Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Ảnh hưởng của kiến trúc phật giáo ấn độ đến đông nam á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.36 MB, 84 trang )

1
UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung:
- Tên đề tài: Ảnh hưởng của kiến trúc Phật giáo Ấn Độ đến Đông Nam Á
- Sinh viên chịu trách nhiệm chính: Phạm Thị Nhung
- Lớp: D12LS01

Khoa: Sử

Năm thứ: II

Số năm đào tạo: 4 năm

- Người hướng dẫn: Th.s Nguyễn Thị Mai
2. Mục tiêu đề tài:
Làm rõ được những ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ đến nghê ̣ thuâ ̣t kiến trúc
chùa, tháp của khu vực Đơng Nam Á, từ đó rút ra được những nét tương đồng và dị
biệt của các cơng trình kiến trúc này trong khu vực Đơng Nam Á.
3. Tính mới và sáng tạo: Thơng qua việc tìm hiểu đề tài đã cho thấy phần nào đặc
điểm của kiến trúc Đông Nam Á dưới sự ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ.
4. Kết quả nghiên cứu: Tìm hiểu một số cơng trình kiến trúc tiêu biểu của Đơng Nam
Á chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ.
5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và
khả năng áp dụng của đề tài:


Đề tài này cịn góp phần giúp sinh viên tìm hiểu sâu hơn về lịch sử khu vực
Đơng Nam Á, về sự giao lưu tiếp xúc văn hóa của Đơng Nam Á với các nước ngồi
khu vực để bổ sung kiến thức cho chuyên đề “Lịch sử Đông Nam Á”. Ngồi ra, việc
tìm hiểu về những cơng trình kiến trúc này sẽ góp phần tơn vinh những giá trị văn
hóa vật thể của khu vực Đơng Nam Á nhằm giúp người dân Đơng Nam Á nói chung
và nhân dân Việt Nam nói riêng có một ý thức hơn nữa trong việc bảo vệ các giá trị
văn hóa của khu vực, của đất nước.
6. Công bố khoa học của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài (ghi rõ họ tên
tác giả, nhan đề và các yếu tố về xuất bản nếu có) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở
đã áp dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có):
.......................................................................................................................................


2

.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Ngày

tháng

năm

Sinh viên chịu trách nhiệm chính thực
hiện đề tài
(ký, họ và tên)
Nhận xét của người hướng dẫn về những đóng góp khoa học của sinh viên thực

hiện đề tài (phần này do người hướng dẫn ghi):
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
.......................................................................................................................................
Ngày

Xác nhận của lãnh đạo khoa

Người hướng dẫn

(ký, họ và tên)

(ký, họ và tên)

UBND TỈNH BÌNH DƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT

tháng

năm

CỘNG HỊA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

THƠNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI



3

I. SƠ LƯỢC VỀ SINH VIÊN:

Ảnh 4x6

Họ và tên: Phạm Thị Nhung
Sinh ngày: 15

tháng 09 năm 1994

Nơi sinh: Nam Định
Lớp:

D12LS01

Khóa: 2012 – 2016

Khoa: Sử
Địa chỉ liên hệ: 85/8/18 khu phố 3, tổ 5, Phú Lợi, Thủ Dầu Mô ̣t, Bình Dương
Điện thoại:

0978353073

Email:

II. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP (kê khai thành tích của sinh viên từ năm thứ 1 đến năm
đang học):
* Năm thứ 1:

Ngành học: Sư phạm Lịch sử

Khoa: Sử

Kết quả xếp loại học tập:
Sơ lược thành tích:
* Năm thứ 2:
Ngành học: Sư phạm Lịch sử

Khoa: Sử

Kết quả xếp loại học tập:
Sơ lược thành tích:
Ngày

Xác nhận của lãnh đạo khoa
(ký, họ và tên)

1) Họ và tên: Trần Thị Ngọc Mĩ Chi
tháng 09 năm 1994

Nơi sinh: Dĩ An – Bình Dương
Lớp:

D12LS01

năm

Sinh viên chịu trách nhiệm chính
thực hiện đề tài

(ký, họ và tên)

Danh sách những thành viên tham gia nghiên cứu đề tài:

Sinh ngày: 12

tháng

Khóa: 2012 – 2016


4

Khoa: Sử
Địa chỉ liên hệ: 12/8, khu phố Nhị Đồng, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương.
Điện thoại:

0962841620

Email:

2) Họ và tên: Thượng Thị Trúc Phương
Sinh ngày: 17

tháng 05 năm 1993

Nơi sinh: Sơng Bé
Lớp:

D12LS01


Khóa: 2012 – 2016

Khoa: Sử
Địa chỉ liên hệ: số 160/9, tổ 8, khu phố 5, phường Phú Hòa, thành phố Thủ Dầu
Một, tỉnh Bình Dương.
Điện thoại: 01684311600

Email:

3) Họ và tên: Nguyễn Trí Thơng
Sinh ngày: 19

tháng 11 năm 1992

Nơi sinh: Sơng Bé
Lớp:

D12LS01

Khóa: 2012 – 2016

Khoa: Sử
Địa chỉ liên hệ: xã Tân Mĩ, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương
Điện thoại:

01674608193

Email:


MỤC LỤC
Trang
DẪN NHẬP................................................................................................................6
1. Tính cấp thiết của đề tài................................................................................................7
2. Mục đích nghiên cứu.....................................................................................................7
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề............................................................................................7
4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu:......................................................9


5
4.1. Đối tượng nghiên cứu....................................................................................9
4.2. Phạm vi nghiên cứu.......................................................................................9
4.3. Phương pháp nghiên cứu...............................................................................9

CHƯƠNG 1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO PHẬT Ở ẤN ĐỘ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ TỚI CÁC NƯỚC ĐƠNG NAM Á...................................................................10
1.1 Hồn Cảnh Ra Đời Của Phật Giáo Ở Ấn Độ..........................................................10
1.2 Sự phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ.......................................................................11
1.3 Mĩ thuâ ̣t và kiến trúc Ấn Đô ̣.....................................................................................14
1.4 Sự lan tỏa của Phật giáo sang các nước Đông Nam Á............................................15

TIỂU KẾT CHƯƠNG.............................................................................................17
CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ ĐẾN NGHỆ THUẬT
KIẾN TRÚC ĐÔNG NAM Á.................................................................................20
2.1 Kiến trúc đền, tháp...................................................................................................21
2.2 Điêu khắc...................................................................................................................27
2.3 Kiến trúc Chùa..........................................................................................................35

TIỂU KẾT CHƯƠNG.............................................................................................50
CHƯƠNG 3: ĐẶC ĐIỂM CỦA KIẾN TRÚC – ĐIÊU KHẮC PHẬT GIÁO

ĐÔNG NAM Á.........................................................................................................52
3.1 Đă ̣c điểm kiến trúc – điêu khắc Đơng Nam Á.............................................52
3.2 Tính đa dạng..............................................................................................................52
3.2.1 Lào.............................................................................................................53
3.2.2 Campuchia.................................................................................................55
3.2.3 Thái Lan.....................................................................................................55
3.2.4 Mianma......................................................................................................56
3.2.5 Viê ̣t Nam....................................................................................................57
3.3. Tính thống nhất........................................................................................................60

TIỂU KẾT CHƯƠNG.............................................................................................64
KẾT LUẬN..............................................................................................................66
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................................68
PHỤ LỤC ẢNH........................................................................................................70

DẪN NHẬP
Ấn Độ đất nước sở hữu một nền văn hóa lớn và đặc sắc của tồn nhân loại có
sức ảnh hưởng lớn khơng những trong khu vực mà còn cả thế giới, từ tơn giáo đến văn
hóa, từ nghệ thuật đến tín ngưỡng… Đông Nam Á nơi tiếp thu được khá nhiều nét đặc


6

sắc từ nền văn hóa Ấn Độ, trên cơ sở những truyền thống của mình, song song với việc
tiếp thu những ảnh hưởng của Ấn Độ, các nền văn hoá của các quốc gia đã hình thành
và phát triển. Phật giáo ra đời ở Ấn Độ trên nền tảng văn hóa, xã hội của nước Ấn Độ,
mặc dù Phật giáo ra đời ở Ấn Độ song do đặc điểm của điều kiện văn hóa – xã hội của
Ấn Độ mà Phật giáo không phát triển lâu dài ở tiểu lục địa này. Tuy vậy ngay cả tới
lúc bị suy vong ở Ấn Độ thì ảnh hưởng của nó vẫn là rất to lớn đối với văn hóa Ấn Độ
nói chung với nghệ thuật kiến trúc Đơng Nam Á nói riêng.

Khơng ít những cơng trình kiến trúc, điêu khắc đã trở thành những kiệt tác tạo
hình của một số quốc gia Đơng Nam Á có nhiều cơng trình kiến trúc đã được
UNESCO công nhận và đưa vào danh sách các di sản văn hoá thế giới. Dưới đây là
một bức tranh khái quát về những ảnh hưởng kiến trúc của khu vực Đơng Nam Á vừa
mang tính bản địa đặc thù vừa thể hiện sự tiếp thu có tính chọn lọc cao của Phật giáo
Ấn Độ, trong đề tài được chia thành 3 chương nhỏ:
Chương 1: Sự ra đời của Phật giáo ở Ấn Độ và ảnh hưởng của nó tới các nước
Đông Nam Á
Chương 2: Sự ảnh hưởng của Phật giáo đối với nghệ thuật kiến trúc Đông Nam
Á
Chương 3: Đặc điểm của kiến trúc – điêu khắc Phật giáo ở Đơng Nam Á

1. Tính cấp thiết của đề tài
Phâ ̣t giáo- một trong những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay, đã được ra đời
ở Ấn Đô ̣, tuy nhiên không chỉ tồn tại ở Ấn Độ mà ngay từ khi mới ra đời Phật giáo
đã nhanh chóng phát triển và lan tỏa sang các quốc gia khác, đặc biệt là khu vực
Đông Nam Á. Sự ảnh hưởng của Phâ ̣t giáo đối với khu vực Đông Nam Á rất đậm nét
trong một số lĩnh vực như văn học, ngôn ngữ, phong tục tập quán, …đặc biệt là trong
các cơng trình kiến trúc kiến trúc điêu khắc như chùa, tháp.
Khi tìm hiểu về yếu tố Phâ ̣t giáo trong các công trình kiến trúc- điêu khắc
chùa, tháp ở Đông Nam Á đã gây cho nhóm chúng tôi sự hứng thú. Xuất phát từ lý


7

do đó nhóm đề tài đã chọn vấn đề: “Ảnh hưởng của kiến trúc Phật giáo Ấn Độ đến
Đông Nam Á” để nghiên cứu. Với đề tài này nhóm sẽ góp phần tìm hiểu về giá trị
của các cơng trình kiến trúc chùa, tháp khu vực Đơng Nam Á. Ngồi ra, việc tìm
hiểu về những cơng trình kiến trúc này sẽ góp phần tơn vinh những giá trị văn hóa
vật thể của khu vực Đông Nam Á nhằm giúp người dân Đơng Nam Á nói chung và

nhân dân Việt Nam nói riêng có một ý thức hơn nữa trong việc bảo vệ các giá trị văn
hóa của khu vực, của đất nước.

2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ được những ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ đến nghê ̣ thuâ ̣t kiến trúc
chùa, tháp của khu vực Đông Nam Á, từ đó rút ra được những nét tương đồng và dị
biệt của các cơng trình kiến trúc này trong khu vực Đông Nam Á.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ấn Đô ̣ nơi khai sinh ra nhiều nền văn hóa lớn và đă ̣c sắc có ảnh hưởng lớn đối
với không những khu vực mà cả thế giới. Sự giao thoa, tiếp xúc giữa văn hóa Ấn Đô ̣
và Đông Nam Á đã mang đến những nét đă ̣c sắc riêng mà chỉ khu vực này mới có.
Từ khi văn hóa Ấn Đô ̣ vào Đông Nam đă ̣c biê ̣t là sự tiếp thu Phâ ̣t giáo đã ảnh
hưởng rất lớn đối với văn hóa khu vực trên nhiều mă ̣t về tôn giáo, văn học- chữ
viết... Những thành tựu của các công trình nghiên cứu về văn hóa Đông Nam Á và
văn hóa Ấn Đô ̣ đã được nhiều nhà nghiên cứu làm rõ trên nhiều mă ̣t. Do vậy, các tài
liệu, sách chuyên khảo, giáo trình…về văn hóa Đông Nam Á hoă ̣c văn hóa Ấn Đô ̣
rất phong phú về hình thức lẫn nội dung.  Các ấn phẩm, giáo trình, tài liê ̣u về văn hóa
những khu vực này nổi bâ ̣t nhất đề câ ̣p đến này như:
Ngô Văn Doanh, (1998), Danh thắng và kiến trúc Đông Nam Á, Nxb Văn hóa
thông tin, Hà Nô ̣i đã giới thiê ̣u những nền kiến trúc tiêu biểu như: kiến trúc xứ
Ăngco (Campuchia), kiến trúc nước triê ̣u voi (Lào), kiến trúc xứ sở mă ̣t trời Thái
Lan…và những danh thắng kiến trúc nổi tiếng của mỗi quốc gia trong khu vực Đông
Nam Á.
Lương Duy Thứ (1996), Đại cương văn hóa Phương Đơng, Nxb Giáo dục
ćn sách là những điều đầu tiên cần biết về văn hóa Đông Nam Á trên nhiều mă ̣t về
văn hóa – tôn giáo, kiến trúc – điêu khắc…của cả nền văn hóa Phương Đông, tác giả
đã tâ ̣p hợp những gì tổng quan chung nhất về văn hóa khu vực.


8


Phạm Đức Dương, Trần Thị Thu Lương (2001), Văn hóa Đông Nam Á Nxb
Giáo dục, Hà Nô ̣i, đã khái quát mô ̣t cách chung nhất về văn hóa Đông Nam Á về lịch
sử hình thành, quá trình tiếp xúc văn hóa Trung Quốc và Ấn Đô ̣ và văn hóa Đông
Nam Á trong thời kì hiê ̣n đại.
Đinh Trung Kiên (2009), Tìm hiểu những nền văn minh Đông Nam Á, Nxb
Giáo dục Viê ̣t Nam đã giới thiê ̣u mô ̣t cách khái quát nhất những văn hóa Đông Nam
Á từ sự ra đời đến những thành tựu rực rỡ của khu vực. Cuốn sách đã khái quát cụ
thể nhất về văn hóa, đời sống, tín ngưỡng, tôn giáo, các phong tục, tâ ̣p quán, những
công trình kiến trúc – điêu khắc tiêu biểu của khu vực…nhằm giúp cho đô ̣c giả có
cái nhìn chung nhất, cơ bản nhất về nền văn minh Đông Nam Á.
Ngoài ra còn có các bài nghiên cứu trên tạp chí “Viêṭ Nam và Đông Nam Á
ngày nay”, đề cập đến những vấn đề chun sâu của văn hóa Đơng Nam Á như:.

Ÿ “DOROBUDUR- công trình kiến trúc phâ ̣t giáo lớn nhất thế giới” PTs Ngô
Văn Doanh-Vũ Khắc Hải, số 7(1995). Tác giả đã giới thiê ̣u mô ̣t cách chi tiết về công
trình kiến trúc Phâ ̣t giáo Dorobudur cũng như quá trình hình thành, tu sửa ngôi đền.

Ÿ “Đông Nam Á nơi gă ̣p gỡ của các tôn giáo lớn thế giới” PTs Ngô Văn
Doanh, số 9(1995) đã cho thấy quá trình giao thoa, tiếp nhâ ̣n văn hóa của Ấn Đô ̣,
phương Tây đă ̣c biê ̣t là trên lĩnh vực tôn giáo tiêu biểu là Phâ ̣t giáo, Hồi giáo, Ấn Đô ̣
giáo, Thiên chúa giáo. Đồng thời chỉ rõ tính “ thớng nhất trong đa dạng” của lịch sử
Đông Nam Á. Hướng cho đô ̣c giả tìm hiểu rõ hơn về bức tranh chính trị và văn hóa
của khu vực.

Ÿ “Tương đồng và khác biê ̣t những nét cơ bản trong nghê ̣ thuâ ̣t Đông Nam Á”
PTs Trần Thi Lý, số 11(1995). Bài viết cho thấy rõ quá trình giao lưu tiếp xúc văn
hóa Ấn Đô ̣ vào văn hóa Đông Nam Á, đồng thời chỉ ra nét khác biê ̣t, tương đồng
giữa nghê ̣ thuâ ̣t kiến trúc của khu vực dưới tác đô ̣ng của tôn giáo như Phâ ̣t giáo và
Ấn Đô ̣ giáo.

Bên cạnh đó, còn rất nhiều tài liê ̣u, sách, giáo trình đề câ ̣p đến Đông Nam Á,
Ấn Đô ̣. Có thể nhâ ̣n thấy rất nhiều các tác phẩm, sách báo, các chuyên đề…đều đề
câ ̣p đến văn hóa Đông Nam Á trên nhiều lĩnh vực văn hóa, tuy nhiên lại chưa có mô ̣t
chuyên đề hay tài liê ̣u nào nói đến ảnh hưởng của Phâ ̣t giáo đến nghê ̣ thuâ ̣t kiến trúcđiêu khắc Đông Nam Á. Vì vâ ̣y nhóm đề tài thấy đây là mô ̣t vấn đề đáng quan tâm
cần tìm hiểu nhiều hơn trên cơ sở tổng kết những kiến thức mà các nhà nghiên cứu,


9

tác giả đã nghiên cứu về Đông Nam Á nhằm làm sáng tỏ vấn đề ảnh hưởng của Phâ ̣t
giáo đến nghê ̣ thuâ ̣t kiến trúc- điêu khắc Đông Nam Á.

4. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu:
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ảnh hưởng của Phật giáo tới nghệ thuật kiến trúc Đông Nam Á
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu: Khu vực Đông Nam Á, tuy nhiên khu vực Đông Nam Á
là một khu vực gồm nhiều quốc gia, số lượng các cơng trình kiến trúc- điêu khắc của
các chùa tháp cũng phong phú nên nhóm chỉ tập trung nghiên cứu ở những cơng
trình tiêu biểu của các quốc gia quốc gia có đạo Phật phát triển mạnh như: Thái Lan,
Lào, Campuchia, Mianma, Việt Nam, Inđônêxia.
4.3. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp: Sử dụng phương pháp lịch sử làm cơ sở nghiên cứu quá trình
hình thành và phát triển Phật giáo ở Ấn Độ, sự du nhập và ảnh hưởng của Phật giáo
đối với các ơng trình kiến trúc- điêu khắc trong các chùa, tháp Đông Nam Á. Bên
cạnh đó, nhóm cịn sử dụng phương pháp phân tích, thống kê, so sánh,để làm rõ
những nét kiến trúc- điêu khắc của từng cơng trình chùa, tháp ở Đơng Nam Á. Ngồi
ra, nhóm cịn sử dụng phương pháp logic để lý giải những nét chung và riêng của các
công trình kiến trúc-điêu khắc trong các chùa tháp ở Đơng Nam Á, làm nổi bật lên
tính đa dạng và thống nhất của nghệ thuật kiến trúc- điêu khắc dưới ảnh hưởng của

Phật giáo đối với mỗi quốc gia trong khu vực.


10

CHƯƠNG 1. SỰ RA ĐỜI CỦA ĐẠO PHẬT Ở ẤN ĐỘ VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA
NÓ TỚI CÁC NƯỚC ĐÔNG NAM Á.
1.1
Hoàn Cảnh Ra Đời Của Phật Giáo Ở Ấn Độ
Ấn Độ được coi như một tiểu lục địa, không chỉ vì đơng dân, mà cịn đa dạng
về địa lý, chủng tộc, ngơn ngữ, khí hậu, theo sự đa dạng về văn hóa.
Đất nước này có nhiều núi non, sa mạc, đặc biệt là những dãy núi chắn ngang,
trong đó có dãy Himalaya (nghĩa là xứ tuyết phủ), dãy Himalaya như một bức tường
thành khổng lồ án ngữ phía bắc, gợi cho ta có cảm giác Ấn Độ bị ngăn cách với thế
giới bên ngồi, cịn nền văn minh của mình thì bị đóng kín. Rặng Vindya nằm ở miền
Trung Ấn như một đường gân chia Ấn Độ ra làm hai miền Nam – Bắc với khí hậu đối
lập nhau. Miền Bắc khí hậu lạnh, cịn miền Nam thì nóng như thiêu, chỉ có mưa về
mùa hè. Ngồi ra, Ấn Độ cịn có hai con sơng lớn ở miền Bắc Ấn chi phối đến nền văn
minh Ấn Độ, đó là sơng Ấn (Indus), và sông Hằng (Ganges). Sông Hằng được coi là
dịng sơng thiêng, mà từ xưa nhân dân Ấn Độ thường đến khúc sông ở thành phố
Thánh Varanari để cử hành lễ tắm có tính chất tơn giáo.
Thành phần chủng tộc của dân cư Ấn Độ cũng khá phức tạp, trong đó có hai
loại chính: người Dravidian, vốn là dân bản địa, cư trú ở miền Nam sau những cuộc
dồn đuổi của người Aryan. Khoảng 1500 TCN, người Aryan thuộc ngữ hệ Ấn – Âu,
gốc ở vùng biển Caspin (Caspian Sea) di cư vào Ấn Độ, cư trú chủ yếu ở miền Bắc.
Về sau cịn có thêm nhiều người Hy Lạp, người Hung nô, người Ảrập v.v… lần lượt
đến Ấn Độ rồi đồng hóa với dân cư ở đây, làm cho các tộc người Ấn Độ càng them
phức tạp, sự đa dạng về tộc người dẫn đến sự đa dạng về ngơn ngữ. Theo cách tính dè
dặt nhất, Ấn Độ phải có đến 200 ngơn ngữ, có tài liệu cịn kể đến 1.500 ngôn ngữ.
Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự hình thành và phát triển của các tôn giáo ở

Ấn Độ và Phật giáo cũng được ra đời từ đây.
Phật giáo ra đời vào thế kỉ 6 TCN ở Ấn Độ trên vùng đất NePan ngày nay, đây
là thời kỳ phát triển của đạo Bà-la-môn cả về tơn giáo lẫn chính trị, xã hội Ấn Độ. Khi
có người Aryan xâm nhập đã phân chia làm bốn đẳng cấp là tăng lữ (Brahman), võ sĩ
(Ksatriya), bình dân (Vaisya) và tiện dân (Sudra), bốn đẳng cấp này có nghĩa vụ và
quyền lợi khác nhau:


11

Tăng Lữ (Brahman) được coi là cao quý nhất, giảng kinh Veda và tiến hành
các nghi thức tôn giáo, nắm mọi quyền lực, không ai được xâm phạm.
Võ Sĩ (Ksatriya) là đẳng cấp thứ hai, có nhiệm vụ bảo vệ vua chúa, lãnh thổ và
mùa màng, được đọc kinh Veda và tham dự các buổi tế lễ.
Bình Dân (Vaisya) làm nông nghiệp, thủ công nghiệp, buôn bán, cũng được
học kinh Veda và tham dự các buổi tế lễ.
Tiện Dân (Sudra) thường là con cháu những bộ lạc bại trận, phải sống bên
ngồi cơng xã, địa vị hèn kém, phải phục vụ các đẳng cấp trên, không được đọc kinh
và làm lễ. Tiện dân còn được chia làm hai loại: Paryan và Chandala, bị coi là ô uế,
không ai động chạm tới.
Sự phân biệt đẳng cấp diễn ra vô cùng khắc nghiệt khiến cho tầng lớp đa số
trong xã hội – những người Thủ đà la căm ghét chế độ đẳng cấp. Nhiều trào lưu tư
tưởng chống lại đạo Bà – la- mơn và chế độ đẳng cấp của nó đã ra đời trong đó có Phật
giáo. Sự ra đời của Phật giáo gắn liền với tên tuổi của Tất Đạt Đa (Seddhartha
Gautama) sinh năm 563 TCN, con vua Tịnh Phạn (Sutdodana) nước Ca tỳ La Vệ ở
chân núi Hymalaya.
Vào khoảng thế kỉ VI TCN, sự phát triển kinh tế ở Ấn Độ đã khá mạnh mẽ, dẫn
tới sự phân hóa xã hội sâu sắc. Sau hơn 1000 năm thống trị chế độ đẳng cấp Ba – lamôn đã tạo nên mối bất bình đẳng sâu sắc trong xã hội Ấn Độ, lúc này đẳng cấp võ sĩ
đã có sức mạnh về kinh tế nên không muốn xếp sau đẳng cấp Balamôn nên đã chống
lại Ba – la - môn cũng như muốn xóa bỏ chế độ bất bình đẳng trong xã hội nên đã ủng

hộ cho sự ra đời một tôn giáo mới: Phật giáo, Phật giáo ra đời đã trở thành đối trọng
của Ba – la - môn, Phật giáo phù hợp với nguyện vọng của các đẳng cấp và tầng lớp
dưới, nên ngay từ khi ra đời, Phật giáo đã được sự ủng hộ lớn lao của cư dân Ấn Độ,
đạo Phật ra đời là sự phủ nhận chế độ đẳng cấp của đạo Ba – la - mơn. Phật giáo đề ra
khẩu hiệu “chúng sinh bình đẳng”, giáo lí sâu sắc, hấp dẫn, đề cao sự bình đẳng,
hướng tới sự giải thoát, lễ nghi đơn giản nhanh chóng thu hút được đơng đảo tín đồ.
1.2

Sự phát triển của Phật giáo ở Ấn Độ
Sau khi ngộ đạo thành Phật, Phật Thích Ca Mâu Ni Đà bắt đầu vân du truyền

đạo, đợt đầu ông truyền dạy ở Xác-na (Sarnath) được 5 vị cơng tử. Từ đó Phật giáo đã
có tam bảo”: Thích Ca Mâu Ni là Phật bảo, kinh đển Phật giáo là Pháp bảo và các môn
đồ Phật giáo là Tăng bảo. Sau đó Phật Thích Ca Mâu Ni lại thu nhận 60 đệ tử ở thành


12

Bơ-Rơ-Na, lấy đó làm hạt nhân, vân du các nước để giảng đạo, tín đồ Phật giáo ngày
càng đơng, ảnh hưởng của Phật giáo ngày càng sâu rộng.
Phật Thích Ca Mâu Ni đi truyền đạo ở mọi nơi, dấu tích in dấu khắp hai bờ
sông Hằng. Những năm cuối đời, ông chủ yếu đi lại trong vùng giữa thành Vương Xá
và thành Xá Vệ.
Cùng với sự phát triển của Phật giáo, tín đồ và các nhà sư ngày càng đơng, khó
tránh khỏi cá lẫn với rồng, xấu tốt lẫn lộn. Mâu thuẫn trong nội bộ đạo Phật không
ngừng xuất hiện, do đó Phật Thích Ca Mâu Ni lại ban bố hàng loạt các đều giới luật
(cấm kị). Để phổ độ chúng sinh, Phật Thích Ca Mâu Ni đã khơng mệt mỏi, vân du
truyền đạo mọi nơi suốt 45 năm trời, cho đến năm 485 Phật tịch.
Sau một năm ngày Phật tịch, đại hội tăng đoàn lần thứ nhất được triệu tập với
500 tỳ kheo, kéo dài bảy tháng kể lại lời Phật. Đại hội tăng đoàn lần hai được triệu tập

vào khoảng thế kỷ 4 TCN (100 năm sau cuộc triệu tập lần thứ nhất), với khoảng 700 tỳ
kheo, kéo dài tám tháng.
Nội dung chủ yếu là giải quyết những bất đồng về thuật hành giới luật và luận
giải kinh điển hình thành hai phái: Trưởng lão bộ (tiểu thừa), Đại chúng bộ (Đại thừa).
Đại hội tăng đoàn lần thứ ba vào giữa thế kỉ 3 TCN do vua A-Dục (A-so-ca) triệu tập
với 1000 tỳ kheo, kéo dài 9 tháng, nhà vua bảo hộ Phật giáo, các tăng đoàn phát triển
mạnh.
Đại hội tăng đoàn lần 4 (khoảng 125-150 SCN), là hồn chỉnh kinh điển Phật
giới, gồm kinh, luật, luận (cịn gọi là tam tạng kinh điển). Phật giáo phát triển khắp Ấn
Độ thời A-sô-ca, cho đến đời Ca nhi sắc ca, Đến thời vua Gúp ta (thế kỉ 4 Ò 6 SCN)
đạo Phật suy thoái trước sự phát triển của Ấn Độ giáo, cuộc tấn công của người Hồi
giáo vào 1193 Phật giáo lâm vào tình trạng bị suy tàn.
Nguyên nhân đạo Phật bị suy tàn ở Ấn Độ do sự xung đột giữa Bà-la-môn giáo
và Phật giáo, Bà-la-môn giáo đã tồn tại rất lâu và đã ăn sâu vào đời sống, văn hóa của
cư dân Ấn Độ, ngay cả đức Phật, khi Ngài còn trẻ, các thầy dạy của Ngài cũng có các
tu sĩ của Bà la mơn giáo. Ngoài ra, đối với một đất nước đa dân tộc, đa sắc tộc, đa tôn
giáo thường xuyên xảy ra chiến tranh, xung đột như Ấn Độ thì triết lí của nhà Phật là
“lấy đức báo oán và sống thanh tịnh, cấm dục” thì nó khơng phù hợp. Bên cạnh đó,
người Hồi giáo cịn có âm mưa tiêu diệt Phật giáo và sự đấu đá, mâu thuẫn trong nội
bộ Phật giáo không ngừng xuất hiện đã làm cho Phật giáo ngày càng suy vong.


13

Thực tế là một xã hội như Ấn Độ, thời dó, chưa thể đạt được sự thống nhất thực
sự, chưa thể thủ tiêu hoàn toàn xu hướng phân liệt tản quyền, chưa thể xóa sự phân
chia đẳng cấp cũng như chưa thể loại trừ tín ngưỡng thần thánh để có tư duy triết lí. Vì
thế, sự ra đời cũng là một đòi hỏi và sự biến mất của Phật giáo trên chính mảnh đất đã
sinh ra Phật cũng là một thực tế.
Tuy hiện nay ở Ấn Độ chỉ còn chưa đến 1% dân số theo đạo Phật, nhưng suốt

hơn hai ngàn năm qua, tôn giáo này đã lan truyền rộng rãi suốt từ Địa Trung Hải tới
Nhật Bản, ngày càng có thêm nhiều tín đồ ở phương Tây và vẫn là một trong những
tơn giáo có tính chất quốc tế quan trọng nhất của nhân loại thế kỉ XX (với hơn 500
triệu tín đồ khắp các nước Ceylan, Miến Điện, Thái Lan, Campuchia, Lào, Việt Nam,
Tây Tạng, Trung Quốc, Nhật Bản, Mông Cổ, Triều Tiên, Đài Loan, một vài vùng ở Ấn
Độ, Pakistan, Nepan và cả Liên Xô (cũ).
Trong suốt q trình phát triển, chính sự bảo tồn và truyền bá Phật giáo ở
Kusana và từ Kusana mà đi vào Trung Á và Trung Quốc, đã dẫn tới sự hình thành
những quan niệm khác nhau về Phật giáo:
Thứ nhất là phái Tiểu thừa (Hinayana), giữ hình ảnh Phật ban đầu, coi Phật là
con người mẫu mực, đã tu đắc đạo và truyền bá đạo. Tiểu thừa lấy từ bi làm phương
tiện, noi gương Phật tu và hành động để tự giải phóng mình. Viết kinh bằng tiếng Pali,
truyền bá ở Đông Nam Á, Nam Ấn và Sri Lanka.
Thứ hai là phái Đại thừa (Mahayana), coi Phật là siêu việt, là “thần”, lấy từ bi
làm mục đích, nặng về triết lí. Theo Đại thừa, vũ trụ là ảo mộng khơng có cả Atman,
tức Bản ngã, dẫn tới quan niệm “vô ngã”, “hư vô”, “sắc – không”. Theo Đại thừa, nếu
thực hành từ bi và giới răn đạt đến “vơ ngã” thì có thể đắc đạo, khơng nhất thiết phải
tu hành. Mơn phái mở rộng, giáo hội “đại đồng” cho cả thiện nam và tín nữ, viết kinh
bằng Sanskrit, truyền bá ở Bắc Ấn và Bắc Á.
Thứ ba là phái Mật tông (Tantrism), từ Tantra nghĩa là “sách”, chủ trương sống
gần tự nhiên, ít triết lí, lấy lễ tiết ma thuật để đạt mục đích thiêng liêng. Phái này cũng
có nhiều sách (như tên gọi) để ghi chép những lễ tiết ma thuật tỉ mỉ, cụ thể, Mật tông
được thịnh hành ở Tây tạng.
Tuy Phật giáo bị tàn lụi ở Ấn Độ, nhưng lan ra các nước Bắc Á, Nam Á và lan
ra nhiều nước khác trên thế giới và đặc biệt là ở Đông Nam Á, Phật giáo phát triển
mạnh mẽ với số lượng tín đồ đơng đảo và ảnh hưởng vô cùng to lớn


14


1.3

Mĩ thuâ ̣t và kiến trúc Ấn Đô ̣
Nền nghệ thuật của Ấn Độ cổ đại là sự tiếp nối, phát triển của nghê ̣ thuâ ̣t kiến

trúc Ấn Đô ̣ được tiếp nối từ thế kỉ 3 tCn., không dứt đoạn và có sự chuyển biến tuần tự
giữa các phong cách nghệ thuật. Dấu ấn của các tôn giáo lớn như Phật giáo, Ấn Độ
giáo và Hồi giáo rất đậm trong nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc và hội hoạ.
Thời kì Mơrya (Maurya): Triều đại Mơrya thống nhất được các vương quốc ở
Miền Bắc Ấn Độ, dưới thời vua Asôka Phật giáo trở thành quốc đạo và cho dựng khắp
nơi những cột đá trên khắc chỉ dụ của nhà vua để giáo hố thần dân. Mũ cột Asơka
thường có tượng trịn hình những con thú khá tinh xảo. Thời kì Mơrya mở đầu cho
việc đục núi đá xây dựng chùa chiền và tăng viện. Kiến trúc đá mô phỏng theo các
dinh thự bằng gỗ thời trước. Chùa có mặt tiền mở rộng với lỗ cửa hình móng ngựa,
bên trên trổ cửa sổ, nóc có mái che (kudu). Tăng viện (vihara) hình vng, mặt tiền có
hiên với các cột trụ. Các chùa và tăng viện hang động nổi tiếng ở Bhaja (Bhãjã) và
Ajanta (Ajanta). Tháp (stupa) để tro di hài của Phật tổ, được xây đặc, hình bán cầu;
trên đỉnh tháp có một cái tán uy nghiêm. Tiêu biểu là những tháp ở Bhahut và Sanchi.
Tháp Bhahut (thế kỉ 3 tCn.) có hàng lan can đá với những hình chạm nổi thấp, thuật lại
những truyền thuyết Phật giáo, nét chạm hào hứng và phóng khống.
Thời hậu kì Mơrya, nghệ thuật Ấn Độ chia làm 3 dòng lớn theo vùng địa lí, dịng
Ganđara ở Đơng Bắc chịu ảnh hưởng của nghệ thuật Hi Lạp, lần đầu tiên sáng tạo
hình ảnh Phật Thích Ca. Nhân vật trong nghệ thuật Ganđara mang những nét pha trộn
thần Apôlông (Apollon) với phương Đông. Tượng làm bằng chất giả đá hoa hay bằng
đá phiến phớt xanh. Dòng Mattura, phát triển các phẩm chất của nghê ̣ th ̣t Ấn Đơ ̣, có
sự cân đối giữa các mảng khối và sự hài hoà giữa các đường nét. Tượng làm bằng cát
kết sẫm hồng. Dịng Amaravatiở Đơng Nam tinh tế và duyên dáng, có ảnh hưởng đến
nhiều nước Đơng Nam Á.
Thời kì Gupta: Dưới triều đại Gupta nghê ̣ thuâ ̣t Ấn Đô ̣ đạt tới đỉnh điểm và có
ảnh hưởng sâu rộng đến các đời sau. Các chùa hang ở thời Gupta và hậu Gupta có rất

nhiều tượng Phật và tượng các nhân vật khác trên mặt tiền, trên đường gờ bên trong
nhà. Trang trí điêu khắc phong phú ở thân và mũ cột, ở khung các cửa. Vách và trần
các tăng viện đều trang trí bằng các tranh tường. Hang động Ajanta nổi tiếng về tranh
vẽ vách đá được xếp vào hàng kiệt tác của nghệ thuật thế giới. Hậu kì Gupta, Ấn Độ
giáo thay thế Phật giáo, các đền ngoài trời thay thế các chùa hang. Đền thờ ở


15

Mahabalipuram được đẽo từ đá núi lửa nguyên khối, đó là bản trình bày bằng đá vũ trụ
luận của Ấn giáo. Đền thờ Lingajara ở Buvanêsơva, xây bằng gạch chiếm một diện
tích với những tháp đồ sộ có móc hình vành khăn (cikhara). Ở miền Nam, đền thờ có
các tháp tam quan (gopura) bên các tường bao quanh. Vô số tượng phủ lên tường và
lên nóc các đền thờ đến mức gần như quá tải. Tác phẩm điêu khắc nổi tiếng là pho
tượng đồng Siva Nataraja (Shiva Natarãja).

1.4 Sự lan tỏa của Phật giáo sang các nước Đông Nam Á
Quê hương của đạo Phật là ở Ấn Độ, đất nước có hàng trăm tơn giáo và hàng
vạn thánh thần, trong đó có những tơn giáo lớn nhất và lâu đời nhất thế giới.
Phật giáo tồn tại và liên tục phát triển là cả một quá trình vừa phải đấu tranh với
các tôn giáo khác (như Balamôn giáo, Hin đu giáo...) vừa phải đấu tranh ngay trong
nội bộ Phật giáo về mặt giáo lý.
Phật giáo được truyền bá vào khu vực Đông Nam Á chủ yếu bằng con đường
truyền giáo hoặc giao lưu văn hố, quan hệ thương mại bình thường. Lúc đầu, Phật
giáo từ Ấn Độ trực tiếp thâm nhập vào các nước vùng ven bờ biển phía Tây của Đơng
Nam Á. Sau đó một số nước tiếp nhận Phật giáo gián tiếp qua một nước trung gian
khác, đây cũng là một nét đặc biệt của Phật giáo ở Đông Nam Á.
Đông Nam Á cơ bản tiếp nhận Phật giáo Tiểu thừa và căn cứ vào địa bàn ảnh
hưởng người ta thường gọi Phật giáo Đông Nam Á là Phật giáo Nam Tơng. Cịn các
nước Bắc Á như Trung Quốc, Triều Tiên - Hàn Quốc, Nhật Bản (kể cả Việt Nam) tiếp

thu Phật giáo Đại thừa, nên thường được gọi là Phật giáo Bắc tông.
Phật giáo vào Đông Á Nam Á khá sớm, thâm nhập vào từng quốc gia trong
những thời gian không như nhau, bằng những con đường khác nhau và ảnh hưởng của
nó cũng khơng đều nhau. Người ta dự đốn Phật giáo vào Đơng Nam Á khoảng những
thế kỷ I-II đầu công nguyên.
Việt Nam: Phật giáo du nhập vào khoảng những năm 194-195, vào thế kỉ II đã
có các sư tăng người Ấn Độ. Năm 580 thần sư Tù Ni Đa lưu Chi (Vini Taruci) lập
thiền phái đầu tiên, năm 820, thiền sư Vô Ngôn Thông lập thiền phái thứ hai, Luy Lâu


16

nay thuộc huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Là 1 trung tâm Phật giáo lớn vào những
thế kỉ đầu Công Nguyên. Thiền phái thứ 3 do thiền sư Thảo Đường Vương lập vào
thời Lý và thiền phái thứ 4 – Trúc Lâm do vua Trần Nhân Tông mở đầu (đầu thế kỉ
XIII). Thời kỳ đầu, Phật giáo đã qua đường biển từ Ấn Độ vào Viê ̣t Nam, nhưng đến
quãng thế kỷ IV-V Phật giáo lại được truyền từ phương Bắc vào.
Ở Việt Nam, Phật giáo đã xuất hiện từ rất sớm, tuy không trở thành quốc giáo
nhưng đạo Phật có vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người Việt, ở
trong quá khứ, vào thời Lý, Phật giáo có một vị trí quan trọng, trong triều đình, ngồi
hai hàng văn võ, cịn có hệ thống tăng quan. Vào thời Trần, Phật giáo phát triển mạnh,
các vua Trần là người rất sùng đạo Phật, khi Thái tử đã lớn, các vua Trần thường
truyền ngôi sớm cho con và xưng là Thái Thượng Hoàng, rồi xuất gia tu hành. Đặc
biệt là trong thời nhà Trần, đã xuất hiện một vị Phật hồng đó là vua Trần Nhân Tông,
người đã sang lập nên thiền phái Trúc Lâm Yên Tử cịn tồn tại tới ngày nay.
Inđơnêxia: Phật giáo Đại thừa có mặt từ rất sớm, khoảng thế kỷ II, Phật giáo
phát triển rực rỡ thời kỳ quốc gia Srivijaya và ngôi chùa Borobudur là biểu tượng của
kiến trúc Phật giáo nổi tiếng của cả khu vực thời đó. Đến thế kỷ XIII, Phật giáo Tiểu
thừa xuất hiện thay thế Phật giáo Đại thừa.
Thái Lan: Là quốc gia Phật giáo lớn nhất Đông Nam Á, Phật giáo được truyền

bá vào Thái Lan vào khoảng năm 304 Phật lịch (năm 241 TCN) sau khi vua Asôca của
Ấn Độ bảo trợ việc kết tập kinh tạng lần thứ III, sau đó vua Asôca liền phái các vị sư
truyền giáo chia làm 9 đường đi về các địa phương khác nhau để hoằng pháp và Phật
giáo được truyền vào Thái Lan trong thời kỳ này.
Phật giáo là quốc giáo của Thái Lan, Thái Lan được biết đến như “đất nước của
những chiếc áo cà sa”, những ngơi Chùa cổ kính, lâu đời, với những ngôi chùa và
tượng Phật được dát bằng vàng, và hiện nay, theo thống kê có tới 95% dân số Thái
Lan là tín đồ của Phật giáo
Ở Campuchia : Khoảng thế kỷ V và Lào, chậm hơn, quãng thế kỷ VII và chính
thức Phật giáo có ảnh hưởng rộng lớn từ giữa thế kỷ XIV.. .Campuchia thời tiền Ăng
co vào thế kỉ VII hành giả Nghĩa Tịnh người Trung Quốc có nói đến việc các nhà vua
Siva giáo đàn áp Phật tử. Cuối thế kỉ VIII – XII Phật giáo Đại thừa hưng thịnh thời cực


17

thịnh của Đại thừa vào thế kỉ XII (1201) dưới triều đại Jayavarman VII vào cuối thế kỉ
XIII. Đại thừa phai dần khi Phật giáo Xây Lan được truyền theo con đường Xiêm.
Campuchia còn được mệnh danh là “Đất nước Chùa tháp” và ở đây, Phật giáo
đã trở thành quốc giáo của Campuchia, có một vị trí quan trọng và ảnh hưởng sâu rộng
đến đời sống văn hóa của cư dân Campuchia
Ở Lạng Xạng (Lào): Năm 1358 vua Phà Ngờm rước tượng Phật Pha Bang từ
Ăng co về thờ làm... Phâ ̣t giáo được du nhâ ̣p vào Lào bằng con đường nào và từ bao
giờ cho đến nay vẫn chưa có câu trả lời thống nhất. Nhưng tựu chung các nhà nghiên
cứu đều cho rằng, Phâ ̣t giáo đã có mă ̣t ở đất Lào từ trước khi quốc gia thống nhất, đô ̣c
lâ ̣p (giữa thế kỉ XIV) ra đời và vào bằng hai con đường chính: Lào tiếp nhận Phật giáo
không trực tiếp từ Ấn Độ mà từ Campuchia, Thái Lan. Thâ ̣m chí, mô ̣t số tác giả Lào
còn cho rằng đạo Phâ ̣t đến từ Lào từ thế kỉ thứ I Tây lịch, qua các nghiên cứu cho thấy
ngay từ trước thế kỉ XIV, Phâ ̣t giáo đã có mă ̣t trên đất Lào, nhưng chỉ với tính chất lẻ
tẻ ở từng địa phương, đă ̣c biê ̣t là những mương (tỉnh) Xỉkhốttạbong,

Xiêngđôngxiêngthông và Phuôn.
Mianma (Miến Điện): Được mệnh danh là “đất nước Chùa vàng”, theo các
truyền thuyết Phật giáo Miến Điện kể rằng Phật giáo theo đường biển đến Hạ Miến
Điện. Trong cuốn sách Jatakas vùng này được gọi là Suvarnabhumi, xứ sở Vàng. Cịn
các nhà biên niên sử dân tộc Mơn có một truyền thuyết nói về việc hai nhà sư đạo Phật
là Sona và Uttara, được hội nghị Phật giáo lần thứ ba họp ở Pataliputra vào khoảng
năm 241 TCN, cử đến xứ sở Vàng. Tuy nhiên, khơng có bằng chứng lịch sử nào về sự
xâm nhập của ảnh hưởng Phật giáo Ấn Độ vào Miến Điện sớm hơn những mảnh khắc
vụn bằng tiến Pali được tìm thấy ở Hmawza (Srikshetra hay Prome cổ), có từ khoảng
năm 500 sau Cơng ngun.

TIỂU KẾT CHƯƠNG
Trong lịch sử các quốc gia từ trước đến nay, Ấn Độ có thể coi là một trong
những trường hợp đặc biệt. Đó là một thế giới đầy huyền bí, kì diệu, là cái nơi của nền
văn minh lớn, phong phú và lâu đời. Từ buổi xa xưa của lịch sử, con người đã tạo


18

dựng nên những thành phố đông vui, oanh liệt một thời. Ấn Độ cịn là q hương của
những tơn giáo lớn như đạo Hinđu, đạo Phật, những tư tưởng triết học cao siêu đã từng
tỏa sáng tới nhiều quốc gia trên thế giới. Từ mấy ngàn năm trên đất nước Ấn Độ cổ
kính như thách thức tới thời gian, những ngôi đền đá uy nghi vẫn lấp sâu vào long
vách núi hay những thầng tháp cao vút vẫn đứng sừng sững vươn tới trời xanh. Không
giống nhiều quốc gia khác, nền văn minh của Ấn Độ chưa bao giờ tàn lụi mà vẫn
trường tồn cùng lịch sử.
Trong lịch sử phát triển của nền văn minh Ấn Độ, tuy có những lúc thăng trầm,
biến đổi theo dòng chảy của thời gian, nhưng nền văn minh của Ấn Độ vẫn phát tiển
mạnh mẽ và có những đóng góp vào nền văn minh của nhân loại, và một trong những
đóng góp to lớn của nền văn minh Ấn Độ vào nền văn minh nhân loại và đặc biệt là

khu vực Đông Nam Á là sự ra đời của đạo Phật (do Đức Phật Thích Ca sáng lập vào
thế kỉ VI TCN), đạo Phật ra đời đã phủ nhận chế độ đẳng cấp, đả phá độc quyền của
đạo Bà la mơn và thói lệ nghi thức trong tơn giáo Hindu, giảng dạy tình u thương từ
bi rộng mở. Đạo Phật ra đời đã đáp ứng nguyện vọng cho những tầng lớp bình dân,
những tầng lớp bị áp bức trong xã hội, tuy đạo Phật có những lúc phát triển mạnh,
nhưng trên thực tế là một xã hội như Ấn Độ, thời đó, chưa thể đạt được sự thống nhất
thực sự, chưa thể thủ tiêu hoàn toàn xu hướng phân liệt tản quyền, chưa thể xóa sự
phân chia đẳng cấp cũng như chưa thể loại trừ tín ngưỡng thần thánh để có tư duy triết
lí. Vì thế, sự ra đời cũng là một địi hỏi và sự biến mất của Phật giáo trên chính mảnh
đất đã sinh ra Phật cũng là một thực tế. Tuy Phật giáo hiện nay ở Ấn Độ chỉ còn chưa
đến 1% dân số theo đạo Phật, nhưng suốt hai ngàn năm qua, tôn giáo này đã lan rộng
ra khắp thế giới, nhưng Phật giáo khi lan truyền sang Đông Nam Á đã phát triển mạnh
mẽ, và đã ăn sâu vào đời sống văn hóa, tinh thần ở các quốc gia ở Đông Nam Á, ở Việt
Nam, vào thời Lý, Phật giáo được xem như là quốc giáo, vào thời Trần, Phật giáo có
một vị trí quan trọng trong xã hội, từ Vua tới những người bình dân, nghèo khổ đều
sùng đạo, Thái Lan là một quốc gia có hơn 95% dân số là tín đồ đạo Phật, và đạo Phật
là quốc giáo của quốc gia này. Campuchia được mệnh danh là “đất nước Chùa tháp”,
nước Lào nổi tiếng với Thạp Luổng và ở Lào và Campuchia là quốc giáo của hai quốc
gia này. Mianma thì được mệnh danh là “xứ sở Chùa Vàng”. Qua đây, ta dễ dàng thấy
rằng đạo Phật đã phát triển và có một vị trí quan trọng trong khu vực Đơng Nam Á, và
có sức sống mãnh liệt, cùng tồn tại và phát triển một cách hịa bình với nhiều tơn giáo


19

khác, từ đó cho thấy được vai trị quan trọng của Phật giáo trong đời sống tín ngưỡng
của các tầng lớp nhân dân trong xã hội Đông Nam Á.
Sự phát triển, lan tỏa của Phật giáo sang khu vực Đông Nam Á được thể hiện ở
hầu hết các lĩnh vực thuộc đời sống và văn hóa của cư dân ở đây. Trong đó, biểu hiện
dễ nhận thấy nhất, tập trung và hội tụ đầy đủ nhất của văn hóa Phật giáo ở Đơng Nam

Á chính là những cơng trình nghệ thuật, kiến trúc, điêu khắc và hội họa, đây là những
giá trị văn hóa “ vơ tiền khống hậu” ở khu vực này.


20

CHƯƠNG 2: ẢNH HƯỞNG CỦA PHẬT GIÁO ẤN ĐỘ ĐẾN NGHỆ THUẬT
KIẾN TRÚC ĐÔNG NAM Á

Lịch sử nghệ thuật Ấn Độ bao trùm hàng nghìn năm của một sự tiến hóa gần
như liên tục, như là một hệ quả tất yếu, phong phú và đa dạng. Nghệ thuật Ấn Độ giàu
có và đa dạng như chính các tơn giáo có ở Ấn Độ nổi bật lên là nghệ thuật của đạo
Phật, đạo Hindu, đạo Hồi…với sự phát triển không ngừng qua từng thời kì lịch sử và
biến đổi của bản thân chính quốc nên vơ cùng đa dạng.
Là một cái nôi của nhiều tôn giáo, kiến trúc Ấn Độ mang dấu ấn tôn giáo rất rõ
rệt, chứa đựng trong kết cấu của nó những quan niệm triết lí của người Ấn Độ cổ đại.
Phật giáo xuất hiện từ trước công nguyên và tồn tại cho tận tới ngày nay, trong quá
trình phát triển của Phật giáo từ Ấn Độ đã lan truyềnvà ảnh hưởng rộng lớn đến các
quốc gia như Trung Quốc, Trung Á…trong quá trình phát triển Phật giáo đã trở thành
quốc giáo của nhiều quốc gia trên thế giới. Khu vực Đơng Nam Á cũng khơng nằm
ngồi sự ảnh hưởng Phật giáo tiêu biểu là các quốc gia: Lào, Thái Lan, Campuchia ,
Mianma, Việt Nam…. Tuy nhiên trước khi văn hóa, tơn giáo của Ấn Độ vào khu vực
Đơng Nam Á thì các dân tộc ở khu vực này đã có những tín ngưỡng của mình họ thờ
các thần tự nhiên, các ma quỷ và các tù trưởng của mình. Khi Phâ ̣t giáo được du nhâ ̣p
sang khu vực Đông Nam Á chủ yếu chịu ảnh hưởng của Phâ ̣t giáo Tiểu thừa
(Hinayana), qúa trình tiếp thu yếu tố văn hóa Ấn Độ cùng với nền văn hóa bản địa đã
tạo được sự khác biệt trong tín ngưỡng, tôn giáo và đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc,
điêu khắc của khu vực nổi bật lên đó là những cơng trình chùa, tháp, đền tiêu biểu như:
Bơrơbuđu (của Inđônêxia), Vat Phra Keo (Thái Lan), Shwedagon (Myanma), Thạt
Luổng (Lào)…

Khi Phật giáo được du nhập vào Đông Nam Á cùng với văn hóa bản địa đã tạo
nên những giá trị văn hóa độc đáo, đặc biệt là nghệ thuật kiến trúc Đông Nam Á.


21

2.1 Kiến trúc đền, tháp
Ảnh hưởng của Phật giáo trong kiến trúc, nghệ thuật tạo hình Ấn Độ, kiến trúc
Phật là loại hình phát triển và thể hiện tài năng của các “kiến trúc sư” Ấn Độ, thoạt đầu
các Stupa chỉ là các núi đất để mai táng và không có bằng chứng về sự tơn kính, nhưng
từ khi vua Ashoka phân chia các Xá lợi của đức Phật và xây cất khắp Ấn Độ các Stupa
để bảo trì chúng thì Stupa trở thành loại hình kiến trúc đặc trưng của Phật giáo và trở
thành đối tượng của sự thờ phụng.
Trong các Stupa chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo thì nổi tiếng nhất là Stupa ở
Bharut, Amaravati và đặc biệt là ở Stupa Sanchi (hình 1)

Hình 1: Stupa Sanchi ( nguồn www.daophatngaynay.com)
Stupa I (còn gọi là đại Stupa) ở Sanchi là tháp Phật lâu đời nhất và được biết
đến nhiều nhất, là một cơng trình kiến trúc độc đáo kết hợp nhuần nhuyễn với nghệ
thuật điêu khắc ở trình độ cao.
Đại Stupa Sanchi I cao 15m, đường kính 35m, bao quanh gồm ba bộ phận
chính: một bán cầu, tượng trưng cho “quả trứng vũ trụ”, một vòng lâu, đáy hình
vng, xây trên chỏm hơi dẹt của bán cầu kia, trên nóc vọng lâu là một cây cột gắn ba
phiến đá lớn hình đĩa tạo thành một chiếc dù nhiều tầng và bộ phận cuối cũng là một
hàng rào đá gồm 120 cột bao quanh bán cấu tạo một lối đi xung quanh để rước xách


22

hoặc hành lễ. Xá lợi của đức Phật được đặt vào một cái tiểu nhỏ bằng pha lê, quàn

trong vọng lâu.
Đặc biệt ở bốn cổng lớn, mỗi cổng (torana) gồm hai cột đá đứng thẳng đỡ ba xà
ngang tượng trưng cho tam thế (quá khứ, hiện tại, tương lai). Trên những torana được
trạm trổ chi chít, gần như khơng cịn khoảng trống nào, các hình ảnh thú vật, con
người, á thần, tiểu thần…Tình yêu đối với động vật, cây cỏ xuất phát từ quan niệm
giáo lý nhà Phật về tính thống nhất của vạn vật khiến cho thiên nhiên sinh động và đầy
sức sống xuất hiện rộng rãi trên các bức phù điêu1.
Bao quanh ngọn tháp là một hàng lan can nằm ở khoảng 1/3 chiều cao từ dưới
lên. Trên đỉnh tháp thiết kế phần sân thượng hình vng khá rộng rãi, cũng có hàng
rào bốn phía, đây chính là nơi hành lễ trong những dịp quan trọng. 
Một hàng rào khác, được xây dựng từ những cột đá nguyên khối khổng lồ, bao
bọc quanh toàn bộ phần chân tháp. Hàng rào này nối liền với 4 cổng đá uy nghi được
chạm khắc vô cùng tinh xảo, gọi là “toran Dwar” và được đặt theo bốn hướng NamBắc- Đông- Tây.
Cả bốn cổng đều được tạc từ những phiến đá nguyên khối có trọng lượng chừng
hơn 400 tấn. Phù điêu và tượng được chạm khắc trên mỗi cổng đều miêu tả về cuộc
đời Đức Phật và những câu chuyện huyền thoại Phật Mơn.
Ngồi tịa Đại bảo tháp uy nghi với bốn cổng đá cực kỳ hồnh tráng và tinh xảo,
tại Sanchi cịn có vơ số những tiểu tháp, những ngơi đền và dấu tích của nhiều di sản
khác. 
Những cơng trình này lại ẩn chứa bên trong vô số kiệt tác nghệ thuật và điêu
khắc như tượng Phật, phù điêu…Trải qua hàng ngàn năm với những gì cịn lưu giữ
được, nơi đây cho chúng ta phải kinh ngạc trước vẻ đẹp cổ kính và uy nghi của nó.
Bên cạnh đó, những kiến trúc tuyệt vời này cũng thể hiện một cách rõ ràng tài
năng, kiến thức và cả sức sáng tạo đáng ngưỡng mộ của những con người đã sinh sống
từ hàng ngàn năm trước. Loại hình kiến trúc Stupa từ Ấn Độ đã có ảnh hưởng rộng rãi
tới khắp các xứ châu Á theo đạo Phật.
Sự lan tỏa của nghê ̣ thuâ ̣t Phâ ̣t giáo Ấn Đô ̣ sang khu vực Đông Nam Á đa dạng
và đă ̣c sắc không chỉ được thể hiê ̣n ở kiến trúc Chùa mà còn được thể hiện phong phú
ở nghê ̣ thuâ ̣t kiến trúc tháp, đền Phâ ̣t như Ăngco, Thạt Luổng, Bôrôbuđu …
1


Lương Duy Thứ (1996), Đại cương văn hóa Phương Đơng, Nxb Giáo dục, Tr 198 - 199


23

Nằm trên vị trí thuận lợi cho bn bán quốc tế, nên từ rất sớm văn hóa Ấn Độ
đã gia nhập và có ảnh hưởng tới sự hình thành của các quốc gia ở đảo Giava. Phật giáo
đã có mặt ở Giava cùng một lúc với Siva giáo, nhưng phải đến triều đại vua Sailendra
thì Phật giáo mới chiếm được vị trí độc tơn với hàng loạt các cơng trình cơng trình
kiến trúc tiêu biểu nổi bật như đền Bơrơbuđu (hình 2).

Hình 2: Bơrơbuđu (nguồn www.borobudupark.com)
Vào khoảng thế kỉ I sau Công nguyên, Phâ ̣t giáo và Ấn Đô ̣ giáo bắt đầu du nhâ ̣p
vào Inđônêxia thông qua cuô ̣c giao thương và các nhà truyền đạo của hai giáo phái.
Bôrôbuđu là công trình Phâ ̣t giáo lớn nhất thế giới, Bôrôbuđu được xây dựng trên
vùng đồng bằng Kendu, vốn nổi tiếng xưa kia là ngôi đền của Java. Ngôi đền ngự trị
trên mô ̣t quả đồi cụt đầu và được xây dựng bằng đá núi màu xanh xám. Cấu trúc trên


24

cùng gồm ba hồi lang tròn. Đó chính là mô hình cơ bản của một đàn tràng: phần vuông
là biểu tượng của đất, tròn biểu tượng cho trời, tất cả các bâ ̣c cô ̣ng lại thành con số 9,
con số đại cực của đạo Phâ ̣t.
Dọc các hồi lang vuông này được trang trí bởi 1300 bức phù điêu kì diê ̣u với
tổng chiều dài là 2500m. Đây là sắc giới (Rupadhatu), thế giới của cái sắc, mà ở đấy
con người từ bỏ được những thèm khát dục vọng, nhưng vẫn còn giữ lại danh và sắc.
Các góc nằm ở phía ngoài các lan can bao quanh các hồi lang vuông đều là tượng Phâ ̣t
bằng đá ngồi xếp bằng đá trong thế Liên hoa tọa. Có tất cả 432 pho tượng.

Tiếp sau các hồi lang vuông là chân của phần đàn tràng phía trên, ở đây có thể
nhìn ra bên ngoài, từ đây tất cả đô ̣t nhiên mở bung ra, tầm nhìn của con người không
còn bị che chắn như khi ở các hồi lang vuôn nữa. Tới đây ta có mô ̣t cảm xúc tâm linh
phóng khoáng và ta đã bước vào vô sắc giới (Arpadhatu).
Ở Bôrôbuđu sự chuyển tiếp từ đất tới trời, từ sắc tới không (vô sắc diễn ra cách
nhẹ nhàng, êm ái). Trong tất cả 72 ngôi tháp con có tường trổ ô mắt cáo đứng trên ba
hồi lang tròn đều có mô ̣t tượng Phâ ̣t ở bên trong. Mă ̣t Ngài chỉ hiê ̣n ra lờ mờ hiê ̣n ra
qua những ơ đá với những hình dáng khác nhau này cứ giảm dần khi ta tới gần ngôi
tháp trung tâm và là sự biểu thị sự khuất dạng mỗi lúc một tăng của Đức Phật. Tất cả
những hình Phật đều dùng một tay lam ấn quyết (mudra) như nhau: chuyển pháp luân.
Bôrôbuđu tỏa muôn ngàn sắc suốt từ sáng tới đêm và tự lấp lánh như một cột
đèn hiệu khổng lồ. 504 đức Phật của ngôi đền quay mặt ra bốn phương trời và bao quát
cả thế giới bằng cặp mắt ngời sáng và từ bi. Không chỉ ngôi tháp mà tất cả các góc ở
các tường góc lan can (hình 3).
Về mặt tơn thờ thì Bơrơbuđu được coi là một Stupta Phật giáo theo tinh thần Ấn
Độ, ngày nay Bơrơbuđu khơng chỉ là một kì quan của Inđơnêxia mà cịn là cơng trình
nghệ thuật kiến trúc vĩ đại của phật giáo và cả nhân loại.
Nghệ thuật kiến trúc Khơme thời kỳ Ăngco mang một sắc thái vô cùng độc đáo,
tuy chịu ảnh hưởng Ấn Độ, nhưng các kiến trúc Khơme thới kỳ này không những
không giống với bất kỳ kiến trúc nào của Ấn Độ và của các dân tộc khác cùng chịu
ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ, mà còn đạt được những thành tựu kỳ diệu mà các nền kiến
trúc kia khơng hề có. Chính vì vậy mà một số kiến trúc Khơme thời Ăngco Vát
(thường được gọi là đế Thiên) và Bayon (thường được gọi là Đế Thích) được coi như
là những kỳ quan của nhân loại.


25

Thời kỳ tiền Ăngco (thời kỳ Chân Lạp) còn mang nhiều dấu ấn và kiểu cách
của Ấn Độ - những đền thờ (tiếng Khơme là prásat) nhiều tầng có bình đồ hình vng

và các tầng trên là hình ảnh lắp tại của tầng phịng chính, thì kiến trúc Ăngco đã thoát
khỏi những quy cách Ấn Độ và trở thành một loại hình kiến trúc độc đáo có một
khơng hai – kiến trúc đền núi.
Các đền tháp Khơme thời kỳ Ăngco đều là những kiến trúc có đáy hình vng
trên đỉnh là kiến trúc hình chóp nội thất của các kiến trúc Khơme thường rất hẹp và
các phù điêu phủ trên bề mặt kiến trúc chỉ có ý nghĩa tơn giáo chứ không phải chiêm
ngưỡng, để phục vụ người xem, những vòng rào hồi lang đồng tâm, những hào nước
bao quanh tượng trưng cho các lục địa, các bức thành và đại dương bao quanh núi vũ
trụ (hình 4). Phần lớn các đền tháp Phật giáo Khơme đều thuộc triều đại Jayavarman
VII với nhiều cơng trình lớn như Bayon, Angkor Thom…


×