Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tiểu luận: Tư tưởng biện chứng trong triết học Hêraclit

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (147.85 KB, 22 trang )

Tiểu luận môn Triết học

MỞ ĐẦU
Phép biện chứng là học thuyết về biện chứng của thế giới. Với tư cách là
học thuyết triết học, phép biện chứng khái quát những mối liên hệ phổ biến và
những quy luật chung nhất của mọi quá trình vận động, phát triển của các sự vật,
hiện tượng trong tự nhiên, xã hội và tư duy; từ đó xây dựng các nguyên tắc
phương pháp luận chung cho các quá trình nhận thức và thực tiễn. Phép biện
chứng là mảng vấn đề có ý nghĩa và vị trí quan trọng trong triết học. Lịch sử
phép biện chứng hình thành và phát triển từ khi triết học ra đời, mà đỉnh cao của
nó là phép biện chứng mácxít.
Nghiên cứu lịch sử phép biện chứng khơng thể bỏ qua những tư tưởng biện
chứng sơ khai thời cổ đại. Như ở trong cùng một dòng chảy, những thành tựu
phép biện chứng mà chúng ta có được ngày nay là kết quả tất yếu của sự phát
triển tư tưởng biện chứng liên tục từ thời cổ đại qua thời phục hưng, cho đến
thời cận đại.
Thời kỳ ra đời của triết học cổ đại và những tư tưởng biện chứng sơ khai
gắn liền với sự ra đời của các nhà nước chiếm hữu nô lệ trong lịch sử, khi xã hội
đã có sự phân hố giai cấp rõ rệt, khi lao động chân tay và lao động trí óc tách
rời nhau. Ở Phương Tây, những tư tưởng biện chứng sơ khai thời cổ đại gắn liền
với cái nôi triết học Hy Lạp cổ đại. Nghiên cứu tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ
đại cho phép chúng ta khẳng định rằng: Sự ra đời và phát triển của phép biện
chứng duy vật là sự nối tiếp hợp lơgíc của tư tưởng biện chứng từ thời cổ đại.
Cũng như các cái nôi triết học khác trên thế giới thì ở Hy Lạp cổ đại,
những tư tưởng biện chứng được hình thành từ rất sớm, song đã có sự phát triển
mạnh mẽ. Do điều kiện kinh tế - xã hội phát triển mạnh mẽ, văn hoá của người
Hy Lạp cổ đại lại phát triển hết sức rực rỡ nên triết học và những tư tưởng biện
chứng có mảnh đất màu mỡ để sinh sơi nảy nở.
Nói đến tư tưởng biện chứng ở Hy Lạp cổ đại, thì khơng thể khơng nói
đến nhân vật Hêraclít - nhà triết học đã được V.I. Lênin đánh giá là nhà biện
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH



Trang 1


Tiểu luận môn Triết học

chứng đầu tiên trong lịch sử. Chính vì vậy, tơi chọn đề tài: “Tư tưởng biện
chứng trong triết học Hêraclit” làm tên đề tài cho bài tiểu luận của mình. Mặc
dù đã có sự cố gắng, song không tránh khỏi những hạn chế nhất định, kinh mong
cơ giáo và các bạn góp ý để bài tiểu luận được hồn thiện hơn.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 2


Tiểu luận môn Triết học

Chương 1
TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI

1. Bối cảnh lịch sử ra đời tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại là nền triết học được hình thành vào khoảng thế kỷ
VI trước cơng ngun đến thế kỷ VI tại Hy Lạp. Triết học Hy Lạp cổ đại được
xem là thành tựu rực rỡ của văn minh phương tây, tạo nên cơ sở xuất phát của
triết học châu Âu sau này.
Triết học ra đời khi chế độ chiếm hữu nô lệ được xác lập trên cơ sở phát
triển của kinh tế nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp. Sự phát triển
kinh tế thúc đẩy sự ra đời, phát triển của khoa học và triết học. Cùng với sự hình
thành và phổ biến của chế độ chiếm hữu nô lệ là sự xuất hiện của các công cụ

bằng sắt.
Về mặt kinh tế, ngay từ khi xuất hiện những cơng cụ bằng sắt thích hợp với
vùng đất Hy Lạp khô cằn và không thuận lợi cho việc tưới tiêu so với người Ai
Cập và người Sume người Babilon cổ đại. Cuộc sống hoàn toàn phụ thuộc vào
mức lên xuống của sông Nin, sông Ti-gơ-rơ và sông Ơ-phơ-rát các công cụ bằng
sắt đã đem lại cho con người Hy Lạp cổ đại một uy quyền đối với tự nhiên to
lớn hơn nhiều. Đó là một trong các nhân tố quan trọng giúp cho người Hy Lạp
thoát khỏi kinh tế tự nhiên để tham gia vào các quan hệ vật chất. Sự phát triển
của công thương nghiệp đã tạo ra một tầng lớp chủ nô mới. Tầng lớp giàu có
vốn khơng phải chủ nơ mới này ngày càng khẳng định được địa vị của mình
trong các nhà nước thành thị Hy Lạp. Việc của cải, nô lệ nắm trong tay tầng lớp
chủ nô mới này đã thúc đẩy chế độ tư hữu tài sản phát triển nhanh chóng. Việc
sử dụng các công cụ bằng sắt trong sản xuất thủ cơng nghiệp đã khiến cho thủ
cơng nghiệp thốt khỏi sản xuất nông nghiệp. Nghề thủ công phát triển cao trên
quy mô lớn ở các thành phố Hy Lạp cổ đại. Giữa thành phố và nơng thơn có một
sự đối lập gay gắt.
Về mặt xã hội: Nhà nước Hy Lạp xuất hiện dưới hình thức các quốc gia thị
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 3


Tiểu luận môn Triết học

thành (thành bang); xã hội phân chia thành hai giai cấp đối lập là chủ nô và nô
lệ. Cuộc đấu tranh giai cấp trong xã hội ảnh hưởng đến sự phát triển của các
khuynh hướng triết học.
Triết học Hy Lạp cùng với những thành tựu của nó có vai trị vơ cùng quan
trọng đối với Châu Âu nói riêng và nhân loại nói chung. Hy Lạp là quê hương
của các triết gia lớn với những tư tưởng vĩ đại. Từ Talét, triết học đã ra đời và

thay thế thần thoại cùng tôn giáo nguyên thuỷ, đồng thời thâu tóm các tri thức
khoa học vào một hệ thống mang tính khái quát hơn. Triết học Hy Lạp cũng đã
phản ánh các cuộc đấu tranh giai cấp, phản ánh những tư tưởng trong xã hội lúc
bấy giờ mà tiêu biểu là cuộc đấu tranh giữa hai trường phái duy vật và duy tâm.
Sự xuất hiện của triết học mặc dù chưa thể chấm dứt ngay những ràng buộc với
thần thoại nhưng nó đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong lịch sử nhận thức của
người Hy Lạp cổ đại sang thế giới quan triết học.
2. Đặc điểm của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại
Triết học Hy Lạp cổ đại là ngon cờ lý luận của giai cấp chủ nô, ngay từ đầu
đã mang tinh giai cấp sâu sắc. Về thực chất, là thế giới quan,ý thức hệ của giai
cấp chủ nô thống trị, là cơng cụ lý luận để duy trì và bảo vệ trật tự xã hội đương
thời, phục vụ cho giai cấp chủ nô.
Triết học Hy Lạp cổ đại gắn chặt với khoa học tự nhiên, lấy giới tự nhiên
làm đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, nó thuộc loại hình triết học tự nhiên, nhà triết
học đồng thời là nhà khoa học tự nhiên; muốn hiểu biết sâu sắc nền triết học này
cần phải có tri thức khoa học tự nhiên vững chắc.
Thế giới quan bao trùm triết học Hy Lạp cổ đại là duy vật và vô thần. Triết
học duy tâm và cuộc đấu tranh của họ chống lại triết học duy vật thường diễn ra,
song chủ nghĩa duy vật và thế giới quan vô thần luôn chiếm ưu thế; nó là vũ khí
lý luận cần cho giai cấp chủ nô chống lại những thế lực chống đối, những điều
mê tín, dị đoan và những điều vơ lý trong thần thoại.
Phép biện chứng tự phát, ngây thơ ra đời và phát triển trong triết học Hy
lạp cổ đại cùng với chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác và thành tựu của khoa
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 4


Tiểu luận môn Triết học


học tự nhiên là đặc điểm nổi bật của lịch sử triết học Hy Lạp cổ đại. Ngay từ
đầu, sự ra đời của triết học Hy Lạp đã gắn bó chặt chẽ với thực tiễn, xuất phát từ
nhu cầu phát triển của nhận thức khoa học và kỹ thuật, gắn liền với quá trình ra
đời và phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp, chứa đựng mầm mống
của hầu hết các thế giới quan sau này.
Một là, tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại được thể hiện
trong triết học của những nhà triết học duy vật về tự nhiên, về con người và về
xã hội. Các đại biểu tiêu biểu cho tư tưởng biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại đó
là: Talét, Anaximen, Anaximenđrơ, Hêraclít, Đêmơcrít.
Hai là, đặc điểm cơ bản và xuyên suốt trong phép biện chứng Hy Lạp cổ
đại đó là tính ngây thơ, tự phát. Tự phát vì các nhà triết học Hy Lạp cổ đại
nghiên cứu tự nhiên chỉ cốt làm sao vẽ được bức tranh chung về thế giới và chỉ
ra được nguồn gốc của nó chứ khơng có chủ định nghiên cứu phép biện chứng.
Ngây thơ vì hầu hết các tư tưởng biện chứng của các nhà duy vật Hy Lạp cổ đại
đều mang tính suy luận, phỏng đốn trên cơ sở kinh nghiệm trực giác.
Ba là, trong quan điểm khởi nguyên vũ trụ của các nhà triết học Hy Lạp cổ
đại là một minh chứng cụ thể. Chẳng hạn như Talét cho thế giới có khởi nguyên
ban đầu là nước, bởi Talét thấy nước luôn hiện diện ở khắp mọi nơi. Hay như
Hêraclít quan niệm khởi nguyên là lửa, bởi ông cho rằng lửa là yếu tố năng động
nhất so với đất, nước, khơng khí, như các nhà triết học trước ơng đã khẳng định
đó là khởi ngun của thế giới. Trên cơ sở quan sát sự xung động nhịp nhàng
của ngọn lửa Hêraclít đã giải thích sự chuyển hố lửa → các sự vật, hiện tượng,
các sự vật hiện tượng → lửa. Thậm chí ngay cả với học thuyết nổi tiếng của ơng:
học thuyết về dịng chảy phổ biến. Từ sự quan sát trực cảm sự “trôi đi , chảy đi”
của dịng sơng để ơng khẳng định vận động là vĩnh cửu “khơng ai có thể tắm hai
lần trên một dịng sơng”.
Bốn là, các nhà triết học Hy lạp cổ đại còn là các nhà khoa học tự nhiên.
Do vậy quan niệm, lập trường của các nhà triết học tự nhiên mang tính duy vật.
Tuy nhiên vào thời đại của các nhà triết học cổ đại Hy Lạp thì yếu tố khoa học
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH


Trang 5


Tiểu luận môn Triết học

lại chưa phát triển để chứng minh cho các tư tưởng biện chứng của các nhà triết
học, nên phần lớn các tư tưởng biện chứng đều mang tính chất phỏng đốn, dựa
trên kinh nghiệm trực quan. Chính yếu tố khoa học của thời đại các nhà triết học
cổ đại Hy Lạp chưa phát triển, chưa phục vụ tích cực cho triết học nên đã làm
cho những tư tưởng mang đặc điểm ngây thơ.
Năm là, các tư tưởng biện chứng của các nhà triết học duy vật chứa đựng
những yếu tố thần thoại. Như Talét mặc dù xem nước là khởi nguyên của mọi
thứ, song do hạn chế của khoa học lúc bấy giờ nên ông đã viện đến thần linh khi
khơng giải thích được từ tính của nam châm và hổ phách cho rằng sở dĩ vạn vật
vận động được là nhờ các thần linh.
Thành tựu nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện ở việc nó là “ mầm
mống và đang nảy nở hầu hết tất cả các loại thế giới quan sau này”, đáng kế nhất
là sự ra đời của chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác và phép biện chứng tự
phát, ngây thơ- những hình thức đầu tiên của chủ nghĩa duy vật và phép biện
chứng trong lịch sử triết học nhân loại. Vì vậy, nó gắn chặt với tên tuổi và sự
nghiệp của các nhà triết học: Talét (khoảng 624- 547 TCN), Đêmơcơrít (khoảng
460-370 TCN), Plantơn (427-347 TCN): Arixtốt (384- 322 TCN), Êpiquya (341270 TCN),…
Tóm lại, đặc điểm cơ bản nhất của phép biện chứng duy vật Hy Lạp cổ đại
là mang tính ngây thơ, tự phát. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại chỉ muốn vẽ nên
bức tranh về thế giới mà khơng có chủ định nghiên cứu phép biện chứng, do các
nhà triết học Hy Lạp cổ đại còn là các nhà khoa học tự nhiên, nhưng khoa học
lúc bấy giờ chưa phát triển để chứng minh cho các tư tưởng biện chứng, do ảnh
hưởng của thần thoại đến nền triết học Hy Lạp cổ đại, nên phép biện chứng của
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại còn phảng phất yếu tố thần thoại.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 6


Tiểu luận môn Triết học

Chương 2
TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA HÊRACLÍT

Về tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại thì Hêraclít được xếp ở vị trí trung
tâm. Tư tưởng biện chứng trong triết học của ông được trình bày một cách khá
sâu sắc, ơng cũng là người đã đưa ra những phỏng đoán thiên tài về sự vận động
và phát triển của thế giới. Ông được xem là “một trong những nhà sáng lập ra
phép biện chứng”.
1. Nội dung tư tưởng biện chứng của Hêraclit
1.1. Quan niệm của Hêraclít về khởi ngun của vũ trụ
Tìm kiếm bản nguyên đầu tiên của vũ trụ, luận giải bản nguyên đó về
phương diện bản thể luận và gắn nó với một hay vài dạng tồn tại cụ thể của vật
chất dưới dạng trực quan cảm tính, đó là một trong những đặc trưng làm nên
tính độc đáo của triết học Hy Lạp cổ đại. Hêraclít khẳng định: “Thế giới là một
chỉnh thể bao gồm mọi vật, không do một thần thánh nào tạo ra, mà đã, đang và
sẽ là một ngọn lửa cháy vĩnh viễn sống, bùng cháy và tắt đi theo những quy
luật” [1, tr.371].
Như vậy, vũ trụ xét về tổng thể, theo Hêraclít là cái đơn (duy nhất), nhưng
cái đơn đó phải là tổng thể của sự thống nhất của các vật thể và không thể thiếu
một khởi nguyên thống nhất và chung cho mọi vật thể và khởi ngun đó chính
là lửa. Với quan điểm duy vật Hêraclít cũng cho rằng trong vũ trụ những sự vật,
hiện tượng nội tại tự nó biến đổi đa dạng, vận động chuyển hố, biến đổi sang

những hình thức, mức độ khác nhau mà có cơ sở của chúng là ngọn lửa.
Hêraclít đã lấy lửa là cơ sở độc nhất, phổ biến của mọi hiện tượng tự
nhiên, lửa là nguồn gốc vật chất đầu tiên của chúng và ông đã dùng sự biến đổi
của lửa để giải thích như là sự biến đổi bản chất của mọi hiện tượng tự nhiên.
Ông cho rằng: “Tất cả được trao đổi với lửa, và lửa trao đổi với tất cả, giống như
hàng hoá đối với vàng và vàng đối với hàng hoá” [4, tr.10]. Rõ ràng, ngay từ đầu
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 7


Tiểu luận môn Triết học

khi cho khởi nguyên của vũ trụ là lửa, Hêraclít đã cố gắng xác lập mối liên hệ
các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ qua cơ sở là ngọn lửa. Hêraclít cũng đã nói
lên tính thống nhất của vũ trụ là ở ngọn lửa sống bất diệt, vĩnh hằng nhưng cũng
luôn bùng cháy và lụi tàn trong những khoảnh khắc.
1.2. Về khái niệm logos của Hêraclít
Cùng với quan niệm độc đáo về lửa, khái niệm Logos đã trở thành tâm
điểm trong thế giới quan của Hêraclit, thành hạt nhân trung tâm trong phép biện
chứng của ông” [2, tr.32]. Trong hệ thống triết học của Hêraclít, Logos được coi
là một khái niệm khó hiểu nhất. Tuy nhiên, với câu hỏi đặt ra, vậy Logos trong
quan niệm của Hêraclít có nghĩa là gì? Đây là một vấn đề thu hút sự quan tâm
của nhiều nhà triết học trên thế giới.
Logos là một khái niệm có trước Hêraclít là một khái niệm đa nghĩa.
Trong tiếng Hy Lạp cổ Logos có nghĩa là từ ngữ, là tư tưởng. Với nghĩa là, tư
tưởng, Logos được thể hiện trong từ ngữ. Logos được hiểu theo nghĩa nào là tùy
thuộc vào văn cảnh của ngơn ngữ. Hêraclít đã biến khái niệm này thành trung
tâm trong triết học của ông. Logos trong hệ thống triết học của Hêraclít vẫn là
một khái niệm đa nghĩa.

Trong triết học của Hêraclít khi quan niệm lửa là khởi nguyên đầu tiên, là
cơ sở của vạn vật thế giới, lửa sẽ phán xét tất cả. “Ngọn lửa” có một quy luật nội
tại của nó, đó là Logos. Và như vậy, mối quan hệ Logos và lửa có thể xem là
mối quan hệ giữa bản chất và hiện tượng. Logos là quy luật biến đổi phổ biến
của vạn vật trong vũ trụ, ơng viết: “sự chuyển hóa của lửa là: đầu tiên thành
biển, một nửa biển thành đất, nửa cịn lại thành gió xốy… Đất lại hóa thành
biển và tuân theo Logos mà trước kia biển hóa thành đất đã tuân theo” [2, tr.35].
Logos trong quan niệm của Hêraclít là quy luật bất biến vĩnh hằng của vũ trụ,
ông viết rằng: “Logos là cái vĩnh viễn tồn tại…vạn vật ra đời đều dựa vào Logos
của nó” [2, tr.35]. Hêraclít cho rằng thấu hiểu của một con người đó là nhận thức
Logos, người thông thái phải là người nhận thức và việc làm phải tuân thủ theo
Logos: “tự nhiên yêu thích ẩn dấu mình”. Nhận thức và việc làm phải tuân thủ
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 8


Tiểu luận môn Triết học

theo Logos: “không phải theo tôi, mà theo Logos, thừa nhận rằng tất cả là đơn
nhất” [4, tr.11]. Logos trong quan niệm của Hêraclít cịn được hiểu như là cái
chung, cái phổ biến, ông viết “muốn nói một cách có lý cần phải giữ mình theo
cái lý (Logos), giống như thành phố được xây dựng chặt chẽ nhờ đạo luật và nó
vững bền hơn nhờ vào luật của con người được giáo dưỡng vào thời mà nó từng
bày ra bởi quyền lực của nó có sao như nó vốn muốn nói tới. Nó hịa vào tất cả,
vì thế nhất thiết phải tuân thủ cái chung, nhưng dù Logos (cái ý) là chung nhất
đa số con người sống theo như thế, một khi họ hiểu một cách tường tận luật ấy”
[4, tr.11].
Với cách hiểu như trên, thì Logos là quy luật chung nhất, phổ biến của vũ
trụ và vạn vật phải tuân theo. Trên cơ sở quan điểm này trong tư tưởng của mình

về sự thống nhất (hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập, Hêraclít đã cho rằng
“Logos là ơng hồng tạo ra sự đấu tranh và hài hòa của vạn vật trong vũ trụ.
Logos là sự đấu tranh - cái tuyệt đối vĩnh viễn và hai hòa - cái hợp nhất, cân
bằng và khắc phục một cách tương đối mặt đối lập trong đấu tranh với nhau”,
hay nói cách khác Logos là sự thống nhất của mọi cái hiện hữu.
1.3. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong quan niệm về sự thống
nhất (hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập
Nếu như ở Hy Lạp cổ đại các nhà triết học thuộc trường phái Milê và đặc
biệt là Anaximenđrơ đã có cơng đầu trong việc xây dựng những tư tưởng sơ khai
đầu tiên về sự thống nhất đấu tranh của các mặt đối lập, sự phân đôi thống nhất
của các mặt đối lập, thì Hêraclít là là người nói đến sự thống nhất và đấu tranh
của các mặt đối lập nhiều nhất. Ở Hêraclít quan điểm của ơng về sự thống nhất
(hài hòa) và đấu tranh của các mặt đối lập được thể hiện rõ ở những điểm sau.
Sự thống nhất có nghĩa là sự đồng nhất của cái đa dạng, là sự hài hòa của
các mặt đối lập “bất đồng với nhau”. Hêraclít đã nhìn nhận sự thống nhất là sự
đồng nhất của cái đa dạng. Nhưng Hêraclít cịn khác với phần đơng các nhà triết
học Hy Lạp cổ đại cịn cho rằng sự thống nhất không chỉ đơn giản là sự đồng
nhất của cái đa dạng mà trong sự thống nhất ln bao hàm trong nó các mặt đối
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 9


Tiểu luận mơn Triết học

lập “bất đồng” với nhau. Ơng viết “họ khơng hiểu cái bất đồng lại hịa hợp với
chính mình: (nó) là sự hịa hịa đối lập với (bản thân) giống như cây cung và cái
thiên cầm” [5, tr.112].
Hêraclit đã nhìn nhận sự vật thế giới hiện tượng và trong mỗi sự vật, hiện
tượng đều chứa đựng trong nó các mặt đối lập trái ngược nhau. Sự tồn tại của

các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng là khách quan và phổ biến. Tuy
nhiên, ở đây Hêraclít mới chỉ nêu ra các ví dụ từ hiện thực cuộc sống để so sánh,
minh hoạ các mặt đối lập và sự thống nhất của các mặt đối lập. Còn những khái
niệm: mặt đối lập, khái niệm đồng nhất, khái niệm mâu thuẫn thì ơng chưa đi tới
rõ ràng. Nhưng về cơ bản thì bước đầu Hêraclít đã có quan niệm đúng đắn về sự
tồn tại khách quan của các mặt đối lập trong mỗi sự vật, hiện tượng. Đây là cơ
sở đầu tiên, quan trọng cho phép ông tiến sâu hơn nữa vào khai thác, tìm hiểu
quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập.
Không chỉ cho rằng các mặt đối lập tồn tại khách quan trong mỗi sự vật,
hiện tượng, Hêraclít cịn thấy được rằng, trong sự thống nhất của các mặt đối
lập, các mặt đối lập cịn có mối quan hệ giả định lẫn nhau và khơng thể có được
nếu thiếu nhau. Chúng là điều kiện cho nhau tồn tại, sự tồn tại của mặt này phải
lấy sự tồn tại của mặt kia làm tiền đề, chúng tồn tại thông qua nhau.
Hêraclit cho rằng, mỗi sự vật, hiện tượng trong quá trình biến đổi đều trải
qua các trạng thái đối lập và chuyển thành các mặt đối lập với nó. Tất cả các sự
vật hiện tượng trong thế giới đều bao hàm những mặt trái ngược nhau, trong quá
trình biến đổi của các sự vật đều trải qua các trạng thái đối lập và chuyển hố
thành các mặt đối lập với nó. Vẫn là lối văn phong giàu hình ảnh, ơng đã làm rõ
quan điểm này của mình bằng những ví dụ: sống trở thành chết; thức trở thành
ngủ; trẻ trở thành già… nhưng cũng có thể nói ngược lại rằng: chết thành sống;
ngủ thành thức; già trở thành trẻ. Ơng nói: “cùng ở một thứ trong ta như sống và
chết; thức và ngủ; già và trẻ vì sau khi biến đổi cái này trở thành cái kia, và
ngược lại” [5, tr.119]. Vũ trụ là một sự hài hòa tuyệt đẹp của các mặt đối lập, trật
tự của sự hài hòa vũ trụ là sự thống nhất của các mặt đối lập, trong đó lúc thì
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 10


Tiểu luận mơn Triết học


mặt này, lúc thì mặt khác. Trong các mặt đối lập sẽ có một mặt chiếm ưu thế
theo một chu kỳ nào đó, trong một giới hạn nào đó. Chẳng hạn như ngày và
đêm, mùa đơng và mùa hè, chiến tranh và hồ bình… theo tính chu kỳ và trong
một giới hạn sẽ có một mặt chiếm ưu thế. Mùa đông là mặt đối lập chiếm ưu thế
trong tính chu kỳ của nó sẽ cho ta một mùa đông, mùa hè chiếm ưu thế so với
mặt đối lập của nó là mùa đơng sẽ cho ta mùa hè. Tương tự như vậy trong vũ trụ
sẽ diễn ra theo chiều hướng đó. Tuy nhiên trong quan điểm này của Hêraclít
chưa đi sâu để nói rõ hơn về sự chiếm ưu thế tương đối của một trong các mặt
đối lập so với các mặt khác và sự cân bằng “căng thẳng” giữa các mặt đối lập.
Khi thiết định sự tồn tại của các sự vật, cả hai hình thức đó của sự hài hồ đều
đem lại cho chúng tính xác định, tính ổn định và tính bền vững. Nhưng sự hài
hoà của các sự vật là tương đối là nhất thời, tính xác định và tính ổn định cũng
chỉ là nhất thời tương đối, vấn đề là ở chỗ sự hài hoà sớm hay muộn sẽ bị phá
huỷ bởi cuộc đấu tranh của các mặt đối lập. Sự chiếm ưu thế của một trong các
mặt đối lập đối với các mặt khác có nghĩa là làm mất đi sự hài hoà và dẫn tới
chỗ tiêu vong của các sự vật. Ở đây, Hêraclít chỉ nói đến chuyển hố của các mặt
đối lập mang tính chu kỳ từ sự cảm nhận trực quan của mình trước cuộc sống.
1.4. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong quan điểm về nhận thức
Hêraclít được thừa nhận với tư cách là người sáng lập ra phép biện chứng
không chỉ bởi những quan niệm về vũ trụ, tính thống nhất của vũ trụ, về vận
động phổ biến, về tính thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập mà còn bởi
quan niệm độc đáo của ơng về nhận thức.
Hêraclít là ơng cho rằng người ta chỉ có thể nhận biết được cái chung, cái
phổ biến khi tìm ra được những biểu hiện đa dạng, cụ thể của nó ở các sự vật,
hiện tượng đơn nhất, cá biệt bằng cách so sánh, đối chiếu các sự vật, hiện tượng
đơn nhất cá biệt này với cái chung, cái phổ biến. Nhiều nhà triết học có tên tuổi
trong đó có những nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã coi đó là phương pháp
“đằng sau cây nhận thấy rừng” - đằng sau hiện tượng nhận thấy bản chất, còn
đằng sau bản chất nhận thấy hiện tượng. Ơng có một câu châm ngơn nổi tiếng:

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 11


Tiểu luận môn Triết học

“biết nhiều thứ chưa làm cho người ta thông minh, người thông minh phải là
người nắm được bản chất và tính tất yếu của sự vật, hiểu được cái Logos của vũ
trụ” [3, tr.46]. Ông cho rằng người biết nhiều thứ, đa tri thức của một người mà
khơng hiểu được cái Logos của vũ trụ thì nhiều lắm cũng chỉ được coi là người
hiểu biết chứ chưa phải là người thông minh, chưa phải là nhà thông thái. Biết
nhiều thứ đa tri thức, theo ông cũng chỉ là những mánh lới của nhận thức, mà
mánh lới của nhận thức thì ai cũng có, “mọi người ai cũng có khả năng nhận
thức”. Người thơng minh, nhà thơng thái không chỉ là những người biết nhiều,
đa tri thức mà còn phải nắm được cái Logos của vũ trụ, nắm được cái quy luật
tất yếu của vũ trụ.
Để nắm được mối quan hệ biện chứng giữa các sự vật, hiện tượng, nắm
được bản chất quy luật phổ biến của thế giới, nắm được Logos của vũ trụ, theo
Hêraclít chủ thể nhận thức trước hết phải có năng lực quan sát và sự sáng suốt
của trí tuệ. Sự sáng suốt của trí tuệ khơng phải là một cái gì thần bí mà nó là cái
Logos vốn có ở mỗi con người, là năng lực nhận thức độc lập của con người về
bản chất của các sự vật, hiện tượng mà họ đang quan sát chiêm nghiệm. Sự sáng
suốt của trí tuệ đó có khả năng nhận thức được tính thống nhất của vũ trụ, nhận
thức được sự thống nhất của các mặt đối lập, nhận thức được Logos của vũ trụ.
Với quan niệm đó, Hêraclít coi sự sáng suốt của trí tuệ, cái Logos chủ
quan, sự thơng thái của con người cũng là đối tượng của nhận thức lý tính.
Hêraclít đã chỉ ra những đặc trưng của cái Logos chủ quan đó là: tính khách
quan, tính vĩnh hằng, là quy luật bất biến, là cái linh hồn vốn có tự nó phát triển.
Chính do tính chất khách quan, do cái phổ biến nên nó có ở mọi người và là cái

có thể nhận thức, và một khi con người nhận thức được nó con người sẽ trở nên
thơng thái.
Nét độc đáo trong quan niệm của Hêraclít đó là đã coi Logos chủ quan
cũng là đối tượng của nhận thức, của con người. Song sự khác biệt của Hêraclít
so với các nhà triết học đương thời cịn ở chỗ ơng ln coi tự nhiên mới là đối
tượng của nhận thức, nhận thức của thế giới phải là cái nhận thức được cái
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 12


Tiểu luận môn Triết học

Logos khách quan.
Ưu điểm lớn nhất của trí tuệ là nói lên được chân lý và hành động theo tự
nhiên, nghe theo tiếng nói của tự nhiên. Song không phải ai cũng nhận thức
được thế giới tự nhiên, không phải ai cũng nhận thức được Logos khách quan
của thế giới, bởi lẽ “tự nhiên yêu thích sự ẩn dấu mình”. Chỉ có những người có
trí tuệ “sáng sủa” nhất, có “linh hồn khơ ráo” nhất mới có thể nhận thức được
cái Logos khách quan của tự nhiên. Và để có được sự nhận thức đúng đắn này
thì nhận thức của con người kể cả những người có trí tuệ anh minh nhất phải bắt
đầu từ nhận thức cảm tính, “bởi mắt và tai là những người thầy tốt nhất”. Song
mắt và tai lại là những nhân chứng tồi nhất đối với con người nếu người đó có
linh hồn “ẩm ướt”. Điều đó cũng có nghĩa là, để nhận thức được cái Logos
khách quan của tự nhiên thì con người phải đi từ trực quan cảm tính đến trực
giác trí tuệ, từ sự nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính. Đây là một quan
điểm hết sức tiến bộ của Hêraclít. Sau này các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác cũng
khẳng định: con đường của nhận thức là đi từ trực quan sinh động đến tư duy
trừu tượng và từ tư duy trừu tượng trở lại với thực tiễn.
Có thể thấy được rằng Hêraclít đã có những quan điểm biện chứng trong

nhận thức, đặc biệt khi ông xây dựng nguyên lý sự thống nhất giữa Logos khách
quan và Logos chủ quan, mối quan hệ giữa nhận thức thế giới và khả năng nhận
thức thế giới của con người, biện chứng giữa cái chung và cái đơn nhất. Mặc dù
những tư tưởng đó cịn chưa thật rõ ràng nhưng đó là những tư tưởng biện chứng
hết sức có ý nghĩa cho việc phát triển phép biện chứng sau này.
1.5. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong học thuyết về dòng chảy
phổ biến (vận động phổ biến)
Cùng với những tư tưởng của mình về vũ trụ, tính thống nhất của vũ trụ,
sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập, sự thống nhất giữa Logos chủ
quan và Logos khách quan… Học thuyết về dòng chảy phổ biến đã làm cho tên
tuổi của Hêraclít cịn lưu mãi đến sau này. Học thuyết về dịng chảy của Hêraclít
được mọi người biết đến qua câu nói hết sức nổi tiếng của ông: “không thể lội
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 13


Tiểu luận môn Triết học

xuống một con sông hai lần”. Xung quanh vấn đề về học thuyết dòng chảy phổ
biến của Hêraclít đã có nhiều ý kiến đánh giá khác nhau.
Trong lịch sử triết học hai nhà triết học vĩ đại của Hy Lạp cổ đại là Platôn
và Arixtốt đã chống lại và phê phán Hêraclít và trường phái Hêraclít với học
thuyết dòng chảy phổ biến theo tinh thần của chủ nghĩa hồi nghi (mọi thứ đều
trơi qua). Và trong số các nhà triết học có tên tuổi họ nghi ngờ đoạn trích thứ 91
của Hêraclít, mà đoạn trích “khơng thể lội xuống một con sông hai lần” là không
phải của Hêraclít mà là của Pheđarkhơ. Látxan cũng đã từng đánh giá triết học
của Hêraclít là thứ triết học “bí ẩn ở Êphexơ”. Tuy nhiên cho đến ngày nay
người ta vẫn khẳng định những giá trị tích cực trong tư tưởng của ơng về dịng
chảy phổ biến, khẳng định những tư tưởng biện chứng sâu sắc của ơng.

Trước Hêraclít câu nói cửa miệng “mọi thứ đều trơi qua” đã trở thành rất
phổ biến ở thời cổ đại mà không phải là của Hêraclít. Các nhà triết học tự nhiên
trường phái Milê đã nói nhiều đến vận động và biến đổi cho nên học thuyết về
dịng chảy phổ biến của Hêraclít được coi là một điều hiển nhiên. Dường như tất
cả các nhà triết học trước và sau Hêraclít, tất cả mọi người đều đã nói về vận
động và biến đổi. Hêraclít cũng đã cố gắng kiên quyết nhấn mạnh sự khác biệt
giữa học thuyết của mình với học thuyết đa số các tác giả. Trên quan điểm đấu
tranh là phổ biến, đấu tranh là quy luật, đấu tranh của các mặt đối lập sẽ tạo ra
một trật tự mới, hài hoà mới, trật tự hài hoà mới khi được thiết lập lại bao gồm
các mặt đối lập mới đấu tranh với nhau… và cứ như thế đấu tranh là vĩnh cửu.
Ơng đi đến khẳng định sự vật, hiện tượng ln luôn biến đổi và biến đổi không
ngừng. Quan điểm này của ông được thể hiện bằng một mệnh đề nổi tiếng:
“khơng thể lội xuống cùng một dịng sơng hai lần”. Nhưng chính mệnh đề này
của Hêraclít đã gây ra nhiều tranh cãi đối với tồn bộ học thuyết về dịng chảy
phổ biến của ơng.
Nếu học thuyết về dịng chảy phổ biến của ơng được nhìn nhận với tư
cách là học thuyết về tính biến đổi tuyệt đối thì có thể thấy rằng mọi thứ đều trôi
đi, chảy đi không ngừng nghỉ, khơng có gì là ổn định tương đối. Và như vậy nếu
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 14


Tiểu luận mơn Triết học

khơng có gì là xác định, khơng có gì là bất biến thì chúng ta khơng thể nói bất
cứ điều gì cả và ngay cả sự biến đổi của một sự vật nào đó chúng ta cũng khơng
thể nói tới. Vấn đề này đã được Platơn - một nhà triết học lớn Hy Lạp cổ đại lưu
ý.
Tư tưởng vận động là phổ biến, mọi sự vật điều biến đổi khơng ngừng

nghỉ của Hêraclít đã được người học trị của ơng là Kratil phát triển theo hướng
tuyệt đối hoá sự vận động, sự biến đổi của sự vật. Kratil chỉ nhìn thấy và nhấn
mạnh tuyệt đối một mặt là vận động và biến đổi. Chính vì vậy Kratil đã nói
rằng: “Khơng cần phải nói khơng lội xuống một con sơng hai lần” mà phải nói
“khơng thể lội xuống con sơng thậm chí là một lần”, tức là “ chúng ta không thể
lội xuống được cùng một con sơng”.
Tuy nhiên, ở Hêraclít thì vận động và đứng im về một sự thống nhất của
các mặt đối lập, giống như đấu tranh và hài hồ. Chúng khơng thể tồn tại thiếu
nhau, chúng tồn tại thông qua nhau. Từ quan điểm này của Hêraclít có thể khẳng
định một điều rằng chúng ta khơng nên có cách nhìn phiến diện về học thuyết
dịng chảy phổ biến của ơng, khơng nên chỉ biết nhấn mạnh một mặt, tuyệt đối
hoá vận động, biến đổi của sự vật theo tinh thần của Kratil. Điều đó là trái
ngược với quan điểm của Hêraclít. Lại nói về luận điểm của Hêraclít: “khơng
thể lội xuống một con sơng hai lần”, suy ra rằng dịng sơng phải chính là dịng
sơng do vậy mà chúng ta mới lội xuống nó và đồng thời dịng sơng cũng khơng
phải là nó nên chúng ta khơng lội xuống nó. Đương nhiên là dịng sơng ln
chảy, chảy là bản chất của tất cả những con sơng, song điều đó khơng có nghĩa
là trong nó khơng có gì là ổn định, là bất biến, là xác định. Chính trong sự vận
động biến đổi liên tục ấy lại biểu hiện tính ổn định, bất biến của dịng sơng đó là
chảy. Nhờ chảy mới là sơng, cái biến đổi biểu hiện cái xác định và vì vậy nên
sông mới chảy, cái xác định biểu hiện cái biến đổi. Đó chính là mối quan hệ giữa
vận động và đứng im mà Hêraclít muốn nói tới. Ở đây Hêraclít cũng đã từng
khẳng định rõ ràng: “Chúng ta lội xuống và không lội xuống cùng một con
sông” [5, tr.135]. Tinh thần của Hêraclít cần phải được hiểu rõ ràng như vậy.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 15


Tiểu luận mơn Triết học


Nói về vận động và biến đổi của các sự vật Hêraclít cho rằng khơng
những dịng sông mà cả mặt trời cũng thường xuyên và liên tục đổi mới. Nhưng
mặt khác ông lại khẳng định không có gì ổn định và bất biến hơn là dịng sơng
ln chảy và mặt trời ln chiếu sáng. Nói cách khác sự biến đổi không loại trừ
sự đứng im, sự đứng im và tính xác định khơng loại trừ vận động, và Hêraclít
cịn nói rõ hơn “khi biến đổi, nó đứng im (nghỉ ngơi) và khi đứng im (nghỉ ngơi)
nó biến đổi). Từ điều trình bày trên chúng ta cũng có quyền khẳng định chính
Hêraclít là người đã nói về hài hồ trong đấu tranh, thống nhất trong phân đơi,
bất biến trong biến đổi, đồng nhất trong khác biệt, vĩnh cửu trong nhất thời, hiện
hữu trong sinh thành.
Như vậy, trong học thuyết về dịng chảy phổ biến Hêraclít đã cho thấy sự
thống nhất mâu thuẫn của sự vận động và đứng im, sinh thành và hiện hữu chứ
không phải ở việc bảo vệ phiến diện sự vận động nhờ hi sinh sự đứng im, không
phải ở việc thừa nhận trắng trợn sự vận động nhờ sự vắng mặt của đứng im,
không phải khẳng định rành rọt sự sinh thành và phủ định cái hiện hữu. Học
thuyết về dòng chảy phổ biến của Hêraclít với những tư tưởng biện chứng sâu
sắc và tiến bộ đã làm nên sự khác biệt giữa tư tưởng của ông với tư tưởng của
các nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Chính vì vậy cần có sự đánh giá đúng đắn đối
với học thuyết dòng chảy phổ biến của ơng cũng như phải có thái độ khách quan
đối với tồn bộ triết học của ơng.
2. Những đóng góp của tư tưởng biện chứng của Hêraclít đối với lịch sử
phát triển của phép biện chứng
Có thể nhận xét chung rằng trong giai đoạn đầu tiên của lịch sử nhân loại
với cách nhìn biện chứng về thế giới thì trên phương diện thế giới quan các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại đã vượt bỏ những ảnh hưởng của thế giới quan thần
thoại và tôn giáo, đem lại cho loài người một phương pháp tư duy mới - đó là tư
duy triết học. Tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại đã mở đầu cho sự phát triển
những tư tưởng biện chứng phương Tây, những vấn đề được các nhà triết học
Hy Lạp đặt ra là những viên đá tảng tạo tiền đề cho sự phát triển tư tưởng biện

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 16


Tiểu luận môn Triết học

chứng trong triết học sau này.
Các nhà triết học thuộc trường phái Milê và Hêraclít là những người đã
đặt nền móng cho sự phát triển triết học trên lập trường duy vật. Với phương
pháp tư duy độc đáo của mình - với cách nhìn biện chứng mà hình thức đầu tiên
là nhìn nhận thế giới trong sự thống nhất. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã
truy tìm nguồn gốc của thế giới, tính thống nhất của thế giới từ một dạng vật
chất cụ thể. Với Talét đó là nước, Anaxmen là khơng khí, Anaxmenđrơ là
Apâyrơn… cịn đối với Hêraclít đó là lửa, ơng quan niệm rằng: “Thế giới một
chỉnh thể bao gồm mọi vật, không phải do bất cứ một thần thánh hoặc bất cứ
một người nào sáng tạo ra, mà đã, đang và sẽ là một ngọn lửa vĩnh viễn sống,
bùng cháy và tắt đi theo những quy luật. Quan điểm về khởi nguyên vũ trụ của
Hêraclít đã được V.I.Lênin đánh giá là: “Một sự trình bày rất hay những nguyên
lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng” [1, 371]. Tư tưởng biện chứng trên lập
trường duy vật về bản thể luận này càng về sau càng được phát triển trừu tượng
hơn trong quan niệm của Đêmơcrít đó là ngun tử… rồi đến định nghĩa vật
chất của Lênin đã đưa lập trường duy vật lên đến đỉnh cao của sự hoàn thiện và
triệt để.
Hêraclít là người đầu tiên trình bày quy luật thống nhất (hài hoà) và đấu
tranh của các mặt đối lập. Trong đó ơng cho rằng thế giới là một chỉnh thể thống
nhất tuyệt đẹp bao gồm các mặt đối lập, hơn thế nữa ơng cịn khẳng định được
rằng đấu tranh của các mặt đối lập, là quy luật phổ biến của thế giới, là điều kiện
của tồn tại. Nhận thức thế giới là nhận thức quy luật thống nhất (hài hoà) và đấu
tranh của các mặt đối lập. Qua đây có thể thấy được rằng với sự trình bày về tính

thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập Hêraclít là người đầu tiên trong lịch
sử phép biện chứng đã gián tiếp nói đến nguồn gốc, động lực của sự phát triển
của sự vật, hiện tượng và sự phát triển của thế giới. Với tư tưởng biện chứng sâu
sắc này ơng đã vượt trước thời đại của mình một bước. Trong “Bút ký triết học”
Lênin đã đánh giá tư tưởng này của ông đã khiến cho nhà triết học lỗi lạc Hy
Lạp cổ đại là Arixtốt phải “nát óc” đấu tranh chống lại.
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 17


Tiểu luận môn Triết học

Trong quan điểm nhận thức, ông đã có những tư tưởng biện chứng cực kỳ
sâu sắc. Khi ơng đưa ra quan điểm của mình về một phương pháp nhận thức: Để
nhận biết được cái chung, cái phổ biến khi tìm ra được những biểu hiện đa dạng
của nó trong các sự vật đơn lẻ, so sánh đối chiếu các sự vật đơn lẻ, cá biệt với
cái chung, cái phổ biến. Với quan điểm nhận thức này Hêraclít đã có cách nhìn
đúng đắn đầu tiên về cặp phạm trù cái chung và cái riêng. Tuy nhiên cách nhìn
của ơng cịn đơn giản và mộc mạc. Ơng cũng là người đưa ra khái niệm Logos
chủ quan và Logos khách quan, theo đó Logos chủ quan của con người có mối
quan hệ biện chứng với Logos khách quan của thế giới. Nhận thức của con
người là một quá trình đi từ Logos chủ quan đến Logos khách quan hay nói cách
khác nhận thức là một q trình đi từ trực quan cảm tính đến tư duy trí tuệ. Bản
chất của nhận thức thế giới là nhận thức Logos khách quan.
Trong học thuyết về dịng chảy phổ biến Hêraclít cũng đã nêu lên những
tư tưởng biện chứng của mình. Ơng đưa ra mệnh đề nổi tiếng: “Không thể lội
xuống một con sông hai lần” để khẳng định: Vận động là vĩnh cửu, biến đổi là
vĩnh cửu, là phổ biến. Tuy nhiên ông cũng khẳng định sự đứng im, vận động và
đứng im là một sự thống nhất mâu thuẫn của các mặt đối lập. Tư tưởng vận động

của ông đã được Ph.Bêcơn kế thừa và phát triển trong triết học của mình, khi
Ph.Bêcơn cho rằng vận động khơng thể tách rời vật chất, nhận thức bản chất của
sự vật là nhận thức sự vận động của chúng. Ph.Bêcơn còn cho rằng vận động là
tuyệt đối và có tất cả là 19 dạng vận động. Thông qua vận động mà hệ thống vật
chất thể hiện tính đa dạng, phong phú của nó. Đặc biệt Ph.Bêcơn cịn khẳng định
một quan điểm quan trọng mà trước đó đã gây ra nhiều tranh cãi và cách hiểu
phiến diện về vận động trong học thuyết dịng chảy phổ biến của Hêraclít, đó là:
đứng im cũng là một dạng của vận động, của vật chất, vận động trong sự nghỉ
ngơi. Với sự khẳng định này của Ph.Bêcơn chúng ta có thể nói rằng Hêraclít là
người đã có quan niệm đúng đắn về sự vận động và đứng im.
Có thể thấy rằng tư tưỏng biện chứng của Hêraclít và triết học của ơng có
một vị trí và vai trị nhất định trong nền triết học nói chung và lịch sử phát triển
Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 18


Tiểu luận mơn Triết học

phép biện chứng nói riêng. Qua thời gian những giá trị trong tư tưởng biện
chứng của ông vẫn còn được khẳng định và ông sẽ còn được mọi người biết đến
nhiều hơn nữa.
Bên cạnh những giá trị của tư tưởng biện chứng Hêraclít đối với sự phát
triển lịch sử phép biện chứng thì tư tưỏng biện chứng của Hêraclít cịn có những
hạn chế nhất định.
Cũng như các nhà triết học trường phái Milê thì ở Hêraclít sự thống nhất
mới chỉ được quan niệm ở nguồn gốc chung của sự vật mà vẫn chưa thấy được
sự thống nhất giữa các sự vật trong những mối liên hệ cụ thể, hay như sự vận
động cũng chỉ là sự vận động theo một vịng khép kín, vận động trong quan
niệm của ơng cịn đơn giản, ơng chưa đi đến được quan niệm vận động tạo nên

sự đa dạng và phong phú của các sự vật và hiện tượng, vận động và phát triển
của các sự vật hiện tượng theo nấc thang đi lên.
Một điểm hạn chế trong tư tưởng biện chứng của Hêraclít nữa là, hầu hết
trong tư tưởng biện chứng của ông đều được thể hiện qua những câu văn giàu
hình ảnh, những câu châm ngơn nhiều ẩn dụ, đa nghĩa. Điều này tạo nên sự đa
nghĩa, tính không nhất quán trong các tư tưởng, quan điểm, luận điểm của ơng.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 19


Tiểu luận môn Triết học

KẾT LUẬN

Tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại mang tính ngây thơ, tự
phát. Tuy nhiên đóng góp của tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại là đã vượt bỏ
dần những ảnh hưởng của thế giới quan thần thoại và tôn giáo đem lại cho nhân
loại một phương pháp tư duy mới - tư duy triết học.
Tư tưởng biện chứng trong triết học của Hêraclít nằm trong hệ thống phép
biện chứng Hy Lạp cổ đại do đó tư tưởng biện chứng của Hêraclít cũng mang
những đặc điểm chung của phép biện chứng Hy Lạp cổ đại đó là tính ngây thơ,
tự phát. Song so với các nhà biện chứng Hy Lạp cổ đại thì phép biện chứng của
ơng lại được xếp ở vị trí trung tâm, ơng đã có những tư tưởng biện chứng sâu
sắc và những phỏng đốn thiên tài. Hêraclít trong sự đánh giá của Lênin: “Là
một trong những nhà sáng lập ra phép biện chứng”.
Trong tư tưởng biện chứng của Hêraclít, ơng đã có những đóng góp quan
trọng đối với sự phát triển lịch sử phép biện chứng. Mặc dù còn những hạn chế
nhất định trong lối văn phong của mình nhưng phép biện chứng của Hêraclít

xứng đáng được giữ vị trí trung tâm trong triết học Hy Lạp cổ đại. Xung quanh
vấn đề phép biện chứng của Hêraclít còn nhiều quan niệm, nhiều ý kiến đánh
giá. Song chúng ta cần có một đánh giá khách quan, khơng phiến diện, khơng gị
ép có như vậy mới nhìn rõ phép biện chứng của Hêraclít và ý nghĩa, vai trị, vị
trí của nó trong lịch sử phát triển phép biện chứng.

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 20


Tiểu luận môn Triết học

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. V.I.Lênin (1981), Lênin Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ Mátxcơva.
[2].

Đặng Hữu Tồn (2002), “Khái niệm “Logos trong triết học của Hêraclít”
Tạp chí Triết học, số 4 (146).

[3].

Đặng Hữu Tồn (2003), “Học thuyết về nhận thức trong triết học
Hêraclít”, Tạp chí Triết học số 7 (146).

[4]. Nguyễn Quang Thông - Tống Văn Chung (1990), Lịch sử triết học Hy - La
cổ đại, tập 1, Tủ sách trường Đại học Tổng hợp Hà Nội.
[5]. Viện triết học (1998), Lịch sử phép biện chứng, tập I, phép biện chứng cổ
đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.


Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH

Trang 21


Tiểu luận môn Triết học

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................................1
Chương 1...................................................................................................................................3
TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC HY LẠP CỔ ĐẠI..........................3
1. Bối cảnh lịch sử ra đời tư tưởng biện chứng Hy Lạp cổ đại..........................................3
2. Đặc điểm của tư tưởng biện chứng trong triết học Hy Lạp cổ đại...............................4
Chương 2...................................................................................................................................7
TƯ TƯỞNG BIỆN CHỨNG TRONG TRIẾT HỌC CỦA HÊRACLÍT.........................7
1. Nội dung tư tưởng biện chứng của Hêraclit.....................................................................7
1.1. Quan niệm của Hêraclít về khởi nguyên của vũ trụ.........................................................7
1.2. Về khái niệm logos của Hêraclít......................................................................................8
1.3. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong quan niệm về sự thống nhất (hài hòa) và đấu
tranh của các mặt đối lập........................................................................................................9
1.4. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong quan điểm về nhận thức.................................11
1.5. Tư tưởng biện chứng của Hêraclít trong học thuyết về dòng chảy phổ biến (vận động
phổ biến)...............................................................................................................................13
2. Những đóng góp của tư tưởng biện chứng của Hêraclít đối với lịch sử phát triển của
phép biện chứng.....................................................................................................................16
KẾT LUẬN.............................................................................................................................20
TÀI LIỆU THAM KHẢO....................................................................................................21

Sinh viên thực hiện: Nguyễn Đình Trung, Lớp: K30-CTXH


Trang 22



×