TRƯỜNG: ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA: LÍ LUẬN CHÍNH TRỊ
--------
TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
ĐỀ TÀI: Thực trạng tiền cơng ở Việt Nam
từ năm 2003 đến nay
Sinh viên: Vũ Lê Hằng
Lớp: Anh 12 – K59
Chuyên ngành: Kế toán – Kiểm tốn
Giáo viên hướng dẫn: Thạc sĩ Hồng Văn Vinh
QUẢNG NINH, THÁNG 6 NĂM 202
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Trong xã hội hiện nay, vấn đề tiền công của người lao động rất quan
trọng, được nhiều người quan tâm, bởi tiền cơng có vai trị quan trọng, là nguồn
thu nhập chủ yếu của người lao động, tiền công có cao thì đời sống mới được
nâng cao. Tiền cơng sẽ có những tác động rất lớn đến tăng trưởng, phát triển
kinh tế và ổn định xã hội.
Trong quá trình phát triển của đất nước nói riêng và trên thế giới nói
chung, vấn đề đảm bảo cuộc sống cho người lao động về vật chất và tinh thần
luôn được chú trọng. Chính sách tiền cơng là một bộ phận đặc biệt quan trọng,
quan hệ chặt chẽ với các chính sách khác trong hệ thống chính sách kinh tế-xã
hội, liên quan trực tiếp đến các cân đối kinh tế vĩ mô, thị trường lao động và đời
sống người hưởng lương, góp phần xây dựng hệ thống chính trị tinh gọn, trong
sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phòng, chống tham nhũng.
Dưới chủ nghĩa tư bản thì tiền cơng là phương tiện, là cái thể hiện rõ bản
chất bóc lột của chủ nghĩa tư bản. Để tìm hiểu về thực trạng tiền công ở nước ta
hiện nay, trươc tiên ta phải hiểu rõ được những lý luận chung về tiền công trong
kinh tế chính trị, hay nói cách khác là hiểu về tiền cơng trong chủ nghĩa tư bản.
Vì vậy, trong bài tiểu luận mơn kinh tế chính trị của mình, em chọn đề tài:
“Thực trạng tiền công ở Việt Nam từ năm 2003 đến nay”. Đây là một vấn đề
rộng, trong q trình làm cịn có thiếu sót, mong thầy góp ý để e được hồn
thiện hiểu biết của mình.
3
NỘI DUNG
I. LÝ LUẬN CHUNG VỀ TIỀN CÔNG
1. Khái niệm
Tiền công là tiền trả cho sức lao động tức là giá cả hàng hóa sức lao động
mà người sử dụng (nhà nước, các tổ chức kinh tế, xã hội doanh nghiệp...) và
người cung cấp thỏa thuận với nhau theo quy luật cung cầu, giá cả trên thị
trường lao động.
Tiền công tối thiểu là số tiền trả người lao động làm công việc đơn giản
nhất trong một môi trường lao động bình thường, đảm bảo cho người lao động
có thể mua được những tư liệu sản xuất thiết yếu, tái sản xuất sức lao động.
2. Bản chất của tiền công
Công nhân làm việc cho nhà tư bản một thời gian nào đó, sản xuất ra một
lượng hàng hóa nào đó thì nhận được một số tiền công nhất định. Tiền trả cơng
đó gọi là tiền lương hay tiền cơng. Hiện tượng đó làm cho người ta lầm tưởng
tiền lương, tiền cơng là giá cả sức lao động. Sự thật thì khơng phải là giá trị hay
giá cả sức lao động.
Tiền công là biểu hiện bằng tiền của giá trị hàng hóa sức lao động, là
giá cả của hàng hóa sức lao động.
Tuy vậy, dễ có sự lầm tưởng trong xã hội tư bản, tiền công là giá c ả
của lao động. Bởi vì:
- Thứ nhất, nhà tư bản trả tiền cơng cho công nhân sau khi công
nhân đã lao động để sản xuất ra hàng hóa.
- Thứ hai, tiền cơng được trả theo thời gian lao động (giờ, ngày, tuần,
tháng), hoặc theo số lượng hàng hóa đã sản xuất được.
Cái mà nhà tư bản mua của công nhân không phải là lao đ ộng, mà là
sức lao động. Tiền công không phải là giá trị hay giá cả của lao động, mà
chỉ là giá trị hay giá cả của hàng hóa sức lao động.
4
3. Các hình thức của tiền cơng
Tiền cơng có hai hình thức cơ bản là tiền cơng tính theo thời gian và tiền
cơng tính theo sản phẩm.
a. Tiền cơng tính theo thời gian
Là hình thức tiền cơng mà số lượng của nó ít hay nhiều tùy theo thời gian
lao động của công nhân (giờ, ngày, tháng) dài hay ngắn.
Cần phân biệt tiền công giờ, tiền công ngày, tiền công tuần, tiền công
tháng. Tiền công ngày và tiền công tuần chưa nói rõ được mức tiền cơng đó cao
hay thấp, vì nó cịn tùy theo ngày lao động dài hay ngắn. Do đó, muốn đánh giá
chính xác mức tiền cơng khơng chỉ căn cứ vào tiền công ngày và cường độ lao
động. Giá cả của một giờ lao động là thước đo chính xác mức tiền cơng tính
theo thời gian.
Thực hiện chế độ tiền công theo thời gian, nhà tư bản có thể khơng thay
đổi lương ngày, lương tuần, mà vẫn hạ thấp được giá cả lao động do kéo dài
ngày lao động hoặc tăng cường độ lao động. Trả lương kéo dài thời gian cịn có
lợi cho nhà tư bản khi tình hình thị trường thuận lợi, hàng hóa tiêu thụ dễ dàng,
thực hiện lối làm việc thêm giờ, tức là làm việc ngoài số giờ quy định của ngày
lao động. Cịn khi thị trường khơng thuận lợi buộc phải thu hẹp sản xuất, nhà tư
bản sẽ rút ngắn ngày lao động và thực hiện lối trả công theo giờ, do đó hạ thấp
tiền cơng xuống rất nhiều. Như vậy, cơng nhân khơng những bị thiệt thịi khi
ngày lao động bị kéo dài quá độ, mà còn bị thiệt hại cả khi phải làm việc bớt
giờ.
b. Tiền cơng tính theo sản phẩm
Là hình thức tiền cơng mà số lượng của nó phụ thuộc vào số lượng sản
phẩm hay số lượng những bộ phận của sản phẩm mà công nhân đã sản xuất ra
hoặc là số lượng cơng việc đã hồn thành.
Mỗi sản phẩm được trả công theo một đơn giá nhất định. Đơn giá tiền
công được xác định bằng thương số giữa tiền cơng trung bình của cơng nhân
trong một ngày với số lượng sản phẩm trung bình mà một cơng nhân sản xuất ra
trong một ngày, do đó về thực chất, đơn giá tiền công là tiền công trả cho thời
5
gian cần thiết sản xuất ra một sản phẩm. Vì thế tiền cơng tính theo sản phẩm là
hình thức chuyển hóa của tiền cơng tính theo thời gian.
Thực hiện tiền cơng tính theo sản phẩm, một mặt, giúp cho nhà tư bản
trong việc quản lý, giám sát quá trình lao động của cơng nhân dễ dàng hơn; mặt
khác, kích thích cơng nhân lao động tích cực, khẩn trương tạo ra nhiều sản phẩm
để nhận được tiền cơng cao hơn.
Vì vậy, chế độ tiền công dưới chủ nghĩa tư bản thường dẫn đến tình trạng
lao động khẩn trương quá mức, làm kiệt sức người lao động. Về mặt lịch sử, tiền
công tính theo thời gian được áp dụng rộng rãi trong giai đoạn đầu phát triển của
chủ nghĩa tư bản, còn giai đoạn sau thì tiền cơng tính theo sản phẩm được áp
dụng rộng rãi hơn. Hiện nay, hình thức tiền cơng tính theo thời gian ngày càng
được mở rộng.
4. Tiền công danh nghĩa và tiền công thực tế
a. Tiền công danh nghĩa
Tiền công danh nghĩa là số tiền mà người cơng nhân nhận được do bán
sức lao động của mình cho nhà tư bản. Nó là giá cả sức lao động. Nó có thể tăng
lên hay giảm xuống tùy theo sự biến động của quan hệ cung – cầu về hàng hóa
sức lao động trên thị trường. Đối với người công nhân, điều quan trọng không
chỉ ở tổng số tiền nhận được dưới hình thức tiền cơng mà cịn ở chỗ có thể mua
được gì bằng tiền cơng đó, điều đó phụ thuộc vào giá cả vật phẩm tiêu dùng và
dịch vụ. Tiền công được sử dụng để tái sản xuất sức lao động, nên tiền công
danh nghĩa phải được chuyển hóa thành tiền cơng thực tế.
b. Tiền cơng thực tế
Tiền công thực tế là tiền công được biểu hiện bằng số lượng hàng hóa tiêu
dùng và dịch vụ mà công nhân mua được bằng tiền công danh nghĩa của mình.
Rõ ràng nếu điều kiện khác khơng thay đổi, tiền công thực tế phụ thuộc theo tỷ
lệ thuận của đại lượng tiền công danh nghĩa và phụ thuộc theo tỷ lệ nghịch với
mức giá cả vật phẩm tiêu dùng và dịch vụ.
6
c. Quy luật vận động tiền công trong chủ nghĩa tư bản
Tiền công là giá cả của sức lao động, nên sự vận động của nó gắn liền với
sự biến đổi của giá trị sức lao động. Lượng giá trị sức lao động chịu ảnh hưởng
của các nhân tố tác động ngược chiều nhau. Nhân tố tác động làm tăng giá trị
sức lao động như sự nâng cao trình độ chuyên môn người lao động, sự tăng
cường độ lao động, và sự tăng lên nhu cầu cùng với sự phát triển của xã hội.
Nhân tố tác động làm giảm giá trị sức lao động, đó là sự tăng năng suất lao động
làm cho giá cả tư liệu tiêu dùng rẻ đi. Sự tác động qua lại của các nhân tố đó dẫn
tới q trình phức tập của sự biến đổi giá trị sức lao động, do đó dẫn tới sự biến
đổi phức tạp của tiền công thực tế.
Tuy nhiên, C.Mác đã vạch ra rằng, xu hướng chung của sản xuất TBCN
khơng phải là nâng cao mức tiền cơng trung bình mà là hạ thấp mức tiền công
ấy. Bởi lẽ trong q trình phát triển của CNTB, tiền cơng danh nghĩa có xu
hướng tăng lên, nhưng mức tăng của nó nhiều khi không theo kịp mức tăng giá
cả tư liệu tiêu dùng và dịnh vụ; đồng thời thất nghiệp là hiện tượng thường
xuyên, khiến cho cung về lao động làm thuê vượt quá cầu về lao động, điều đó
cho phép nhà tư bản mua sức lao động dưới giá trị của nó, vì vậy tiền cơng thực
tế của giai cấp cơng nhân có xu hướng hạ thấp.
Nhưng sự hạ thấp của tiền công thực tế chỉ diễn ra như một xu hướng, vì
có những nhân tố chống lại sự hạ thấp tiền cơng. Một mặt, đó là cuộc đấu tranh
giai cấp cơng nhân địi tiền cơng. Mặt khác, trong điều kiện của CNTB ngày
nay, do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học – công nghệ nên nhu cầu về
sức lao động có chất lượng cao ngày càng tăng đã buộc giai cấp tư sản phải cải
tiến tổ chức lao động cũng như kích thích người lao động bằng lợi ích vật chất.
Đó cũng là một nhân tố cản trở xu hướng hạ thấp tiền công.
5. Các chức năng cơ bản của tiền công
a. Chức năng thước đo giá trị
Tiền công là sự thể hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, được biểu hiện
ra bên ngoài như là giá cả của sức lao động. Vì vậy tiền lương hay tiền cơng
chính là thước đo giá trị sức lao động, được biểu hiện như giá trị lao động cụ thể
7
của việc làm được trả cơng. Nói cách khác, giá trị của việc làm được phản ánh
thông qua tiền lương, tiền cơng. Nếu việc làm có giá trị càng cao thì mức lương
càng lớn.
b. Duy trì và phát triển sức lao động
Theo Mác, tiền công là biểu hiện giá trị sức lao động, đó là giá trị của
những tư liệu sinh hoạt cần thiết để duy trì cuộc sống của người có sức lao động,
theo điều kiện kinh tế, xã hội và trình độ văn minh của mỗi nước. Giá trị sức lao
động bao hàm cả yếu tố lịch sử, vật chất và tinh thần. Ngồi ra, để duy trì và
phát triển sức lao động thì người lao động phải sinh con (như sức lao động tiềm
tàng), phải nuôi dưỡng con, cho nên những tư liệu sinh hoạt cần thiết để sản xuất
ra sức lao động phải gồm có những tư liệu sinh hoạt cho con cái học. Theo họ,
chức năng cơ bản của tiền cơng cịn là nhằm duy trì và phát triển được sức lao
động.
Giá trị sức lao động là điểm xuất phát trong mọi bài tính của sản xuất xã
hội nói chung và của người sử dụng lao động nói riêng. Giá trị sức lao động
mang tính khách quan, được quy định và điều tiết theo ý muốn của một tác nhân
nào, dù là người làm công hay người sử dụng lao động. Nó là kết quả của sự
mặc cả trên thị trường lao động giữa người có sức lao động “bán” và người sử
dụng sức lao động “mua”.
c. Kích thích lao động và phát triển nguồn nhân lực
Tiền cơng là bộ phận thu nhập chính đáng của người lao động nhằm thỏa
mãn phần lớn các nhu cầu về vật chất và tinh thần của người lao động. Do vậy,
các mức tiền cơng là các địn bẩy kinh tế rất quan trọng để định hướng sự quan
tâm và động cơ trong lao động của người lao động. Khi độ lớn của tiền công phụ
thuộc vào hiệu suất sản xuất của cơng ty nói chung và cá nhân người lao động
nói riêng thì họ sẽ quan tâm đến việc không ngừng nâng cao năng suất và chất
lượng công việc.
d. Thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển
Nâng cao hiệu quả lao động, năng suất lao động suy cho cùng là nguồn
gốc để tăng thu nhập, tăng khả năng thỏa mãn các nhu cầu của người lao động.
Khác với thị trường hàng hóa bình thường, cầu về lao động khơng phải là
cầu cho bản thân nó, mà là cầu dẫn xuất, tức là phụ thuộc vào khả năng tiêu thụ
8
của sản phẩm do lao động tạo ra và mức giá cả của hàng hóa này. Tổng mức tiền
cơng quyết định tổng cầu về hàng hóa và dịch vụ cần thiết sản xuất cũng như giá
cả của nó. Do vậy, tiền công phải dựa trên cơ sở tăng năng suất lao động. Việc
tăng năng suất lao động luôn luôn dẫn đến sự tái phân bố lao động. Theo quy
luật thị trường, lao động sẽ tái phân bố vào các khu vực có năng suất cao hơn để
nhận được các mức lương cao hơn.
6. Ý nghĩa của tiền lương, tiền công
a. Đối với người lao động
- Tiền công, tiền lương là phần cơ bản nhất trong thu nhập của người lao
động, giúp cho họ và gia đình trang trải các chi tiêu, sinh hoạt, dịch vụ cần thiết.
- Tiền công, tiền lương kiếm được ảnh hưởng đến địa vị của người lao
động trong gia đình, địa vị của họ trong tương quan với các bạn đồng nghiệp
cũng như giá trị tương đối của họ đối với tổ chức và đối với xã hội.
- Khả năng kiếm được tiền công cao hơn sẽ tạo ra động lực thúc đẩy
người lao động ra sức học tập để nâng cao giá trị của họ đối với tổ chức thơng
qua sự nâng cao trình độ và sự đóng góp cho tổ chức.
b. Đối với tổ chức, doanh nghiệp
- Tiền lương là một khoản chi phí bắt buộc, do đó muốn nâng cao lợi
nhuận và hạ giá thành sản phẩm, các doanh nghiệp phải biết quản lý và tiết kiệm
chi phí tiền lương.
- Tiền cơng, tiền lương là cơng cụ để duy trì, gìn giữ, thu hút những người
lao động giỏi, có khả năng phù hợp với công việc của doanh nghiệp.
- Tiền công, tiền lương cùng với các loại thù lao khác là công cụ để quản
lý chiến lược nguồn nhân lực và có ảnh hưởng đến các chức năng khác của quản
lý nguồn nhân lực.
II. THỰC TRẠNG TIỀN CÔNG Ở VIỆT NAM TỪ 2003 ĐẾN NAY
1. Sự thay đổi mức tiền công (tiền lương) từ 2003 đến nay
Trong giai đoạn 2003 đến nay, vấn đề cải cách chính sách ti ền cơng
đã có rất nhiều thay đổi. Về tiền lương cơ sở có sự thay đổi nh ư sau:
9
Thời điểm áp dụng
Mức lương
cơ sở
Căn cứ pháp lý
Tư 01/10/2004 đến hết tháng
9/2005
290.000
Nghị định 203/2004/NĐ-CP
Tư 01/10/2005 đến hết tháng
9/2006
350.000
Nghị định 118/2005/NĐ-CP
Tư 01/10/2006 đến hết tháng
12/2007
450.000
Nghị định 94/2006/NĐ-CP
Tư 01/01/2008 đến hết tháng
4/2008
540.000
Nghị định 166/2007/NĐ-CP
Tư 01/05/2009 đến hết tháng
4/2009
650.000
Nghị định 33/2009/NĐ-CP
Tư 01/05/2010 đến hết tháng
4/2011
730.000
Nghị định 28/2010/NĐ-CP
Tư 01/05/2011 đến hết tháng
4/2012
830.000
Nghị định 22/2011/NĐ-CP
Tư 01/05/2012 đến hết tháng
6/2013
1.050.000
Nghị định 31/2012/NĐ-CP
Tư 01/07/2013 đến hết tháng
4/2016
1.150.000
Nghị định 66/2013/NĐ-CP
Tư 01/05/2016 đến hết tháng
6/2017
1.210.000
Nghị định 47/2016/NĐ-CP
Tư 01/07/2017 đến hết tháng
6/2018
1.300.000
Nghị định 47/2017/NĐ-CP
Tư 01/07/2018 đến hết tháng
6/2019
1.390.000
Nghị định 72/2018/NĐ-CP
Tư 01/07/2019 đến nay
1.490.000
Nghị định 38/2019/NĐ-CP
(Nguồn: dựa vào những nghị định về mức lương của chính phủ)
10
Nhìn vào bảng ta thấy mức lương cơ sở qua các năm từ năm 2004 đến
2019 liên tục tăng, mức tăng giữa các năm không đều nhau. Mức tăng cao nhất
là từ ngày 01/05/2012 đến hết tháng 6/2013 với mức tăng 230.000 đồng/tháng so
với thời điểm trước đó, mức tăng thấp nhất là từ ngày 01/10/2005 đến hết tháng
9/2006 mức tăng là 60.000 đồng/tháng.
Tiền công (tiền lương) cơ bản của người lao động trong doanh
nghiệp được tính dựa trên mức lương tối thiểu vùng do Chính ph ủ quy
định hàng năm.
Theo đó, người sử dụng lao động trả cơng cho người lao động không
được thấp hơn mức lương tối thiểu này. Năm 2020, m ức l ương t ối thi ểu
được quy định tại Nghị định số 90/2019/NĐ-CP như sau:
- Mức 4.420.000 đồng/tháng áp dụng với doanh nghiệp hoạt động
trên địa bàn thuộc vùng I.
- Mức 3.920.000 đồng/tháng áp dụng với doanh nghiệp hoạt động
trên địa bàn thuộc vùng II.
- Mức 3.430.000 đồng/tháng áp dụng với doanh nghiệp hoạt động
trên địa bàn thuộc vùng III.
- Mức 3.070.000 đồng/tháng áp dụng với doanh nghiệp hoạt động
trên địa bàn thuộc vùng IV.
Do vậy, lương cơ bản của người lao động trong các doanh nghi ệp sẽ
là:
- Lương cơ bản vùng I: 4.420.000 đồng/tháng.
- Lương cơ bản vùng II: 3.920.000 đồng/tháng.
11
- Lương cơ bản vùng III: 3.430.000 đồng/tháng.
- Lương cơ bản vùng IV: 3.070.000 đồng/tháng.
Mức lương tối thiểu cho người lao động đã được học và đào t ạo qua
nghề được tính cao hơn ít nhất 7% so với mức lương tối thiểu vùng.
2. Thực trạng tiền công ở Việt Nam từ 2003 đến nay
Trong nhiều năm qua, nhà nước ln cố gắng cải cách các chính sách
tiền lương nhằm đáp ứng được nhu cầu của xã hội và phù h ợp v ới n ền
kinh tế đang phát triển nhanh.
Quan điểm, chủ trương về cải cách chính sách tiền công của Đảng từ năm
2003 đến nay là đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị định hướng xã hội chủ
nghĩa. Đặc biệt quan điểm coi việc trả lương đúng cho người lao động là thực
hiện đầu tư cho phát triển, tạo động lực để phát triển kinh tế và nâng cao chất
lượng dịch vụ, góp phần làm trong sạch và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt
động của bộ máy Nhà nước. Chính sách tiền cơng đều đã được cải thiện( đều
cao hơn các năm trước) ở mức lương tối thiểu của các doanh nghiệp, các vùng,
của Cơ quan nhà nước... đối với doanh nghiệp nhà nước đưa ra những nguyên
tắc chung xây dựng thang lương, bảng lương, quy định mức lương của lao động
đã qua đào tạo cao hơn 7% mức lương tối thiểu vùng, không phân biệt trình độ
đào tạo...
Tiếp tục đổi mới cơ chế tiền công, mở rộng và làm rõ trách nhiệm, quyền
tự chủ, tự chịu trách nhiệm của đơn vị sự nghiệp công lập trong việc xếp lương,
trả lương gắn với chất lượng và hiệu quả cung cấp dịch vụ công theo tinh thần
xã hội hóa. Đây cũng là định hướng rất quan trọng trong cải cách và trong cơ
chế tạo nguồn cải cách tiền cơng.
Chính sách tiền cơng trong khu vực doanh nghiệp đã từng bước thực hiện
theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước giảm dần sự can
thiệp hành chính, quản lý tiền lương thơng qua quy định mức lương tối thiểu
vùng là mức sàn thấp nhất để bảo vệ người lao động yếu thế. Mức lương tối
12
thiểu vùng được điều chỉnh tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội, khả
năng của doanh nghiệp, từng bước cải thiện đời sống người lao động.
Chính sách tiền công đã thể hiện sự ưu đãi của nhà nước đối với điều kiện
lao động, lĩnh vực và ngành nghề làm việc. Đã có các loại phụ cấp, từ phụ cấp
thu hút, phụ cấp theo điều kiện làm việc, phụ cấp ưu đã nghề, phụ cấp thâm
niên, phụ cấp theo lĩnh vực công tác...
Tiền lương và thu nhập của người làm cơng ăn lương có xu hướng tăng từ
10 – 20%/năm, đảm bảo ổn định đời sống và có phần được cải thiện.
Có thể khẳng định từ năm 2004 đến nay, Việt Nam đã liên tục hoàn thiện
chế độ tiền lương trên cơ sở mở rộng quan hệ tiền lương, thu gọn một bước hệ
thống thang, bảng, ngạch, bậc lương, đổi mới cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính
đối với đơn vị sự nghiệp cơng lập. Với quy trình thực hiện cải cách theo nhiều
bước, các quy định về tiền lương của giai đoạn 2003-2020 có xu hướng đảm bảo
cuộc sống của người lao động và gia đình họ; vừa không tạo ra gánh nặng cho
quỹ lương của Nhà nước và người sử dụng lao động, đảm bảo tính hợp lý và hài
hịa lợi ích giữa các bên tham gia quan hệ lao động. Tuy nhiên, thực chất của cải
cách chính sách tiền lương trong giai đoạn này vẫn dựa trên cách tính lương năm
1993, chỉ điều chỉnh tăng mức lương cơ sở, mở rộng quan hệ tiền lương, tách
tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh với khu vực chi từ ngân sách nhà nước...
Vì vậy, chính sách tiền lương của Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập so với nhu
cầu của thực tiễn phát triển đất nước. Điều này đặt ra yêu cần một cuộc cải cách
chính sách tiền lương tồn diện, đồng bộ; dựa trên nhu cầu của thực tiễn, bằng
chứng khoa học thuyết phục.
2. Những tồn tại và bất cập
Ngoài những thành tựu đạt được trong vấn đề tiền công t ư năm
2003 đến nay của Việt Nam, còn tồn tại một số vấn đề, đó là:
- Những quy định, chủ trương chính sách tiền công của Đảng về tiền công
tuy đúng đắn, phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, nhưng
việc đưa những quy định, chính sách đó vào thực tiễn cuộc sống còn chưa được
13
thực hiện tốt, dẫn đến tình trạng người lao động khơng nắm rõ được những quy
định, chính sách của Đảng, Nhà nước về tiền lương, tiền công.
- Tiền lương là vấn đề phức tạp, ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời
sống xã hội; cịn tư tưởng bình qn, cào bằng; chưa có nghiên cứu tồn diện về
tiền lương trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tổ chức bộ
máy của hệ thống chính trị cịn cồng kềnh, nhiều tầng nấc; đối tượng hưởng
lương, phụ cấp q lớn. Việc xác định vị trí việc làm cịn chậm, chưa thực sự
làm cơ sở để xác định biên chế và trả lương.
- Chính sách tiền cơng trong doanh nghiệp hiện cũng chưa thực sự phát
huy được vai trò, tác dụng của cơ chế thương lượng, định đoạt tiền lương giữa
người sử dụng lao động và người lao động trong quan hệ lao động. Vi phạm quy
định pháp luật về tiền lương còn nhiều. Cơ chế quản lý tiền cơng đối với doanh
nghiệp nhà nước cịn nhiều bất cập.
- Khi Việt Nam gia nhập WTO mang lại nhiều thuận lợi nhưng cũng
khơng ít thách thức, điển hình như: các cơng ty nước ngồi vào đầu tư tại Việt
Nam ngày càng nhiều. Để thu hút lao động có trình độ, họ khơng ngại đưa ra
chính sách tiền lương, tiền cơng hấp dẫn. Ở khối doanh nghiệp ngồi quốc
doanh, nhiều cơng ty đã trả mức lương trung bình từ hơn 2 triệu đồng/ tháng thì
mức này ở phương án tối thiểu của Bộ Lao động và thương binh xã hội chỉ là 1.5
triệu đồng, điều này cũng gây ra nhiều thiệt thịi cho các lao động tại các cơng ty
nước ngồi, khi mà phía nước ngồi sẽ khơng chấp nhận trả quá cao so với mức
lương tối thiểu mà nhà nước quy định. Các doanh nghiệp đều cho rằng mức
lương này là quá thấp, gây khó khăn cho doanh nghiệp khi muốn tuyển dụng lao
động. Mức lương tối thiểu cũng khiến cho nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn khi
khách hàng tính giá thành cũng dựa vào nó. Hiện tại lương tối thiểu chung và
lương tối thiểu vùng đang áp dụng chung cho cả doanh nghiệp lẫn cả khối hành
chính sự nghiệp, cho nên nếu muốn tăng thì sẽ ảnh hưởng tới ngân sách nhà
nước, điều này khiến mức lương tối thiểu của doanh nghiệp cũng tăng rất chậm,
không phù hợp thực tế.
14
- Tình trạng bất hợp lý do vẫn tồn tại nhiều ngành, nhiều cơ quan và khu vực
có sự chênh lệch quá mức về thu nhập, hình thành nhiều khoản thu và chia chác
trong các cơ quan mà Nhà nước khơng quản lý nổi như thu nhập ngồi lương
lớn hơn lương rất nhiều trong một bộ phận cán bộ, công chức; chênh lệch về thu
nhập giữa các ngành, các cơ quan, đơn vị rất lớn.
- Việc trả đúng sức lao động khơng chỉ thể hiện trả đúng hao phí sức lao
động trong quá trình lao động mà thể hiện việc bố trí lao động đúng người ,
đúng việc đảm bảo trả lương đúng năng lực của người lao động cũng như
đúng năng suất, chất lượng và hiệu quả công việc. Thực trạng hiện nay, có
rất ít các sinh viên ra trường kiếm được việc làm ngay , nếu kiếm được việc
thì đa số là cơng việc tạm bợ ,cơng việc không phù hợp với cái họ được học ở
trường, điều này thực sự là một sự lãng phí nguồn lực quốc gia. Những
người đáng lẽ làm công việc phù hợp với trình độ của mình thì bố trí cho họ
làm cơng việc qúa cao hay q thấp với trình độ của họ và đương nhiên thì
mức lương trả cho họ cũng không phù hợp. Nếu so với mức lương của cơng
nhân ,viên chức trực tiếp sản xuất thì mức lương của viên chức chuyên môn ,
nghiệp vụ là thấp ,chưa khuyến khích họ nghiên cứu , học tập ,trau dồi kiến
thức chun mơn nghiệp vụ.
Có thể nói rằng, cải cách chính sách tiền cơng từ năm 2003 đến nay chưa
thành cơng và vẫn khơng thốt ra được vịng luẩn quẩn: Đó là chính sách tiền
lương thấp khơng đủ sống, nhưng thu nhập ngoài lương lại rất cao, mỗi lần tăng
lương tối thiểu làm cho gánh nặng của ngân sách nhà nước càng tăng. Chính
sách tiền lương dù đã “cải cách” vẫn chưa tạo ra động lực đủ mạnh cho người
hưởng lương phát huy tài năng và cống hiến.
3. Giải pháp nâng cao tiền công cho người lao động ở Vi ệt Nam
hiện nay
Chính sách tiền cơng có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển kinh tế-xã hội và
có tác động lớn đến hệ thống chính sách kinh tế-xã hội của các nước trên tầm vĩ
mô, tác động lớn đến rất nhiều người lao động hưởng lương. Thời gian qua,
15
Đảng, Nhà nước đã không ngừng quan tâm cải cách, sửa đổi bổ sung nhiều lần
góp phần cải thiện đời sống người lao động hưởng lương, thúc đẩy người lao
động, sáng tạo, hăng say sản xuất. Một số giải pháp nhằm nâng cao tiền công
như sau:
- Cải cách tiền công theo thời gian làm việc của người lao
động. Muốn đánh giá chính xác mức tiền cơng khơng chỉ căn cứ vào tiền công
ngày mà phải căn cứ vào độ dài của ngày lao động và cường độ lao động. Theo
đó, cần tiếp tục mở rộng quan hệ tiền lương tối thiểu-trung bình-tối đa nhằm
khắc phục hiện tượng bình quân trong chi trả lương, động viên khuyến khích
người có tài, có trình độ n tâm cơng tác trong khu vực cơng nói chung, đặc
biệt là khắc phục triệt để tính bình quân, cào bằng trong chi trả lương hiện nay,
phát huy khả năng, trí tuệ của mọi người trong sản xuất.
- Hồn thiện chính sách tiền lương, tiền cơng theo hướng th ị trường.
Tiền lương phải được coi là giá cả sức lao động, được hình thành theo quy
luật thị trường, dựa trên cung- cầu về sức lao động, chất l ượng, c ường đ ộ
lao động và mức độ cạnh tranh việc làm.
- Tăng cường sự quản lý và giám sát của Nhà nước đối với thị trường sức
lao động. Nâng cao hiệu lực và hiệu quả hoạt động của các cơ quan quản lý nhà
nước đối với hoạt động của thị trường này. Xử lý tốt các trường hợp tranh chấp,
bảo đảm lợi ích chính đáng của người lao động và người sử dụng lao động.
- Tạo cung lao động đáp ứng thị trường về số lượng, chất lượng và cơ cấu
ngành nghề, đặc biệt là tỷ lệ lao động đã qua đào tạo. Tăng cầu lao động thông
qua phát triển kinh doanh sản xuất dịch vụ trong các thành phần kinh tế.
- Đối với nhà nước, phải hiểu tiền lương theo đúng nghĩa của nó, tiền lương
phải được trả tương xứng với giá trị sức lao động mà người cán bộ, công chức,
người lao động đã bỏ ra để thực thi công vụ. Tiền lương, tiền công không chỉ có
ý nghĩa kinh tế mà cịn có ý nghĩa chính trị - xã hội. Nó phản ánh sự ưu việt của
bản chất chế độ, hay sự quan tâm của nhà nước đối với người lao động hưởng
lương, sự phát triển của xã hội và mối tương quan giữa các tầng lớp trong xã
16
hội. Gạt bỏ những tư duy cịn mang nặng tính bao cấp, cơ chế xin cho dễ nảy
sinh tính cửa quyền, độc đoán, tham nhũng làm suy thoái đạo đức cơng vụ của
một nhóm người có quyền lực, gây tổn thất kinh tế và ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển nền kinh tế quốc dân.
- Đối với doanh nghiệp, trên cơ sở quyền chủ động về vấn đề tiền lương, thu
nhập trong chế chính sách, cần tổ chức bộ phận nghiên cứu quản lý cho phù hợp
nhằm sử dụng có hiệu quả địn bẩy tiền lươn, tiền cơng trong việc khuyến khích
nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Đến năm 2030, tiền lương thấp nhất của cán bộ, công chức, viên chức bằng
hoặc cao hơn mức lương thấp nhất của vùng cao nhất của khu vực doanh nghiệp.
17
KẾT LUẬN
Vấn đề tiền công hiện nay là một vấn đề rất quan trọng đối với người lao
động nói riêng, và của nhà nước ta nói chung, đó là một trong những chính sách
kinh tế - xã hội hết sức cần thiết và cấp bách của quốc gia, ảnh hưởng lớn đến sự
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trên tầm vĩ mô, tác động đến hàng triệu
người lao động hưởng lương. Và việc cải cách chính sách tiền cơng phải đạt đến cái
đích là đảm bảo cho người làm công ăn lương sống được bằng lương ở mức khá trong
xã hội. Vì vậy, trong những năm qua luôn được Đảng và Nhà nước ta quan tâm hàng
đầu trong việc cải cách chính sách tiền cơng, ở đây khơng chỉ là vấn đề tạo nguồn tài
chính để tăng lương tối thiểu mà còn là việc cải cách cả hệ thống bảng lương để khắc
phục những hạn chế, bất cập xuất phát từ những đòi hỏi khách quan của cuộc sống.
Từ năm 2003 đến nay, với 13 lần cải cách về chính sách tiền lương, tiền
cơng cho người lao động, đã chỉ ra được những kết quả đạt được, cũng như các
tồn tại còn hạn chế, để từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chính sách
tiền lương, tiền cơng trong giai đoạn tới. Có như vậy, đời sống người lao động sẽ
được cải thiện, nền kinh tế thị trường phát triển, sánh vai với các cường quốc
năm châu.
18
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác và F.Angghen toàn tập, NXB Chính trị quốc gia.
2. ĐCSVN:Văn kiện Đại hội Đảng tồn quốc lần thứ XII, Văn phòng
Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.
3. Giáo trình Kinh tế chính trị Mác Lênin- NXB chính trị Quốc Gia.
4. Giáo trình kinh tế chính trị- NXB giáo dục Việt Nam.
5. Thực trạng tiền lương ở Việt Nam- Báo điện tử Chính phủ nước cộng
hịa chủ nghĩa Việt Nam.
6. Vương Đình Huệ: “Cải cách chính sách tiền lương để nâng cao đời
sống cho cán bộ, công chức, viên chức, lực lượng vũ trang và người lao động
trong doanh nghiệp”, 2018. .
19