TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Thực trạng phân hố giàu nghèo của Việt Nam từ
2008-2018
Họ và tên: Thiều Quang Tú
Lớp: Anh 13 – KTKT – K59
Chuyên ngành: Kế Toán Kiểm Toán
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hoàng Văn Vinh
HÀ NỘI – THÁNG 6 NĂM 2021
MỤC LỤC
LỜI NĨI ĐẦU....................................................................................................1
PHẦN I: NỀN TẢNG LÍ LUẬN CHUNG.......................................................2
1.1: Người giàu và người nghèo .......................................................................2
1.1.1: Quan điểm về người giàu ..........................................................................2
1.1.2: Quan điểm về người nghèo .......................................................................3
1.2: Quan điểm về sự “phân hóa giàu nghèo” ................................................4
1.3: Hình thành sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta .......................................5
1.3.1: Nguyên nhân trực tiếp ...............................................................................5
1.3.2: Nguyên nhân sâu xa ..................................................................................6
PHẦN II: THỰC TRANG PHÂN HÓA GIÀU NGHÈO CỦA VIỆT NAM
2008-2018 ...........................................................................................................6
2.1: Thực trang về phần hóa giàu nghèo ở nước ta .......................................7
2.2: Tác động của phân hóa giàu nghèo ..........................................................11
2.3: Giải pháp ....................................................................................................13
2.3.1: Chiều hướng giải quyết .............................................................................13
2.3.2: Trách nhiệm của nhà nước ........................................................................13
KẾT LUẬN ........................................................................................................15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................16
LỜI NÓI ĐẦU
Như chúng ta đã biết thực trạng phân hóa giàu nghèo là một vấn đề nhức nhối mà gần
như xã hội. Thế giới đang dần dần bước vào thời kì tồn cầu hóa với sự phát triển nhanh
và mạnh của nhiều nước. Họ canh tranh nhau không ngừng, vì vậy sẽ có những người vì
một lý do nào đấy tụt lại phía sau. Phân hóa giàu nghèo càng diễn ra theo chiều hướng
xấu đi. Hiện tại, vấn đề này được nhiều nước cực kì quan tâm nó mang tính cấp thiết và
cực kì quan trọng.
Với đất nước Việt Nam đổi mới kinh tế từ năm 1986 đã nhanh chóng thúc đẩy phát triển
kinh tế, đưa Việt Nam từ một nước nghèo nhất thế giới trở thành quốc gia có thu nhập
trung bình. Với sự chuyển đổi, xây dựng, và phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của nhà nước, theo định hướng
XHCN, cùng các chính sách mở cửa, hội nhập, đã đem lại nhiều thành tựu to lớn về kinh
tế, xã hội, đời sống Từ đó, đã giúp rất nhiều người thốt khỏi nghèo đói đời sống kinh tế
giáo dục không ngừng được nâng cao.Với việc phát triển kinh tế nhanh sẽ dẫn đến những
bất ổn tiêu cực lâu dài cho nền văn hóa, con đường phát triển kinh tế Việt Nam muốn
hướng đến.
Từ năm 2008-2018 trong giai đoạn Việt Nam luôn là nước phát triển khá cao, mức độ đơ
thị hóa ngày càng gia tăng, người dân từ các vùng nồng thôi đổ xô lên các thành phố lớn.
Thu nhập bình quân đầu người tăng lên nhưng tốc độ của người nghèo luôn thua người
giàu khoảng cách đương nhiên sẽ càng ngày càng lớn.
Từ những điều trên, người viết đã chọn đề tài “Thực trạng phân hoá giàu nghèo của
Việt Nam từ 2008-2018” nhằm mục đích phân tích làm rõ thêm thực trạng phân hóa giàu
nghèo trong thời kì kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam trong
giai đoạn này nhằm mục đích ổn định thăng bằng hạn chế sự bất bình trong thu nhập.
PHẦN I: NỀN TẢNG LÍ LUẬN CHUNG
1
1.1: Người giàu và người nghèo
Phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng xã hội nó phản ánh sự phân tầng của
xã hội giữa những nhóm người với nhau, phản ánh thực tại cuộc sống của nền kinh
tế thị trường. Là sự phân chia xã hội chủ yếu về mặt kinh tế, giáo dục, y tế được
thế hiện qua tài sản trình độ, lối sống và cách sống. Từ đó ta có thể đưa ra tiêu chí
để đánh giá sự phân hoá giàu nghèo là dựa trên quan điểm nào? Trên thế giới người
ta thường dùng 2 tiêu chí hay hai phương pháp để đánh giá sự phân hoá giàu
nghèo. Theo cơng thức 1/n: trong đó n là % dân cư để so sánh. Ví dụ: nếu theo cột
dọc giữa người giàu và người nghèo ta lấy 5 % người thu nhập thấp nhất ở cột thấp
nhất so với 5% người thu nhập cao nhất thì tỷ lệ là 1/5, tức chênh lệch nhau 20 lần.
Đây là một mức độ khơng nguy hiểm của sự phân hố giàu nghèo.
Hệ số tập trung Gini là hệ số thay đổi từ 0 đến 1 cho biết mức độ công bằng phân
chia trong thu nhập thấp. Nếu hệ số này càng thấp thì mức bình đẳng của mọi
người càng thấp. Hệ số này cũng đã được sử dụng để đánh giá mức độ công bằng
của cuộc sống hay sự phân chia giàu ngèo của từng vùng với nhau hoặc từng nhóm
xã hội. Theo hệ số Gini này (hay theo nhà kinh tế học người Mỹ Kuznet) trong thời
kỳ nền kinh tế mới đi vào tăng trưởng: Sự bất bình đẳng sẽ tăng lên là tất yếu. Khi
nền kinh tế tăng trưởng đến mức độ nhất định sẽ giải quyết được vấn đề xã hội đó,
cơng bằng sẽ được thực hiện.
1.1.1: Quan điểm về người giàu
a) Khái niệm
Dưới đây là cái nhìn về sự giàu có của các nhà nghiên cứu, chính trị.
Thomas C.Corley, người đã dành 5 năm nghiên cứu về triệu phú và là tác giả của
cuốn sách "Rich habits" (Thói quen giàu có), khẳng định: Một người chỉ được xem
2
là “giàu có” là khi một người tạo ra được đủ thu nhập thụ động để trang trải các
khoản chi tiêu của mình.
Adam Smith , trong tác phẩm nổi tiếng Sự giàu có của các quốc gia , đã mơ tả sự
giàu có là "sản phẩm hàng năm từ đất đai và sức lao động của xã hội". "Sản phẩm"
này, nói một cách đơn giản nhất, đáp ứng nhu cầu và mong muốn của con người
về tiện ích.
Tiffany Welka, một cố vấn quản lý tài sản được công nhận của cơng ty tài chính
VFG Associates ở Livonia, Michigan cho biết: “Sự giàu có là nằm trong tầm mắt
của người xem.
Trong cuốn sách Richistan của mình, phóng viên Robert Frank của Wall Street
Journal đã kết luận rằng "định nghĩa về người giàu của mọi người là chủ quan và
thường gấp đôi giá trị tài sản ròng hiện tại của họ".
"Mạnh mẽ, hùng mạnh; cao quý, vĩ đại." Đó là tài liệu tham khảo đầu tiên về giàu
trong Từ điển tiếng Anh Oxford nhưng định nghĩa này, từ thời Anglo Saxon, giờ đã
lỗi thời.
1.1.2: Quan điểm về người nghèo
a) Khái niệm
Một số ý kiến được đưa ra.
Liên hợp quốc: “Về cơ bản, nghèo đói là khơng có khả năng lựa chọn và cơ hội, vi
phạm phẩm giá con người. Nó có nghĩa là thiếu năng lực cơ bản để tham gia một
cách hiệu quả vào xã hội. Nó có nghĩa là khơng có đủ ăn và mặc cho một gia đình,
khơng có trường học hoặc trạm y tế để đi học, không có đất để trồng thực phẩm
hoặc cơng việc để kiếm sống, khơng có khả năng tiếp cận tín dụng. Nó có nghĩa là
sự bất an, bất lực và loại trừ các cá nhân, hộ gia đình và cộng đồng. Nó có nghĩa là
3
dễ bị bạo lực, và nó thường ngụ ý sống trong những môi trường bên lề hoặc mong
manh, không được tiếp cận với nước sạch hoặc điều kiện vệ sinh”.
Ngân hàng Thế giới: “Nghèo đói là tình trạng thiếu thốn hạnh phúc rõ rệt và bao
gồm nhiều khía cạnh . Nó bao gồm thu nhập thấp và khơng có khả năng có được
hàng hóa và dịch vụ cơ bản cần thiết để tồn tại với phẩm giá. Nghèo đói cịn bao
gồm trình độ y tế và giáo dục thấp, khả năng tiếp cận nước sạch và vệ sinh kém, an
ninh vật chất khơng đầy đủ, thiếu tiếng nói, khơng đủ năng lực và cơ hội để có
cuộc sống tốt hơn”.
Ở Việt Nam, Ngày 30 tháng 01 năm 2011, Quyết định Số 09/2011/QĐ-TTg ban
hành chuẩn hộ nghèo, hộ cận nghèo áp dụng cho giai đoạn 2011- 2015:
1. Hộ nghèo ở nông thơn là hộ có mức thu nhập bình qn từ 400.000
đồng/người/tháng (từ 4.800.000 đồng/người/năm) trở xuống.
2. Hộ nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình qn từ 500.000
đồng/người/tháng (từ 6.000.000 đồng/người/năm) trở xuống.
3. Hộ cận nghèo ở nông thôn là hộ từ 900.000 đồng đến 1.300.000
đồng/người/tháng.
4. Hộ cận nghèo ở thành thị là hộ có mức thu nhập bình quân từ 501.000 đồng đến
650.000 đồng/người/tháng.
Kết quả rà soát nghèo mới nhât (năm 2013), tỷ lệ hộ nghèo năm 2013 là 7,8%
(giảm 1,8% so với cuối năm 2012), tỷ lệ hộ cận nghèo 6,32% (giảm 0,25% so với
cuối năm 2012).
1.2: Quan điểm về sự “phân hóa giàu nghèo”
Là khoảng cách về thu nhập giữa nhóm này và nhóm khác. Nhìn vào tồn bộ nền
kinh tế, chênh lệch thu nhập phổ biến nhất là giữa 'giàu' và 'nghèo', trong đó nhóm
'giàu' thường được xác định ở nhóm 20% người có thu nhập cao nhất (nhóm ngũ
phân vị cao nhất), và người nghèo là 20% dưới cùng (ngũ phân vị dưới cùng).
4
Xu hướng về thu nhập và sự giàu có nói lên một câu chuyện rõ ràng: khoảng cách
giàu nghèo đã đạt đến thái cực mới và vẫn đang tăng lên, trong khi quyền lực ngày
càng nằm trong tay giới tinh hoa.Xét về mặt xã hội học, sự chênh lệch giàuư nghèo
trở thành vấn đề xã hội thực sự và làm nảy sinh những vấn đề mang tính tâm lý
tácđộng khơng tốt tới nhiều mặt.
Báo cáo do Nguyễn Trần Lâm và cộng sự của Oxfam biên soạn cho biết người giàu
nhất Việt Nam kiếm được trong một ngày nhiều hơn người Việt Nam nghèo nhất
kiếm được trong 10 năm. Tài sản của anh ấy khổng lồ đến mức anh ấy có thể tiêu 1
triệu đô la Mỹ mỗi ngày trong 6 năm trước khi tiêu hết số tiền đó.
Năm 2014, có 210 người siêu giàu (mỗi người sở hữu bất động sản trị giá trên 30
triệu USD) và tổng tài sản của họ vào khoảng 20 tỷ USD, bằng 12% GDP cả nước
và một nửa GDP của TP HCM.
1.3: Nguyên nhân hình thành sự phân hóa giàu nghèo ở nước ta
1.3.1: Nguyên nhân trực tiếp
Thứ nhất chúng ta thấy là ở Việt Nam hoạt động đầu cơ bất động sản không tạo ra
giá trị thực thì nó là kênh làm giàu va kiếm tiền của khá là nhiều người còn sản
xuất kinh doanh thực thì hạn chế. Vì vậy tạo ra công ăn việc làm, cơ hội thu nhập
cho công dân còn hạn chế. Đây là nguyên nhân mà tầng lớp trung lưu họ phát triển
rất là tốt còn người nghèo thì ngược lại.
Thứ hai xuất phát từ q trình cơng nghiệp hóa chuyển dịch cơ câu kinh tế vì
lúc trước nước ta là nước nông nghiệp, người dân làm trong nơng nghiệp chiếm rất
nhiều sau đó chuyển vùng đất đó sang công nghiệp và dịch vụ. Người nông dân
chưa kịp thích ứng tay nghề cho nên họ khơng làm việc được. Vì vậy số người
nghèo từ những việc làm nơng bị mất đất và không làm việc khu công nghiệp dịch
vụ.
5
1.3.2: Nguyên nhân sâu xa
Đối mặt với nhiều rủi ro, thách thức như thiên tai, dịch bệnh, sâu hại, tai nạn lao
động, thất nghiệp … Cơ chế thị trường thiếu ổn định, làm cho gía trị sản phẩm
chưa tương xứng với công sức mà người lao động đổ vào.Thủ tục hành chính rườm
rà, tình trạng quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ nhà nước, đôi khi làm mất
đi cơ hội để phát triển kinh tế gia đình, các công ty và doanh nghiệp …. Luôn bị
động, không đưa ra được nhiều những phương pháp hiệu quả. Những nước lớn trên
thế giới có những chính sách làm hạn chế đi sự thu nhập của mọi người. Một số
người chỉ ra rằng tham nhũng là tác nhân chính dẫn đến đói nghèo do tư lợi. Nó
làm mất vơ số cơ hội của những người có hồn cảnh khó khăn.Rõ ràng yếu tố then
chốt để giàu có hay khơng phụ thuộc vào hiệu quả làm việc. Trên thực tế, càng có
nhiều người đóng góp cho xã hội thì lợi nhuận thu được càng nhiều. Như vậy,
người kinh doanh là người luôn làm giàu. Điều này là do khi là một doanh nhân,
chúng ta sẽ có khả năng mang lại ngày càng nhiều dịch vụ, sản phẩm.Thứ ba,
Nước ta là nước nông nghiệp chậm phát triển, chiến tranh kéo dài làm cho cơ sở hạ
tầng bị tàn phá nghiêm trọng. Cơ chế chính sách thiếu thơng thống làm cho sản
xuất nơng nghiệp, cơng thương nghiệp, chậm phát triển. Thứ tư, Có sự dư thừa,
nhàn rỗi lao động ở nông thôn chưa dược khuyến khích ra thành thị để lao động.
Trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật của lực lượng lao động ở nơng thơn cịn
thấp kém (Theo số liệu thống kê trong tổng số 16,5 triệu thanh niên ở nông thơn
chỉ có 12% tốt nghiệp phổ thơng trung học, 3,11% có chun mơn kỹ thuật). Diện
tích đất nơng nghiệp cũng đang có xu hướng giảm dần trong q trình cơng nghiệp
hóa, hiện đại hóa.
PHẦN II: Thực trạng phân hố giàu nghèo của Việt Nam từ 2008-2018
2.1: Thực trang về phần hóa giàu nghèo ở nước ta
6
Phần lớn nỗi lo về bất bình đẳng gia tăng tập trung vào khoảng cách giữa những
người rất giàu và phần lớn người Việt Nam. Số người siêu giàu ở Việt Nam tương
đương với các nước khác ở mức thu nhập của Việt Nam
Nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tạo điều
kiện cho nền kinh tế phát triển, đời sống của nhân dân từng bước được cải thiện,
nhưng đồng thời cũng tạo ra sự chênh lệch về thu nhập, mức sống ngày càng rõ nét
hơn, trong đó phân hóa giàu nghèo giửa thành thị và nông thôn.
Từ năm 2008 đến 2018 việt nam tham gia vào WTO (Tổ chức thương mại thế
giới)
Tăng trưởng kinh tế là một trong những chỉ tiêu kinh tế vĩ mô cơ bản để đánh giá
thành tựu phát triển của một quốc gia trong một thời kỳ nhất định. Nền kinh tế Việt
Nam sau 10 năm gia nhập WTO (2008-2017) mặc dù bị ảnh hưởng do tác động của
cuộc khủng hoảng tài chính tồn cầu, khủng hoảng nợ cơng nhưng vẫn duy trì
được tốc độ tăng trưởng bình quân là 6,29%/năm - thành tựu hết sức quan trọng.
7
Xét từ năm 2008-2010
Khoảng cách thu nhập giữa các nhóm giàu nhất và nghèo nhất ở Việt Nam
đã tăng lên 9,2 lần trong năm ngoái từ 8,9 lần năm 2008, báo chí nhà nước đưa tin,
trích dẫn từ Tổng cục Thống kê (GSO) của Chính phủ. Năm 2008 thu nhập bình
qn cá nhân của nhóm giàu nhất là 3,4 triệu đồng trong khi thu nhập của nhóm
nghèo nhất chỉ là 369.000 đồng, một cuộc khảo sát mới nhất về điều kiện sống của
các hộ gia đình do văn phịng thực hiện. Cuộc khảo sát cho biết thêm rằng thu nhập
bình quân đầu người của Việt Nam năm 2010 lên tới 1,387 triệu đồng (66,7 USD)
mỗi tháng. Mỗi hộ gia đình Việt Nam phải chi tới 53% tổng thu nhập cho thực
phẩm và đồ uống trong năm. Ở đó chi tiêu cho giáo dục đã tăng 64% so với năm
2008. Có sự khác biệt lớn trong chi tiêu giữa những người giàu nhất và nghèo nhất.
Những người giàu có chi cho chăm sóc sức khỏe cao hơn 3,8 lần so với những
người thấp nhất. Khoảng cách chi tiêu cho giáo dục cao hơn nhiều, ở mức sáu lần,
trong khi tỷ lệ chi cho văn hóa, thể thao và giải trí thậm chí cịn cực kỳ cao, ở mức
131 lần. Trong số những người trả lời khảo sát, 6. 2% cho biết điều kiện sống của
họ trở nên khó khăn hơn năm ngối so với năm 2008, 11,3% nói rằng điều kiện
sống của họ khơng thay đổi. Trong khi đó, những người được hỏi còn lại cho biết
cuộc sống của họ tốt hơn hai năm trước. Năm 2010, hệ số Gini của Việt Nam thước đo mức độ phân bổ của cải trong xã hội - đứng ở mức 0,43, không thay đổi
so với năm 2008. Hệ số Gini bằng 0 cho thấy tổng bình đẳng, trong khi giá trị của
1 cực bất bình đẳng. Hệ số Gini 0,4 thường được coi là mức cảnh báo quốc tế về
mức độ bất bình đẳng nguy hiểm, GSO cho biết. (Tuổi Trẻ - Tuổi trẻ 30/6, An Ninh
Thủ Đô - An ninh Thủ đô 01/7 p2) 43, không thay đổi so với năm 2008. Hệ số Gini
bằng 0 gợi ý sự bình đẳng tồn phần, trong khi giá trị của 1 sự bất bình đẳng cực
đoan. Hệ số Gini 0,4 thường được coi là mức cảnh báo quốc tế về mức độ bất bình
đẳng nguy hiểm, GSO cho biết. (Tuổi Trẻ - Tuổi trẻ 30/6, An Ninh Thủ Đô - An
ninh Thủ đô 01/7 p2) 43, không thay đổi so với năm 2008. Hệ số Gini bằng 0 gợi ý
sự bình đẳng tồn phần, trong khi giá trị của 1 sự bất bình đẳng cực đoan. Hệ số
8
Gini 0,4 thường được coi là mức cảnh báo quốc tế về mức độ bất bình đẳng nguy
hiểm.
Số liệu Ngân hàng Thế giới (WB) cho thấy bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
tăng trong hai thập kỷ qua và đáng chú ý hơn là số người giàu đang chiếm phần thu
nhập quá lớn. Vào năm 2012, tỷ lệ Palma của Việt Nam là 1,74 - nghĩa là nhóm
10% giàu nhất có thu nhập cao gấp 1,74 lần nhóm 40% thu nhập thấp nhất . Cứ một
triệu người Việt Nam thì có khoảng một người siêu giàu. Việt Nam ước tính có 110
người siêu giàu vào năm 2013.
Năm 2014,Báo cáo do Nguyễn Trần Lâm và cộng sự của Oxfam biên soạn cho biết
người giàu nhất Việt Nam kiếm được trong một ngày nhiều hơn người Việt Nam
nghèo nhất kiếm được trong 10 năm. Tài sản của anh ấy khổng lồ đến mức anh ấy
có thể tiêu 1 triệu đơ la Mỹ mỗi ngày trong 6 năm trước khi tiêu hết số tiền đó.
Năm 2014, có 210 người siêu giàu (mỗi người sở hữu bất động sản trị giá trên 30
triệu USD) và tổng tài sản của họ vào khoảng 20 tỷ USD, bằng 12% GDP cả nước
và một nửa GDP của TP HCM.
Theo một báo cáo đánh giá các thủ tục hành chính cơng của Việt Nam, nghèo đói
vẫn là mối quan tâm hàng đầu của người dân Việt Nam.
Báo cáo Chỉ số Hiệu quả Quản trị và Hành chính Cơng cấp tỉnh năm 2018 (PAPI
2018) cho biết nghèo đói, tăng trưởng kinh tế và tham nhũng là ba mối quan tâm
hàng đầu của người dân Việt Nam.Báo cáo khảo sát khoảng 14.300 người trên 63
tỉnh thành ở Việt Nam cho thấy 25% số người được hỏi cho biết mối quan tâm cấp
bách nhất của họ là nghèo đói, 9% cho biết tăng trưởng kinh tế và 7% tham
nhũng.Báo cáo cho biết phụ nữ có nguy cơ cao hơn 10% so với nam giới khi cho
biết nghèo đói là mối quan tâm cấp bách nhất.Nghèo đói cũng có nhiều khả năng là
mối quan tâm hàng đầu đối với những người được hỏi ở nhóm thu nhập hàng tháng
thấp hơn. Khoảng 90% số người được hỏi báo cáo thu nhập dưới 20 triệu đồng
9
(862 đô la) một tháng, chỉ 8% báo cáo thu nhập hàng tháng từ 20 triệu đến 40 triệu
đồng. Hơn 50% số người được hỏi cho biết kiếm được ít hơn 12 triệu đồng một
tháng.Trớ trêu thay, báo cáo vào năm 2018 cũng cho thấy một tỷ lệ lớn người được
hỏi không cảm thấy rằng khoảng cách giàu nghèo hiện nay ở Việt Nam là một vấn
đề đáng kể. Chỉ có 33% số người được hỏi cho rằng khoảng cách chênh lệch là lớn
hoặc rất lớn, trong khi số còn lại cho rằng khoảng cách này là hẹp hoặc không hẹp
cũng không lớn. Đáng chú ý, những người trả lời nghèo hơn khơng có nhiều khả
năng hơn những người giàu hơn xem bất bình đẳng là một mối quan tâm quan
trọng, báo cáo cho biết.Những người trả lời trong nhóm thu nhập hàng tháng cao
hơn, mặc dù có thể kiếm được ít hơn từ các nỗ lực tái phân phối của cải, nhưng lại
ủng hộ việc đóng nhiều thuế hơn so với những người nghèo hơn của họ. Báo cáo
cho thấy có mối tương quan thuận giữa thu nhập hàng tháng của một người và khả
năng họ ủng hộ việc đóng thuế cao hơn.Dữ liệu cho thấy mối quan hệ phức tạp
giữa mối quan tâm về nghèo đói, thái độ đối với bất bình đẳng kinh tế và sự phân
bổ lại của cải trong người dân Việt Nam.Báo cáo cho biết, những người trả lời
nghèo hơn có thể nghi ngờ về việc thu nhập từ thuế thực sự đến với những người
cần họ nhất, hoặc những người trả lời giàu hơn ít có khả năng là mục tiêu của các
chương trình giảm nghèo, báo cáo cho biết, lưu ý rằng những suy đốn này cần
được thăm dị thêm.Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, mặc dù đạt mức tăng
trưởng GDP kỷ lục 7,08% vào 2018, nhưng 9 triệu người Việt Nam vẫn đang sống
trong cảnh nghèo đói cùng cực, thu nhập dưới 2 USD mỗi ngày. Năm 2018, Bộ
trưởng Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội Đào Ngọc Dung cho biết trong khi tỷ
lệ hộ nghèo đang giảm xuống thì số người tái nghèo ngày càng nhiều.
Ơng nói: “Giảm nghèo chưa vững chắc, chênh lệch giàu nghèo chưa giảm, nhất là
ở miền núi phía Bắc và Tây Nguyên”.
10
Việt Nam định nghĩa hộ nghèo là những hộ có thu nhập trên mỗi thành viên dưới
700.000 đồng (30 đô la) một tháng ở khu vực nông thôn và 900.000 đồng (38,7 đô
la) ở thành phố.
Quốc gia Việt Nam hiện cũng có 142 cá nhân siêu giàu , những người có giá
trị tài sản rịng trên 30 triệu đơ la, nhiều hơn bảy so với con số vào năm 2018, theo
Báo cáo giàu có cuối năm 2018 của Knight Frank.
Trong giai đoạn từ năm 2008-2018 tác động của việc phân hóa giàu nghèo có
ảnh hưởng xấu đến đời sống. Có sự chênh lệch đáng kể giữa các nhóm dân tộc. Đa
số người Kinh có xu hướng có mức sống cao hơn những người khác. Các nhóm
dân tộc khác chỉ chiếm 15% dân số cả nước nhưng lại chiếm tới 70% số người cực
kỳ nghèo của cả nước. Tiếp cận dịch vụ y tế khơng bình đẳng cũng đang kìm hãm
các nhóm yếu thế. Ví dụ, phụ nữ mang thai hộ nghèo có nguy cơ khơng khám thai
cao gấp ba lần so với phụ nữ mang thai khác. Nghiên cứu từ báo cáo cũng chỉ ra
rằng những cơng dân có hồn cảnh khó khăn thiếu thơng tin và kỹ năng để hiểu các
quy trình thuế, các vấn đề ngân sách và các quyết định kinh tế khác.
Ngoài ra, nhân viên dịch vụ y tế công cộng người khinh thường tỏ thái độ phân
biệt đối xử với người dùng là người dân tộc thiểu số, báo cáo cho biết.
2.2: Tác động của phân hóa giàu nghèo từ 2008-2018
Tác động của sự phân hoá giàu nghèo đối với nền kinh tế - Xã hội
Về mặt tích cực:
Phân hố giàu nghèo làm tăng tính năng động, sáng tạo, kích thích họ tìm kiếm và
khai thác, phát triển bản thân, vươn lên trong cuộc sống tốt hơn.
Về mặt tiêu cựcsẽ dẩn đến bất bình đẳng trong xã hội như:
Những người giàu, thì giàu thêm do có những điều kiện về vốn và kỹ thuật như có
dư thừa đất sản xuất và phương tiện sản xuất, có điều kiện để làm giàu nhanh
chóng nhờ kinh doanh các loại hình dịch vụ, bất động sản, thị trường chứng
11
khốn, …Tuy nhiên bên cạnh đó cũng có một bộ phận những người giàu lên do
làm ăn bất hợp pháp như : Bn lậu, cho vay tín dụng đen,… làm cho những
người nghèo càng nghèo thêm .Sự phân hoá giàu nghèo luôn luôn tồn tại bất cứ
trong đời sống xã hội nào , giai cấp nào . Đảng ta đã khẳng định “dân giàu, nước
mạnh” đôi khi lắm của, nhiều tiền của một bộ phận những người giàu có, đơi lúc
lại là mắt trái của đời sống xã hội, họ sử dụng đồng tiền theo lối sống buôn thả, xa
hoa lãng phí, khơng rõ mục đích, làm mất đi giá trị chuẩn mực đạo đức của con
người. Bên cạnh đó là thiếu đi sự quan tâm giáo dục con cái, để trở thành người
cơng dân có ích cho xã hội, ngược lại tạo tiền đề xấu cho lớp trẻ lao vào cuộc sống
thác loạn, ăn chơi, đua đòi, nghiện ngập và cuối cùng là vi phạm vào các tệ nạn xã
hội. Trong những năm gần đây, tỷ lệ tội phạm đang có chiều hướng gia tăng trong
lứa tuổi thanh, thiếu niên gây ra những điều nhức nhối trong xã hội. (điển hình vụ
án Lê văn Luyện ở tỉnh Bắc Giang)
Phân hố giàu nghèo cịn gây ra sự chênh lệch và mâu thuẫn, những thanh niên
được sinh ra trong những gia đình nhà khá vã thường có tư tưởng kêu ca ỷ lại, ăn
chơi ít chịu học hành, khơng chịu cố gắng, ngược lại con nhà nghèo ham học, có ý
chí vươn lên thì lại khơng có điều kiện để phát huy cơng danh, sự nghiệp chính vì
lẻ đó gây nên có sự chênh lệch văn hố trong xã hội.
Phân hố giàu nghèo còn thể hiện rõ nhất ở vai trò của người phụ nữ, họ ít được
học hành, chưa có được đối xử cơng bằng (do phân biệt giới tính) thì vai trị của
người phụ nử trong các tầng lớp nghèo càng trở nên bất cơng và cơ cực. Ngồi ra
sự thua thiệt về vất chất những người nghèo còn thua thiệt về giá trị tinh thần, họ
khơng có hoặc rất ít để được tiếp cận các loại hình,dịch vụ văn hố tiên tiến, đặt
biệt là vùng nơng thơn, vùng sâu, vùng xa,vùng miền núi và hải đảo.
Năm 2008-2018, người nghèo ít có cơ hội tiếp cận với ý tế giáo dục giải trí. Có
những ngun nhân sau:
Thứ nhất, Những dịch vụ này nhà nước chưa đầu tư bài bản.
12
Thứ hai, người ngèo chưa được miễn phí một cách hoàn toàn. VD: Các
nước trên thế giới giáo dục được miễn phí, y tế được miễn phí với một chất lượng
khá tốt hay dịch vụ giải trí nó cũng có phân khúc dành cho người nghèo. Nhà nước
đầu tư chưa tốt. Mà nhà nước đầu tư chưa tốt là tại sao? Vì nguồn thu thuế của nhà
nước chưa hiệu quả nên thiếu nguồn tiền để phân phối lại xã hội thơng qua đầu tư
các dịch vụ đó.
2.3: Giải pháp
2.3.1: Chiều hướng giải quyết
Nước ta đang trong thời kỳ hóa độ lên chủ nghĩa xã hội, hướng tới một xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh, để xóa bỏ những bất cơng như phân hóa giàu, nghèo hiện
nay là điều khơng dể thực hiện. Mặc khác Đảng ta đang ra sức phấn đấu đưa nước
ta trở thành một nước có nền cơng nghiệp hiện đại, thì khó khăn trong việc giải
quyết tình trạng phân hóa giàu, nghèo càng trở nên phức tạp. Trong những năm qua
Đảng và Nhà nước ta đang nổ lực và làm hết sức mình để thu hẹp và xóa bỏ những
bất cơng tồn tại trong xã hội như: xóa đói giảm nghèo, có sự ưu tiên và quan tâm
và sâu xác hơn đối với người nghèo, các gia đình chính sách...Tuy nhiên dưới góc
độ của người viết tơi xin trình bày một số các giải pháp như sau:
Xóa đói giảm nghèo là giải pháp có hướng tích cực, tuy nhiên cần phải nghiên cứu
và có những giải pháp cụ thể, “xóa " như thế nào để giảm “nghèo’ là việc làm cấp
bách, bởi vì hiện nay giải pháp này chỉ mang tính chất tạm thời để xóa đói, giảm
nghèo chứ chưa mang tính chất bền vững, để người nghèo có điều kiện để vươn lên
thốt nghèo một cách hiệu quả.
2.3.2: Trách nhiệm của nhà nước
Giải pháp được xem là hiệu quả nhất trong giai đoạn này là:
Thứ nhất hạn chế đầu cơ khuyến khích đầu tư vì khi nền kinh tế đầu cơ quá nhiều
thì nhiều người họ nắm giữ tài sản họ đẩy giá tài sản lên cao, vậy nó sẽ gây khó
khăn cho những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh chi phí sản xuất cơ hội tăng lên.
13
Họ ngại mở rộng quy mô sẽ không tạo ra được việc làm, không tạo ra đươc cơ hội
cho đa số người dân vì vậy người dân nghèo nhiều.
Thứ hai, nguyên tắc người giàu phải đóng góp nhiều vào nguồn thu ngân
sách như vậy chính sách thuế phải tập chung đanh thuế vào khu vực những người
giàu. Chúng ta phải quản lí nguồn thuế ở đây hiệu quả và nguồn thuế đó đầu tư vào
dịch vụ xã hội, y tế, giải trí,… để người nghèo có thể tiếp cận được.
Thứ ba, đào tạo và hỗ trợ cho người nghèo cho họ cơ hội làm việc. Trước
đây Việt Nam cũng triển khai nhiều giải pháp hỗ trợ người nghèo “Cho họ đi câu
cá họ ăn xong rồi họ thôi” nghĩa là cho tiền trợ cấp xong họ lại tái lại hộ nghèo.
Sau này cho họ cái nghề tạo cơ sở để người dân làm ăn. Người dân có cơng ăn việc
làm rồi họ sẽ thoát nghèo một cách bền vững. Để làm điều đó chúng ta phải phát
triển ngành nghề nào để nó gắn với đặc thù của người nghèo.
14
KẾT LUẬN
Nhìn chung trong giai đoạn từ năm 2008-2018 thời kì Việt Nam gia nhập một sân
chơi lớn là WTO và nhiều sự kiện kinh tế khác thì sự phân hoá giàu và nghèo là hệ
quả tất yếu của sự phát triển kinh tế hang hố nhiều thành phần. Vì mục tiêu lâu dài
của CNXH, cũng như mục tiêu của công cuộc đổi mới, chúng ta xây dựng và phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một tất yếu khách quan: một mặt
nhằm thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển, tăng trưởng kinh tế, khuyến
khích làm giàu chính đáng, xố đói giảm nghèo, mặt khác định hướng XHCN theo
mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội cơng bằng, văn minh nhằm giảm bất cơng
bình đẳng, tạo cơ hội điều kiện, công bằng xã hội cho mọi người. Song chênh lệch
giàu nghèo ở nước ta cũng được phân biệt ở từng vùng: vùng nông thôn và thành
thị. Chênh ở tùng vùng quê, địa phương. Nhưng gia tăng chênh lệch giàu nghèo
nước ta tương đối nhẹ hơn so với các nước trên thế giới đang có xu hướng dãn ra
do Việt Nam đang chuyển dần từ nên kinh tế đóng sang nền kinh tế mở, từ cơ chế
phân chia bình quân hiện vật sang kinh tế thị trường.
.
15
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo: Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác
– Lênin Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009.
2. .Quốc Dũng, Chênh lệch phát triển tạo ra 'túi nghèo' của đất nước,
TuanVietnam, 07/07/2011.
3. Đỗ Đức Định, Kinh tế thị trường bền vững: mơ hình phát triển mới cho Việt
Nam giai đoạn 2011 – 2020, Tạp chí Quản lý Kinh tế, số 7/2010
4. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế TW, Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế
đối với nền kinh tế sau ba năm Việt Nam gia nhập WTO, 2010.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam: Website Đảng cộng
sản
Việt
Nam
6. Lạm phát mới biết ai giàu, Tiền phong online, 24/1/2012.
7. Hoa Lê, Thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các tầng lớp dân cư, Tạp chí Tài
chính 2012
16