
công nghiệp và nông nghiệp trị giá 3,2 tỉ rentenmark. Khi đó, một nghìn tỉ
mark cũ đổi được một rentenmark, tương đương với giá 15,4 xu của năm
1914. Từ 30/8/1924, đồng rentenmark đã trở thành đồng tiền chính thức và
đồng tiền lại bắt đầu có giá.
Những người bị thiệt hại nhiều nhất là những người có tài sản bằng tiền,
những người gửi tiết kiệm, những người giữ công trái, những người nhận
lương hưu trí và những người sống vào tiền lãi từ vốn đầu tư. Phần lớn tầng
lớp trung lưu đã cảm thấy mình bị tước đoạt, họ đã mất hầu hết những gì mà
họ đã dành dụm trong nhiều năm trời.
Cả các ngân hàng, quỹ tiết kiệm và bảo hiểm cũng bị thiệt hại nặng nề về
vốn. Năm 1924, họ hầu như bắt đầu kinh doanh lại từ đầu.
Ngược lại, những người hưởng lợi là những người bị nợ nhiều, trước hết là
nhà nước và những cá nhân đã vay nợ để mua nhà, đất xây dựng hoặc ruộng
đất và món nợ được giảm mạnh do chuyển sang đồng rentenmark. Một số
nhà công nghiệp được hưởng lợi đặc biệt nhiều từ nạn siêu lạm phát.
Hugo Stinnes, như tạp chí Time gọi ơng là “Hồng đế mới của nước Đức” đã
mua lại được một loạt công ty từ những ngành cơng nghiệp nặng, báo chí,
tàu thuyền, khách sạn với những khoản nợ khổng lồ. Mùa hè 1922, Stinnes
còn kêu gọi phải tiếp tục sử dụng “vũ khí lạm phát”. Nói chung, các chủ nhà
máy và các thợ thủ công là những người được lợi từ cuộc khủng hoảng: Họ
sở hữu máy móc, nhà xưởng, những giá trị vật chất vượt qua được sự biến
động của tiền tệ.
-Hầu hết nông dân cũng sống rất sung túc qua thời kỳ siêu lạm phát. Nhà
văn Lion Feuchtwanger mơ tả: “Nhiều nơng dân có rất nhiều tiền. Có người
mua cả một chuồng đầy ngựa đua, có người thì mua xe ơ tơ hạng sang”.
Chưa bao giờ nước Đức lại trải qua việc phân chia lại tài sản về cơ bản như
vậy.
Sau khi phát hành đồng tiền mới rentenmark với 1.000 tỉ mark cũ đổi được 1
đồng rentenmark, hệ thống tiền tệ dần đi vào ổn định.
Nhằm ngăn chặn thảm họa đó, lẽ ra trong thập kỷ giữa 1914 và 1924 phải có
một số diễn biến khác. Lẽ ra cần có một quyền lực nhà nước có khả năng
quyết định, tức là một chính phủ mạnh, được nhân dân ủng hộ, coi trọng
việc sử dụng ngân sách tiết kiệm và dàn xếp tốt hơn với quân đồng minh.
Đồng thời, nước ngoài, đặc biệt là Pháp, cần lưu ý hơn tới tình hình khó
khăn của nước Đức đang chịu nhiều nợ nần và xử sự một cách nhạy cảm
hơn. Nhưng trước hết, lẽ ra các nước đồng minh phải nhanh chóng tạo ra sự
rõ ràng về mức phải bồi thường chiến tranh.
17
-
-
Nhưng nước Đức đã rơi vào một dạng vơ chính phủ về tài chính. Khơng cịn
bình tĩnh nữa, nhiều người Đức đã tìm cách thốt khỏi thực tế cay đắng. Họ
rời bỏ đất nước. Các nhà chức trách ghi nhận năm 1923, số người di cư
nhiều gấp ba lần so với năm trước đó. Nhiều người tham gia các giáo phái và
nhiều người tự tử. Và hàng triệu người đã trở nên cực đoan.
Việc Hitler nổi lên không phải là ngẫu nhiên vào tháng 11/1923, đỉnh cao
của cuộc lạm phát, khi y tiến hành một cuộc đảo chính ở Munich.
Phóng viên Xammar đã trực tiếp chứng kiến cuộc đảo chính này. Trước đó,
ơng ta vừa phỏng vấn Adolf Hitler, người sẽ trở thành tên độc tài của nước
Đức. Hitler tuyên bố: “Vấn đề quan trọng nhất hiện nay là chi phí để duy trì
cuộc sống q cao. Chúng tơi muốn làm cho chi phí cuộc sống rẻ hơn. Để
làm điều này, những cửa hàng bách hóa phần lớn trong tay người Do Thái
phải được chuyển giao cho sự quản lý của nhà nước. Và chúng ta có thể
trơng chờ mọi điều kỳ diệu của những cửa hàng nhà nước này”.
18
KẾT LUẬN
Ta có thể thấy rằng vấn đề lạm phát nó đã gây ra hậu quả vơ cùng nặng nề đối với
nền kinh tế của Đức. Nó đã giáng một địn nặng nề với Đức, nhưng ngun nhân
chính gây ra lại là do chính chính quyền nhà nước của Đức tạo ra. Vì chính quyền
Đức đã khơi mào cho cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và chính Đức lại là quốc
gia thua trận nên đã phải chịu hình phạt của các nước thắng trận. Chính điều đó đã
gây ra việc siêu lạm phát ở Đức làm cho quần chúng nhân dân khổ cực và cuộc
sống trở nên càng khó khăn.
Vậy nên từ Đức chúng ta nên rút ra những kinh nghiệm về kinh tế của đất nước ta,
chúng ta phải chống lại lạm phát và nếu nó có xảy ra thì phải tìm được cách khắc
phục sớm nhất để nó khơng làm ảnh hưởng nặng nề tới nền kinh tế của chúng ta.
Hơn thế nữa, chúng ta phải học cách vượt qua giai đoạn khủng hoảng nặng nề nếu
có xảy ra để đưa nền kinh tế của Việt Nam trở nên vững mạnh trong tương lai.
Quan điểm của Mác về lạm phát làm cho ta hiểu rõ hơn về lạm phát và những khái
niệm liên quan tới nó. Và hơn hết cho chúng ta biết hậu quả nặng nề của lạm phát
gây ra cho các nền kinh tế và tình hình của các quốc gia. Từ đó chúng ta hcoj được
cách hạn chế lại sự lạm phát và cách khắc phục nó.
19
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
2.
3.
4.
5.
6.
/> /> /> /> /> />
20