Tải bản đầy đủ (.docx) (23 trang)

Tiểu Luận Thực trạng lạm phát Việt Nam từ năm 1986 đến nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.69 KB, 23 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Thực trạng lạm phát Việt Nam từ năm 1986 đến nay
Họ và tên: Nguyễn Thị Khánh Huyền
Lớp: Anh 12 – KTKT – K59
Chuyên ngành: Kế toán – Kiểm tốn
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hồng Văn Vinh

QUẢNG NINH – THÁNG 6 NĂM 2021



MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU....................................................................................................................................1
Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN...........................................................................................................2
1.1.

Khái niệm về lạm phát..........................................................................................................2

1.2.

Phân loại lạm phát.................................................................................................................2

1.2.1. Lạm phát vừa phải..............................................................................................................2
1.2.2. Lạm phát phi mã.................................................................................................................2
1.2.3. Siêu lạm phát......................................................................................................................2
1.3.


Đo lường lạm phát.................................................................................................................2

1.4.

Các nguyên nhân gây ra lạm phát.......................................................................................3

1.4.1. Lạm phát do cầu kéo..........................................................................................................3
1.4.2. Lạm phát do chi phí đẩy.....................................................................................................3
1.4.3. Lạm phát do cơ cấu............................................................................................................3
1.4.4. Lạm phát do xuất khẩu......................................................................................................4
1.4.5. Lạm phát do nhập khẩu.....................................................................................................4
1.4.6. Lạm phát tiền tệ..................................................................................................................4
1.5.

Ảnh hưởng của lạm phát đến kinh tế..................................................................................5
1.5.1. Lợi tích tích cực..............................................................................................................5
1.5.2. Ảnh hưởng tiêu cực........................................................................................................5
1.5.2.1. Lạm phát và lãi suất....................................................................................................5
1.5.2.2. Lạm phát và thu nhập thực tế.....................................................................................5

Chương II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ NĂM 1986 ĐẾN NAY..............6
2.1. Giai đoạn từ năm 1986-1990......................................................................................................6
2.2. Giai đoạn từ năm 1991-1995......................................................................................................7
2.3. Giai đoạn từ năm 1996-2000......................................................................................................8
2.4. Giai đoạn từ năm 2001-2005......................................................................................................9
2.5. Giai đoạn từ năm 2006-2010......................................................................................................9


2.6. Giai đoạn từ năm 2011-2016....................................................................................................12
2.7. Giai đoạn từ năm 2017-2021...................................................................................................13

2.8. Giải pháp nhằm kiềm chế lạm phát trong thời gian tới......................................................16
KẾT LUẬN.......................................................................................................................................17
NGUỒN THAM KHẢO

18


LỜI NĨI ĐẦU
Trong nền kinh tế thị trường ln diễn ra tình trạng cạnh tranh gay gắt giữa các
doanh nghiệp để thu được lợi nhuận cao và đứng vững trên thị trường, các nhà
kinh tế cũng như các doanh nghiệp ln phải nhanh chóng để tiếp cận, nắm bắt
những vấn đề của nền kinh tế mới. Bên cạnh bao vấn đề cần có để kinh doanh
cịn là những vấn đề nổi cộm ấy là lạm phát. Lạm phát là một hiện tượng kinh tế
xã hội gắn với nền kinh tế thị trường. Lạm phát được coi là một căn bệnh kinh
niên của mọi nền kinh tế hàng hóa tiền tệ. Nó có tính thường trực, nếu khơng
thường xun kiểm sốt, khơng có những giải pháp chống lạm phát thường trực,
đồng bộ và hữu hiểu thì lạm phát có thể xảy ra ở bất cứ nền kinh tế hàng hóa nào
với bất kì chế độ xã hội nào.
Nền kinh tế Việt Nam cũng khơng thể tránh khỏi lạm phát, nó là một vấn đề hết
sức phức tạp đòi hỏi sự đầu tư lớn về thời gian trí tuệ mới có thể mong muốn đạt
được kết quả khả quan. Lạm phát ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế quốc dân,
đến đời sống xã hội, đặc biệt là giới lao động ở nước ta hiện nay. Trong sự
nghiệp phát triển thị trường ở nước ta theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự
điều tiết của nhà nước, việc nghiên cứu về lạm phát, tìm hiểu nguyên nhân và
các biện pháp chống lạm phát có vai trị to lớn góp phần vào sự phát triển của
đất nước.
Vì vậy em lựa chọn đề tài: “ Thực trạng lạm phát ở Việt Nam từ năm 1986 đến
nay ” để có thể nghiên cứu kĩ hơn về lạm phát ở Việt Nam và qua đó chúng em
có thể rút ra một số biện pháp khắc phục nhằm giảm lạm phát trong thời kì kinh
tế mở và phát triển một cách đồng bộ ở Việt Nam. Trong q trình nghiên cứu

đề tài chắc chắn cịn nhiều thiếu sót, em kính mong sự góp ý chân thành của
thầy cơ để đề tài nghiên cứu được hồn thiện hơn.
Xin chân thành cảm ơn!
1


Chương I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1.

Khái niệm về lạm phát

Lạm phát là sự tăng mức giá chung một cách liên tục của hàng hóa và
dịch vụ theo thời gian và sự mất giá trị của một loại tiền tệ nào đó. Khi mức giá
chung tăng cao, một đơn vị tiền tệ sẽ mua được ít hàng hóa và dịch vụ hơn so
với trước đây, do đó lạm phát phản ánh sự suy giảm sức mua trên một đơn vị
tiền tệ. Mức giá chung hay chỉ số giá cả để đánh giá lạm phát là các chỉ số sau:
chỉ số giảm phát, chỉ số giá tiêu dùng (CPI), chỉ số giá hàng tư liệu sản xuất
(PPI).
1.2. Phân loại lạm phát
1.1.1. Lạm phát vừa phải (lạm phát cơ bản)
“Lạm phát vừa phải hay còn gọi là lạm phát một con số. Mức độ tỷ lệ lạm
phát dưới 10%”. Thực tế mức độ lạm phát vừa đưa ra khơng có tác động đến nền
kinh tế. Những kế hoạch dự đoán tương đối ổn định không bị xáo trộn. Tỷ lệ lạm
phát của Việt Nam đang trong mức lạm phát vừa phải.
1.1.2. Lạm phát phi mã
“Lạm phát phi mã hay còn gọi là lạm phát hai (hoặc ba) con số. Mức độ
lạm phát này có tỷ lệ lạm phát 10%, 20% và lên đến 200%”. Khi mức độ lạm
phát như vậy kéo dài nó có tác động mạnh đến nền kinh tế, có thể gây ra những
biến đổi kinh tế nghiêm trọng.
1.1.3. Siêu lạm phát

“Đây là tình trạng lạm phát đột biến tăng lên với tốc độ cao. Mức độ lạm
phát này có tỷ lệ lạm phát trên 200%”. Hiện tượng này không phổ biến nhưng
nó đã xuất hiện trong lịch sử. Ví dụ như ở Đức, Trung Quốc, Brazil,...
1.3. Đo lường lạm phát
Thước đo tình trạng lạm phát chủ yếu trong một thời kỳ là tỷ lệ lạm phát.
Chính là tỷ lệ phần trăm về chênh lệch của một trong các chỉ số nêu trên ở hai
thời điểm khác nhau
Cơng thức tính tỷ lệ lạm phát (theo CPI) trong thời gian t:
2


CPIt =
1.4. Các nguyên nhân gây ra lạm phát
1.4.1 Lạm phát do cầu kéo
Khi nhu cầu thị trường về một mặt hàng nào đó tăng lên sẽ khiến giá cả
của mặt hàng đó tăng theo. Giá cả của các mặt hàng khác cũng theo đó leo
thang, dẫn đến sự tăng giá của hầu hết các loại hàng hóa trên thị trường. Lạm
phát do sự tăng lên về cầu (nhu cầu tiêu dùng của thị trường tăng) được gọi là
“lạm phát do cầu kéo”.
Ở Việt Nam, giá xăng tăng lên kéo theo giá cước taxi tăng lên, giá thịt lợn
tăng, giá nơng sản tăng.... là một ví dụ điển hình.
1.4.2 Lạm phát do chi phí đẩy
Chi phí đẩy của các doanh nghiệp bao gồm tiền lương, giá cả nguyên liệu
đầu vào, máy móc, thuế… Khi giá cả của một hoặc vài yếu tố này tăng lên thì
tổng chi phí sản xuất của các xí nghiệp cũng tăng lên, vì thế mà giá thành sản
phẩm cũng sẽ tăng lên nhằm bảo toàn lợi nhuận. Mức giá chung của toàn thể
nền kinh tế tăng lên được gọi là “lạm phát do chi phí đẩy”.
Ví dụ: Tiền lương là một phần quan trọng trong chi phí sản xuất và dịch
vụ. Trường hợp tiền lương tăng nhanh hơn năng suất lao động thì tổng chi phí
sản xuất sẽ tăng lên. Nếu nhà sản xuất có thể chuyển việc tăng chi phí này về

phía người tiêu dùng thì đương nhiên giá bán sản phẩm sẽ tăng lên, cơng nhân
và cơng đồn sẽ u cầu tăng tiền lương để phù hợp với chi phí sinh hoạt tăng
lên, điều đó tạo vịng xốy lượng giá. Một yếu tố chi phí khác là giá cả nguyên
vật liệu, trong trường hợp này là dầu thô.
1.4.3 Lạm phát do cơ cấu

3


Với ngành kinh doanh có hiệu quả, doanh nghiệp tăng dần tiền công
“danh nghĩa” cho người lao động. Nhưng cũng có những nhóm ngành kinh
doanh khơng hiệu quả, doanh nghiệp cũng theo xu thế đó buộc phải tăng tiền
cơng cho người lao động.
Nhưng vì những doanh nghiệp này kinh doanh kém hiệu quả, nên khi phải
tăng tiền công cho người lao động, các doanh nghiệp này buộc phải tăng giá
thành sản phẩm để đảm bảo mức lợi nhuận và làm phát sinh lạm phát.
1.4.4. Lạm phát do xuất khẩu
Khi xuất khẩu tăng, dẫn tới tổng cầu tăng cao hơn tổng cung (thị trường
tiêu thụ lượng hàng nhiều hơn cung cấp), khi đó sản phẩm được thu gom cho
xuất khẩu khiến lượng hàng cung cho thị trường trong nước giảm (hút hàng
trong nước) khiến tổng cung trong nước thấp hơn tổng cầu. Khi tổng cung và
tổng cầu mất cân bằng sẽ nảy sinh lạm phát.
1.4.5. Lạm phát do nhập khẩu
Khi giá hàng hóa nhập khẩu tăng (do thuế nhập khẩu tăng hoặc do giá cả
trên thế giới tăng) thì giá bán sản phẩm đó trong nước sẽ phải tăng lên. Khi mức
giá chung bị giá nhập khẩu đội lên sẽ hình thành lạm phát.
1.4.6. Lạm phát tiền tệ
Khi cung lượng tiền lưu hành trong nước tăng, chẳng hạn do ngân hàng
trung ương mua ngoại tệ vào để giữ cho đồng tiền trong nước khỏi mất giá so
với ngoại tệ; hay do ngân hàng trung ương mua công trái theo yêu cầu của nhà

nước làm cho lượng tiền trong lưu thông tăng lên cũng là nguyên nhân gây ra
lạm phát.
Ví dụ: Năm 1966 – 1967 Chính phủ Mỹ đã sử dụng tăng tiền để trả cho
những chi phí leo thang trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Lạm phát tăng từ
3% (năm 1967) đến 6% (năm 1970). Xét trong dài hạn lãi suất thực tế (i) và sản
4


lượng thực tế (y) đạt mức cân bằng, nghĩa là (i) và (y) ổn định. Mức cầu tiền
thực tế không đổi nên M/P cũng không đổi. Suy ra khi lượng tiền danh nghĩa
(M) tăng lên thì giá cả sẽ tăng lên một tỷ lệ tương ứng. Vậy lạm phát là một hiện
tượng tiền tệ. Đây là lý do tại sao ngân hàng Trung ương rất chú trọng đến
nguyên nhân này.
1.5. Ảnh hưởng của lạm phát đến kinh tế
1.5.1. Lợi ích tích cực
- Kích thích tiêu dùng, vay nợ, đầu tư, giảm bớt thất nghiệp trong xã hội.
- Cho phép chính phủ có thêm khả năng lựa chọn các cơng cụ kích thích đầu tư
vào những lĩnh vực kém ưu tiên thơng qua mở rộng tín dụng, giúp phân phối lại
thu nhập và các nguồn lực trong xã hội theo các định hướng mục tiêu và trong
khoảng thời gian nhất định có chọn lọc. Tuy nhiên, đây là cơng việc khó và đầy
mạo hiểm nếu khơng chủ động thì sẽ gây nên hậu quả xấu.
1.5.2. Ảnh hưởng tiêu cực
1.5.2.1. Lạm phát và lãi suất
Tác động đầu tiên của lạm phát là tác động lên lãi suất.
Lãi suất thực = Lãi suất danh nghĩa - Tỷ lệ lạm phát
Khi tỷ lệ lạm phát tăng cao, nếu muốn cho lãi suất thật ổn định và thực
dương thì lãi suất danh nghĩa phải tăng lên theo tỷ lệ lạm phát. Việc tăng lãi suất
danh nghĩa dẫn đến hậu quả mà nền kinh tế phải gánh chịu là suy thoái kinh tế
và thất nghiệp gia tăng.
1.5.2.2. Lạm phát và thu nhập thực tế


5


Giữa thu nhập thực tế và thu nhập danh nghĩa của người lao động có quan
hệ với nhau qua tỷ lệ lạm phát. Khi lạm phát tăng lên mà thu nhập danh nghĩa
khơng thay đổi thì làm cho thu nhập thực tế của người lao động giảm xuống.
Lạm phát không chỉ làm giảm giá trị thật của những tài sản khơng có lãi
mà cịn làm hao mịn giá trị của những tài sản có lãi, tức làm giảm thu nhập thực
từ các khoản lãi, các khoản lợi tức. Đó là do chính sách thuế của nhà nước được
tính trên cơ sở của thu nhập danh nghĩa. Khi lạm phát tăng cao, những người đi
vay tăng lãi suất danh nghĩa để bù vào tỷ lệ lạm phát tăng cao mặc dù thuế suất
vẫn khơng tăng.
Từ đó, thu nhập rịng (thực) của của người cho vay là lãi suất thực bị giảm
xuống sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nền kinh tế xã hội (suy thoái kinh tế, thất nghiệp
gia tăng, đời sống của người lao động trở nên khó khăn,…).

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG LẠM PHÁT Ở VIỆT NAM TỪ
NĂM 1986 ĐẾN NAY
2.1. Giai đoạn từ năm 1986-1990 (thời kì bắt đầu đổi mới)
Sau Đại hội Đảng lần VI, công cuộc đổi mới đã đạt được những kết quả
bước đầu rất đáng khích lệ, nhất là từ năm 1989. Tuy nhiên, nền kinh tế nước ta
vẫn ở trong tình trạng khủng hoảng kinh tế –xã hội: kinh tế phát triển chậm
không ổn định; bình quân thời kì 1986-1990 tốc độ tăng trưởng của giá trị sản
xuất nông nghiệp là 3,5%, công nghiệp là 6,2% và tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt
3,9%, trong khi dân số tăng 2,3%. Trong giai đoạn này hầu hết các cân đối lớn
đều căng thẳng: thâm hụt ngân sách ở mức 8% so với GDP, kim nghạch xuất
khẩu chỉ đạt ở mức thấp và chỉ bằng 54% kim nghạch nhập khẩu (1986, kim
nghạch xuất khẩu đạt 499 triệu USD và năm 1990 đạt 1734 triệu USD). Lạm
phát phi mã tuy đã được đẩy lùi nhưng vẫn còn rất cao (từ 487,2% năm 1986

còn 67,1% năm 1990). Giai đoạn 1986-1990, mặc dù Đảng và chính phủ đã có
nhiều biện pháp đổi mới về cơ chế chính sách và có nhiều giải pháp điều hành
6


nhưng đời sống nhân dân vẫn cịn gặp nhiều khó khăn, số người khơng có việc
làm ngày càng lớn, chiếm trên 10% lực lượng lao động xã hội…Thu nhập bình
quân trên đầu người thấp cộng với lạm phát cao nên mức sống thực của người
dân đã thấp lại còn thấp hơn. Trong giai đoạn 1986-1990, nhiều cơ sở phải thu
hẹp hoặc ngừng sản xuất (do tồn đọng hàng hóa), tài chính doanh nghiệp rối ren,
tình trạng ngăn sơng cấm chợ vẫn còn diễn ra. Cuối giai đoạn 1986-1990, tổng
sản phẩm xã hội tăng bình quân mỗi năm 4,8%, thu nhập quốc dân bình quân
đầu người mỗi năm tăng 3,9%, sản lượng lương thực đã đạt 21,5 triệu tấn, phân
phối lưu thơng đã có những bước tiến quan trọng, nhu cầu tiêu dùng giả tạo đã
giảm đáng kể, hoạt động kinh tế đối ngoại có nhiều khởi sắc, tốc độ xuất khẩu
có tăng nhanh hơn, các thành phần kinh tế ngồi quốc doanh bắt đầu phát triển.
2.2. Giai đoạn từ 1991-1995 (thời kì kinh tế đi vào ổn định)
Bước sang giai đoạn 1991-1995, tình hình kinh tế – xã hội nước ta có
nhiều chuyển biến tích cực, tốc độ tăng trưởng đạt khá cao, nền kinh tế đã bắt
đầu vượt qua khủng hoảng để đi vào thế ổn định. Tổng sản phẩm trong nước
thời kì 1991-19995 tăng bình quân 8,2% (năm 1991 tăng 6%,1992 tăng
8,6%,1993 tăng 8,1%,1994 tăng 8,8% và 1995 tăng 9,5%), giá trị sản xuất nơng
nghiệp tăng bình qn hàng năm tăng 5,2%, sản lượng lương thực hàng năm
tăng 4%, lương thực bình quân đầu người đã tăng liên tục từ 324,9kg năm 1991
lên 400kg năm 1998, và từ nước nhập khẩu gạo đến giai đoạn này đã là nước
xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, hình thành nhiều hộ sản xuất kinh
doanh giỏi và khoảng 11,5 vạn hộ phát triển kinh tế trang trại. Giá trị sản xuất
cơng nghiệp tăng bình qn hàng năm khoảng 13%, vượt qua nhiều thử thách
gay gắt của thị trường, thích nghi dần với cơ chế mới, nhiều sản phẩm quan
trọng tác động quyết định đến nền kinh tế đều tăng trưởng khá. Trong giai đoạn

1991-1995, điểm nổi bật là sự tăng trưởng kinh tế vượt trội hơn tất cả các giai
đoạn trước đó với tốc độ tăng trưởng cao nhất, tăng trưởng từ bản thân nền kinh
tế ít dựa vào bao cấp và trợ lực từ bên ngoài. Giá trị tổng sản lượng nông nghiệp
tăng từ 2,9% năm 1991 lên 6,6% năm 1995 (năm 1992 tăng 8,4%, 1993 tăng
7


6,7%,1994 tăng 4,9%). Sản lượng lương thực đã tăng từ 14,3 triệu tấn giai đoạn
1976-1980,17 triệu tấn/năm giai đoạn 1986-1990 lên 25,1 triệu tấn giai đoạn
1991-1995. Thành công trong quá trình đổi mới của nền kinh tế giai đoạn 19911995 là bước đầu chặn được lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng giảm từ 67,1% năm
1990 xuống 12,7% năm1995 (năm 1991 tỉ lệ lạm phát là 67,5% , năm 1992 là
17,5%, năm 1993 là 5,2%, năm 1994 là 19,4%, năm 1995 là 12,7%). Mặc dù chỉ
số giá tiêu dùng vẫn ở mức hai con số, nhưng đây là một chỉ số rất nhỏ bé so với
các năm trước đó, tình hình kinh tế-xã hội đã có nhiều khởi sắc và đang càng
ngày đi vào thế ổn định và phát triển, đời sống nhân dân đã được cải thiện một
bước. Do vậy, giai đoạn này, tình hình chính trị xã hội đã có nhiều hứng khởi,
lịng dân được khích lệ và tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước hơn.
2.3. Giai đoạn từ năm 1996-2000 (thời kì kinh tế có nhiều dấu hiệu trì
trệ)
Đây là giai đoạn được xác định là bước rất quan trọng của thời kỳ phát
triển mới - đẩy mạnh cơng nghiệp hố hiện đại hố đất nước. Năm 1996, tình
hình kinh tế xã hội có những chuyển biến tích cực, đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế
khá cao (9,3%). Tuy nhiên khủng hoảng kinh tế khu vực đã có tác động khơng
nhỏ đến nền kinh tế nước ta. Trước tình hình đó, Đảng và chính phủ đã có nhiều
giải pháp tháo gỡ khó khăn. Trong giai đoạn 1996-2000, đã bảo đảm duy trì
được nhịp độ tăng trưởng kinh tế khá, GDP bình quân tăng 7%/năm, giá trị sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 5,8%/năm, giá trị sản xuất công nghiệp tăng
13,5%/năm, giá trị các nghành dịch vụ tăng 6,8%/năm, GDP bình quân đầu
người năm 2000 tăng gấp 1,8 lần năm 1990. Trong giai đoạn này, điều đặc biệt
làm chúng ta quan tâm là đi cùng với tốc độ tăng trưởng nền kinh tế có chiều

hướng chững lại, đi xuống thì tỷ lệ lạm phát được kiểm soát, giảm xuống mức
thấp đáng kể và chuyển sang xu thế thiểu phát. Điều này được thể hiện ở chỗ tỷ
lệ lạm phát năm 1995 là 12,7% thì năm 2000 là một số âm (-0,6%). Vào các
năm cuối của giai đoạn 1996-2000, tình hình lạm phát có thay đổi, tỷ lệ lạm phát
ở mức thấp nhất và nguy cơ thiểu phát đã xuất hiện. Đi cùng với chỉ số giá ở
8


mức 0,1% năm 1999 và (-0,6%) năm 2000 là sản xuất trì trệ, các hoạt động kinh
doanh có nhiều dấu hiệu đình đốn.
Như vậy diễn biến tình hình lạm phát và tăng trưởng trong giai đoạn
1996-2000 là không tốt đối với nền kinh tế.
2.4. Giai đoạn từ năm 2001-2005 (thời kì kinh tế có bước phát triển mới)
Với mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh , bền vững và ổn định, trong bốn
năm vừa qua 2001-2005, nền kinh tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu khả
quan: năm 2000 chặn đứng đà giảm sút của tốc độ tăng trưởng GDP, năm 2001
tốc độ tăng trưởng GDP được cải thiện, bắt đầu tăng và đạt 6,89%, năm 2002 tốc
độ này đạt 7,04%, năm 2003 tăng 7,24% và năm 2004 tăng 7,62%. Trong bốn
năm vừa qua kinh tế tăng trưởng với tốc độ tương đối cao, cơ cấu kinh tế đã
chuyển dịch theo định hướng cơng nghiệp hố, hiện đại hố, vốn đầu tư vào cơ
sở hạ tầng của nền kinh tế đã tăng lên đáng kể, đời sống của nhân dân tăng, tỷ lệ
đói nghèo đã giảm đi, xã hội đang đi vào thế ổn định và hưng thịnh. Tỷ lệ lạm
phát trong các năm trong giai đoạn này cũng tăng dần lên từ (-0,6%) năm 2000
lên 9,5% năm 2004 (năm 2001 chỉ số giá ở mức 0,8%, 2002 là 4%, năm 2003 là
3%).Tuy nhiên, đến năm 2004 thì tình hình biến động trên thị trường thế giới và
biến động trên thị trường trong nước lạm phát lại gây bất ổn nền kinh tế. Với chỉ
số tiêu giá 9,5% năm 2004 là một ranh giới mỏng manh giữa lạm phát kiểm soát
được và lạm phát cao. Năm 2005, chỉ số giá 2 tháng đầu năm ở mức 1,1%
(tháng 1) và 2 tháng là 3,6% cũng không phải là thấp, cần phải cảnh giác và tìm
biện pháp ngăn chặn ngay, khơng để cho lạm phát có thể trở thành hai con số

trong năm 2005.
2.5. Giai đoạn từ năm 2006-2010
2.5.1. Giai đoạn lạm phát tăng nhanh
Dấu hiệu lạm phát đã xuất hiện từ tháng 6 năm 2007 khi CPI tháng 6 tăng
vọt lên 1%, trái hẳn với thông lệ giá cả hơn một thập kỉ qua. Tín hiệu này đã
9


được ghi nhận và xử lý kịp thời. Do không phân tích đúng nguyên nhân của lạm
phát, việc triển khai thực hiện không nghiêm túc nên mặc dù tăng trưởng kinh tế
cả năm 2007 ở mức cao trên 8.5%, song lạm phát cũng ở mức kỷ lục 12.63%.
Sau 6 tháng, chỉ số CPI đã lên tới 26.8% so với tháng 6 năm 2007 và
18.44% so với cuối năm 2007. Riêng nhóm hàng lương thực, thực phẩm tăng
tương ứng tới 74.3%. Sự phụ thuộc của nền kinh tế nói chung và của giá cả thị
trường nói riêng vào những biến động trong khu vực sản xuất lương thực, thực
phẩm của nước ta cịn rất lớn, mặc dù tỷ trọng của nơng nghiệp trong GDP giảm
xuống chỉ còn 20%.
So với tháng 12 (2007), CPI tháng 1 (2008) tăng 2.4%, sang tháng 2 tăng
vọt lên 6%, tháng 3 là 9.2%. Đến tháng 4 chỉ số CPI đã lên tới 2 con số (11.6%)
và tháng 5 lại tăng đột ngột tới 16%. Đỉnh điểm lạm phát đã đến mức 3.91% vào
tháng 5 (2008), trùng với thời điểm giá gạo trên thị trường quốc tế ở mức 1000
USD/ tấn, khủng hoảng lương thực đã trở thành mối đe dọa toàn cầu.
GDP nửa đầu năm chỉ tăng 6.5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn
nhiều so với mức tăng cùng kỳ một số năm gần đây. Xuất hiện những cơn “sốt
ảo” USD, vàng, gạo, thép, vật liệu xây dựng,…Thâm hụt thương mại tăng vọt
(gần 50% tổng kim ngạch xuất khẩu). Thị trường chứng khoán thiết lập đáy mới
chỉ bằng khoảng ¼ đỉnh cao nhất là 1173 điểm, đánh mất tồn bộ điểm tích lũy
được 3 năm qua. Giá vàng có thời điểm lên đến xấp xỉ 20 triệu VND/ lượng, tỷ
giá hối đoái trên thị trường đã từng vượt mốc 19000 VND/ USD….
Các tháng 6,7,8 chỉ số CPI đã lên cao chóng mặt lần lượt là 18.4%, 19.8%

và 21.7%. Chỉ sau 3 quý đầu năm, CPI đã vượt mức 20%, đạt được mức kỷ lục
từ 17 năm qua. Điều đó cũng góp phần đẩy nhanh tốc độ mất giá của đồng tiền:
sau 3 năm (tính đến tháng 9/ 2008) đồng tiền đã mất giá 48.5% so với kỳ gốc
2005.
2.5.2. Giai đoạn giảm lạm phát (3 tháng cuối năm 2008)

10


Sang tháng 10,11,12 liên tiếp 3 tháng giá nhiều loại hàng hóa đã chựng lại
và giảm xuống. CPI cũng giảm, tốc độ tăng trưởng kinh tế tháng âm: -0.19
(tháng 10), -0.76 (tháng 11), -0.66 (tháng 12). Tỷ lệ lạm phát từ 20.05% vào thời
điểm tháng 9 chỉ còn 19.86% so với tháng 12 (2007), làm dịu cơn lạm phát của
Việt Nam. Nguyên nhân là do những tháng đầu năm giá mặt hàng lương thực,
thực phẩm tăng nhanh; hàng phi lương thực thực phẩm mặc dù chậm nhưng vẫn
tăng giá. Đến cuối năm hàng lương thực - thực phẩm dường như không tăng nữa
và đồ thị là một đường nằm ngang. Trong khi đó giá hàng hóa phi lương thực thực phẩm giảm nhanh nên tốc độ tăng giá chung giảm xuống. Bên cạnh đó là
nhờ những biện pháp kiềm chế lạm phát của chính phủ đã phát huy tác dụng
chẳng hạn như Nghị quyết số 10/2008/ NQ- CP ngày 17/4/2008 về các biện
pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng
trưởng bền vững với 8 nhóm giải pháp…..
2.5.3 Lạm phát năm 2009
Theo công bố của Tổng cục Thống kê, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng
12- 2009 tăng 1,38% so với tháng trước.Như vậy, CPI của cả năm 2009 dừng ở
mức 6,88%, đúng mục tiêu của Chính phủ đề ra là kiểm soát lạm phát dưới hai
con số.
Tăng giá mạnh nhất là nhóm giao thơng: 2,47%, sau là nhóm hàng ăn và
dịch vụ ăn uống: 2,06%. Trong nhóm này, riêng mặt hàng thực phẩm tăng đột
biến: 6,88%. Đứng thứ 3 là nhóm nhà ở - vật liệu xây dựng, tăng 1,40%. Các
nhóm hàng hóa cịn lại đều tăng 1% hoặc thấp hơn. Tăng giá ít nhất là nhóm

thiết bị đồ dùng gia đình: 0,25%.
Chỉ số giá USD và vàng biến động mạnh. Giá vàng chỉ tăng thêm 0,49%
trong tháng 12 nhưng cả năm 2009 đã tăng đến 9,16%. Chỉ số giá USD tháng 12
tăng 3,19% khiến mức tăng cả năm lên đến 9,17%.
2.5.4. Năm 2010
11


Tháng 11 chỉ số giá tiêu dùng CPI ước tính cả nước vào khoảng 1,86%.
Như vậy chỉ số CPI 11 tháng đã lên đến 9,4% và dự tính cả năm CPI sẽ ở mức
hai con số. Tổng cục Thống kê cho biết, nguyên nhân chính đẩy chỉ số giá tiêu
dùng tháng 11 tăng là do chỉ số giá nhóm hàng ăn và dịch vụ ăn uống tăng mạnh
tới 3,45% so với tháng trước. Bên cạnh đó, giá lương thực cũng tăng tới 6,02%;
thực phẩm tăng 3,27%; ăn uống ngoài gia đình tăng 1,19%. Một số mặt hàng
khác như thép, xi măng, gas tăng giá, chỉ số giá nhóm nhà ở và vật liệu xây
dựng tăng 1,74%. Nhóm hàng hóa dịch vụ khác tăng 0,99%. CPI nhóm may
mặc, mũ nón, giày dép tăng 0,9% là do tháng này vẫn nằm trong giai đoạn
chuyển mùa, nhu cầu các sản phẩm thời trang tăng hơn. Trong khi nhóm đồ
uống, thuốc lá tăng 0,94% . Chỉ số giá vàng tháng 11 tăng 8,67%, USD tăng 3%
so với tháng trước. Năm 2010, kinh tế thế giới phục hồi, giá nguyên vật liệu tăng
làm giá trong nước tăng theo: giá dầu thô năm 2009 là 60USD/thùng, năm 2010
trên 80USD/thùng.
Trong năm 2010, nguyên nhân giá tăng do chi phí giáo dục tăng, giá
lương thực thế giới tăng kéo giá lương thực trong nước tăng 16%. Ngoài ra giá
xăng dầu thế giới tăng cũng làm nhóm chi phí giao thông vận chuyển tăng.
Nền kinh tế Việt Nam hiện có độ mở cửa rất lớn, lên đến 140- 150%. Kim
ngạch xuất khẩu Việt Nam những năm gần đây khoảng 130- 140 tỉ USD, trong
khi GDP chỉ trên 100 tỉ USD. Với độ mở cửa lớn như vậy, yếu tố giá trong nước
phụ thuộc rất nhiều vào giá hàng hóa trên thế giới.
Nhìn chung giá tăng là do chi phí chứ không phải tiền được bơm ra quá

nhiều, thực tế ngân hàng nhà nước đã và đang thực hiện chính sách thát chặt tiền
tệ đề chống lạm phát và bảo vệ sức mua của VND.
2.6. Giai đoạn từ năm 2011-2016
Trong giai đoạn 2011 – 2015, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã điều
hành chủ động, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ (CSTT), phối hợp chặt
12


chẽ với chính sách tài khóa góp phần quan trọng trong kiểm soát và đưa lạm
phát ở mức cao 23% vào tháng 8/2011 xuống còn 6,81% năm 2012, 6,04% năm
2013, 1,84% năm 2014 và 0,6% năm 2015. Giai đoạn 2011-2015 đánh dấu thời
kỳ giữ lạm phát ổn định ở mức thấp nhất trong hơn 10 năm qua. Lạm phát ổn
định ở mức thấp, ổn định kinh tế vĩ mô được giữ vững, thị trường ngoại hối, tỷ
giá ổn định, dự trữ ngoại hối tăng lên mức kỷ lục, thanh khoản hệ thống ngân
hàng được cải thiện vững chắc là những yếu tố cơ bản được các tổ chức xếp
hạng tín nhiệm quốc tế sử dụng làm căn cứ để nâng hệ số tín nhiệm của Việt
Nam.
CPI tháng 3/2016 tăng 0,57% so với tháng trước, 1,69% so với cùng kỳ;
0,99% so với cuối năm trước. Tuy nhiên, diễn biến tăng lạm phát tháng 3 năm
nay xuất phát từ một số yếu tố đột biến gồm:
- Giá dịch vụ y tế tăng từ 1/3/2016 theo Thông tư liên tịch số 37/2015/TTLTBYT-BTC ngày 29/10/2015 của Bộ Y tế và Bộ Tài chính, theo đó, giá các mặt
hàng dịch vụ y tế áp dụng cho đối tượng có bảo hiểm y tế tăng 32,9% góp phần
làm cho CPI tăng khoảng 1,27%.
- Thực hiện lộ trình tăng học phí theo Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày
02/10/2015 của Chính phủ, một số tỉnh đã tăng học phí các cấp làm cho chỉ số
giá nhóm giáo dục tăng 0,66%.
-

Cú sốc cung lúa gạo (hạn hán, ngập mặn,…) làm giá lương thực tăng 0,23%.
Ngoại trừ 3 nhóm trên đây, các nhóm hàng khác đều giảm hoặc tăng chậm


lại so với tháng trước do quy luật giá giảm sau kỳ nghỉ tết Nguyên Đán; cùng
với việc điều chỉnh giảm giá xăng dầu, gas trong kỳ tính CPI. Lạm phát cơ bản
giảm 0,09% so với tháng trước và tăng 1,64% so với cùng kỳ 2015, thấp hơn
mức tăng 1,72% của tháng 2/2016. Điều này cho thấy áp lực tiền tệ và tăng
trưởng kinh tế lên lạm phát là chưa đáng lo ngại. Dự tính cả năm 2016, lạm phát

13


có khả năng tăng mạnh nhưng nguyên nhân chủ yếu là do Nhà nước điều chỉnh
tăng mạnh giá dịch vụ y tế, giáo dục.
2.7. Giai đoạn từ năm 2017-2021
2.7.1. Năm 2017
Việt Nam đã có thêm một năm kinh tế vĩ mô ổn định. Không những thế,
với tăng trưởng GDP ở mức ngoạn mục là 6,81%, kinh tế Việt Nam đã có một
năm đạt thắng lợi kép.
Trong khi đó, cũng theo Tổng cục Thống kê, lạm phát cơ bản tháng
12/2017 tăng 0,11% so với tháng trước và tăng 1,29% so với cùng kỳ năm trước.
Lạm phát cơ bản bình quân năm 2017 tăng 1,41% so với bình quân năm 2016.
Quay trở lại với diễn biến giá cả thị trường tháng 12/2017, nhóm thuốc và dịch
vụ y tế là nhóm có tốc độ tăng giá cao nhất, lên tới 2,55% (trong đó dịch vụ y tế
tăng 3,30%). Lý do là trong tháng có 15 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương
điều chỉnh tăng giá dịch vụ y tế (tác động làm CPI chung tăng khoảng 0,13%).
Trong khi đó, nhóm giao thơng tăng 0,84%; may mặc, mũ nón, giày dép tăng
0,43% - do nhu cầu mua sắm hàng mùa đông tăng lên; đồ uống và thuốc lá tăng
0,17%; nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 0,22% do giá gas, giá dầu hỏa và giá
điện, nước sinh hoạt được điều chỉnh tăng, cùng với nhu cầu sửa chữa nhà ở
tăng cao trong những tháng cuối năm. Bên cạnh đó, nhóm đồ uống và thuốc lá
tăng 0,17%; thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 0,12%; văn hóa, giải trí và du lịch

tăng 0,03%. Tuy nhiên, lại có một số nhóm hàng hóa và dịch vụ có chỉ số giá
giảm. Đó là hàng ăn và dịch vụ ăn uống - giảm 0,23%, trong đó lương thực tăng
0,56%, thực phẩm giảm 0,5%; bưu chính - viễn thơng - giảm 0,03%. Riêng
nhóm giáo dục giá khơng đổi so với tháng trước.
2.7.2. Năm 2018
CPI bình quân năm 2018 tăng 3,54% so với năm 2017 và tăng 2,98% so
với tháng 12 năm 2017. Như vậy, mục tiêu kiểm sốt lạm phát, giữ CPI bình
14


quân năm 2018 dưới 4% đã đạt được trong bối cảnh điều chỉnh được gần hết giá
các mặt hàng do nhà nước quản lý đặt ra trong năm 2018. Năm 2018, lạm phát
chung có mức tăng cao hơn lạm phát cơ bản. Mức tăng lạm phát cơ bản trong
năm 2018 so với cùng kỳ có biên độ dao động trong khoảng từ 1,18% đến
1,72%, lạm phát cơ bản bình quân năm tăng 1,48% thấp hơn mức kế hoạch
1,6%, cho thấy chính sách tiền tệ vẫn đang được điều hành ổn định.
2.7.3. Năm 2019
Theo tính tốn của Bộ Tài chính, chỉ số lạm phát (chỉ số giá tiêu dùng CPI) của năm 2019 ước tăng 2,73%. Như vậy lạm phát năm 2019 thấp nhất
trong 3 năm gần đây khi năm 2018 là 3,54% và năm 2017 là 3,53%.
Nguyên nhân chủ yếu làm tăng CPI trong năm 2019 là do một số mặt
hàng tăng giá theo quy luật hàng năm như nhóm hàng tiêu dùng (thực phẩm,
dịch vụ ăn uống, đồ uống, dịch vụ giao thông công cộng, du lịch,...). Việc điều
hành tỷ giá theo cơ chế tỷ giá trung tâm cũng linh hoạt; chủ động tính tốn, điều
chỉnh giá các mặt hàng thiết yếu theo lộ trình thị trường và kịch bản của Ban chỉ
đạo.
2.7.4. Năm 2020
Nhìn chung, mặt bằng giá năm nay tăng khá cao so với cùng kỳ năm
trước, ngay từ tháng 1 đã tăng 6,43%, ảnh hưởng đến công tác quản lý, điều
hành giá của năm 2020, dẫn đến việc kiểm soát lạm phát theo mục tiêu dưới 4%
Quốc hội đặt ra gặp nhiều khó khăn, thách thức. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo, điều

hành của Nhà nước và sự phối hợp của các Bộ, ngành, địa phương, mức tăng
của CPI được kiểm soát dần qua từng tháng với xu hướng giảm dần. Chỉ số giá
tiêu dùng bình quân năm 2020 tăng 3,23% so với năm trước, đạt mục tiêu kiểm
sốt lạm phát, giữ CPI bình qn năm 2020 dưới 4% của Quốc Hội đề ra trong
bối cảnh một năm với nhiều biến động khó lường. CPI tháng 12/2020 tăng
0,19% so với tháng 12/2019, là mức thấp nhất trong giai đoạn 2016-2020.
15


Lạm phát cơ bản tháng 12/2020 tăng 0,07% so với tháng trước và tăng
0,99% so với cùng kỳ năm trước. Lạm phát cơ bản bình quân năm 2020 tăng
2,31% so với bình quân năm 2019.
2.7.5. Năm 2021
Theo Tổng cục Thống kê (TCTK), chỉ số giá tiêu dùng (CPI) bình quân 5
tháng đầu năm 2021 tăng 1,29% so với cùng kỳ năm trước và là mức tăng thấp
nhất kể từ năm 2016. Chỉ số lạm phát cơ bản bình quân trong 5 tháng đầu năm
2021 tăng 0,82% so với cùng kỳ năm 2020. Mức lạm phát cơ bản tháng 5 và 5
tháng đầu năm 2021 đều là mức thấp nhất trong 5 năm trở lại đây.
Tuy nhiên, nếu nhìn kĩ hơn vào báo cáo của TCTK thì tháng 4 so với
tháng trước giảm -0,04%, và chỉ sau một tháng con số này đã tăng lên 15% do
giá nguyên, vật liệu đầu vào cùng với giá xăng dầu tăng. Trong những tháng đầu
năm, tình hình trong nước chưa bị tác động nhiều, sức cầu còn yếu do ảnh
hưởng của dịch Covid-19 nên CPI của 5 tháng chưa tăng mạnh. Bên cạnh đó,
vịng quay tiền chậm lại trong nền kinh tế thực cũng là một phần nguyên nhân
lạm phát chưa tăng nhanh trong thời gian qua.
2.8. Giải pháp can thiệp nhằm kiềm chế lạm phát trong thời gian tới
- Một là, cần thực thực hiện chính sách tài chính - tiền tệ năng động và hiệu
quả trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế.
- Hai là, đề xuất với Chính phủ thành lập quỹ kích cầu để kích thích tiêu
dùng để kích thích nền kinh tế phát triển tránh xu hướng giảm phát trong

thời gian tới.
-

Ba là, tiết kiệm chi phí sản xuất xã hội và chi tiêu công và tư.

- Bốn là, tăng cường kiểm tra, giám sát phát huy tính công khai minh bạch
của chi tiêu công..

16


- Năm là, phải quản lý chặt chẽ hoạt động chi tiêu thu đổi ngoại tệ trên thị
trường.
- Sáu là, Chính phủ nên thực hiện bán trái phiếu chính phủ, tín phiếu kho
bạc cho dân, thu hồi tiền mặt.
- Bảy là, đẩy mạnh phong trào sản xuất cung cấp sản phẩm dịch vụ cho xã
hội, hạn chế những tệ nạn xã hội, giải quyết các vấn đề thuộc an sinh xã
hội cho người nghèo, đối tượng chính sách trong xã hội.

KẾT LUẬN
Lạm phát là vấn đề được các quốc gia quan tâm hàng đầu, đặc biệt là Việt Nam.
Bởi lẽ nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế - xã hội và các hoạt động của
doanh nghiệp. Trong thời gian tới nền kinh tế của nước ta cũng đang có những
thách thức, khó khăn cần vượt qua, và vấn đề lạm phát cịn có thể diễn biến hết
sức phức tạp . Nhiệm vụ nghiên cứu những lý luận cũng như những trải nghiệm
về lạm phát ở nước ta đặt ra cho chúng ta những trách nhiệm nặng nề, những dự
báo về tình hình, những giải pháp can thiệp để xây dựng, đóng góp những chính
sách của đất nước. Lạm phát lúc này xuống thấp, nhưng vẫn cịn có nhiều vấn
đề chưa được giải quyết nhằm ổn định hẳn nền kinh tế. Thế nên, Nhà nước và
Chính phủ đã và đang đề ra và thực hiện các giải pháp giúp kiềm chế mức độ

lạm phát hợp lý, điều hành chính sách kinh tế một cách linh hoạt từ đó đưa nền
kinh tế nước nhà vươn lên, hội nhập với các cường quốc trên toàn châu lục.

17


18


NGUỒN THAM KHẢO
1. Thời báo Tài chính
/>2. Tạp chí tài chính online
/>3. Tổng cục thống kê
/>4. Bnews
/>
19



×