TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
TIỂU LUẬN
KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Đề tài: Quá trình hình thành các chaebol ở Hàn Q́c và
bài học cho VN
Họ và tên: Hồng Thị Kim Hằng
Lớp: Anh 12 – KTKT – K59
Chuyên ngành: Kinh tế chính trị
Giảng viên hướng dẫn: ThS. Hồng Văn Vinh
HẠ LONG – THÁNG 6 NĂM 2021
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU………………………………………………………………... 2
Chương I. Chaebol - Sức mạnh làm chao đảo nền kinh tế Hàn Quốc…… 3
1.1. Nguồn cội sức mạnh của nền kinh tế Hàn Quốc…………………….. 3
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển…………………………………….. 3
1.1.2. Cấu trúc và đặc điểm………………………………………………... 4
1.2. Người hùng của Hàn Quốc……………………………………………. 6
1.2.1. Đưa đất nước thốt khỏi cảnh nghèo đói……………….…………… 6
1.2.2. Đóng góp to lớn vào sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế đất nước.. 7
1.3. Những bí mật khuất sau tiền tài và danh vọng……………………..... 8
1.3.1. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 và những hệ lụy kéo theo.. 8
1.3.2. Tình hình hiện nay của giới Chaebol Hàn Quốc…………………….. 9
Chương II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam…………………………….. 11
1. Bài học cho Nhà nước và doanh nghiệp………………………………… 11
2. Điểm giống và khác nhau giữa các doanh nghiệp Việt Nam &
Chaebol……………………………………………….…………………… 11
3. Mặt hạn chế của Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam……………….. 12
4. Giải pháp……………………….…………………………………………. 13
a) Cho Nhà nước……………………………………………………………. 13
b) Cho các tập đoàn kinh tế và doanh nghiệp………………………………. 13
LỜI KẾT………………………………………………………………………. 14
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………………..
15
3
LỜI MỞ ĐẦU
Việt Nam đang trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, sự kiện Việt Nam gia
nhập tổ chức thương mại thế giới đã đánh dấu một bước mới quan trọng cho sự
phát triển kinh tế nước nhà. Cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp trong nước là rất
rộng lớn, nhưng bên cạnh đó cũng đặt ra nhiều thách thức. Tham gia sân chơi
chung, bản thân các doanh nghiệp phải nỗ lực khơng ngừng, phải tự hồn thiện
mình chứ khơng thể trơng chờ vào sự bảo hộ, giúp đỡ từ phía nhà nước. Một thành
phần kinh tế giữ vai trị quan trọng về phía các doanh nghiệp là các tổng công ty
lớn, mà hiện nay đa phần là tổng cơng ty nhà nước. Khơng nằm ngồi xu hướng
phát triển chung, các doanh nghiệp này muốn phát triển thành tập đồn kinh tế lớn
mạnh thì phải học hỏi kinh nghiệm của các nước đi trước để cải cách có hiệu quả.
Hàn Quốc là một nước láng giềng xa của Việt Nam trong khu vực Châu Á nhưng
những bài học về cải tổ mơ hình tập đồn gia đình của họ - các Chaebol thì khơng
hề xa lạ với thực trạng tổng công ty của ta. Hàn Quốc hiện là một trong 30 nước
OECD với thu nhập bình quân đầu người cao ( hơn 16.000 USD) và tốc độ tăng
trưởng khá ổn định ( 3 - 4%/ năm). Đạt được thành tựu ấy phải kể đến vai trò rất
lớn của các Chaebol và một chính phủ rất năng động. Sự kết hợp chặt chẽ hai yếu
tố: doanh nghiệp và chính phủ, mà chính phủ vẫn giữ vai trị kiểm soát là biện pháp
tỏ ra khá hữu hiệu để đưa nền kinh tế Hàn Quốc đi lên. Nhìn vào thành cơng của
Hàn Quốc và ngẫm lại thực trạng của mình là một điều cần thiết. Để làm được
những kỳ tích mà Hàn Quốc đã làm được, chính phủ Việt Nam, doanh nghiệp Việt
Nam còn phải học hỏi nhiều những kinh nghiệm của người đi trước. Thiết nghĩ, để
tìm ra lối đi cho các tổng công ty với mong ước phát triển thành tập đồn lớn mạnh
thì việc nên làm là nghiên cứu mơ hình Chaebol Hàn Quốc, tìm ra những ưu điểm
và nét tương đồng để vận dụng linh hoạt và tránh những nhược điểm mà họ đã mắc
phải. Nhận thấy tính cấn thiết của vấn đề, tơi đã nghiên cứu đề tài " Quá trình hình
thành các chaebol ở Hàn Quốc và bài học cho Việt Nam" nhằm hiểu rõ hơn về các
Chaebol Hàn Quốc và tổng công ty nước ta trong xu hướng tồn cầu hố.
4
Chương I. Chaebol - Sức mạnh làm chao đảo nền kinh tế Hàn Quốc
1.1. Nguồn cội sức mạnh của nền kinh tế Hàn Q́c
1.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển
a) Khái niệm
Chaebol (hay Jaebol) là tên của các tổ hợp cơng nghiệp có quy mơ lớn thuộc sở
hữu của gia đình hoặc nhóm gia đình ở Hàn Quốc. Đây là một hình thức khối kinh
tế tư nhân của Hàn Quốc. Tiếng Hàn Quốc có nghĩa là “gia tộc giàu có”, thường
được dùng với nghĩa “đại doanh nghiệp” (tiếng Anh là “big business”). Các đại
doanh nghiệp kiểu “gia đình trị” này đóng vai trị then chốt trong nền kinh tế Hàn
Quốc từ những năm 1960, một số đã trở thành những tên tuổi nổi tiếng thế giới
như Samsung, Hyundai và LG… Mỗi Chaebol bao gồm từ 40-50 công ty không có
liên quan với nhau về mặt kinh tế kỹ thuật nhưng thuộc sở hữu của một gia đinh,
dòng họ. Về kết cấu, các Chaebol Hàn Quốc là các khối kinh tế tư nhân, trong đó
các thành viên của một gia đình đóng vai trị chủ đạo. Mặc dù, hơn 50% CEO
khơng phải là thành viên của gia đình nhưng những vị trí quản lý trọng yếu ở tất cả
các cơng ty đều do người sáng lập nắm giữ. Về nguồn gốc truyền thống, chúng vẫn
là các doanh nghiệp kiểu gia đình phong kiến di thực lại và phát triển lên dưới chế
độ tư bản chủ nghĩa. Các dòng họ sáng lập ban đầu là những tộc trưởng tạo dựng
công ty, do đó cơ cấu tổ chức của nó mang hình thức tập đoàn đẳng cấp. Tuy vậy,
nếu xét theo phương thức tác nghiệp, thì mỗi Chaebol đều có phương thức quản lý
kinh doanh riêng.
b) Lịch sử hình thành và phát triển
Vào thời điểm năm 1953, GDP bình quân của Hàn Quốc chỉ đạt mức 67 USD,
tương đương với 2% GDP của Mỹ. Sau một thời gian dài bị Nhật Bản chiếm đóng
và sau cuộc nội chiến tàn khốc, đất nước Nam Triều Tiên lúc này vẫn đang chìm
trong nghèo khó. Mối đe dọa từ Bắc Triều Tiên vẫn luôn luôn hiện hữu, và chính
quyền miền Nam lúc này hoặc là thờ ơ, hoặc là bất lực không thể giúp người dân
xóa nghèo.
Đến năm 1963, tổng thống Park Chung-hee với tham vọng đẩy mạnh quá trình
phát triển kinh tế Hàn Quốc tương đương với Nhật Bản thời đó, đã đề ra chiến lược
cơng nghiệp hóa nhanh chóng thơng qua thúc đẩy sự phát triển của các tập đoàn
kinh tế lớn. Với sự công nhận của Mỹ, ông Park bắt đầu tiến hành xây dựng một
nền kinh tế vững mạnh để Nam Triều Tiên có thể trở thành một thế lực tồn cầu.
5
Chính quyền tổng thống Park Chung Hee đã quốc hữu hóa các ngân hàng ở Hàn
Quốc và cấm các Chaebol lập ngân hàng. Chính quyền đã vạch ra các kế hoạch
năm năm và chiến lược phát triển kinh tế, chọn một số tập đồn gia đình trị lớn để
thực hiện chiến lược phát triển kinh tế quốc gia.
Nhằm đảm bảo những tập đoàn này phải hoạt động theo “chỉ đạo” của nhà nước,
chính quyền tổng thống Park đã chỉ thị các ngân hàng ưu đãi vốn vay cho các
Chaebol này để họ phục vụ mục tiêu chính trị: thực hiện các nhiệm vụ do nhà nước
đề ra trong các kế hoạch năm năm. Mối liên kết nhà nước - tập đồn gia đình trị
được hình thành và ý nghĩa của danh từ Chaebol là nói lên mối liên hệ này.
Chính quyền tổng thống Park đã cho các Chaebol vay nhiều khoản với lãi suất ưu
đãi thấp. Hơn thế, các ngân hàng quốc doanh Hàn Quốc lúc đó cịn được phép bảo
lãnh nợ nước ngoài của các Chaebol.
Với chủ trương nhà nước gánh bớt rủi ro tài chính để các Chaebol yên tâm thực
hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế theo kế hoạch nhà nước đề ra, nhà nước đã chủ
động trở thành “củ cà rốt”, đồng thời đóng vai trị cầm “cây gậy” giám sát tài chính
các khoản nợ ưu đãi này. Nhờ ưu đãi vốn, các Chaebol đã phát triển nhanh chóng,
tận dụng các cơ hội phát triển kinh tế trong vùng châu Á, Trung Đông suốt gần 20
năm.
Năm 1973, chính quyền tổng thống Park quyết định phát triển các ngành cơng
nghiệp mũi nhọn bao gồm: thép, hóa dầu, ơtơ, chế tạo máy, đóng tàu và điện tử.
Chính quyền đã chọn ra những Chaebol mạnh nhất, nhiều tiềm năng nhất để “điều
động” họ thực thi kế hoạch lớn này bằng những khoản vay ưu đãi khổng lồ.
Với sự hỗ trợ và ưu đãi này, các Chaebol đã phát triển không ngừng cả chiều
rộng lẫn chiều sâu. Thành công bước đầu đã nảy sinh tâm lý “không sợ thất bại”
nơi các Chaebol vì họ biết đã có chính phủ đứng chống lưng. Đến giai đoạn này,
các Chaebol cũng đã hoàn thiện hệ thống quản lý riêng của mình và chuyển đổi
thành mơ hình mẹ - con. Mỗi Chaebol trung bình có hàng chục cơng ty con chun
kinh doanh các lĩnh vực khác nhau.
Với vốn ưu đãi từ nhà nước, các Chaebol đầu tư mạnh vào bất cứ ngành nào có
tiềm năng phát triển mà không đặt nặng vấn đề lợi tức. Quan trọng hơn, nhiệm vụ
của các Chaebol là phát triển kinh tế, phát triển công nghiệp và thực hiện kế hoạch
chính phủ vạch ra. Trong một thời gian ngắn, top 10 Chaebol đã có doanh số 10%
GDP vào năm 1979.
1.1.2. Cấu trúc và đặc điểm
6
a) Cấu trúc
Mơ hình tài phiệt Hàn Quốc chủ yếu dựa trên một hệ thống phân chia quyền sở
hữu rất phức tạp và chồng chéo lên nhau.
Cơ cấu sở hữu của các Chaebol có thể phân thành 3 loại sau:
- Loại thứ nhất: Cơ cấu sở hữu trực tiếp (ví dụ: mơ hình của Tập đồn Hanjin):
Mỗi Chaebol bao gồm: Chủ sở hữu (công ty mẹ) và các công ty chi nhánh.
- Loại thứ hai: Cơ cấu công ty cổ phần (ví dụ mơ hình Tập đồn Daewoo): Mỗi
Chaebol bao gồm: Chủ sở hữu (công ty mẹ), công ty cổ phần và các công ty chi
nhánh.
- Loại thứ ba: Cơ cấu sở hữu hỗn hợp (mơ hình Tập đồn Samsung): Mỗi Chaebol
bao gồm: Chủ sở hữu (công ty mẹ), công ty cổ phần, các tổ chức trung gian và các
công ty chi nhánh.
Công ty mẹ thể hiện là công ty nịng cốt đóng vai trị chủ đạo trong chiến lược
phát triển tồn tập đồn. Các cơng ty con phải giúp giải quyết chính sách kinh tế
thống nhất của cơng ty mẹ. Trong đó, việc phối hợp giữa cơng ty mẹ và cơng ty
con phải dựa trên ngun tắc hài hịa. Hoạt động chính của cơng ty con (như là một
thành phần cần thiết của hệ thống sản xuất chung của cơng ty mẹ) được thừa nhận
là có ích lợi về mặt kinh tế. Sự điều tiết hoạt động của công ty con từ phía cơng ty
mẹ phải phù hợp với luật pháp và tương ứng với các tiêu chuẩn của quyền kinh
doanh và tiêu chuẩn công ty.
b) Đặc điểm
- Quyền sở hữu: Các Chaebol duy trì theo chế độ sở hữu "huyết thống". Các
Chaebol thường do các cá nhân sáng lập ra nó kiểm sốt và tn thủ theo ngun
tắc "cha truyền con nối". Trong suốt mấy thập kỷ tồn tại, 90% quyền thừa kế các
Chaebol được chuyển từ cha sang con trai hoặc anh em trai. Trong mỗi Tập đồn,
hầu hết các vị trí lãnh đạo chủ chốt đều do các thành viên gia đình nắm giữ. Chẳng
hạn như Chung Ju Yeong và gia đình kiểm sốt 61.4% cổ phần Tập đồn Hyundai.
Theo "Uỷ ban bn bán cơng bằng Hàn Quốc" thì phần sở hữu của các gia đình
trong 30 Chaebol lớn nhất tăng từ 43.8% năm 1995 lên 44.1% năm 1996. Qua đó
có thể thấy, các Chaebol đều có phương thức quản lý theo mối quan hệ gia đình và
đẳng cấp cao. Mối quan hệ chặt chẽ và đẳng cấp này đưa Chaebol trở thành một
"nền cộng hoà" riêng, chi phối và ảnh hưởng lớn đến nền kinh tế quốc gia. Mọi
quyết định quan trọng của các Chaebol đều chỉ được quyết định ở cấp cao nhất, tức
là chủ tịch và mọi nhân viên phải tuân thủ. Tuy nhiên, các quan chức ở các cấp
cũng có vai trị quan trọng trong quá trình đi đến quyết định cuối cùng.
7
- Vốn: Đặc trưng của Chaebol chính là làn sóng đầu tư vốn nội bộ. Samsung là
Chaebol đầu tiên sử dụng hình thức tài trợ vốn băng cách đầu tư nội bộ để trở
thành các Chaebol đầu tiên tham gia vào 2 ngành công nghiệp trọng điểm yêu cầu
vốn cao từ những năm 1960. Đặc biệt với chương trình cú hích lớn từ chính phủ
Hàn Quốc, cách thức đầu tư nội bộ này càng được chú trọng xem xét. Trong thực
tế, Chaebol thường áp dụng 2 cách đầu tư vốn như sau:
+ Đầu tư vịng trịn: hình thức mà các công ty nắm giữ một phần cổ phiếu của các
công ty khác. Đây là giai đoạn khi Chaebol thực hiện chiến lược phát triển theo
chiều ngang khi muốn gia tăng các cơng ty thành viên.
+ Đầu tư tỏa: hình thức mà một công ty nắm giữ cổ phần của các công ty khác.
Khi Chaebol trong giai đoạn thứ 2 thực hiện nhất thể hóa theo chiều dọc và phát
triển đa dạng hóa quan hệ.
- Cơ chế điều hành: trong mỗi Chaebol đều có một cơ quan điều hành riêng. Cho
dù tên gọi khác nhau, các cơ quan này đều có chức năng: giúp chủ tịch Tập đoàn
phối hợp hoạt động của các công ty chi nhánh; điều hành nhân sự, tài chính; đầu tư
nghiên cứu và triển khai (R&D). Bằng các hoạt động cụ thể, các cơ quan điều hành
góp phần nâng cao tính hiệu quả của Tập đồn nói chung, các cơng ty chi nhánh
nói riêng. Do quan hệ đẳng cấp, chủ tịch Chaebol có vai trị chi phối các thành viên
khác của hội đồng. Nhìn chung, chủ tịch Chaebol mang tính độc đốn, gia trưởng.
Đó là cũng là đặc thù nổi bật nhất trong các tổ chức kinh doanh Hàn Quốc.
- Phương thức tác nghiệp: Mỗi Chaebol có một phương thức quản lý kinh doanh
riêng. Ví dụ như Hyundai với phương thức kinh doanh tự thân, tức là chủ yếu dựa
vào nguồn nhân lực của bản thân Tập đồn để tổ chức sản xuất kinh doanh. Cịn
Daewoo thì theo phương thức liên doanh liên kết với các công ty nước ngồi thơng
qua cung cấp các giấy phép kỹ thuật và các hiệp định hiệp tác kỹ thuật nên kết cấu
sở hữu kiểu Daewoo mang tính đa nguyên, từ đó mà ảnh hưởng đến địa vị quản lý
và lợi ích phân chia trong Tập đoàn.
1.2. Người hùng của Hàn Q́c
1.2.1. Đưa đất nước thốt khỏi cảnh nghèo đói
Giữa thế kỷ 20, nền kinh tế Hàn Quốc có quy mơ nhỏ và phụ thuộc vào nông
nghiệp. Tổng thu nhập quốc dân (GDP) đạt 2,3 tỷ USD (năm 1953), thu nhập bình
quân đầu người là 67$, so với Mỹ lần lượt là 389,7 tỷ USD và 2449$. Ngay cả
Nhật Bản vừa trải qua thất bại trong Thế chiến II, GDP năm 1953 hơn 216 tỷ USD,
cao hơn rất nhiều lần so với Hàn Quốc.
8
Từ sau Chiến tranh Triều Tiên (1950-1953), nhờ nguồn viện trợ của Mỹ đổ vào
Seoul, chính phủ đã cung cấp hàng trăm triệu USD cho các khoản vay đặc biệt
cũng như các hình thức hỗ trợ tài chính khác cho các Chaebol như một nỗ lực để
xây dựng lại nền kinh tế, đặc biệt là các ngành công nghiệp quan trọng như xây
dựng, hóa chất, dầu và thép.
Các doanh nghiệp này đã phát triển mạnh mẽ dưới sự lãnh đạo của cựu Tổng
thống Park Chung-hee như một phần trong chiến lược phát triển kinh tế dựa vào
xuất khẩu của ơng.
Chính quyền Tổng thống Park Chung-hee có những chính sách ưu tiên cho các
doanh nghiệp xuất khẩu đồng thời cũng cách ly các cơng ty cạnh tranh nước ngồi
với các ngành công nghiệp trong nước. Đều này cũng đã được áp dụng tương tự
với 4 con hổ châu Á khác là Hong Kong, Đài Loan và Singapore.
Đến nay, các Chaebol đã mở rộng ra các lĩnh vực công nghiệp mới và bước ra
các thị trường tiềm năng ở nước ngoài. Năm 1961, xuất khẩu của Hàn Quốc chỉ
chiếm 4% GDP nhưng năm 2016 đã tăng lên hơn 40%, một trong những tỷ lệ cao
nhất trên toàn cầu. Cũng trong giai đoạn đó, thu nhập bình qn hàng năm của
người Hàn Quốc đã tăng từ 120 USD lên đến 30.000 USD vào thời điểm này.
Cùng với việc hàng triệu người Hàn Quốc thốt khỏi đói nghèo, sự ra đời ngày
càng nhiều của các Chaebol đã góp phần khơng nhỏ vào sự tái cơ cấu nền kinh tế
Hàn Quốc sau chiến tranh. Có thể nói Chaebol chính là người hùng của nền kinh tế
Hàn Quốc.
1.2.2. Đóng góp to lớn vào sự phát triển thần kỳ của nền kinh tế đất nước
Chính nhờ những chính sách ưu đãi kể trên, các Chaebol nhanh chóng phát triển
thành các tập đoàn tầm cỡ thế giới. Cuối thập niên 1980, Chaebol đã chế ngự lĩnh
vực công nghiệp và đặc biệt nổi tiếng về sản xuất, thương mại và các ngành công
nghiệp nặng. Các Chaebol được cho đã giúp nền kinh tế xứ sở Kim Chi thoát được
cảnh thâm hụt mậu dịch, trở thành nước có thặng dư mậu dịch lớn kể từ năm 1986.
Bước sang thập niên 90 của thế kỉ 20, Hàn Quốc "lột xác" hoàn toàn từ một đất
nước nghèo nàn bị chiến tranh tàn phá thành một trong những nước công nghiệp
mới lớn nhất trên thế giới, người dân được hưởng chất lượng cuộc sống tương
đương với các nước công nghiệp phát triển, tất cả đều được tin là công lao của các
"người hùng" Chaebol.
Chỉ tính riêng năm 2003, tổng kim ngạch xuất khẩu của 4 Chaebol Daewoo,
Hyundai, LG và SK đã lên đến 111,7 tỷ USD, tương đương 58% tổng giá trị xuất
9
khẩu của Hàn Quốc, chiếm 1/3 tổng giá trị tư bản của thị trường. Riêng Samsung
chiếm tới 20% xuất khẩu của nước này. Ba Chaebol lớn nhất năm 2008 là Samsung
(Tam Tinh), Hyundai (Hiện đại) và Daewoo (Đại Vũ) được người dân Hàn Quốc
gọi với biệt danh là "Tam trụ" – 3 trụ cột – chống giữ nền kinh tế nước nhà. Trong
thời kỳ trước khủng hoảng tài chính tồn cầu 2008, khoảng 80% GDP của Hàn
Quốc có nguồn gốc từ các Chaebol.
Một thống kê năm 2015 cho thấy chỉ tính riêng 5 Chaebol đứng đầu đã kiểm sốt
tới 58% GDP của Hàn Quốc. Số lượng các chi nhánh thuộc sở hữu của 30 Chaebol
hàng đầu cũng đã tăng lên 1.246 vào năm 2012. Thông qua việc sở hữu chéo giữa
các cơng ty chính và các cơng ty con của họ, các gia tộc tài phiệt sáng lập tiếp tục
là người chi phối chính của Chaebol. Mặc dù "độc tài", nhưng các Chaebol cũng
chính là nơi sản sinh ra nhiều tỷ phú, triệu phú nhất, góp phần khơng nhỏ cho sự
phát triển của nền kinh tế Hàn Quốc.
Xếp hạng các Chaebol từ 1987-2011
Xếp hạng/Năm
1987
1
Huyndai
1999
Huyndai
2000
Samsung
2004
Samsung
2006-2011
Samsung
HuyndaiMotor
SK
2
Daewoo
Samsung
Huyndai
LG
3
LG
Daewoo
LG
4
Samsun
g
Hanjin
LG
SK
HuyndaiMotor
SK
SK
HuyndaiMotor
5
Hanjin
LG
Lotte
Nguồn: Phuoc Cuu Long Le, Jong Ik Kim, Kunbae Kim, 2016
1.3. Những bí mật khuất sau tiền tài và danh vọng
1.3.1. Cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á 1997 và những hệ lụy kéo theo
Trong bối cảnh chung của cơn lốc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Châu Á, nền
kinh tế Hàn Quốc trong thời kỳ này bị khủng hoảng nghiêm trọng, sau đó đã lan
sang các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Tính chung 6 tháng đầu năm 1998,
GDP của Hàn Quốc đã giảm 5,3% so với cùng kỳ năm 1997, mức giảm kỷ lục kể
từ năm 1970. Các ngân hàng bị phá sản hàng loạt và lâm vào cảnh khốn cùng do
10
khơng có khả năng chi trả. Hệ số tín nhiệm của các ngân hàng Hàn Quốc giảm
mạnh khiến cho việc đi vay và huy động vốn càng gặp khó khăn. Trong khi đó,
đồng Won giảm giá xuống cịn khoảng 1700 Won/USD từ mức 1000 Won/USD. Từ
tháng 6 đến tháng 12 năm 1997, Chính phủ Hàn Quốc đã phải bán ra 14 tỉ USD để
kìm giữ tỉ giá, song đã phải từ bỏ nỗ lực này khi dự trữ ngoại tệ giảm từ 34,1 tỉ
USD xuống còn 20,4 tỉ USD. Sự phá sản của hơn 70.000 doanh nghiệp và ngân
hàng trong năm 1997 và 1998 đã làm cho số người thất nghiệp tăng từ 426.000
năm 1996 lên 1.461.000 năm 1998.
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Hàn Quốc bắt nguồn trước hết từ khâu
yếu nhất trong các yếu tố bên trong của nền kinh tế, đó là các Chaebol. Sự phá sản
của Tập đoàn thép Hanbo vào tháng 1 năm 1997 và tiếp theo là của 14.000 doanh
nghiệp trong năm 1997 đã kéo theo các ngân hàng - chủ nợ của các doanh nghiệp cũng bị phá sản. Điều này đã làm cho các nhà đầu tư nước ngoài và dân chúng lo
sợ, họ rút vốn, đổi ra ngoại tệ, làm cho áp lực phá giá đồng Won tăng liên tục. Cuối
cùng tỷ giá phải thả nổi làm cho nợ của các doanh nghiệp và ngân hàng càng lớn
hơn, họ rơi vào tình trạng buộc phải phá sản.
Sự sụp đổ của nhiều Chaebol trong một khoảng thời gian ngắn như vậy cho
thấy một vấn đề thứ hai sâu sắc hơn trong hệ thống tài chính của Hàn Quốc. Từ kỷ
nguyên của Park với việc cho vay theo chính sách bởi các ngân hàng quốc doanh,
khu vực tài chính đã hoạt động dựa trên cơ sở một hệ thống thân quen gọi là “cho
vay kết nối” chứ không dựa vào các phán xét độc lập về rủi ro tín dụng và dòng
tiền dự kiến của người vay. Trong nhiều thập kỷ, các tổ chức tài chính phương Tây
đã mong muốn kiếm được lợi nhuận nhất định bằng cách cho các ngân hàng Hàn
Quốc vay để giúp đỡ cho sự bùng nổ kinh tế ở đất nước này. Đến lượt mình, các
ngân hàng Hàn Quốc hăm hở cho các Chaebol đói vốn vay để tập trung vào việc
mở rộng các ngành kinh doanh mới. Việc các ngân hàng chấp nhận cho các
Chaebol duy trì một tỉ lệ nợ so với tài sản cao như vậy dẫn đến sự tích tụ các khoản
nợ nước ngoài đáng kể ở Hàn Quốc. Đến cuối năm 1996, tổng nợ nước ngoài của
Hàn Quốc xấp xỉ 180 tỉ USD, trong đó 130 tỉ USD đến hạn phải trả trong vòng một
năm. Mặc dù đáng kể, số tiền này khơng q lớn theo tiêu chuẩn tồn cầu để khiến
thị trường tài chính quốc tế phải lo lắng. Tuy nhiên, hàng loạt các Chaebol phá sản
trong năm 1997 đồng nghĩa với việc một tỉ lệ gia tăng trong số nợ đó sẽ trở thành
những khoản nợ xấu, khó có khả năng được hồn trả.
1.3.2. Tình hình hiện nay của giới Chaebol Hàn Quốc
11
Ngay cả các Chaebol ngày nay cũng phải nhận nhiều lời chỉ trích, kể cả khi họ
chính là lý do giúp Hàn Quốc trở thành nước xuất khẩu lớn thứ năm với GDP lớn
thứ 11 thế giới. Những chỉ trích chủ yếu là về các vụ bê bối chính trị và kinh
doanh, lợi dụng vị thế áp đảo của mình để độc quyền thị trường, từ đó kiềm giữ sự
phát triển của các doanh nghiệp nhỏ hơn và ảnh hưởng đến thị trường tự do. Ngồi
ra cịn là vì sự thiếu phát triển của các công ty nhỏ ở Hàn Quốc
Theo thống kê, tổng giá trị tài sản của 4 chaebol lớn nhất nước này là Samsung,
Hyundai Motor, SK và LG vào khoảng 864.900 tỷ Won tính đến cuối năm 2016,
tăng 33,5% so với mức 647.600 tỷ Won hồi cuối năm 2011. Trong đó, khối lượng
tài sản thuộc về Samsung - chaebol số 1 của Hàn Quốc - là 363.200 tỷ Won tính
đến cuối năm 2016, tăng 42% so với 5 năm trước đó.
Tập đồn Hyundai Mortor, sở hữu Hyundai Motor và Kia Mortor, có lượng tài
sản trị giá 218.600 tỷ Won, tăng 41,4% trong giai đoạn 2011-2016. Còn SK và LG
đều ghi nhận khối lượng tài sản của mình tăng lần lượt 25,1% và 11,5%, lên
170.700 tỷ Won và 112.300 tỷ Won.
Báo cáo của Chaebul.com cũng cho biết trong 5 năm qua, giá trị cổ phiếu niêm
yết của 4 Chaebol đã tăng thêm 27,7%, từ 519.500 tỷ Won lên 663.200 tỷ Won.
Tuy nhiên, tổng doanh số và thu nhập ròng của 4 doanh nghiệp trên lần lượt giảm
0,9% và 7% xuống 690.400 tỷ Won và 37.800 tỷ Won. Dù có sự suy giảm, 4 “ơng
lớn” trên vẫn chiếm tới 54,6% doanh số bán hàng và 46,8% thu nhập ròng của 30
doanh nghiệp lớn nhất Hàn Quốc trong năm 2016.
Đề cập đến sự tăng trưởng của nhóm các doanh nghiệp lớn, các nhà quan sát thị
trường nhận định rằng Chính phủ của tân Tổng thống Hàn Quốc Moon Jae-in có
chủ trương dịch chuyển cơ cấu kinh tế của Hàn Quốc từ việc tập trung vào các tập
đoàn kinh tế lớn sang các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SME). Tuy vậy SME cũng
khơng có sự khởi sắc khi mãi loay hoay vì khơng tận dụng được triệt để các chính
sách hỗ trợ phát triển. Một số công ty start-up thành công thì lại đang có xu hướng
phát triển theo phong cách Chaebol.
Vì vậy rất nhiều người Hàn Quốc đã thể hiện sự thất vọng với Tổng thống Moon
Jae-In. Ông đã hứa với đất nước sẽ cải cách Chaebol nhưng cho đến nay chẳng có
gì thay đổi nhiều. Dù sao thì cải cách cũng không dễ dàng. Các Chaebol là một
phần của nền kinh tế Hàn Quốc và chúng được tích hợp chặt chẽ vào cấu trúc kinh
tế, chính trị và xã hội của đất nước và rất khó để thay đổi. Như chúng ta đã thấy,
những cải cách khác đã được thực hiệnt rong suốt lịch sử của đất nước này, đều
khơng có kết quả thực sự hay là khơng có kết quả lâu dài. Mặt khác, những người
12
ủng hộ Chaebol cho rằng Chaebol là động lực của nền kinh tế Hàn Quốc, vì vậy
việc thay đổi chúng có nghĩa là gây thiệt hại cho nền kinh tế đất nước.
Chương II. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam
Bài học cho Nhà nước và doanh nghiệp
Những bài học thành công và thất bại của các Chaebol Hàn Quốc đã được nghiên
cứu từ lâu và được phổ biến rộng rãi trong giới nghiên cứu và quản lý kinh tế.
Song, điều đáng buồn là những bài học đó chưa được học và chưa được áp dụng
một cách thích đáng ở Việt Nam.
Trong quá trình cải cách kinh tế, các doanh nghiệp nhà nước đã được sắp xếp lại,
cổ phần hóa, giải thể. Với mục đích tạo ra sự liên kết và phân công sản xuất kinh
doanh, các tổng công ty và tập đoàn kinh tế lớn được thành lập.
Vào năm 1990 và 1991 Nhà nước đã thành lập các tổng công ty nhà nước, đến
năm 2005 thì một số tổng cơng ty được tổ chức thành tập đoàn kinh tế. Đến năm
2008 có 8 tập đồn kinh tế và 96 tổng cơng ty nhà nước hoạt động theo mơ hình
cơng ty mẹ - công ty con. Về mặt pháp lý, Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005
coi tập đoàn kinh tế là một hình thức của nhóm cơng ty - là "tập hợp các cơng ty có
mối quan hệ gắn bó lâu dài với nhau về lợi ích kinh tế, cơng nghệ thị trường và các
dịch vụ kinh doanh khác". Chưa có quy định nào về cơ cấu tổ chức và quản lý đối
với tập đoàn kinh tế.
Danh sách các tập đồn kinh tế nhà nước cho đến năm 2010 có: Bưu chính - Viễn
thơng (VNPT), Than - Khống sản (Vinacomin), Dầu khí (PetroVietnam), Điện lực
(EVN), Cơng nghiệp Tàu thủy (Vinashin), Dệt May (Vinatex), Cao su (VRG) và
Tài chính - Bảo hiểm (Bảo Việt). Trong khu vực tư nhân, cũng có một số doanh
nghiệp lớn tự gọi là tập đoàn, nhưng quy mô chưa lớn.
1.
2. Điểm giống và khác nhau giữa các doanh nghiệp Việt Nam & Chaebol
Khác với Chaebol, các tập đoàn kinh tế của Việt Nam hầu hết thuộc sở hữu nhà
nước. Cũng khác với các tập đoàn kinh tế thế giới, hầu hết đều đi từ các các cơng
ty nhỏ, hoạt động hiệu quả, tích tụ vốn và phát triển quy mơ dần trở thành các tập
đồn khổng lồ. ở Việt Nam các tập đoàn được thành lập dựa trên các quyết định
hành chính, tập hợp nhiều doanh nghiệp thuộc cùng một lĩnh vực để trở thành một
nhóm doanh nghiệp lớn bao gồm công ty mẹ và các công ty con, với hy vọng sẽ là
những doanh nghiệp mạnh, đóng vai trị chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân và sẽ
13
đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Lãnh đạo của các tập đồn do Chính phủ
bổ nhiệm và về thực chất họ là những cơng chức chính phủ, có nghĩa vụ tuân theo
những kế hoạch và chỉ đạo của Chính phủ về định hướng phát triển ngành.
Điểm giống với chaebol Hàn Quốc trong thời kỳ 1960 - 1980 là các tập đoàn
kinh tế Việt Nam được Nhà nước hỗ trợ thơng qua các chính sách ưu đãi về vốn.
Các tập đồn được ưu tiên tiếp cận vốn tín dụng. Ngân sách nhà nước có một
khoản đầu tư hỗ trợ các tập đồn, tổng cơng ty và doanh nghiệp nhà nước với số
tiền tăng lên hằng năm. Chính phủ cũng đứng ra bảo lãnh cho tập đoàn đi vay nợ
với lý do để thực hiện nhiệm vụ do Nhà nước đặt hàng.
Với sự ưu đãi như vậy, các tập đoàn đã trở thành những lực lượng mạnh chi phối
các ngành kinh tế chủ lực của Việt Nam. Một số lĩnh vực đã có tiến bộ vượt bậc
trong thời gian ngắn, như viễn thơng, dầu khí, đóng tàu biển.
3. Mặt hạn chế của Nhà nước và doanh nghiệp Việt Nam
Tuy nhiên chính phủ ta chưa có cơ chế giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của
các tập đoàn. Những điều đó dẫn đến hậu quả tương tự như đã xảy ra đối với các
Chaebol: các tập đoàn vay nợ lớn để mở rộng quy mô, đầu tư dàn trải vào nhiều
lĩnh vực, nhiều ngành nghề, phát triển các hoạt động ngồi ngành nghề chính, độc
quyền và có khả năng lũng đoạn thị trường, quản lý kém gây thất thoát vốn, kinh
doanh thua lỗ, v.v...
Mặc dù những xu hướng xấu này đã được cảnh báo từ lâu, thậm chí được Quốc
hội phân tích và yêu cầu chấn chỉnh trong nhiều cuộc họp định kỳ mấy năm gần
đây, nhưng việc cải cách hoạt động của các tập đoàn kinh tế nhà nước hầu như
chưa có chuyển biến đáng kể.
Hậu quả xấu khơng tránh khỏi là một số tập đồn nhà nước làm ăn khơng hiệu
quả, thậm chí đứng trên bờ vực phá sản. Vinashin là trường hợp điển hình của việc
lặp lại nguyên xi những kinh nghiệm thất bại mà các chaebol Hàn Quốc đã trải
qua. Chỉ mới thành lập từ năm 2006 từ việc hợp nhất Tổng công ty công nghiệp tàu
thủy với một số doanh nghiệp khác, Vinashin đã được đầu tư ồ ạt từ nhiều nguồn.
Đến nay tập đồn này có 28 nhà máy đóng tàu có trình độ công nghệ tiên tiến, đội
ngũ lao động trên 70.000 người, Từ chỗ chỉ đóng được tàu 1.000 - 3.000 tấn, đến
nay tập đồn này đã đóng được tàu hàng đến 53.000 tấn, tàu chở dầu thô đến
105.000 tấn, tàu chở ô-tô đến 6.900 xe, kho nổi chứa xuất dầu và thực hiện hàng
trăm đơn đặt hàng của các nước trên thế giới. Tuy nhiên, do chạy theo mở rộng quy
mô và đầu tư dàn trải, đến năm 2010, tổng tài sản của Vinashin khoảng 104.000 tỉ
14
đồng, nhưng tổng số nợ là 86 nghìn tỉ đồng, tỷ lệ nợ phải trả so với vốn chủ sở hữu
gấp gần 11 lần. Khủng hoảng tài chính thế giới đã làm đình trệ ngành đóng tàu thế
giới do các hợp đồng đóng tàu bị cắt giảm và hủy bỏ. Vinashin rơi vào tình trạng
mất cân đối tài chính nghiêm trọng, đứng trước nguy cơ phá sản. Hiện nay, chính
phủ Việt Nam đang phải tiến hành một số biện pháp cấp bách để giải cứu Vinashin,
trong đó có những biện pháp tương tự như Chính phủ Hàn Quốc đã làm đối với các
chaebol Huyndai, Daewoo, Ssangyong.
Trường hợp Vinashin cho thấy tái cấu trúc các công ty lớn là cần thiết, nhưng
phải đi kèm với việc thiết lập một hệ thống thể chế hồn chỉnh và các cơng cụ
chính sách hữu hiệu, trong đó kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp
lớn và quản lý theo những tiêu chuẩn hiện đại là những yếu tố không thể thiếu
nhằm bảo đảm cho doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả trong mơi trường kinh tế
tồn cầu hóa. Những biện pháp mà chính phủ Hàn Quốc áp dụng để tái cấu trúc các
chaebol cũng nên được tham khảo và áp dụng đối với các tập đoàn và doanh
nghiệp lớn của Việt Nam.
4. Giải pháp
a) Đối với Nhà nước
- Đưa ra những chính sách, quy định, hệ thống pháp lí, giám sát phù hợp
- Tạo điều kiện cho các Tập đoàn kinh tế độc lập phát triển và tự do canh tranh
- Chính phủ không can thiệp quá sâu vào nền kinh tế
- Khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đan xen
…
b) Đối với các tập đoàn kinh tế doanh nghiệp
- Chủ động tìm tịi học hỏi khơng ngừng cái tiến máy móc, cơng nghệ, khoa học
kĩ thuật, nỗ lực tìm kiếm nguồn lực phát triển
- Sản xuất theo chất lượng, không chạy theo số lượng
- Đầu tư cho nguồn nhân lực chất lượng cao
- Trình Chính phủ kế hoạch phát triển của Doanh nghiệp
- Tuân thủ văn hóa doanh nghiệp và giảm thiểu vấn đề xã hội môi trường
…
15
LỜI KẾT
Từ những thập niên 70, ta đã không thể phủ nhận sự thành cơng và tầm vóc quan
trọng của Chaebol, song điều ấy khơng có nghĩa là nó hồn hảo. Với vai trò đầu
tàu, Chaebol đã kéo Hàn Quốc ra khỏi vũng bùn nghèo khó, thành cơng đưa Hàn
Quốc đạt đến những thành tựu kinh tế đỉnh cao như ngày hơm nay. Tuy vậy những
khuyết điểm đằng sau nó cũng đang gây nên nhiều sự bức bối cho người dân và
Chính phủ. Những khuyết điểm này khơng thể thay đổi trong ngày một ngày hai
mà cần rất nhiều thời gian để xem xét và có những biện pháp sửa đổi phù hợp. Dù
nhiều người đã đặt câu hỏi cho sự chấm dứt của các Chaebol, nhưng điều này là
không thể, vai trò của Chaebol đối với nền kinh tế của Hàn Quốc đã ăn quá sâu và
khó có thể thay thế, thậm chí là ngay trong tư tưởng của người dân Hàn Quốc. Giờ
người ta chỉ cịn có thể tìm cách khắc phục nhược điểm của nó và hạn chế những
căn bệnh được coi là cố hữu của mô hình này.
Các tập đồn kinh tế của Việt Nam ra đời và phát triển xuất phát từ yêu cầu phát
triển nền kinh tế quốc gia và cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới. Qua
nghiên cứu phân tích có thể thấy các tập đồn kinh tế Việt Nam có nhiều điểm
tương đồng với tập đồn kinh tế của Hàn Quốc. Dù vậy mơ hình nào cũng có
những ưu – nhược điểm của riêng mình. Bài viết đã tổng hợp những kinh nghiệm
thành cơng, ngồi ra cịn đưa thêm những bài học kinh nghiệm và giải pháp dành
cho Nhà nước, các tập đoàn kinh tế và các doanh nghiệp, nhằm mục đích giúp Việt
Nam có định hướng và biện pháp phát triển các tập đoàn kinh tế trong nền kinh tế
hiện đại để xứng đáng với tầm vóc và kỳ vọng của nó.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Cải tổ các Chaebol Hàn Quốc và bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam
2.
(TS. Vũ Phương Thảo, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005)
“Khuynh hướng đa dạng hóa và tác động của Chaebol tới nền kinh tế Hàn
3.
4.
5.
Quốc”, Tạp chí Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (số 4 năm 2012)
Luật Doanh nghiệp Việt Nam năm 2005
“Vài suy nghĩ về tập đoàn kinh tế quốc doanh” (Nguyễn Trung)
“Doanh nghiệp với vấn đề môi trường”, báo điện tử vnexpress.net
7.
(3/3/2012)
“Điểm khác nhau về bối cảnh kinh tế giữa Việt Nam và Hàn Quốc”
/>“Việt Nam chưa có tập đồn kinh tế đúng nghĩa”, báo điện tử dantri.com.vn
8.
(27/9/2007)
“Phát triển tập đoàn kinh tế Việt Nam – vẫn dò đi từng bước”, báo điện tử
6.
doisongphapluat.com
17