TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
---------***---------
TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: Vận dụng lý thuyết khủng hoảng kinh tế
của Mac để phân tích cuộc khủng hoảng kinh tế tài
chính châu Á năm 1997.
Họ và tên: Đinh Cơng Hưng
Chuyên ngành: K59-Kế toán – Kiểm toán
Giáo viên hướng dẫn: Hoàng Văn Vinh
Quảng Ninh, tháng 6 năm 2020
1
LỜI NÓI ĐẦU……………………………………………………………………3
Phần I: Khái niệm khủng hoảng kinh tế và lý luận của Mac về khủng hoảng kinh tế
I.1: Khái niệm về khủng hoảng kinh tế…………………………………………4
I.2: Lý luận của Mác về khủng hoảng kinh tế………………………………….4
Phần II: Khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á năm 1997
II.1.: Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á 1997....5
II.2: Diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á 1997……...6
II.2.1: Thái Lan………………………………………………………..………….6
II.2.2: Indonesia…………………………………………………..………………7
II.2.3: Malaysia…………………………………………………..……………….8
II.2.4: Hàn Quốc……………………………………………………..……………9
II.2.5: Hong Kong…………………………………………………………..…….9
II.2.6: Việt Nam………………………………………………………….....……10
II.3: Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á 1997…..….10
II.4: Biện pháp khắc phục và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam từ cuộc khủng
hoảng kinh tế châu Á 1997…………………………...………………..12
II.4.1: Biện pháp khắc phục………………………………...………………….12
II.4.2: Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam…………………..…...……….13
Phần III: Kết luận………………………………….……...…………………….15
Tài liệu tham khảo
2
LỜI NÓI ĐẦU
Trong mọi thời kỳ, nền kinh tế trở lên phát triển, thịnh vượng luôn là niềm
mong ước của tất cả mọi người. Nhưng, cuộc sống không phải lúc nào cũng “màu
hồng”. ‘Khủng hoảng kinh tế’ là 4 từ mang đến nỗi khiếp sợ cho tất cả các quốc gia
trên thế giới! Ngay cả Mĩ – một đất nước mà hiện nay được biết đến như một siêu
cường nơi mà nền kinh tế có tính cạnh tranh cao, sản lượng lớn và có tầm ảnh hơn
trên tồn cầu cũng từng rơi vào khủng hoảng. Và các “con rồng” của châu Á đã bị
dính vào khủng hoảng trầm trọng vào năm 1997.
Như vậy, khủng hoảng kinh tế là gì? Xuất phát từ đâu? Và làm sao để tránh
được khủng hoảng kinh tế? Nhận thức được tầm quan trọng của hiểu biết về sự
khủng hoảng kinh tế, trong bài tiểu luận này, tơi sẽ nói về những vấn đề xoay
quanh chúng dưới góc nhìn của nhà triết học, kinh tế vĩ đại Các-Mác và đồng thời
vận dụng những lý luận đó để phân tích về sự khủng hoảng của châu Á vào những
năm 1997-1998.
Chính vì những điều trên, em đã lựa chọn đề tài “vận dụng lí thuyết khủng
hoảng kinh tế của Mac để phân tích khủng hoảng kinh tế ở châu Á 1997” nhằm
phân tích rõ hơn vấn đề khủng hoảng của những cường quốc ở châu Á, từ đó rút ra
những bài học kinh nghiệm cũng như cũng cố thêm kiến thức cho mọi người về
khủng hoảng kinh tế và bài học rút ra và giải pháp giúp Việt Nam có thể vượt qua
được cuộc khủng hoảng. Bài viết dựa trên kiến thức còn eo hẹp của em và chủ
nghĩa Mác-Lênin kết hợp với giáo trình, tư liệu tham khảo bên ngồi nên cịn nhiều
sai sót. Rất mong nhận được sự góp ý của thầy.
Em xin chân thành cảm ơn.
3
PHẦN I: KHÁI NIỆM VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ QUAN ĐIỂM
CỦA MÁC VỀ KHỦNG HOẢNG KINH TẾ
I.1: Khái niệm khủng khoảng kinh tế
Khủng hoảng kinh tế là biểu hiện của sự mất cân đối trong phát triển kinh tế cụ
thể giữa các khu vực, các ngành, các khâu, cung-cầu trong một thời gian dài mà
không điều chỉnh được gây ra các tác động tiêu cực đến kinh tê-xã hội trong phạm
vi rộng hoặc hẹp.
Khi khủng hoảng nổ ra hàng hóa khơng tiêu thụ được, sản xuất bị thu hẹp, nhiều
doanh nghiệp bị vỡ nợ, phá sản, người dân thất nghiệp, sức mua giảm, thị trường
rối loạn.
I.2: Quan điểm của Mác về khủng hoảng kinh tế:
Khủng hoảng kinh tế, là sự suy giảm các hoạt động kinh tế kéo
dài và trầm trọng hơn cả suy thối trong chu kì kinh tế.
Một định nghĩa khác với cách hiểu ngày nay là trong học
thuyết kinh tế chính trị của Mác-Lênin. Từ ngữ này chỉ khoảng thời
gian biến chuyển rất nhanh sang giai đoạn suy thoái kinh tế. Bài
viết này chủ yếu về khái niệm Khủng hoảng kinh tế của Karl
Marx vốn vẫn được dùng thịnh hành trong Kinh tế chính trị Marx.
Khủng hoảng kinh tế đề cập đến quá trình tái sản xuất đang bị
suy sụp tạm thời. Thời gian khủng hoảng làm những xung đột
giữa các giai tầng trong xã hội thêm căng thẳng, đồng thời nó tái
khởi động một quá trình tích tụ tư bản mới.
Nhiều nhà quan sát sự áp dụng của học thuyết Marx cho rằng tự
bản thân Karl Marx không đưa ra kết luận cuối cùng về bản chất
của khủng hoảng kinh tế trong chủ nghĩa tư bản. Thực vậy, những
nghiên cứu của ông gợi ý nhiều lý luận khác nhau mà tất cả
4
chúng đều gây tranh cãi. Một đặc điểm chủ yếu của những lý luận
này là khủng hoảng không phải ngẫu nhiên và khơng tự nhiên mà
nó bắt nguồn từ bản chất của chủ nghĩa tư bản với vai trò là một
hình thái xã hội. Marx viết, "cản trở của nền sản xuất tư bản chính
là tư bản".
Những lý luận này bao gồm:
Suy giảm tỉ suất lợi nhuận: tích tụ tư bản gắn liền xu hướng
chung của mức độ tập trung tư bản. Điều này tự nó làm giảm
tỷ suất lợi nhuận rồi kìm hãm chủ nghĩa tư bản và có thể đưa
đến khủng hoảng.
Tiêu thụ dưới mức: Nếu giai cấp tư sản thắng thế trong cuộc
đấu tranh giai cấp với mục đích cắt giảm tiền lương và bóc
lột thêm lao động, nhờ đó tăng tỷ suất giá trị thặng dư, khi
đó nền kinh tế tư bản đối mặt với vấn đề thường xuyên là
nhu cầu tiêu dùng không tương xứng với quy mô sản xuất và
tổng cầu không tương xứng với tổng cung.
Sức ép lợi nhuận từ lao động: tích tụ tư bản có thể đẩy nhu
cầu thuê mướn tăng lên và làm tăng tiền lương. Nếu tiền
lương tăng cao sẽ ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận và khi đạt
đến một mức độ nhất định sẽ gây ra suy thối kinh tế.
Về mặt lí luận, ít nhất những quan điểm trên không mâu thuẫn
với nhau và có thể đóng vai trị là những nội dung trong một học
thuyết tổng hợp về khủng hoảng kinh tế.
PHẦN II: KHỦNG HOẢNG KINH TẾ TÀI CHÍNH CHÂU Á 1997
II.1: Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á 1997
Ngun nhân chính đó là đầu tư chưa hồi phục. Năm ngoái, chi
tiêu cho đầu tư chỉ chiếm trung bình 24% GDP trong các nền kinh
tế này, giảm so với 35% vào năm 1995 (xem biểu đồ 1). Con số
này thấp hơn so với tỷ lệ đầu tư hơn 40% ở Trung Quốc và cao hơn
5
một chút so với ở nhiều nền kinh tế giàu có, nơi mà các cơ hội đầu
tư thấp hơn nhiều. Trước khủng hoảng, đầu tư có thể là quá cao,
tuy nhiên hiện nay lại quá thấp.
Cơ sở hạ tầng công cộng, đặc biệt ở Thái Lan và Indonesia, tồi
tệ hơn nhiều so với 10 năm trước và việc đầu tư kinh doanh bị tổn
thất do sự bất ổn về kinh tế và chính trị. Do bị thua thiệt nhiều
nên các công ty thận trọng trong việc vay nợ. ADB cho rằng chính
phủ các nước này có thể làm nhiều điều để thay đổi tình hình này:
từ việc đầu tư nhiều hơn vào giáo dục và cơ sở hạ tầng, đến
chống tham nhũng và cải thiện môi trường đầu tư. Trái với tất cả
những lời tán dương là đã có sự thay đổi đậm nét tại châu Á, sự
thật là công cuộc cải cách ở khu vực này còn khá hạn chế ngồi
lĩnh vực tài chính.
Một số nghiên cứu cho thấy rằng chất lượng quản lý của chính
quyền là quan trọng đối với đầu tư và tăng trưởng. Và đáng buồn
là một số khía cạnh của cơng tác quản lý này tại Đông Á lại kém
đi. ADB sử dụng số liệu do Ngân hàng Thế giới thu thập để đánh
giá so sánh Indonesia, Malaysia, Philippines, Hàn Quốc và Thái-lan
với các nước còn lại trên thế giới dựa trên sáu tiêu chuẩn quản lý:
trách nhiệm giải trình, ổn định chính trị, hiệu quả của chính
quyền, chất lượng điều tiết, nguyên tắc nhà nước pháp quyền và
kiểm soát tham nhũng. So sánh năm 2005 với 1996, điểm của
Đông Á kém đi trong 22 trên tổng số 30 so sánh (đó là sáu tiêu
chuẩn cho năm nước). Nếu so sánh theo hạng mức quốc tế, thì
điểm của các nước này kém hơn ở 28 trong số 30 đề mục so sánh.
Chỉ có Hàn Quốc có điểm quản lý tăng trên hơn một nửa số tiêu
chuẩn nói trên.
Thậm chí trong lĩnh vực tài chính cũng còn nhiều việc phải làm.
Các ngân hàng vững vàng hơn nhờ có các tiêu chuẩn giám sát và
kiểm sốt nội bộ tốt hơn. Tỷ lệ vốn đầu tư đã tăng và nợ xấu đã
giảm mạnh: ở Thái-lan giảm từ 43% năm 1998 xuống cịn 8% vào
năm ngối. Tuy nhiên, sự lành mạnh hơn của bảng cân đối kế toán
của các ngân hàng một phần nhờ có các điều kiện kinh tế vĩ mô
thuận lợi, như ông Philip Turner thuộc Ngân hàng Thanh toán
Quốc tế đã chỉ ra. Tăng trưởng mạnh và lãi suất thực rất thấp đã
giúp tăng lợi nhuận của các ngân hàng. Song việc quản lý rủi ro
6
vẫn còn yếu kém ở một số nước. Các thị trường vốn, là một nơi
cung cấp nguồn vốn ngoài ngân hàng, vẫn kém phát triển.
II.2: Diễn biến của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á 1997
II.2.1: Thái Lan
Khi đã xuất hiện 4 nguy cơ khủng hoảng những người có đầy đủ thơng tin về
nguy cơ sẽ rất lo lắng. Lo sợ các ngân hàng và tổ chức tài chính sẽ phá sản, do đó
thúc đẩy họ rút tiền ra khỏi các tổ chức này. Lo sợ tỉ giá hối đoái tang, đồng Baht
mất giá sẽ khiến họ đổ xô mua ngoại tệ mạnh, làm cho câu ngoại tệ tăng. Thực tế ở
Thái Lan, từ tăng năm 1996 đến 2007, người dân và các nhà đầu tư bắt đầu rút vốn
của mình ở dạng tiền mặt khỏi các ngân hàng và các cơng ty tài chính, buộc chính
phủ phải đóng cửa thị trường chứng khốn một ngày 3/3/1997 và yêu cầu mọi tổ
chức tài chính phải tăng thêm dự trữ tiền mặt, và công bố 10 công ty tài chính đang
ở trạng thái khơng bình thưởng (Unico Housing Co.Ltd Thai – Fuji: Royal
International; Sri Dhana; Eastern Finance:County v.v...).
Finance One, cơng ty tài chính lớn nhất của Thái Lan bị phá sản cho thị trường
nhà đất đóng băng, mất khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn
Ngày 4 và 5/3/1997, ham 21,4 tỷ Baht (tương đương 820 triệu USD thời đỏ) đã
được rút khỏi ngân hàng và các công ty tài chính Sau đó tháng, ngày 9/4/1997 tỷ
giá hối đoái đã tăng lên 26,08 Baht/USD, cao nhất từ năm 1991, nguyên nhân do
lực cầu ngoại tệ quá mạnh Ngày 25/6/1997, chính phủ Thái Lan đã ra lệnh đóng
cửa hàng loạt các cơng ty tài chính trên cả nước, ước tính khoảng 64" bị đóng cửa.
Để giữ tỷ giá hối đoái trong điều kiện lượng ngoại tệ được đặt mua tăng vọt, chính
phủ đã phải bán ngoại tệ, làm dự trữ ngoại tệ giam mạnh từ 38.78 tỷ USD trong
tháng 6/1996 còn 37,7 tỷ USD trongtháng 12/1996 và còn 31,4 tỷ USD vào
30/6/1997, và cùng ngày lượng dự trữ ngoại tệ của Thái Lan giảm xuống, khả năng
bản ngoại tệ khơng cịn, dẫn đến khơng thể duy trì tỷ giá hối đối. Có lẽ thấy được
nguy cơ này, ngày 2/7/1997, chính phủ Thái Lan tuyên bố tha nổi đồng Baht, kết
7
quả tỷ giá từ 25 Baht(6/1997) tăng lên thành 53 Baht/USD (1/1998), tức là 112%
trong vòng 6 tháng.
Như vậy, nền kinh tế Thái Lan đã rơi vào tình trạng suy thoái trầm trọng trong
lịch sử, và tai hại hơn đây chính là sự khởi đầu cuộc bùng nói của khủng hoảng ở
Châu Á.
II.2.2: Indonesia
Tháng 7 khi Thái Lan thả nổi đồng Baht, cơ quan hữu trách tiền tệ của
Indonesia đã nới rộng biên độ dao động của tỉ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar
Mỹ từ 8% lên 12%. Tháng 8 đồng Rupiah bị giới đầu cơ tấn công và đến ngày 14
thì chế độ tỉ giá hối đối thả nổi có quản lí được thay thế bằng chế độ thả nổi hoàn
toàn (14/8/1997). Đồng Rupiah liên tục mất giá. IMF đã thu xếp một gói viện trợ
tài chính khẩn cấp cho Indonesia lên tới 23 tỷ Dollar, nhưng Rupiah tiếp tục mất
giá do đồng Rupiah bị bán ồ ạt và lượng cầu Dollar Mỹ ở Indonesia tăng vọt.
Tháng 9 cả giá Rupiah lẫn chỉ số thị trường chứng khoán đều giảm xuống mức
thấp nhất lịch sử.
Rupiah mất giá làm suy yếu bảng cân đối tài sản của các công ty Indonesia, đặc
biệt là làm cho món nợ ngân hàng nước ngồi của các cơng ty tăng lên. Trước tình
hình đó, nhiều cơng ty đẩy mạnh mua Dollar vào (bán Rupiah ra) khiến cho nội tệ
thêm mất giá và tỷ lệ lạm phát tăng vọt.
Lạm phát tăng tốc cùng với chính sách tài chính khắc khổ theo yêu cầu của IMF
khiến chính phủ phải bỏ trợ giá lương thực và xăng đã khiến giá hai mặt hàng này
tăng lên. Tình trạng bạo động để tranh giành mua hàng đã bùng phát. Riêng ở
Jakarta đã có tới 500 người chết do bạo động. Khủng hoảng kinh tế và khủng
hoảng xã hội đã dẫn tới khủng hoảng chính trị. Giữa năm 1998, Suharto buộc phải
từ chức tổng thống.
Trước khủng hoảng, tỷ giá hối đoái giữa Rupiah và Dollar vào khoảng 2000:1.
Nhưng trong thời kì khủng hoảng, tỷ giá đã giảm xuống mức 18000:1.
II.2.3: Malaysia
8
Ngay sau khi Thái Lan thả nổi đồng Baht (ngày 2 tháng 7 năm
1997), đồng Ringgit của Malaysia và thị trường chứng khoán Kuala
Lumpur lập tức bị sức ép giảm giá mạnh. Ringgit đã giảm từ mức
3,75 Ringgit/Dollar Mỹ xuống còn 4,20 Ringgit/Dollar. Phần lớn sức
ép giảm giá đối với Ringgit là từ việc buôn bán đồng tiền này trên
thị trường tiền ở nước ngoài. Những người tham gia thị trường tiền
duy trì tài khoản bằng đồng Ringgit ở trạng thái bán ra nhiều hơn
mua vào với dự tính về sử giảm giá của đồng Ringgit trong tương
lai. Kết quả là lãi suất trong nước của Malaysia giảm xuống
khuyến khích dịng vốn chảy ra nước ngồi. Lượng vốn chảy ra đạt
tới mức 24,6 tỷ Ringgit vào quý hai và quý ba năm 1997 .
II.2.4: Hàn Quốc
Vào thời điểm khủng hoảng bùng phát ở Thái Lan, Hàn Quốc có
một gánh nặng nợ nước ngồi khổng lồ. Các cơng ty nợ ngân
hàng trong nước, còn ngân hàng trong nước lại nợ ngân hàng
nước ngoài. Một vài vụ vỡ nợ đã xảy ra. Khi thị trường châu Á bị
khủng hoảng, tháng 11 các nhà đầu tư bắt đầu bán ra chứng
khoán của Hàn Quốc ở quy mô lớn. Ngày 28 tháng 11 năm 1997,
tổ chức đánh giá tín dụng Moody đã hạ thứ hạng của Hàn Quốc từ
A1 xuống A3, sau đó vào ngày 11 tháng 12 lại hạ tiếp xuống B2.
Điều này góp phần làm cho giá chứng khốn của Hàn Quốc thêm
giảm giá. Riêng trong ngày 7 tháng 11, thị trường
chứng khoán Seoul tụt 4%. Ngày 24 tháng 11 lại tụt 7,2% do tâm
lý lo sợ IMF sẽ
đòi Hàn Quốc phải áp dụng các chính sách khắc khổ.
Trong khi đó, đồng Won giảm giá xuống còn khoảng 1700
KRW/USD từ mức 1000 KRW/USD.
II.2.5: Hong Kong
Tháng 10/1997, Dollar Hong Kong bị tấn công đầu cơ. Đồng
tiền này vốn được neo vào Dollar Mỹ với tỷ giá 7,8 HKD/USD. Tuy
nhiên, tỷ lệ lạm phát ở Hong Kong lại cao hơn ở Mỹ. Đây là cơ sở
để cho giới đầu cơ tấn cơng. Nhờ có dự trữ ngoại tệ hùng hậu lên
9
tới 80 tỷ USD vào thời điểm đó tương đương 700% lượng cung tiền
M1 hay 45% lượng cung tiền M3, nên Cơ quan Tiền tệ Hong Kong
đã dám chi hơn 1 tỷ USD để bảo vệ đồng tiền của mình. Các thị
trường chứng khoán ngày càng trở nên dễ đổ vỡ. Từ ngày 20/10
đến 23/10, Chỉ số Hang Seng đã giảm 23%.
Ngày 15/8/1998, Hong Kong nâng lãi suất cho vay qua đêm từ
8% lên thành 23% và ngay lập tức nâng vọt lên 500%. Đồng thời,
Cơ quan Tiền tệ Hong Kong bắt đầu mua vào các loại cổ phiếu
thành phần của Chỉ số Hang Seng để giảm áp lực giảm giá cổ
phiếu. Cơ quan này và ông Donald Tsang, lúc đó là Bộ trưởng Tài
chính và sau này làm Trưởng Đặc khu hành chính Hong Kong, đã
cơng khai tun chiến với giới đầu cơ. Chính quyền đã mua vào
khoảng 120 tỷ Dollar Hong Kong (tương đương 15 tỷ Dollar Mỹ)
các loại chứng khốn. Sau này, vào năm 2001, chính quyền đã
bán ra số chứng khoáng này và thu lời khoảng 30 tỷ Dollar Hong
Kong (khoảng 4 tỷ Dollar Mỹ). Các hoạt động đầu cơ nhằm vào
Dolar Hong Kong và thị trường chứng khoán của nước này đã
ngừng lại vào tháng 9 năm 1998 chủ yếu do các nhà đầu cơ bị
thiệt hại bởi chính sách điều tiết dịng vốn nước ngồi của chính
phủ Malaysia và bởi sự sụp đổ của thị trường trái phiếu và tiền tệ
ở Nga. Tỷ giá giữa Dollar Hong Kong và Dollar Mỹ vẫn được bảo
toàn ở mức 7,8 :1.
II.2.6: Việt Nam
Vào thời điểm 1997-1998, Việt Nam mới bắt đầu mở cửa hội
nhập nên cũng bị tác động nhất định. Tăng trưởng kinh tế đang ở
mức 9,54% năm 1995, 9,34% năm 1996, 8,15% năm 1997, đến
năm 1998 chỉ tăng 5,76%, năm 1999 chỉ tăng 4,77%. Vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài đăng ký, nếu 1996 đạt gần 10,2 tỷ USD, thì
từ 1997 bị giảm liên tục, đến 1999 chỉ còn gần 2,6 tỉ USD. Lạm
phát năm 1998 lên mức 9,2%. Giá USD năm 1997 tăng 14,2%,
năm 1998 tăng 9,65%. Tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu đến năm
1998 chỉ còn 1,9%. Nhập khẩu 1997 chỉ tăng 4% và
năm 1999 chỉ tăng 2,1%...
Do ảnh hưởng của khủng hoảng nên lượng đầu tư trực tiếp
nước ngoài (FDI) vào Việt Nam giảm sút nghiêm trọng. Năm
10
1997, FDI chỉ bằng 70% so với năm 1996. Đó là do 70% FDI vào
Việt Nam hiện nay là từ các nền kinh tế Đông Á, là những nước
đang bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng. Họ không
muốn đầu tư vào nước ta vì nhu cầu khắc phục kinh tế của nước
họ, tạo thành làn sóng rút vốn đầu tư khỏi châu Á. Số lượng dự án
đăng ký làm mới giảm sút từ 349 vào năm 1997 xuống còn 285 và
327 trong năm 1998 và 1999. Năm 1997 có 5,6 tỉ USD FDI đăng kí
vào Việt Nam. Con số này chỉ còn 5 tỉ USD trong năm 1998. Và
trong hai năm tiếp theo, lượng vốn đăng kí chỉ còn khoảng 50%
của năm 1997. Số vốn thực hiện trong ba năm liên tiếp từ 19982000 dừng ở mức 2,3 tỉ USD mỗi năm.
II.3: Hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á 1997
Khủng hoảng đã gây ra ảnh hưởng vĩ mô nghiêm trọng, bao
gồm mất giá tiền tệ, sụp đổ thị trường chứng khoán, giảm giá tài
sản ở một số nước châu Á. Nhiều doanh nghiệp phá sản khiến
hàng triệu người bị đẩy xuống dưới ngưỡng nghèo năm 19971998. Những nước bị ảnh hưởng nặng nề là Indonesia, Hàn Quốc,
Thái Lan.
Khủng hoảng kinh tế còn dẫn tới mất ổn định chính trị với sự ra
đi của Suharto ở Indonesia và Chavalit Yongchaiyudh ở Thái Lan.
Tâm lí chống phương tây ra tăng cùng với sự phê phán gay gắt
nhằm vào George Soros và Quỹ tiền tệ quốc tế. Các phong trào
hồi giáo và li khai phát triển mạnh ở Indonesia khi chính quyền
trung ương của nước này suy yếu.
Tăng tỉ giá hối đoái của những nước bị ảnh hưởng
Tỷ giá bình quân
11
1996
1997
Baht/USD
25,61
47,25
Peso/USD
26,29
39,5
Ringgit/USD
2,52
3,88
Rupiah/USD
2,308
5,4
KRW/USD
844,2
1695,8
Theo: IMF
Sự thua lỗ và phá sản với quy mô và tốc độ bất thường của
hệ thống ngân hàng, tài chính quốc gia
Năm tài chính từ 1/4/1997 đến 31/3/1998
Nước
Tổng số Số ngân Số ngân
ngân
hàng bị hàng bị
hàng
đình chỉ quốc
hữu hóa
Số ngân
hàng bị
sáp
nhập
Thái Lan
108
2
Malaysia
60
Indonesi
a
228
16
Hàn
Quốc
56
16
54
2
56
Số ngân
hàng bị
bán cho
nước
ngồi
4
Tổng số
ngân
hàng có
vấn đề
64
(59%)
41
41
(68%)
11
83
(36%)
2
18
(32%)
Nguồn: Trích “Khủng hoảng kinh tế tài chính 1997-1999 – GS
Nguyễn Thiện Nhân”
Sự phá sản có quy mơ lớn của doanh nghiệp
Nước
Thời gian
Thái Lan
1/1998 – 5/1998
Malaysia
1996
1997
12
Số doanh nghiệp
phá sản
3961 doanh nghiệp
ngừng hoạt động,
trong đó 582 doanh
nghiệp phá sản.
489 doanh nghiệp
phá sản.
6583 doanh nghiệp
phá sản.
Indonesia
1998
Khoảng 80% doanh
nghiệp ngừng hoạt
động.
Hàn Quốc
1996
14000 doanh
nghiệp phá sản.
1998
54000 doanh
nghiệp phá sản.
( Nguồn: trích “Khủng hoảng tài kinh tế tài chính 1997-1999 –
GS Nguyễn Thiện Nhân” )
Số người thất nghiệp tăng nhanh và tăng trưởng kinh tế giảm
sút.
Nước
Tăng trưởng kinh tế Tỷ lệ thất nghiệp
(%)
(%)
1996
1997
1996
1997
1998
1998
Thái Lan
6,7
-0,4
3,3
3,7
-8,3
8,8
Malaysia
8,2
7,0
2,6
2,7
2,0
5,0
Philippines
5,8
5,2
9,5
10,4
-0,5
3,3
Indonesia
7,8
4,6
2,2
3,0
-13,7
Hàn Quốc
7,1
5,5
2,3
2,5
5,8
8,0
( Nguồn: trích “Khủng hoảng tài kinh tế tài chính 1997-1999 –
GS Nguyễn Thiện Nhân” )
Một ảnh hưởng lâu dài và nghiêm trọng khác là GDP và GNP
bình qn đầu người tính bằng Dollar Mỹ theo sức mua tương
đương giảm đi. Nội tệ mất giá là nguyên nhân trực tiếp của hiện
tượng này. Cuốn CIA World Fact Book cho biết thu nhập bình quân
đầu người của Thái Lan giảm từ 8800 USD năm 1997 xuống còn
8300 USD năm 2005, của Indonesia giảm từ 4600 USD xuống
3700 USD, của Malaysia giảm từ 11000 USD xuống 10400 USD.
13
II.4: Biện pháp khắc phục và bài học của Việt Nam từ cuộc khủng hoảng kinh
tế châu Á 1997
II.4.1. Biện pháp khắc phục
Thực tế thì mỗi trong số các nước nói trên có cách đối phó với khủng hoảng và
có lộ trình tái cấu trúc khác nhau cùng với những trải nghiệm khác nhau. Theo
nghiên cứu và tìm hiểu thì có thể đúc kết một số biện pháp sau:
1. Ổn định hệ thống tài chính và khơi phục lịng tin của cơng chúng đối với khả
năng quản lí kinh tế, ổn định vĩ mơ của chính phủ.
2. Áp dụng khẩn cấp các biện pháp ngăn chặn sự tháo chạy của hệ thống ngân
hàng, duy trì hệ thống thanh tốn, hạn chế sự hỗ trợ thanh khoản từ NHTW,
hạn chế tối đa sự lệch lạc dịng chảy tín dụng, duy trì kiểm sốt tiền tệ và
ngăn chặn dịng vốn rút ra nước ngoài.
3. Hỗ trợ thanh khoản của NHTW trước hết là hết sức cần thiết nhưng sau đó
phải giảm dần kèm theo với việc đóng cửa một số tổ chức tài chính yếu kém
khi điều kiện đã chín muồi. Tập trung xử lí những vấn đề cấp thiết như: tỷ
giá, lãi suất ngắn hạn, dự trữ ngoại tệ hơn là tập trung vào xử lí những vấn
đề tổng thể vốn đã bị mất cân đối nghiệm trọng.
4. Thiết lập một hành lang pháp lý phù hợp làm cơ sở cho việc loại bỏ khỏi hệ
thống những tổ chức tài chính yếu kém, củng cố tiềm lực cho các tổ chức tài
chính thiết yếu đối với nền kinh tế, xử lí các khoản nợ xấu, tăng cường thể
chế giám sát và minh bạch hóa các hoạt động của hệ thống tài chính.
5. Cần có những quy định cụ thể về các phương pháp và tiêu chí định giá phù
hợp và tham chiếu kết quả của nhiều tổ chức định giá chuyên nghiệp khác
nhau. Việc thiết lập các tiêu chí đồng bộ, đầy đủ và cơng khai minh bạch
đóng vai trị quan trọng nhất đối với quá trình tái cấu trúc.
6. Việc định giá tài sản, xác định thiệt hại của các khoản nợ xấu và việc tái cấu
trúc vốn là cần thiết và cũng phải được thực thi và giám sát một cách chặt
chẽ. Nếu số ngân hàng này không đạt tỷ lệ an toàn vốn đồng thời phải được
giám sát chặt của cơ quan cơng quyền.
7. Chi phí cho q trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tài chính vơ cùng lớn.
Ước tính chi phí thiệt hại ngân sách phải gánh chịu để đối phó với khủng
hoảng tài chính và tái cấu trúc hệ thống ngân hàng tài chính năm 1997-1998
nằm trong khoảng 15-45% GDP.
8. Khẳng định vai trò quan trọng của nhà nước và sự quyết tâm chính trị cao là
nhân tố quan trọng trong quá trình tái cấu trúc.
9. Tái cấu trúc ngân hàng không thể tách rời với tái cấu trúc doanh nghiệp.
14
10. Chính phủ đứng ra mua lại, hoặc quốc hữu hóa một số ngân hàng hoặc
thành lập cơng ty quản lý mua bán nợ trung gian sau đó tái vốn hóa những
ngân hàng này hoặc bán lại cho ngân hàng, hoặc tổ chức tài chính khác.
Sau khi tái cấu trúc, những tiêu chuẩn, chuẩn mực nội địa của hệ thống ngân
hàng tài chính của các nước đều tiến gần hơn tới những chuẩn mực và thông lệ
quốc tế. Sự minh bạch hóa thơng tin hệ thống tài chính, ngân hàng được cải thiện,
khả năng giám sát và cảnh báo sớm của các cơ quan chức năng cũng hiệu quả hơn.
Đặc biệt, kỹ năng phân tích và dự báo những bài học trong quá khứ và các trường
hợp điển hình trên thế giới được vận dụng sát với thực tiễn và hoàn cảnh điều kiện
của mỗi nước cũng là nhân tố đảm bảo sự phát triển ổn định và bền vững của hệ
thống ngân hàng – tài chính của các nước trong suốt giai đoạn từ khi xảy ra khủng
hoảng đến nay.
II.4.2. Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
Cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính châu Á năm 1997 đã ảnh hưởng nặng nề tới
các nước châu Á như Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc,… Việt Nam cần rút ra một
số bài học kinh nghiệm:
- Việt Nam cần tạo môi trường chính trị, kinh tế ổn định – đây là điều kiện
quan trọng để tạo nên cơ sở vững chắc cho sự hội nhập kinh tế trong xu thế
hiện nay.
- Xây dựng một nền tài chính, tiền tệ ổn định với hệ thống ngân hàng tài chính
vững chắc, lành mạnh hoạt động thống nhất với các chính sách đồng bộ, linh
hoạt với đồng nội tệ, thị trường…tạo môi trường canh tranh lành mạnh và
hội nhập tích cực vào thị trường thế giới để tư bản và các yếu tố sản xuất
khác được sử dụng một cách có hiệu quả.
- Tạo mơi trường thuận lợi để kích thích tư bản trong nước và nước ngồi tích
cực đầu tư.
- Nâng cao trình độ khoa học công nghệ, đây được coi là mũi nhọn để đột phá
vào nền kinh tế và nâng cao tính cạnh tranh. Điều này địi hỏi tính đồng bộ
và nỗ lực học hỏi, giao lưu quốc tế ngày một cao, tận dụng các nguồn lực,
đầu tư thiết bị công nghệ, tạo ra cho Việt Nam những ưu thế nổi trội.
- Chú trọng vào các ngành kinh tế mũi nhọn để xuất khẩu – đây là một trong
những động lực chính để phát triển. Tạo ra những thương hiệu có tính cạnh
tranh cao trên thị trường về chủng loại mẫu mã. Đặc biệt nên quan tâm tới
pháp luật quốc tế với sự tiếp thị của các doanh nghiệp.
- Để phát triển bền vững, Việt Nam cần chú trọng hơn nữa về nhân tố con
người có chất lượng hiệu quả. Có những chính sách xã hội, dân chủ, có kế
15
hoạch dài hạn trong việc xây dựng nguồn nhân lực đồng thời tạo cơ chế để
nhân tài được sử dụng đúng chỗ.
- Cuối cùng, bộ máy hành chính cần phải được cải cách nhanh và tạo cơ chế
để người tài giỏi và có phẩm chất đạo đức giữ những chức vụ quan trọng
trong bộ máy nhà nước. Một nước phát triển nhanh và có hiệu suất khi các
doanh nghiệp hăng hái, nỗ lực trong việc mưu tìm lợi nhuận, chân chính hơn
là mưu cầu đặc lợi.
Tác động tích cực:
Bên cạnh những tác hại của khủng hoảng kinh tế gây ra nó cũng có nhiều
mặt tích cực: mở đầu giai đoạn mới đầy triển vọng.
Việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp chính phủ giảm thiểu
lượng ngoại tệ can thiệp , giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ
quốc gia về lâu dài, khuyến khích, tăng khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó
cải thiện những cân đối tài chính của đất nước.
Thái Lan, Indonesia, Hàn Quốc, Philippines sẽ nhận được lượng tín dụng
quốc tế chính thức với khối lượng lớn phục vụ các mục tiêu cải cách và phát
triển kinh tế. Cuộc khủng hoảng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư,
thúc đẩy sản xuất sản phẩm mới có suất cạnh tranh xuất khẩu cao hơn. Các
khoản chi phí kém hiệu quả sẽ bị cắt giảm, các dự án cá nhân được khuyến
khích.
Phần III. Kết luận
Mặc dù cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính đã qua hơn hai thập kỉ nhưng nó
cũng sẽ trở lại nếu như chúng ta phạm lại những sai lầm cũ trong quá khứ. Đó
là cơ hội để chúng ta nhận ra những khuyết điểm về chính sách kinh tế. Việt
Nam chúng ta chịu ảnh hưởng chung từ khủng hoảng kinh tế thế giới, vì vậy
những bài học rút ra từ khủng hoảng là vô cùng quan trọng. Mọi nền kinh tế đều
có điểm chung là sự liên kết chặt chẽ mọi lĩnh vực. Bên cạnh đó là sự điều tiết
trong việc quản lí thị trường của cơ quan quản lí. Điều chủ động ở đây là các
nước phải biết được sự khác biệt giữa các cuộc khủng hoảng để rút ra biện pháp
và chính sách để nền kinh tế nước mình thốt khỏi khủng hoảng. Hiện tại thế
giới vẫn đang đối đầu với đại dịch Covid-19, gây ra rất nhiều khó khăn đối với
16
nền kinh tế, chính trị, giảm mạnh sự tăng trưởng kinh tế với các nước, gây ra
những hậu quả kinh khủng như khủng hoảng kinh tế. Với những kinh nghiệm
đã đúc kết từ các cuộc khủng hoảng trước, mong thế giới sẽ ngăn chặn, dập tắt
được dịch bệnh, khôi phục nền kinh tế, đưa thế giới trở lại bình thường.
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình kinh tế chính trị
Cải cách kinh tế ở Đơng Á, thời kì mười năm sau khủng hoảng 1997 ( chủ
biên Nguyễn Bình Giang, viện Khoa học Xã hội Việt Nam, viện Kinh tế
chính trị thế giới, nhà xuất bản Khoa học – Xã hội, 2009 )
Khủng hoảng kinh tế tài chính 1997-1999 – GS Nguyễn Thiện Nhân
“Cái bẫy cuối cùng của khủng hoảng tài chính châu Á 1997” , báo điện tử
tiasang.com.vn (1/8/2007)
“Bóng ma” trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á 1997, báo điện tử
m.anninhthudo.vn (20/5/2019)
“Mười năm sau khủng hoảng tài chính: châu Á phát triển bền vững hơn?”,
báo điện tử nhandan.vn (2/7/2007)
17
18