Tải bản đầy đủ (.pdf) (25 trang)

Phân tích tính tất yếu khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định hướng XHCN ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.65 KB, 25 trang )

Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

A. Mở đầu.
Trong cơng cuộc tái thiết đất nước hiện nay,
nền kinh tế thị trường định hướng XHCN đóng vai trị
hết sức quan trọng. Nó góp phần thúc đẩy đưa đất
nước phát triển. Nâng cao được đời sống cho nhân
dân. Cùng với sự đổi mới về cơ chế quản lý, mở rộng
mối quan hệ hợp tác quốc tế thì nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN đang từng bước làm cho đất
nước thay đổi với tầm quan trọng như vậy, nên ngay
từ năm 1986, Đại hội VI, Đảng ta đã quyết định
trong văn kiện sẽ phát triển theo nền kinh tế hàng
hoá, kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong các
Đại hội Đảng tiếp theo (VII, VIII, IX) Đảng ta vẫn
tiếp tục khẳng định sẽ phát triển nền kinh tế đất
nước theo kinh tế thị trường định hướng XHCN và có
sự quản lý của Nhà nước. như vậy là: phát triển
kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta là một
điều tất yếu khách quan. Với tất cả những điều kiện
thì đề tài này, đề tài “Phân tích tính tất yếu
khách quan, đặc điểm của kinh tế thị trường định
hướng XHCN ở Việt Nam và các giải pháp để phát
triển nó” là một đề tài hay, có tính thực tiễn cao,
và đó cũng là lý do em la chn ti ny.

L-ơng Hữu C-ờng K42

1



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

B. Nội dung.
I.Nguyên nhân nước ta phát triển kinh tế thị trường và đặc
điểm kinh tế thị trường XHCN ở Việt Nam.

1. Khẳng định việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch
hoá tập trung sang nền kinh tế t là tất yếu, khách
quan.
Trước kia, nước ta có một nền kinh tế kế hoạch
hố tập trung nó đã phát huy vai trị rất tốt trong
hai cuộc kháng chiến chống Pháp, Mỹ. Song, cho đến
ngày nay nó đã bộ lộ các điểm không phù hợp với xu
hướng phát triển kinh tế của nước ta cũng như trên
thế giới. Để rõ hơn ta tìm hiểu đặc điểm của nền
kinh tế kế hoạch hoá tập trung.
- Đặc điểm nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung:
+ Sở hữu đơn nhất.
+ Nhà nước quản lý kinh tế theo mệnh lệnh
chính, lo từ đầu vào đến đầu ra.

hành

Từ đó dẫn đến những điểm không phù hợp của nền kinh
tế kế hoạch hố tập trung:
+ Khơng phát triển được lực lượng sản xuất.
+ Chậm tiếp thu được khoa

học công nghệ mới.


+ Không khai thác được đúng mức, có hiệu quả
sức lao động của con người.
+ Các mối quan hệ kinh tế trong nước xơ cứng,
kém năng động.
+ Hiệu quả quản lý của
nhà nước thấp, khơng
phát huy được tính tích cực của người dân.
Trái với nó nền kinh tế thị trường tỏ ra có
những ưu điểm đáp ứng được nhu cầu đổi mới kinh tế
của đất nước, cụ thể:
+ Chủ thể năng động phát huy được hết khả năng
thúc đẩy sản xuất phát triển.
+ ứng dụng khoa học – kỹ thuật – công nghệ vào
sản xuất kinh doanh thúc đẩy lực lượng sản xuất
phát triển.
+ Giảm chi phí đáp ứng tốt mọi nhu cu ca sn
xut, ca sinh hot ngi dõn.
L-ơng Hữu C-ờng K42

2


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
+ Phát triển kinh tế thị trường phục vụ cho sự
nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hoá ở nước ta.
Tuy vậy, bên cạnh các ưu điểm, kinh tế thị
trường cũng có những nhược điểm như làm ô nhiễm môi
trường, nền kinh tế dễ rơi vào khủng hoảng, nạn
thất nghiệp cao, sự lũng đoạn thị trường của các
nhà tư sản.... Vì vậy cần có sự quan tâm can thiệp

của nhà nước. Do đó, nền kinh tế của nước ta là nền
kinh tế thị trường định hướng XHCN có sự quản lý
của Nhà nước.
Từ những năm đầu thập kỷ 90 trở lai đây có lẽ
khơng cịn mấy ai nghi ngờ về vai trị của sản xuất
hàng hố, của kinh tế thị trường trong sự nghiệp
xây dựng đất nước ở thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Tuy vậy, do ảnh hưởng của những
quan niệm trước đây về một chủ nghĩa xã hội khơng
có kinh tế hàng hố, khơng có quan hệ thị trường và
do bản thân kiểm tốn thị trường lại có tính hai
mặt của nó cho nên trong thực tế, việc nhận thức
cho đúng vai trò của kinh tế thị trường đối với sự
nghiệp xã hội chủ nghĩa xã hội vẫn có nhiều vấn đề
cần phải nói đến.
Như chúng ta đã biết, C. Mác và F. Enghen không
dự báo về một mô hình chủ nghĩa xã hội có nền kinh
tế hàng hố. Trong tác phẩm “Chống duy ứng”,
F.Enghen viết: “Cùng với việc xã hội nắm lấy những
tư liệu sản xuất thì sản xuất hàng hố cũng bị loại
trừ, và do đó, sự thống trị của hàng hoá đối với
những người sản xuất cũng bị loại trừ”. Tuy nhiên
ở đây F.Enghen nói đến trường hợp một xã hội chủ
nghĩa đã ở trình độ đầy đủ, chín mồi, tức là ở giai
đoạn chủ nghĩa cộng sản.
V.I.Lênin, trước cách mạng tháng mười, cũng cho
rằng trong chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế hàng hoá
sẽ bị xố bỏ “để tổ chức nền sản xuất khơng có
những nhà kinh doanh ”. Thế nhưng đến mùa xuân năm
1921, khi ni chin kt thỳc, trc nhng nhim v

L-ơng Hữu C-êng K42

3


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
nặng nề của việc khơi phục nền kinh tế, khắc phục
hậu quả của chính sách quyết định thực hiện chính
sách kinh tế mới, mà nội dung chủ yếu là thừa nhận
kinh tế hàng hoá, thừa nhận tự do buôn bán, cho
phép tồn tại đến một giới hạn nhất định thành phần
kinh tế tư bản tư nhân, sử dụng các hình thức kinh
tế quá độ, xem chủ nghĩa tư bản nhà nước và
hợp
tác xã như là chiếc cầu nhỏ lên chủ nghĩa xã hội.
Như vậy, chính Lênin, khi căn cứ vào điểm xuất
phát từ trình độ phát triển kinh tế, văn hố, xã
hội cịn thấp mơ hình chủ nghĩa xã hội có vai trị
của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường.
Thực ra, lý luận về kinh tế hàng hoá, về chủ
nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội theo quan điểm của Lênin có nội dung
rất phong phú. Song lý luận đó chưa phải đã hồn
chỉnh, nhiều vấn đề chưa được Lênin lý giải một
cách cặn kẽ. Hơn nữa, vì thời gian thử nghiệm Nep ở
nước Nga trước đây quá ngắn và thành tựu của nó
cũng chưa nhiều lai chưa được tổng kết từ thực tiễn
để hoàn chỉnh về mặt lý luận. Đó cũng là một trong
những nguyên nhân khiến cho kinh tế thị trường
trong nhiều năm bị nhìn nhận bằng thái độ kỳ thị

tại các nước thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa.
Có thể nói suốt một thời gian dài các nước
thuộc hệ thống xã hội chủ nghĩa đó là nước ta đã
khơng nhận thức đúng vai trị của sản xuất hàng hoá
của kinh tế thị trường, đã đồng nhất hình thức sở
hữu với hình thức tổ chức kinh tế và thành phần
kinh tế, coi nhẹ, thậm chí phủ nhận quy luật giá
trị, quy luật cạnh tranh, coi nhẹ quy luật cung
cầu, chỉ nhìn thấy mặt tiêu cực của kinh tế thị
trường, phủ nhận quan hệ hàng hoá tiền tệ. Do đối
lập kinh tế hàng hoá và thị trường với kinh tế kế
hoạch hoá, cho thị trường là phạm trù riêng của chủ
nghĩa tư bản cho nên chúng ta ch tha nhn s tn

L-ơng Hữu C-ờng K42

4


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
tại của sản xuất trong khuân khổ của “thi đua xã
hội chủ nghĩa ”, tách rời một cách riêu hình sản
xuất hàng hố với thị trường. Bởi vậy, chúng ta đã
không tạo được động lực để phát triển sản xuất, vơ
tình hạn chế việc ứng dụng những tiến bộ của khoa
học, kỹ thuật vào sản xuất, năng xuất lao động tăng
chậm, gây rối loạn và ách tắc trong lĩnh vực phân
phối, lưu thống, làm cho nền kinh tế rơi vào tình
trạng kém năng động, trì trệ.
Khi nhìn lại những sai lầm trong thời kỳ thực

hiện “Cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp”, tại Đại
hội lần thứ VI (12 - 1986), Đảng ta thừa nhận:
“Chúng ta đã có những thành kiến khơng đúng, trên
thực tế, chưa thật sự thừa nhận những quy luật của
sản xuất hàng hố đang tồn tại khách quan, do đó,
khơng chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các
chủ trương, chính sách kinh tế ”. “Trong nhận thức
cũng như trong hành động, chúng ta
chưa thật sự
thừa nhận cơ cấu kinh tế nhiều thành phần ở nước
ta còn tồn tại trong một thời gian tương đối dài,
chưa nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù
hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ
của lực lượng sản xuất ”. Để khắc phục sai lầm đó,
Đảng ta đã đề ra chủ trương: “Quá trình từ sản xuất
nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển
hố nền kinh tế cịn nhiều tích chất tự cấp, tự túc
thành nền kinh tế hàng hoá .... Việc sử dụng đầy đủ
và đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ trong kế
hoạch hoá nền kinh tế quốc dân là một tất yếu khách
quan. Việc sử dụng quan hệ hàng hố - tiền tệ địi
hỏi sản xuất phải gắn với thị trường ”. Đây là bước
tiến hết sức quan hệ trong việc đổi mới tư duy kinh
tế của Đảng ta. Quan điểm này xuất phát từ tình
hình kinh tế – xã hội ở nước ta, từ nguyện vọng
chính đáng của nhân dân ta, trên cơ sở vận dụng mơ

L-¬ng H÷u C-êng K42

5



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
hình của Lênin về một chủ nghĩa xã hội có nền kinh
tế hàng hố.
Thế nhưng điều đáng lưu ý là, từ đại hội VI,
mặc dầu đã sử dụng thuật ngữ “thị trường ” song
trong các văn kiện, Đảng ta vẫn chưa sử dụng khái
niệm “kinh tế thị trường ” và “cơ chế thị trường ”
như hiện nay chúng ta đang sử dụng. Phải đến Hội
nghị Trung ương lần thứ 6 (khoá VI, 3/1989) Và đến
Đại hội lần thứ VII (6/1991), trên cơ sở nhận thức
sâu hơn về tình hình đất nước, Đảng ta mới có điều
kiện nói rõ và nhấn mạnh: “Nền kinh tế hàng hố
nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước là hoàn toàn cần thiết
để giải phóng và phát huy được các tiềm năng sản
xuất trong xã hội”.
2. Bản chất, đặc điểm của nền kinh tế thị trường
định hướng ch chủ nghĩa ở Việt Nam.
Chuyển từ nền kinh tế từ hoạt động theo cơ chế
kế hoạch hố tập trung – hành chính – quan liêu bao cấp sang phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa là
nội dung, bản chất và đặc điểm khái quát nhất đối
với nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện tại và
tương lai. Đặc biệt, cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại
hội đại biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam
lần thứ VII thông qua vào năm 1991, cũng đã nêu lên

6 đặc trưng bản chất của xã hội, xã hội chủ nghĩa
và những quan điểm phương hướng tổng quát về phát
triển kinh tế – xã hội theo định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta. Tuy nhiên, cũng cần phải phân tích
sâu thêm bản chất, đặc điểm đã được khái quát nói
trên, để có thể hiểu rõ v thng nht hn trong
nhn thc v hnh ng.

L-ơng Hữu C-êng K42

6


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
Thứ nhất, nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa mà nước ta xã hội là nền kinh tế thị
trường hiện đại với tính chất xã hội hiện đại (xã
hội xã hội chủ nghĩa ). Mặc dù nền kinh tế nước ta
nằm trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển
nhưng khi nước ta chuyển sang giai đoạn kinh tế thị
trường hiện đại (do những khiếm khuyết của kinh tế
thị trường tự do). Bởi vậy, chúng ta không thể và
không nhất thiết phải trải qua giai đoạn kinh tế
hàng hoá giản đơn và giai đoạn kinh tế thị trường
tự do, mà đi thẳng vào phát triển kinh tế thị
trường hiện đại. Đây là nội dung và yêu cầu của sự
phát triển rút ngắn. Mặt khác, thế giới vẫn đang
nằm trong thời đại quá độ từ chủ nghĩa từ bản lên
chủ nghĩa xã hội, cho nên sự phát triển kinh tế –
xã hội nước ta phải theo định hướng xã hội chủ

nghĩa là cần thiết, khách quan (như đã phân tích ở
phần trên) và cũng là nội dung, yêu cầu của sự phát
triển rút ngắn. Sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng dân chủ văn minh” vừa là mục tiêu,
vừa là nội dung, nhiệm vụ của việc phát triển kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước
ta. Đảng và Nhà nước khuyến khích mọi người dân
trong xã hội làm giàu một cách hợp pháp. Dân có
giàu thì nước mới mạnh, nhưng dân giàu phải làm cho
nước mạnh, bảo đảm độc lập, tự chủ và toàn vẹn lãnh
thổ của quốc gia.
Thứ hai, nền kinh tế của chúng ta là nền kinh
tế hỗn hợp nhiều thành phần với vai trò chủ đạo của
kinh tế nhà nước trong một số lĩnh vực một số khâu
quan trọng có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển
kinh tế – xã hội của đất nước. Nền kinh tế hàng
hoá, nền kinh tế thị trường phải là một nền kinh tế
đa thành phần, đa hình thức sở hữu. Thế nhưng, nền
kinh tế thị trường mà chúng ta đang xây dựng là nền
kinh tế thị trường hiện đại, cho nên cần có sự tham
gia bởi “bàn tay hữu hình” của nhà nước trong việc
điều tiết, quản lý nền kinh tế đó. Đồng thời chính
nó sẽ đảm bảo sự định hướng phát triển của nền kinh
tế thị trường. Sự quản lý, điều tiết, định hướng
phát triển nền kinh tế thị trường của nhà nước là
thông qua các công cụ chính sách kinh tế vĩ mơ và
vai trị chủ o ca khu vc kinh t nh nc. Kinh
L-ơng Hữu C-êng K42

7



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
tế nhà nước phải nắm giữ vai trò chủ đạo ở một số
lĩnh vực then chốt, có ý nghĩa là “đài chỉ huy”, là
“mạch máu” của nền kinh tế. Cùng với việc nhấn mạnh
vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, cần coi trọng
vai trò của khu vực kinh tế tư nhân và kinh tế hỗn
hợp, đặt chúng trong mối quan hệ gắn bó, hữu cơ
thống nhất, không tách rời, biệt lập.
Thứ ba, Nhà nước quản lý nền kinh tế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa là Nhà nước của
dân, do dân, vì dân. Thành tố quan trọng mang tính
quyết định trong nền kinh tế thị trường hiện đại là
nước tham gia vào các quá trình kinh tế. Nhưng khác
với nhà nước của nhiều nền kinh tế thị trường trên
thế giới, Nhà nước ta là Nhà nước “của dân, do dân,
và vì dân”, Nhà nước công nông, Nhà nước của đại đa
số nhân dân lao động, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng
cộng sản Việt Nam. Nó có đủ bản lĩnh, khả năng và
đang tự đổi mới để đảm bảo giữ vững định hướng xã
hội chủ nghĩa trong việc phát triển nền kinh tế thị
trường hiện đại ở nước ta. Sự khác biệt về bản chất
nhà nước là một nội dung và là một điều kiện, một
tiền đề cho sự khác biệt về bản chất của mơ hình
kinh tế thị trường ở nước ta so với nhiều mơ hình
kinh tế thị trường khác hiện có trên thế giới.
Thứ tư, cơ chế vận hành của nền kinh tế thị
trường được thực hiện thông qua cơ chế thị trường
với sự tham gia quản lý, điều tiết của Nhà nước,

mọi hoạt động sản xuất – kinh doanh trong nền kinh
tế được thực hiện thông qua thị trường. Các quy
luật của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường (quy
luật giá trị, quy luật cung – cầu, quy luật cạnh
tranh – hợp tác.... ) sẽ chi phối các hoạt động
kinh tế. Quy luật giá trị quy định mục đích theo
đuổi trong hoạt động kinh tế là lợi nhuận (là giá
trị không ngừng tăng lên) quyết định sự phân bố các
nguồn lực vào các lĩnh vực sản xuất kinh doanh khác
nhau, đồng thời đặt các chủ thể kinh tế trong một
cuộc cạnh tranh quyết liệt. Thông qua các cơng cụ,
chính sách kinh tế vĩ mơ, cùng với việc sử dụng các
lực lượng
kinh tế của mình (kinh tế nhà nước ),
Nhà nước tác động lên mối quan hệ tổng cung tổng
cầu thực hiện sự điều tiết nền kinh tế thị trường.
Như vậy, cơ chế hoạt động của nền kinh t l: th
L-ơng Hữu C-ờng K42

8


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
trường điều tiết nền kinh tế, Nhà nước điều tiết
thị trường và mối quan hệ Nhà nước – thị trường các chủ thể kinh tế là mối quan hệ hữu cơ, thống
nhất.
Thứ năm, mở cửa, hội nhập nền kinh tế trong
nước với nền kinh tế thế giới, trên cơ sở giữ vững
độc lập tự chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia là
nội dung quan trọng của nền kinh tế thị trường ở

nước ta. Quá trình phát triển của nền kinh tế thị
trường đi liền với xã hội hoá nền sản xuất xã hội.
Tiến trình
xã hội hố trên cơ sở phát triển của
kinh tế thị trường là khơng có biên giới quốc gia
về phương diện kinh tế. Một trong những đặc trưng
quan trọng của nền kinh tế thị trường hiện đại là
việc mở rộng giao lưu kinh tế với nước ngoài. Xu
hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế với những khu
vực hoá và tồn cầu hố đang ngày càng phát triển
và trở thanhf xu thế tất yếu trong thời đại của
cuộc cách mạng khoa học – công nghệ hiện nay. Tất
cả các nước trên thế giới, dù muốn hay khơng muốn,
ít nhiều đều bị lôi cuốn, thu hút vào các quan hệ
kinh tế quốc tế. Tranh thủ thuận lợi và cơ hội,
tránh nguy cơ tụt hậu xa hơn và vượt qua thách thức
là yêu cầu nhất thiết phải thực hiện. Để phát triển
trong điều kiện của kinh tế kinh tế hiện đại, Việt
Nam khơng thể đóng cửa, khép kín nền kinh tế trong
trạng thái tự cung, tự cấp, mà phải mở cửa, hội
nhập với nền kinh tế thế giới. Sự mở cửa, hội nhập
được thực hiện trên ba nội dung chính là: thương
mại, đầu tư và chuyển giao khoa học – công nghệ.
Tuy nhiên, sự mở cửa, hội nhập khơng có ý nghĩa là
sự hồ tan, đánh mất mình, mà phải trên cơ sở phát
huy lợi thế so sánh và không ngừng nâng cao sức
cạnh tranh của nền kinh tế, giữ vững độc lập, tự
chủ và toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế đồng thời
với việc bảo đảm công bằng xã hội cũng lalf một nội

dung rất quan trọng trong nền kinh tế thị trường ở
nước ta, phát triển trong công bằng và phát triển
bền vững là những thuật ngữ phổ biến và là xu thế
của thời đại hiện nay. Phát triển trong công bằng
được biểu hiện là những chính sách phát triển phải
đảm bảo sự cụng bng xó hi, l to cho mi tng
L-ơng Hữu C-êng K42

9


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
lớp nhân dân có cơ hội tham gia vào quá trình phát
triển và được hưởng những thành quả tương xứng với
sức lực, khả năng và trí tuệ của họ bỏ ra, là giảm
khả khoảng cách chênh lệch giàu – nghèo giữa các
tầng lớp dân cư và giữa các vùng. Khác với nhiều
nước, chúng ta phát triển kinh tế thị trường nhưng
chủ trương đảm bảo công bằng, xã hội, thực hiện sự
thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã
hội trong tất cả các giai đoạn của sự phát triển
kinh tế ở nước ta.
Tuy nhiên, cũng cần nhấnh mạnh rằng, sự bảo đảm
công bằng trongnền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở nước ta là hoàn toàn xa lạ và khác
hẳn vèe chất với chủ nghĩa bình quân, cao bằng thu
nhập và “chia đều sự nghèo đói” cho mọi người. Mức
độ bảo đảm công bằng xã hội phụ thuộc rất lớn vào
sự phát triển, khả năng và sức mạnh kinh tế của
quốc gia. Vì vậy, nếu q nhấn mạnh tới cơng bằng

xã hội trong điều kiện nền kinh tế còn kém phát
triển, ngân sách cịn eo hẹp, thì chắc chắn sẽ làm
triệt tiêu động lực phát triển kinh tế – xã hội của
đất nước.
Thứ bảy, giải quyết mối quan hệ giữa lao động
và tư bản (vốn), thông qua phân phối thu nhập trong
quá trình nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở nước ta, được thực hiện theo kết quả
lao động là chủ yếu kết hợp với một phần theo vốn
và tài sản. Đây là điểm khác biệt giữa nền kinh tế
thị trường trong chủ nghĩa tư bản với nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Trong mối quan hệ giữa lao động và tư bản (vốn),
giữa lao động sống và lao động quá khứ (lao động đã
được vật hoá), chủ nghĩa tư bản nhấn mạnh đến nhân
tố tư bản (vốn) hơn là nhân tố lao động (lao động
sống), nhấn mạnh đến yếu tố tích luỹ - đầu tư hơn
là yếu tố tiền lương- thu nhập của người lao động.
Ngược lại, chủ nghĩa xã hội đặt con người ở vị trí
trung tâm của sự phát triển. Cho nên, trong khâu
phân phối thu nhập và thành quả lao động của xã
hội, chủ nghĩa xã hội nhấn mạnh đến nhân tố lao
động (lao động sống) và yếu tố tiền lương – thu
nhập của người lao động. Tuy nhiên, trong khi nhấn
mạnh đến vai trò của yu t lao ng, n nõng cao
L-ơng Hữu C-ờng K42

10



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
thu nhập và tiêu dùng của người lao động, chúng ta
không thể không coi trọng đến vai trị của yếu tố
vốn, đến tăng cường tích luỹ và đầu tư (cả nhà nước
và tư nhân) và đến mối quan hệ biện chứng giữa tư
bản (vốn) và lao động – Vì vậy, thu nhập theo vốn
và tài sản kinh doanh giờ đây đã trở thành điều
bình thường. Chỉ có trên cơ sở đó mới gia tăng số
người giàu có trong xã hội. Tăng số người có thu
nhập cao đồng thời giảm sốngười có thu nhập thấp
trong xã hội và thu hẹp dầu khoảng cách chênh lệch
giàu – nghèo vừa là mục tiêu, vừa là nội dung quan
trọng của chính sách thu nhập và chính sách điều
tiết thu nhập của nhà nước trong quá trình phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
Tóm lại,q trình phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội ở nước ta phải là “quá
trình thực hiện dân giàu,nước mạnh, tiến lên hiện
đại trong một xã hội nhân dân làm chủ, nhân ái, có
văn hố, có kỷ cương, xố bỏ áp bức, bất cơng, tạo
điều kiện cho mọi người có cuộc sống ấm no, tự do,
hạnh phúc”.
II.
Các giải pháp để phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1. Đa dạng hố và đổi mới các loại hình sở hữu.
Thực chất đổi mới kinh tế ở nước ta trong thời
gian qua là sự điều chỉnh một cách toàn diện về các

quan hệ sản xuất bao gồm cả về mặt quan hệ sở hữu,
quan hệ quản lý và quan hệ phân phối. Đó là bước
khởi đầu của cách mạng về quan hệ s, xuất phát từ
yêu cầu khách quan của quá trình xã hội hố sản
xuất, cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, phát
triển kinh tế thị trường ở nước ta. Nhờ bước đầu
“cởi trói” cho một loạt các quan hệ sản xuất, các
thành phần kinh tế đang phát huy tác dụng, chứng tỏ
sức sống và vị trí quan trọng của nó trong cơng
cuộc xã hội nền kinh tế mới.
Sở hữu là hình thức xã hội lịch sử nhất định
chiếm hữu.
Phạm trù sở hữu là khi được thể chế hoá thành
quyền sở hữu được thực hiện thông qua một cơ chế
nhất nh gi l ch s hu.
L-ơng Hữu C-ờng K42

11


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
Đối với nước ta, khi chuyển từ nền kinh tế bao
cấp sang nền kinh tế thị trường thì cũng tức là
chuyển từ quan hệ sở hữu đơn nhất, sở hữu tập thể,
sở hữu nhà nước sang mối quan hệ sở hữu đa dạng.
Tuy nhiên với trình độ xã hội hố sản xuất ở nước
ta cịn thấp, khơng đồng đều, nên ứng với nó sẽ có
các hình thức sở hữu cơ bản sau:
Sở hữu Nhà nước: là hình thức sở hữu mà Nhà
nước là đại diện cho nhân dân sở hữu những tài

nguyên,tài sản, những tư liệu sản xuất chủ yếu và
những của cải của đất nước.
Sở hữu Nhà nước là sở hữu mà chủ sở hữu là Nhà
nước, còn quyền sử dụng giao cho các tổ chức, đơn
vị kinh tế và các cá nhân để phát triển kinh tế một
cách hiệu quả nhât.
Sở hữu thứ hai là sở hữu tập thể: là sở hữu của
những chủ thể kinh tế (cá nhân người lao động) tự
nguyện tham gia, biểu hiện ở sở hữu tập thể các hợp
tác xã trong nông nghiệp, chủ nghĩa,xã hội, vận
tải.... ở các nhóm, tổ, đội và các cơng ty cổ phần.
Sở hữu hỗn hợp là hình thức sở hữu phù hợp,
linh hoạt và hiệu quả trong thời kỳ quá độ. Mỗi chủ
thể có thể tham gia một hoặc nhiều đơn vị tổ chức
kinh tế, khi thấy có lợi. Vì vậy, cần khuyến khích
hình thức sở hữu này hình thành từ thấp đến cao
trong mọi ngành, mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Thành phần kinh tế hợp tác mà nòng cốt là các hợp
tác xã và thành phần kinh tế tư bản Nhà nước dựa
trên cơ sở hình thức sở hữu hỗn hợp này.
Sở hữu tư nhân của người sản xuất nhỏ là sở hữu
về tư liệu sản xuất của bản thân người lao động.
Chủ thể của sở hữu này là công dân, cá thể, thợ thủ
công, tiểu thương. Họ vừa là chủ sở của tiểu chủ,
chủ trang trại có lao động. Thành phần kinh tế cá
thể, tiêu chủ là đại biểu cho sở hữu tư nhân nhỏ.
Sở hữu tư nhân tư bản là hình thức sở hữu của
các nhà tư bản vào các ngành, lĩnh vực sản xuất
kinh doanh của nền kinh tế. Thành phần kinh tế tư
bản tư nhân dựa trên cơ sở sở hữu tư nhân tư bản

chủ nghĩa v t liu sn xut.

L-ơng Hữu C-ờng K42

12


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
Đa dạng hố và đổi mới các loại hình sở hữu để
phù hợp với một nền kinh tế phát triển hơn, nền
kinh tế thị trường là điều kiện cần thiết phải làm.
Bên cạnh đó, cũng cần phải tiến hành đổi mới,đẩy
mạnh phát triển các lĩnh vực khác như: cơng nghiệp
hố, hiện đại hố....
2. Đẩy mạnh Cơng nghiệp hố, hiện đại hố, trang bị
mới khoa học kỹ thuật cho nền kinh tế hàng hoá,
thúc đẩy phân công lao động xã hội phát triển tham
gia vào phân cơng lao động hợp tác quốc tế.
Cơng nghiệp hố, hiện đại hoá, trang bị mới
khoa học kỹ thuật cho nền kinh tế hàng hố là điều
tất yếu phải có trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở tất cả các nước. Đối với nước ta, một nước
quá độ tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chủ
nghĩa tư bản, sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất –
kỹ thuật (CSVC - KT) cho cnnxh được thực hiện bằng
con đường cơng nghiệp hố (CNH). CNH là q trình
biến một nước có nền kinh tế lạc hậu thành một nước
công nghiệp hiện đại. CNH là con đường để xây dựng
CSVC – KT cho CNXH đối với những nước kém phát
triển như nước ta.

Cơng nghiệp hố sẽ giúp phát triển lực lượng
sản xuất, tăng năng suất lao động,thúc đẩy tăng
trưởng và phát triển kinh tế khắc phục nguy cơ tụt
hậu ngày càng xa hơn về kinh tế giữa nước ta với
các nước trong khu vực và trên thế giới, góp phần
ổn định vai trò kinh tế của Nhà nước, nâng cao năng
lực tích luỹ, tạo cơng ăn việc làm, khuyến khích sự
phát triển tự do và tồn diện của mỗi cá nhân. CNH
còn giúp tạo điều kiện vật chất cho việc tăng cường
củng cố an ninh quốc phòng, tạo điều kiện vật chất
cho việc xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ đủ
sức tham gia một cách có hiệu quả vào sự phân công
và hợp tác quốc tế.
Do vị trí, tầm quan trọng và các tín dụng nói
trên của cơng nghiệp hố và hiện đại hố nền kinh
tế quốc dân, nên qua các kỳ đại hội Đảng ta luôn
xác định: Cơng nghiệp hố là nhiệm vụ trung tâm
trong suốt thời kỳ quá độ đi lên CNXH ở nước ta.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng cộng sản n lại là một
lần nữa xác định mục tiêu của công nghiệp hoỏ, hin
L-ơng Hữu C-ờng K42

13


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
đại hố là: “xã hội nước ta thành một nước cơng
nghiệp có cơ sở vật chất – kỹ thuật hiện đại, cơ
cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất,

đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an
ninh vững chắc,dân giàu, nước mạmh, xã hội công
bằng dân chủ,văn minh. Từ nay đến năm 2002, ra sức
phấn đấu đưa nước ta có bản trở thành một nước cơng
nghiệp”. Song song với q trình cơng nghiệp hố,
hiện đại hố chúng ta phải thúc đẩy sự phân công
lao động một cách phù hợp. Cơng nghiệp hố, hiện
đại hố sẽ làm thay đổi cơ cấu ngành nghề thì nó
kéo theo nó sự phân cơng lao động cũng sẽ thay đổi.
Chúng ta biết, mục tiêu của Đảng trong cơng cuộc
cơng nghiệp hố, hiện đại hố là tăng tỷ trọng (tỷ
lệ) ngành công nghiệp và dịch vụ lên, giảm tỷ lệ
ngành công nghiệp xuống, nông nghiệp trở nên chuyên
canh hơn và sẽ được cơ giới hoá. Vì vậy, nơng
nghiệp trở nên chun canh hơn và sẽ được cơ giới
hố. Vì vậy, lao động trong các ngành cơng nghiệp
và dịch vụ tăng lên, cịn lao động trong các ngành
nông nghiệp sẽ giảm xuống. Việc phân công lại lao
động cùng với q trình cơng nghiệp hố, hiện đại
hố sẽ giúp chúng ta có một cơ cấu lao động thích
hợp, điều này sẽ góp phần đẩy nhanh hơn nữu quá
trình phát triển nền kinh tế đất nước.
3. Phát triển đồng bộ các loại thị trường.
Trong kinh tế thị trường, yếu tố được xem xét
đầu tiên đó là thị trường. Vì vậy, để phát triển
kinh tế thị trường thì phải phát triển đầy đủ và
đồng bộ các loại thị trường, đó là các thị trường
hàng hố tiêu dùng và dịch vụ, thị trường các yếu
tố sản xuất, thị trường trong nước, thị trường quốc
tế, Thị trường sức lao động, Thị trường vốn, tiền

tệ, tài chính, Thị trường bất động sản và nên ưu
tiên cho Thị trường ở khu vực nông nghiệp nông thôn
cũng như các Thị trường trọng điểm.
Trong việc phát triển đồng bộ các loại Thị
trường thì một số vấn đề quan trọng là thực hiện sự
cân bằng giữa các loại Thị trường. Rõ ràng sự cân
bằng chung giữa các loại Thị trường là yêu cầu tất
yếu trong quá trỡnh phỏt trin Th trng. Nú cho

L-ơng Hữu C-ờng K42

14


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
phép xác lập mốt quan hệ cân đối giữa sản xuất và
tiêu dùng, giữa cung và cầu, giữa hàng và tiền. Để
tạo lập sự cân bằng giữa các loại Thị trường cần
giải quyết các vấn đề cơ bản sau:
Thứ nhất: cần xoá bỏ chế độ bao cấp trong phân
phối sử dụng các yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu
dùng, dịch vụ chuyển chúng sang quan hệ hàng hố tiền tệ một cách hồn tồn. Điều này có nghĩa là
tồn bộ nhân tố sản xuất, vật phẩm tiêu dùng dịch
vụ đề được mua và bán trên Thị trường một cách tự
do. Hiện nay ở nước ta, về cơ bản các yếu tố sản
xuất và vật phẩm tiêu dùng đã là hàng hoá. Tuy
nhiên một số yếu tố sản xuất và vật phẩm tiêu dùng,
dịch vụ, cịn chưa được tính đúng, tính đủ giá trị
của nó, đặc biệt là yếu tó đất đai.
Thứ hai: phải tuân thủ nguyên tắc tự do giá cả.

Giá cả không thể áp đặt bằng mệnh lệnh hành chính,
mà nó được hình thành trên cơ sở thoả thuận giữa
người mua và người bán. Đồng thời với tuân thủ
nguyên tắc tự do giá cả thì phải bảo đảm sự ổn giá
cả, muốn vậy phải đẩy mạnh sự phát triển sản xuất,
tạo ra nguồn hàng dồi dào, phong phú; đồng thời,
Nhà nước phải có lực lượng hàng hố dự trữ và có
biện pháp ổn định tiền tệ.
Thứ ba: phát triển Thị trường ngoài nước, đẩy
mạnh hoạt động ngoại thương. Sẽ là sai lầm nếu muốn
phát triển Thị trường “đầu ra”, “đầu vào”, muốn đảm
bảo sự cân bằng giữa các Thị trường mà không chú ý,
đầy đủ tới Thị trường nước ngồi, khơng chú ý tới
ngoại thương. Đặc biệt trong điều kiện phát triển
mạnh mẽ của lực lượng sản xuất, khoa học kỹ thuật
và thông tin, hội nhập với nền kinh tế thế giới và
khu vực, Thị trường ngồi nước càng có ý nghĩa quan
trọng để phát triển kinh tế Thị trường ở nước ta.
Để phát triển Thị trường ngoài nước, tạo điều
kiện mở rộng Thị trường trong nước, đảm bảo sự
thông suốt giữa các Thị trường, cần thiết phải thực
hiện các nguyên tắc sau đây:
Một là, phải thực hiện xuất siêu, tức là phải
bán ra một số hàng lớn hơn số hàng ta mua vào, và
hàng xuất ra phải là thành phẩm chứ không phi l
L-ơng Hữu C-ờng K42

15



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
nguyên liệu. Phải là ý khuyến khích phát triển nơng
nghiệp, cơng nghiệp tiểu thủ, cơng nghiệp chế biến,
đảm bảo tiêu chuẩn quốc tế để thu được giá trị cao
của hàng xuất khẩu. Thực hiện thương nghiệp trung
gian, cho phép mang tiền (vàng, đô la và tiền mạnh)
đi lại tự do qua biên giới để buôn bán ở các nước
nhằm làm tăng nguồn tiền tệ của đất nước. Có chính
sách bảo hộ hợp lý để khuyến khích các ngành kinh
tế phát triển, thu hút cơng nghệ và khoa học kỹ
thuật từ bên ngoài, ngăn chặn nhập những loại hàng
hố mà trong nước có thể sản xuất và đáp ứng được
nhu cầu tiêu dùng.
Hai là, áp dụng nguyên lý lợi thế so sánh trong
quan hệ trao đổi quốc tế. Các yếu tố tự nhiên thuận
lợi phải được xem xét cụ thể trong mối quan hệ với
các yếu tố kinh tế – xã hội và kỹ thuật ở cả trong
nước và ngồi nước từ đó có phương án tính tốn chi
tiết về từng mặt hàng và so sánh với trình độ quốc
tế để xác định sản xuất và cung cấp cho Thị trường
thế giới loại hàng hoá nào đó của nước ta lợi thế
hơn.
4. Xây dựng, hồn thiện hệ thống luật pháp và cải
cách nền hành chính quốc gia.
Nền kinh tế Thị trường chỉ có thể hoạt động
bình thường nếu có hệ thống luật pháp tương đối
hồn chỉnh và ngày càng được hoàn thiện. Trong điều
kiện nước ta, vấn đề này đang đặt ra rất cấp bách.
Những năm đổi mớ, Nhà nước ta đã từng bước tập
trung xây dựng hệ thống luật pháp. Tuy nhiên, đến

nay hệ thống luật pháp vẫn còn thiếu và chưa đồng
bộ.
Trong những năm tới, việc xây dựng hệ thống
luật pháp đồng bộ và hồn chỉnh có thể được coi như
là một nhiệm vụ ưu tiên mà đất nước phải đầu tư.
Đồng thời cần thiết phải đẩy mạnh cải cách nền
hành chính quốc gia theo hướng đoạn tuyệt với cơ
chế bao cấp, thay thế bộ máy quản lý theo cơ chế
tập chung, chuyển sang quản lý thưo phương thức
công nghiệp và cơ chế Thị trường để đảm bảo sự phù
hợp và tạo điều kiện cho việc tiếp tục đổi mới kinh
tế ở nước ta.

L-¬ng H÷u C-êng K42

16


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
5. Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trị quản lý vĩ
mơ của Nhà nước.
Để nền kinh tế phát triển theo định hướng xã
hội chủ nghĩa, nhất thiết phải coi trọng vai trò
quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Trong những năm đổi mới kinh tế vừa qua, ta đã
đổi mới một bước vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước
đối với nền kinh tế, chuyển từ quản lý theo kế
hoạch hoá tập chung sang sử dụng các cơng cụ chính
sách kinh tế vĩ mô để quản lý nền kinh tế. Những
thành tựu trong mười năm đổi mới vừa qua về lĩnh

vực này mới bước đầu, trong những năm tới, đặc biệt
trong xu thế hội nhập với nền kinh tế thế giới và
khu vực, cần thiết phải tiếp tục đổi mới các cơng
cụ chính sách vĩ mơ, đặc biệt là hệ thống tài
chính, tín dụng, lưu thơng, chính sách phân phối
thu thập và kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội.
Việc đổi mới này vừa phải theo nguyên tắc phù hợp
với phương thức quản lý của nền kinh tế Thị trường,
đồng thời, đảm bảo cho nền kinh tế phát triển theo
định hướng mà Đảng ta đã lựa chọn.
Do vai trị có tính quyết định tới việc thực
hiện nền kinh tế Thị trường theo định hướng xã hội
chủ nghĩa nên vai trò điều hành của Nhà nước là hết
sức to lớn, muốn vậy, Nhà nước phải thực hiện các
biện pháp sau:
+ Nhà nước thiết lập pháp chế cụ thể về quyển
sở hữu, về sự phân bố đất đai, về tài nguyên thiên
nhiên, về phát triển kết cấu hạ tầng tạo yếu tố
quan trọng để hình thành kinh tế Thị trường. Để
khắc phục mặt tiêu cực của kinh tế Thị trường các
tác động đến đời sống xã hội, Nhà nước cần đề ra
những chính sách chống khủng hoảng, chính sách xã
hội, chính sách về mơi trường sinh thái nhằm hạn
chế bớt tính tự phát của kinh tế Thị trường, đưa
hoạt động của nó vào khn khổ. Nhà nước còn đề ra
những chuẩn mực đạo lý và quản lý nhằm
bảo đảm
thực hiện có hiệu quả các chính sách kinh tế, cung
cấp thơng tin và tạo điều kiện để bảo đảm cho tính
tự chủ của hoạt động kinh doanh c thc hin.


L-ơng Hữu C-ờng K42

17


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
+ Cần nhận thức rằng tự do kinh doanh trong
kinh tế Thị trường nhất là trong kinh tế Thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Khơng phải là
“thả nổi” muốn làm gì cũng được, mà nhất thiết phải
có sự điều hành của Nhà nước. Về mặt đạo đức, cũng
không được phép giưa tự do với tình trạng “thả nổi”
lộn xộn, bất chấp luân thường đạo lý, tự do trong
kinh tế Thị trường không phải tranh giành, cướp
giật, tàn tệ với công nhân, không chăm lo đến đời
sống của người nghèo.
+ “Mở cửa” phải giữ vững chủ quyền độc lập dân
tộc. Các nước và tư bản nước ngồi đầu tư vào nước
ta nhằm tìm kiếm lợi nhuận, nhưng phải theo nguyên
tắc hai bên cùng có lợi. Nhà nước phải biết cách
quản lý và kiểm soát để thực hiện tốt nguyên tắc
này. Nừu sùng bái hàng ngoại chỉ dùng hàng ngoại
thì khơng thể bảo vệ được nền độc lập, phải bảo đảm
tính hợp lý và hiệu quả giữa xuất khẩu và nhập khẩ,
độc lập về chính trị phải dựa trên cơ sở thực tế về
kinh tế. Nghèo khổ thì khơng có độc lập thật sự.
Kinh tế Thị trường có thể làm cho đất nước thịnh
vượng nhưng sự thịnh vượng ấy phải trên nền tảng
của độc lập dân tộc và cơng bằng xã hội. Chính vì

thế Nhà nước phải định ra những quy tắc nhất định
để quản lý nền kinh tế Thị trường theo định hướng
xã hội chủ nghĩa.
+ Nhà nước phải có định hướng vĩ mơ phát triển
nền kinh tế bằng các kế
hoạch, các dự án phát
triển các ngành và các vùng. ý nghĩa quan trọng của
định hướng vĩ mô không chỉ nhằm vào phát triển kinh
tế và cải thiện đời sống, mà nó cịn chủ động hướng
việc sắp xếp đầu tư để phát triển các ngành và các
vùng. Bảo đảm hình thành cơ cấu kinh tế theo hướng
hiện đại hoá đất nước. Các kế hoạch và dự án phải
đảm bảo định hướng đúng đắn cho sự phát triển của
cả nền kinh tế và của các xí nghiệp, vạch ra phương
hướng phù hợp với yêu cầu phát triển dài hạn của
đất nước.
+ Về vai trò điều tiết của Nhà nước tuy có
nhiều vấn đề đang cịn tranh luận, nhưng trên thực
tế thì nó đã được khẳng định. Thiếu sự can thiệp
hợp lý của Nhà nước là iu chnh v duy trỡ mi
L-ơng Hữu C-ờng K42

18


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
quan hệ làm ăn giữa các đơn vị kinh tế thông qua
các hợp đồng dài hạn, nhưng chuẩn mực quản lý được
thể chế hoá và những thể chế Thị trường.
+ Nhà nước cần phải có chính sách về giá cả, về

ngân sách, về thuế, về tín dụng và chính sách phát
triển các ngành, các lĩnh vực. Nhà nước ban hành
luật lao động, luật môi trường, đơn đặt hàng, hợp
đồng Nhà nước, cấp vốn cho các chương trình Nhà
nước về soạn thảo và áp dụng cơng nghệ mới, tạo cơ
chế khuyến khích đặc biệt phát triển khoa học – kỹ
thuật, tài trợ một phần kinh phí cho các chương
trình khoa học của các xí nghiệp hoạt động theo
hướng trọng điểm của Nhà nước.
Vai trò Nhà nước cành lớn trong việc tạo ra
những điều kiện chung cho hoạt động kinh doanh của
các doanh nghiệp, của hệ thống tín dụng, tiền tệ,
tài chính. Nhà nước bảo đảm mơi trường cạnh tranh
lành mạnh, thúc đẩy cải tổ cơ cấu kinh tế, xác lập
và củng cố vị trí của quốc gia trên trường quốc tế,
giảm nhẹ dần mức độ gay cấn của của vấn đề xã hội.
+ Nhà nước có vai trị quan trọng đối với hoạt
động của xí nghiệp, như: quy định quy cách phẩm
chất hàng hoá để bảo vệ người tiêu dùng chống hàng
giả và hàng kém phẩm chất, chống tệ độc quyền để
đầu cơ trục lợi. Đối với một số ngành mà Nhà nước
không cần thiết độc quyền, song cần phát triển thì
có thể giao cho một số xí nghiệp hợp tác hoặc tư
nhân thực hiện, thơng qua trợ cấp vốn hoặc cung
cấp, bao tiêu phẩm, dưới hình thức Nhà nước ký hợp
đồng giao cho xí nghiệp hoặc tư nhân thực hiện một
số nhiệm vụ nhất định.
+ Nhà nước cịn phải thực hiện kiểm sốt nền
kinh tế qua chế độ kế tốn và pháp luật. Xí nghiệp
có luật sư tư vấn và thực hiện chế độ kế tốn Nhà

nước. Nừu khơng chấp hành nghiêm chế độ này, Nhà
nước sẽ khơng kiểm sốt được các hoạt động kinh
doanh, để sảy ra tình trạng đầu cơ bn lậu, gây
khó khăn cho việc thu thuế. Vì thế cần áp dụng quy
chế, pháp lý thống nhất, chế độ kế toán thống nhất,
luật thuế và luật thương mại thống nhất cho các xớ
nghip.

L-ơng Hữu C-ờng K42

19


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
Để đảm bảo thực hiện các chức năng trên đây cần
có các phương tiện điều tiết kinh tế được pháp luật
hoá, phân định rõ chức năng, quyền hạn của mỗi cấp,
tập trung cao đối với q trình thơng qua cá quyết
định với sự tham gia của các chun gia có trình độ
và bộ máy thơng tin: thực hiện nền “kinh tế pháp
trị ”. Đồng thời, Nhà nước cần kiên quyết giữ
nghiêm phép nước, xử lý nghiêm minh đối với kẻ phạm
pháp, lạm dụng quyền hạn, triệt để chống “kinh tế
quyền lực” tức là xoá bỏ việc lạm dụng quyền lực,
tệ móc ngoặc, ơ dù... chỉ có như vậy mới kiểm sốt
được nền kinh tế, đưa nền kinh tế phát triển theo
con đường định hướng xã hội chủ nghĩa: dân phải
giàu, nước phải mạnh.
6. Phát triển
hệ thống giáo dục - đào tạo, phát

triển tiềm lực khoa học công nghệ và xây dựng kết
cấu hạ tầng.
Một nước cơng nghiệp phát triển phải là một
nước có trình độ dân trí cao, có hệ thống giáo dục
phát triển, có như vậy mới có thể nắm bắt được sự
tiến bộ của khoa học kỹ thuật, mới có thể làm chủ
được những cơng nghệ hiện đại. Vì vậy, cùng với q
trình cơng nghiệp hố - hiện đại hố đất nước Nhà
nước cần phải phát triển hệ thống giáo dục, và có
thể áp dụng theo cách của Trung Quốc là gửi các học
sinh ưu tú sang các nước phát triển để nhanh chóng
tiếp thu những tiến bộ của nước bạn về áp dụng cho
nước mình. Đồng thời, đẩy mạnh việc nâng cấp trình
độ cho nhân dân trong nước để họ có đủ khả năng làm
chủ một nước công nghiệp vào năm 2020 như mục tiêu
phấn đấu của cả nước.
7. Ngoài các giải
dụng một số kinh
trường ở các nước
phát triển kinh tế

pháp trên. Chúng ta có thể vận
nghiệm phát triển kinh tế thị
ASEAN mà chủ yếu là chiến lược
thị trường hướng ngoại.

Các nước ASEAN chấp thận chiến lược này với
các tên gọi khác nhau – “chương trình xây dựng xã
hội ” ở Philippines, “xây dựng trật tự mới” ở
Indonesea và “chính sách kinh tế mới” ở Malaysea

vv... Nhưng nội dung cơ bản vẫn là khuyến khích tư
bản tư nhân phát triển trên cơ s thc hin cỏc

L-ơng Hữu C-ờng K42

20


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
chính sách mở cửa nhằm sử dụng tốt mọi tiềm năng
đất đai và lực lượng lao động trong nước cũng như
tăng cường thu hút vốn và kỹ thuật nước ngồi để
nhanh chóng phát triển các ngành công nghiệp xuất
khẩu nông nghiệp và dịch vụ. Sau đây là 6 biện pháp
cơ bản mà các nước ASEAN đã thực hiện, đó là:Thay
đổi chính sách xuất khẩu và tỷ trọng các mặt hàng
xuất khẩu trong ngoại thương. Điểm nổi bật trong
lĩnh vực này là kết hợp xuất khẩu sản phẩm nông
nghiệp truyền thống, sản phẩm sử dụng nhiều lao
động với sản phẩm có hàm lượng kỹ thuật cao. Nhờ đó
làm thay đổi cơ cấu nơng – cơng nghiệp hố, góp
phần thay đổi cán cân thương mại từ nhập siêu sang
suất siêu.
- Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Với chủ trương
lấy hoạt động kinh tế đối ngoại làm đòn đẩy phát
triển kinh tế thị trường mở cửa, các nước đều cố
tạo môi trường thuận lợi để thu hút những khoản đầu
tư lớn từ nước ngoài.
- Huy động tối đa và sử dụng có hiệu qủa nguồn
vốn trong nước. Tong lĩnh vực này, huy động tiết

kiệm trong nước là mục tiêu hàng đầu.
- Điều tiết hợp lý thu nhập nhằm mục đích cơng
bằng xã hội, chống đói nghèo.
- Bảo đảm nguồn thông lực thông qua hệ thống
giáo dục đào tạo, bảo đảm y tế, nâng cao trình độ
văn hố cho người lao động.
- Đẩy mạnh các hoạt động điều tiết vĩ mô của
Nhà nước trên cơ sở tôn trọng các quy luật của thị
trường.
Đối với Việt Nam, có những nét tương đồng và
khác biệt với các nước trong khối ASEAN. Chúng ta
nên vận dụng một cách có chọn lọc các biện pháp
trên, mà cụ thể là:
- Vận dụng mô hình phát triển rút ngắn kinh tế
thị trường hiện đại, chú trọng phát triển đồng thời
thị trường nội địa và th trng quc t.

L-ơng Hữu C-ờng K42

21


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí
- Tăng cường sử dụng các công cụ điều tiết vĩ
mô nền kinh tế quốc dân, đặc biệt là chính sách tài
chính, tiền tệ.
- Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá xuất khẩu, thu hút
vốn đầu tư, kỹ thuật tiên tiến và kinh nghiệm quản
lý nước ngồi.
- Nâng cao vai trị điều tiết vĩ mơ của Nhà nước

trên cơ sở tôn trọng các quy luật kinh tế thị
trường.
- Tích cực cải tạo hệ thống giáo dục và bảo đảm
y tế cho người lao động. Tăng cường các biện pháp
xố đói giảm nghèo, bảo vệ mơi trường và sinh thái
trong cả nước.
- Phát triển mạnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa
Việt Nam với các nước ASEAN và khu vực trên bước
chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Cuối cùng, cần khẳng định, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Nhà nước ta, các lơị thế tiềm năng của nền
kinh tế Việt Nam về lao động, về tài nguyên thên
nhiên, về vị trí địa lý trong khu vực sẽ được kết
hợp hài hoà, sẽ được phát huy một cách cao độ, đưa
nền kinh tế thị trường Việt Nam tiến nhanh, sánh
kịp với các nước có nền cơng nghiệp hiện đại như
NICS Châu á và ASEAN.

L-ơng Hữu C-ờng K42

22


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

C. kết luận
Việt phát triển nền kinh tế hàng hoá, kkt thị
trường ở nước ta cho đến bây giờ có thể nói là một
sự tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát

triển cuả kinh tế. Điều này đã được Đảng, Nhà nước
khẳng định qua các văn kiện đại hội VI, VII, VIII
và đến Đại hội Đảng IX vẫn khẳng định nước ta phát
triển theo nền kinh tế hàng hoá,

kinh tế thị

trường nhưng theo định hướng xã hội chủ nghĩa và có
sự quản lý của Nhà nước.
Và thực tế của hơn 10 năm đổi mới đất nướcd
cũng cho thấy chúng ta đổi mới cơ chế, phát triển
nền kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn, điều
đó có thể thấy qua việc tăng trưởng GDP hàng năm,
qua thu nhập của người dân này càng tăng, qua việc
chúng ta từ một nước nhập siêu sang xuất siêu ở một
số mặt hàng. Đời sống nhân dân được cải thiện, đất
nước phát triển ổn định. Đó chính là điều mà trước
đây khi đổi mới chúng ta hướng tới và ngày nay vẫn
tiếp tục hướng tới. Việc phát triển nền kinh tế
theo định hướng xã hội chủ nghĩa sẽ đem lại cho
nước ta nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức.
Song với sự lãnh đạo của Đảng, sẽ sớm đưa được đất
nước thành một nước công nghiệp, rút ngắn được thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

L-¬ng H÷u C-êng K42

23



Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình kinh tế chính trị Mác – Lênin
(Tập II) của Trường Đại học Kinh tế Quốc dân Hà
Nội.
2. Các văn kiện Đại hội Đảng VII, VIII.
3. Các tạp chí.
+ Thơng tin khoa học xã hội số 174 tháng
6/1997.
+ Nghiên cứu – trao đổi số 18 tháng 9/98.
+ Phát triển kinh tế số 86 tháng 12/97.
+ Thông tin xã luận tháng 9/97.
+ Triết học số 4 tháng 8/99.
+ Tạp chí tài chính tháng 3/96.
+

Thơng tin liên lạc tháng 1/95.

4. Văn kiện hội nghị lần thứ 3 ban chấp hành
Trung ương (khoá VI).

L-ơng Hữu C-ờng K42

24


Ket-noi.com kho tài liệu miễn phí

Mục lục

Trang
A.

Mở đầu

1

B.

Nội dung

2

I.

Nguyên nhân nước ta phải phát triển kinh tế
thị trường và đặc điểm kinh tế thị trường xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

2

1.

Khẳng định việc chuyển từ nền kinh tế kế
hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị
trường là tất yếu, khách quan.

2

2.


Đặc điểm kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

6

II
.

Các giải pháp để phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt
Nam.

11

1.

Đa dạng hố - đổi mới các loại hình sở hữu.

11

2.

Đẩy mạnh cơng nghiệp hố - hiện đại hố.

13

3.

Phát triển đồng bộ các loại thị trường.


14

4.

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật.

16

5.

Đổi mới – nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của
Nhà nước.

16

6.

Phát triển hệ thống giáo dục - đào tạo, phát
triển tiềm lực KH – CN và xây dựng kết cấu
hạ tầng.

20

7.

Một số kinh nghiệm của các nc ASEAN

20


C.

Kt lun

23

Ti liu tham kho

24

L-ơng Hữu C-ờng K42

25


×