Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Phong trào đấu tranh của trí thức thủ dầu một (1954 1975)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (541.62 KB, 102 trang )

Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LỊCH SỬ

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2014 - 2015

PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA TRÍ THỨC
THỦ DẦU MỘT (1954 – 1975)

GVHD: HUỲNH TÂM SÁNG
SVTH: Đoàn Thị Như Thủy
Nguyễn Thị Ngọc Mai
Nguyễn Thị Bích Như
Ngơ Thị Xuân Hường

Thuộc nhóm ngành khoa học: Xã hội và nhân văn
Trang 1


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)

MỤC LỤC
PHONG TRÀO ĐẤU TRANH CỦA TRÍ THỨC THỦ DẦU MỘT (1954 –
1975)
Tên đề mục

Trang


Dẫn luận..............................................................................................4
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
6. Bố cục
Chương 1: Khái quát về tỉnh Thủ Dầu Một và khái niệm về trí
thức..................................................................................................16
1.1. Khái quát về quá trình hình thành và phát triển của tỉnh Thủ Dầu
Một....................................................................................................16
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tỉnh Thủ Dầu Một.. .16
1.1.2. Bối cảnh xã hội trước năm 1954..........................................19
1.2. Khái niệm về trí thức..................................................................20
Chương 2: Trí thức Thủ Dầu Một trong cuộc kháng chiến
chống Mĩ cứu nước (1954 – 1965)...............................................33
2.1. Trí thức Thủ Dầu Một từ đấu tranh chính trị địi thi hành Hiệp
định Genève tiến tới “đồng khởi” năm 1960 (1954-1960)...............33
2.1.1. Tình hình đội ngũ trí thức Thủ Dầu Một sau Hiệp định Genève
.33

Trang 1


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
2.1.2. Phong trào đấu tranh chính trị địi thi hành Hiệp định Genève
.38
2.1.3. Trí thức Thủ Dầu Một từng bước củng cố xây dựng lực lượng
cách mạng tiến tới “đồng khởi” .......................................................45
2.2. Trí thức Thủ Dầu Một trong giai đoạn chống chiến lược “Chiến

tranh đặc biệt” của Mĩ (1961-1965)..................................................54
2.2.1. Cuộc đấu tranh trên mặt trận chính trị của trí thức Thủ Dầu
Một....................................................................................................55
2.2.2. Trí thức Thủ Dầu Một bước đầu xây dựng hậu phương cách
mạng ở chiến khu..............................................................................66
2.3. Trí thức Thủ Dầu Một trong đấu tranh trực diện chống đế quốc Mĩ
xâm lược (1965-1972).......................................................................71
.......2.3.1. Trí thức Thủ Dầu Một đấu tranh chống chiến lược “Chiến
tranh cục bộ” của Mĩ.........................................................................73
2.3.2. Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một trong giai
đoạn chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ..............79
2.4. Trí thức Thủ Dầu Một trong việc góp phần đánh bại đế quốc Mĩ,
hoàn thành thống nhất đất nước (1973-1975)..................................83
2.4.1. Tình hình đội ngũ trí thức Thủ Dầu Một sau Hiệp định Pariss.
83
2.4.2. Trí thức Thủ Dầu Một đấu tranh chính trị địi thi hành Hiệp
định Pariss sau năm 1973.................................................................85
2.4.3. Trí thức Thủ Dầu Một góp phần xây dựng lực lượng hậu
phương vững chắc tiến tới giành thắng lợi trong cuộc tổng tiến công
và nổi dậy mùa xuân năm 1975........................................................90

Trang 2


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
Chương 3: Vai trò và đặc điểm của trí thức Thủ Dầu Một trong
phong trào giải phóng dân tộc giai đoạn 1954 – 1975............93
3.1. Vai trị của trí thức Thủ Dầu Một trong phong trào giải phóng dân
tộc.....................................................................................................93
3.2. Đặc điểm của trí thức Thủ Dầu Một trong phong trào giải phóng

dân tộc..............................................................................................96

Kết luận...........................................................................................98
- Bài học kinh nghiệm từ phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu
Một (1954-1975).
- Một số đề xuất nhằm phát huy tiềm năng của trí thức Thủ Dầu Một
trong giai đoạn mới.
Tài liệu tham khảo.......................................................................102

Trang 3


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
DẪN LUẬN
1.

LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
“Hiền tài là ngun khí quốc gia, ngun khí thịnh thì thế nước

mạnh, rồi lên cao, ngun khí suy thì thế nước yếu, rồi xuống thấp.
Vì vậy, các đấng thánh đế minh vương chẳng ai không lấy việc bồi
dưỡng nhân tài, kén chọn kẻ sĩ, vun trồng ngun khí làm việc đầu
tiên”1. Có thể khẳng định rằng từ ngàn xưa ông cha ta đã có quan
niệm đúng đắn về tầm quan trọng của nhân tài như là khát vọng và
ngọn lửa thổi bùng lên sức sống của dân tộc. Thật vậy, trong lịch sử
dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, trí thức là lực lượng
đóng vai trị rất quan trọng trong việc lãnh đạo nhân dân thực hiện
sự nghiệp đấu tranh và giải phóng dân tộc.
Cách mạng Việt Nam từ khi có sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
đã được đơng đảo quần chúng nhân dân hưởng ứng. Trong đó, lực

lượng trí thức yêu nước đã tiên phong và tự nguyện đứng vào hàng
ngũ của Đảng. Tầng lớp trí thức cùng với các tầng lớp và giai cấp
khác đã tạo thành mặt trận đoàn kết “toàn dân và toàn diện” để làm
nên những chiến thắng vẻ vang cho dân tộc. Cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp và đặc biệt là công cuộc đấu tranh chống đế
quốc Mĩ xâm lược là những ví dụ điển hình và vơ cùng sinh động cho
phong trào đoàn kết đấu tranh của nhân dân. Riêng đối với trí thức
trên địa bàn Thủ Dầu Một trong giai đoạn kháng chiến chống Mĩ từ
1954-1975, do những điều kiện của lịch sử dân tộc mà lực lượng trí
thức Thủ Dầu Một đã có sự chuyển biến sâu sắc về mặt chính trị; qua
đó đóng góp vai trị quan trọng trong sự nghiệp giải phóng Thủ Dầu
Một nói riêng và miền Nam nói chung.
Sau đại thắng mùa xuân năm 1975, cả nước cùng nhau hăng say
tiến hành xây dựng Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Nhận thức được trách
nhiệm và vai trị của mình, lực lượng trí thức đã đi đầu trong việc
1

Thân Nhân Trung, Bia tiến sĩ khoa Nhâm Tuất (1442).

Trang 4


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
nâng cao dân trí, tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật để xây
dựng và kiến thiết nước nhà. Như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng
định: “Trí thức phục vụ nhân dân bây giờ cũng cần, kháng chiến kiến
quốc cũng cần, tiến lên xã hội chủ nghĩa càng cần, tiến lên cộng sản
chủ nghĩa lại càng cần”. Theo Người: “Muốn phát triển văn hố thì
phải cần thầy giáo, muốn phát triển sức khoẻ của nhân dân thì phải
cần thầy thuốc, muốn phát triển kỹ nghệ thì phải cần các kỹ sư” 1. Vì

vậy mà đội ngũ trí thức có vai trị quyết định đóng góp tài năng và
sức lực vào sự nghiệp cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, đổi mới đất
nước, xây dựng xã hội: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh”. Thực tiễn lịch sử mang lại nhận thức đúng đắn rằng
“trong mọi lĩnh vực, mọi thời kỳ cách mạng đều rất cần đến học vấn,
tài năng và tâm huyết, sức lực của giới trí thức” 2. Từ đây, đội ngũ trí
thức sẽ đồng hành cùng dân tộc tiến hành cuộc cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân và tiến lên cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Với mong muốn có cái nhìn sâu sắc và hồn thiện hơn về lực
lượng trí thức ở Thủ Dầu Một và cũng nhằm cung cấp nhận thức khoa
học và hệ thống về hoạt động và vai trò của trí thức Thủ Dầu Một
trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ, chúng tôi đã chọn đề tài
“Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)” để
nghiên cứu.
Làm rõ diện mạo của phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu
Một khơng những góp phần nhận diện và làm rõ những đóng góp của
trí thức Thủ Dầu Một mà qua đó cịn cho thấy một lát cắt lịch sử của
phong trào đấu tranh của trí thức Đông Nam Bộ trong giai đoạn 1954
– 1975. Thêm nữa, việc nghiên cứu và đánh giá đúng vai trò và
những đóng góp của trí thức Thủ Dầu Một trong phong trào đấu tranh
cách mạng giai đoạn 1954 – 1975 sẽ tạo điều kiện cho việc:
1

Hồ Chí Minh (1984), Tồn tập, t.7, NXB. Sự thật, Hà Nội, tr. 374.
Lê Văn Điện, “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vị trí, vai trị của trí thức trong sự nghiệp cách mạng”, Tạp chí Xây
dựng Đảng, 30/6/2012, truy cập ngày 3/3/2015.
2

Trang 5



Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
- Hệ thống hóa tồn bộ lịch sử đấu tranh cách mạng và những
đóng góp của trí thức Thủ Dầu Một trong giai đoạn 1954 – 1975. Từ
đây, ý nghĩa lịch sử của đề tài sẽ được làm rõ.
- Rút ra những đặc điểm chính từ “Phong trào đấu tranh của trí
thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)”. Những thành tựu, hạn chế và bài
học rút ra từ việc nghiên cứu đề tài sẽ là cơ sở quan trọng để đóng
góp cho việc xây dựng đội ngũ trí thức trong cơng cuộc hiện đại hóa
đất nước thời hiện đại.
- Làm rõ những đóng góp của trí thức địa phương trong một giai
đoạn lịch sử đầy biến động của dân tộc. Đề tài sẽ góp phần vào bức
tranh tổng thể nghiên cứu phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu
Một nói riêng và trí thức Đơng Nam Bộ nói chung.
- Bước đầu đưa ra những nhận xét, kinh nghiệm từ phong trào
đấu tranh cách mạng giai đoạn 1954 – 1975 để tạo cơ sở khoa học
góp phần cho các cơng trình nghiên cứu chun sâu hơn về những
đóng góp của trí thức Thủ Dầu Một trong cơng cuộc xây dựng và bảo
vệ đất nước hiện nay.
- Cơng trình nghiên cứu có thể được sử dụng làm tài liệu tham
khảo và giảng dạy cho các môn học và chuyên đề có liên quan như:
Lịch sử Việt Nam hiện đại, Lịch sử trí thức Việt Nam, Lịch sử kháng
chiến Nam Bộ.... Xa hơn, những cá nhân và ban ngành quan tâm có
thể xem đây là đóng góp hữu ích để vận dụng vào thực tiễn điều
hành và quản lý tại địa phương và cơ sở cũng như hoạch định chiến
lược phát triển đội ngũ trí thức trong thời đại mới.
Những nhiệm vụ và ý nghĩa nêu trên đã cụ thể hóa cho tầm
quan trọng của việc nghiên cứu đề tài: “Phong trào đấu tranh của
trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)”. Về tổng quát, đề tài đã cho
thấy được tính cấp thiết cả về cơ sở lý luận và thực tiễn vận dụng,

nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa thì Đảng và Nhà nước Việt Nam

Trang 6


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
đã ngày càng nêu cao vai trò của trí thức trong cơng cuộc hội nhập
quốc tế của đất nước.
2.

LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ
Lực lượng trí thức là lực lượng đại biểu cho tri thức và trí tuệ của

dân tộc. Kháng chiến và kiến quốc mà khơng có trí thức tham gia thì
sẽ khơng thể thành cơng. Trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mĩ ở Sài Gịn - Gia Định (1945-1975), giới trí thức
khơng những có vai trị to lớn trong mặt trận tư tưởng, văn hóa, giáo
dục và khoa học mà cịn cả trong công tác lãnh đạo, quản lý. Họ đã
cùng các tầng lớp khác trong xã hội góp phần vào thắng lợi vĩ đại
của dân tộc. Nhiều nhà trí thức lớn với sự hy sinh vì sự nghiệp cách
mạng của dân tộc đã để lại tấm gương sáng cho nhiều thế hệ noi
theo.
Tác phẩm “Trí thức Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp
(1945-1954)” của tác giả Hồ Sơn Diệp (Nxb. Đại học Quốc gia thành
phố Hồ Chí Minh, 2005) đã đi vào làm rõ vai trị của tầng lớp trí thức
trong cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954). Trong cuộc kháng
chiến ở Đơng Nam Bộ, đại đa số trí thức đều tham gia kháng chiến;
đặc biệt là đội ngũ trí thức ở Nam kỳ lục tỉnh như Bình Dương, Bình
Phước, Đồng Nai,... Họ tham gia đấu tranh trên tất cả các lĩnh vực
chính trị, kinh tế, văn hóa,... Bác Hồ từng đánh giá vai trị của đội ngũ

trí thức như sau: “Trí thức là vốn liếng quý báu của dân tộc. Ở nước
khác như thế, ở Việt Nam càng như thế. Chứng thực là trong cuộc
kháng chiến cứu quốc này, những người trí thức Việt Nam đã chung
một phần quan trọng. Một số thì trực tiếp tham gia vào cơng việc
kháng chiến, hy sinh cực khổ, chen vai thích cánh với bộ đội và nhân
dân. Một số thì hăng hái hoạt động giúp đỡ ở ngoài”1.

Trả lời một nhà báo nước ngoài, ngày 22-6-1947, trong Một số lời dạy và mẫu chuyện về
tấm gương đạo đức của Chủ tịch Hồ Chí Minh, t.5, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1995,
tr. 156.
1

Trang 7


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
Tác phẩm “Trí thức Sài Gịn - Gia Định 1945 – 1975” do tiến
sĩ Hồ Hữu Nhựt chủ biên (NXB Chính trị Quốc gia, 2002) đã tổng kết
lại những chặng đường cách mạng của giới trí thức trong sự nghiệp
giải phóng dân tộc. Cuốn sách nói về hoạt động của đội ngũ trí thức
ở thành phố nói chung và ở bưng biền nói riêng (trong đó có Thủ Dầu
Một) trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng với những hình thức đấu
tranh đặc sắc trên các lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh tế,… đánh
những địn càng lúc càng hiểm vào kẻ thù. Ngồi ra cuốn sách cịn
nêu lên một số gương mặt trí thức tiêu biểu cho phong trào yêu nước
và cách mạng như Nguyễn Thị Bình, Nguyễn Bính, Nguyễn Hữu Ba,
Phạm Văn Bạch,… thể hiện ý chí anh hùng và trí tuệ Việt Nam trong
thời đại mới. Thời kì 1945-1975, tầng lớp trí thức Sài Gịn - Gia Định
đã không thờ ơ với sự nghiệp cứu nước, khơng đứng nhìn thời cuộc
mà họ đã tham gia đấu tranh từ đầu đến cuối của cuộc cách mạng,

sớm hay muộn, mạnh hay yếu, có lãnh đạo hay tự phát, họ đã luôn
luôn đứng vào hàng ngũ cách mạng để đấu tranh, họ cùng sát cánh
với đồng bào mình chống kẻ thù xâm lược đến phút cuối cùng.
Tác phẩm “Thủ Dầu Một Bình Dương đất nước – con người”
do tiến sĩ Hồ Sơn Diệp chủ biên (NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà
Nội, 2012). Sách nói về truyền thống đánh giặc ngoại xâm của cư
dân Thủ Dầu Một – Bình Dương, tinh thần bất khuất trước quân xâm
lược đã ngấm sâu vào trong mỗi con người, và khi tiếp thu ánh sáng
của chủ nghĩa Mac – Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh, người dân Bình
Dương đã đồn kết một lòng dưới ngọn cờ Đảng. Truyền thống cách
mạng cùng với địa thế chiến lược là điều kiện để ta tổ chức các trận
chiến quan trọng, xây dựng căn cứ kháng chiến. Trong hồn cảnh
như vậy, con người Bình Dương (trong đó có phần lớn những người trí
thức) đã được tôi luyện trong sự khốc liệt của chiến tranh, phát huy
sự đồn kết, tài năng lãnh đạo góp phần làm nên những thắng lợi vẻ
vang như: chiến thắng Bến Cát, chiến thắng Phước Thành, chiến
Trang 8


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
thắng Đường Long, chiến thắng Đất Cuốc, phá ấp chiến lược Bến
Tượng,...
Tác phẩm “Một số vấn đề về trí thức và nhân tài” của Phó
Giáo sư, Tiến sĩ Đức Vượng (NXB Chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội,
2013). Nội dung sách đề cập tới việc xây dựng và phát triển đội ngũ
trí thức là một trong những chiến lược trọng điểm của đất nước,
thông qua một số chuyên đề nghiên cứu trong sách sẽ làm sáng tỏ tư
tưởng Hồ Chí Minh về trí thức, q trình đổi mới tư duy của Đảng về
vấn đề trí thức, đánh giá đúng thực trạng của đội ngũ trí thức Việt
Nam hiện nay, dự báo về khả năng phát triển của đội ngũ trí thức

trong giai đoạn 2011 – 2020, đưa ra một số biện pháp , kiến nghị để
góp phần xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam đáp ứng nhu cầu của sự
nghiệp cơng nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước.
Tác phẩm “Phụ nữ Bình Dương 45 năm đấu tranh giải
phóng (1930 -1975)” do Ban chấp hành hội liên hiệp phụ nữ tỉnh
Bình Dương biên soạn (NXB Chính trị quốc gia, 2003). Trải qua hai
cuộc đấu tranh kháng chiến trường kỳ của dân tộc, bên cạnh những
đóng góp to lớn của nam giới, thì những đóng góp của phụ nữ cũng
khơng kém phần quan trọng trong đó có phụ nữ tỉnh Bình Dương,
phụ nữ tỉnh đã góp phần tô điểm lên những trang lịch sử hào hùng
của dân tộc tiêu biểu như : Lưu Hồng Thoại, Nguyễn Thị Hiếu,…Mặt
khác cuốn sách đã ghi lại những đặc điểm truyền thống hào hùng
của phong trào đấu tranh phụ nữ Thủ Dầu Một trong những năm
kháng chiến chống ngoại xâm làm góp phần giáo dục truyền thống
cho các thế hệ sau, cùng tiếp bước xây dựng chính quyền cách
mạng.
Tác phẩm “Phong trào đấu tranh chống Mĩ của giáo chức,
học sinh, sinh viên Sài Gòn” của Hồ Hữu Nhựt do (Nxb Chính trị
Quốc gia – Sự thật, Hà Nội), nói về hoạt động yêu nước của giáo viên,
học sinh, sinh viên ở Sài Gịn nói chung và ở các vùng tạm chiếm nói
Trang 9


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
riêng như ở Thủ Dầu Một, Đồng Nai, Mĩ Tho,… là một bộ phận đặc
biệt quan trọng của mặt trận đấu tranh chính trị cơng khai trong lịng
địch, trong kháng chiến chống Mĩ, một số giáo viên đứng ra vận động
giáo viên, học sinh và nhân dân đấu tranh chống tố cộng, diệt cộng,
chống bắt lính, địi dân sinh dân chủ,... họ đã cống hiến sức lực và trí
tuệ của mình vào thắng lợi vĩ đại của dân tộc.

Tác phẩm “Lịch sử Đảng bộ thị xã Thủ Dầu Một tập II
(1954 -1975)” do Đảng Cộng Sản Việt Nam, Ban chấp hành thị xã
Thủ Dầu Một biên soạn (Nxb Chính trị quốc gia, 1988). Bên cạnh Lịch
sử Đảng bộ thị xã Thủ Dầu Một tập I (1930 -1954) thì tập II đã tái tạo
hoàn cảnh lịch của thị xã Thủ Dầu Một trong những năm (1954 –
1975), đây là một cuộc đấu tranh lâu dài, gian khổ và trường kỳ của
dân tộc ta trong tất cả các lĩnh vực mà nổi trội là cuộc đấu tranh của
học sinh, sinh viên sau hiệp định genève 1954 và hiệp định Pariss
1973.
Tác phẩm “Trí thức tinh hoa Việt Nam đương đại” do Hàm
Châu biên soạn (Nxb Trẻ, 2014) trong tác phẩm đã giới thiệu 56
gương mặt trí thức Việt Nam tiêu biểu, tất nhiên 56 gương mặt này
chỉ là một phần nào đó trong đơng đảo các tầng lớp trí thức ra sức
cống hiến cho dân tộc làm cho Việt Nam ngày càng tiến bộ. Họ
không chỉ gồm những nhà khoa học, bác sĩ, kỹ sư, thầy giáo, nghệ sĩ,
… họ đã lập thân tong bối cảnh đất nước có nhiều biến động nhưng
khơng vì thế mà những nhà trí thức này chấp nhận số phận mà họ
tìm cách thích nghi với mỗi hoàn cảnh cụ thể nhằm vượt qua để xây
dựng đất nước của mình văn minh, tiến bộ hơn. Nhà văn hóa Hữu
Ngọc đã đánh giá cuốn sách “một bức họa hoành tráng phản ánh giai
đoạn lịch sử Việt Nam đương đại”.
Tác phẩm “Vấn đề Trí thức và cách mạng” tác giả Hồ Chí
Minh do (Nxb Sự thật, 1976) trong tác phẩm thể hiện cao sự quan
tâm sâu sắc đến lực lượng trí thức bồi dưỡng nâng cao của dân trí
Trang 10


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
trong tồn quốc. Người từng nói “ Trí thức là vốn liếng quý báu của
dân tộc”, người khẳng định trong sự nghiệp cách mạng Hồ Chí Minh

đã khẳng định lực lượng cách mạng là chủ yếu là công nhân và nơng
nhân, nhưng đồng thời trí thức cũng là lực lượng quan trọng của cách
mạng. Trong tác phầm này chủ yếu thể hiện các lời kêu gọi của Bác
trong Lời kêu gọi Xóa nạn mù chữ như “ Thư gửi anh chị em giáo viên
bình dân học vụ, bên cạnh đó người cịn gửi dến cán bộ giáo dục, học
sinh sinh viên các trường lớp bổ túc văn hóa”. Sự quan tâm sâu sắc
của Hồ Chí Minh trong sự nghiệp giáo dục đặt nền tảng cho sự phát
triển.
Tác phẩm “Trí thức Việt Nam thực tiễn và triển vọng” do Giáo
sư Phạm Tất Dong, (Nxb Chính trị quốc gia,1995) qua tác phẩm thể
hiện trí thức cách mạng và phát triển là ba vấn đề chính khơng thể
tách rời nhau. Sự đồn kết giữa các tầng lớp nơng-cơng-trí thức đã
làm nên nhiều cuộc cách mạng giải phóng dân tộc chống giặc ngoại
xâm. Trong cuốn sách này thể hiện vai trò quan trọng của đội ngũ trí
thức khơng ngừng nâng cao kiến thức của các tầng lớp khác côngnông dân dần dược trí thức hóa thực hiện nhiệm vụ cách mạng của
mình. Sau chặng đưởng cách mạng 50 năm xây dựng và bảo vệ Nhà
nước xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, nhân dân ta bắt tay vào sự nghiệp
cơng nghiệp hóa hiên đại hóa đất nước. Điều này phụ thuộc vào
chính sách giáo dục đào tạo và bồi dưỡng nguồn nhân lực và cũng
như trình độ và nhân cách con người Việt Nam.
Tác phẩm “Trí thức với Đảng Đảng với trí thức trong sự
nghiệp giải phóng và xây dựng đất nước” tác giả Nguyễn Văn
Khánh (Nxb Thông tấn, 2012) tác phẩm thể hiện các vấn đề cụ thể
về trí thức Việt Nam qua quan diểm của chủ nghĩa Mác-Lenin và tư
tưởng Hồ Chí Minh cũng như vai trị của trí thức trong sự nghiệp cách
mạng vơ sản của mình.Trí thức thời nào cũng có trong giai đoạn
phong kiến chưa hình thành nhiều và thể hiện ở mọi mặt trong đời
Trang 11



Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
sống xã hội trước khi có Đảng lãnh đạo. Sau khi có đảng hoạt động
của giới trí thức càng mạnh mẽ và có những đóng góp to lớn vào hai
cuộc kháng chiến chống Pháp và Chống Mĩ, cũng như trong sự
nghiệp phát triển và đổi mới. Tác phẩm này thể hiện sự đánh giá sâu
sắc của Hồ Chí Minh vai trị và những đóng góp to lớn của trí thức
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Những bài học đấu tranh cách mạng của giới trí thức cùng với sự
lãnh đạo của Đảng có ý nghĩa sâu sắc đối với giai đoạn hiện nay và
về sau, nhất là trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
góp phần từng bước xây dựng nền kinh tế tri thức theo định hướng
xã hội chủ nghĩa đối với Đơng Nam Bộ nói chung và Bình Dương nói
riêng.
3.

MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Đề tài “Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một

(1954 – 1975)” góp phần cung cấp những nhận thức tương đối hoàn
chỉnh về đặc điểm, thái độ chính trị và vai trị của trí thức Thủ Dầu
Một trong giai đoạn 1954-1975.
Đề tài hướng đến những mục tiêu chủ yếu:
- Làm rõ vai trò, đặc điểm của đội ngũ trí thức Thủ Dầu Một trong
phong trào đấu tranh cách mạng giai đoạn 1954 – 1975.
- Làm rõ thực tiễn đấu tranh cách mạng trên các “mặt trận” chủ
chốt (chính trị, kinh tế, qn sự, văn hóa – tư tưởng,…) của trí thức
Thủ Dầu Một trong giai đoạn 1954 – 1975.
- Rút ra những bài học kinh nghiệm từ thực tiễn đấu tranh cách
mạng của trí thức Thủ Dầu Một giai đoạn 1954 – 1975 trên cả hai
phương diện lý luận và thực tiễn.

- Từ những bài học kinh nghiệm, góp phần đề xuất những giải
pháp để xây dựng và phát huy tiềm năng của đội ngũ trí thức Thủ
Dầu Một trong giai đoạn mới.
4.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

4.1.Đối tượng nghiên cứu
Trang 12


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là: “Phong trào đấu
tranh của trí thức Thủ Dầu Một từ năm 1954 đến năm 1975”.
4.2.Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, đề tài đề cập đến tỉnh Thủ Dầu Một trong giai
đoạn từ 1954 đến 1975. Trong giai đoạn này thì tỉnh Thủ Dầu Một
trải qua nhiều lần thay đổi địa giới hành chính như sau:


Tháng 5-1951, do yêu cầu thống nhất chỉ đạo chiến trường, tỉnh

Thủ Dầu Một và Biên Hòa sát nhập thành tỉnh Thủ Biên.


Tháng 1-1955, Xứ ủy Nam Bộ quyết định tách tỉnh Thủ Biên

thành hai tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa. Thủ Dầu Một lúc đó gồm
các huyện: Lái Thiêu, Châu Thành, Chơn Thành, Hớn Quản, Lộc Ninh
và các đồn điền cao su Dầu Tiếng, Quản Lợi, Lộc Ninh.



Tháng 9-1960, Xứ ủy Nam Bộ quyết định sát nhập tỉnh Thủ Dầu

Một và Biên Hòa thành tỉnh Thủ Biên lần thứ hai.


Tháng 6-1961, Xứ ủy Nam Bộ lại tách tỉnh Thủ Biên thành hai

tỉnh Thủ Dầu Một và Biên Hòa, thành lập thêm 3 tỉnh: Phước Thành,
Bình Long, Phước Long theo địa bàn hành chính của ngụy quyền Sài
Gòn. Tỉnh Thủ Dầu Một lúc này gốm các huyện: Lái Thiêu, Châu
Thành, Bến Cát, Dầu Tiếng, Thị xã Thủ Dầu Một.


Tháng 10-1967, Trung ương Cục thành lập 5 phân khu là 5 mũi

tiến công vào Sài Gịn và phân khu 6 nội đơ Sài Gịn để chuẩn bị cho
cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Mậu Thân 1968. Phân khu 5 hướng
bắc Sài Gòn gồm các huyện: Tân Uyên, Phú Giáo, Châu Thành, thị xã
Thủ Dầu Một, Lái Thiêu, Dĩ An và bắc Thủ Đức.


Tháng 5-1971, phân khu 5 giải thể, thành lập phân khu Thủ Biên.



Tháng 9-1972, tỉnh Thủ Dầu Một được tái lập gồm các huyện:

Dầu Tiếng, Bến Cát, Tân Uyên, Phú Giáo, Châu Thành, Lái Thiêu, Dĩ

An và thị xã Thủ Dầu Một.

Trang 13


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)


Tháng 10-1973, Trung ương Cục chủ trương tách các huyện: Tân

Uyên, Phú Giáo của tỉnh Thủ Dầu Một, huyện Định Quán và Độc Lập
của Biên Hòa để thành lập căn cứ Tân Phú.


Cuối năm 1974, Phú Giáo và Tân Uyên được trả về tỉnh Thủ Dầu

Một.


Đầu năm 1975, tỉnh Thủ Dầu Một gồm các huyện: Bến Cát, Lái

Thiêu, Châu Thành, Tân Uyên, Dĩ An, Phú Giáo, Dầu Tiếng và thị xã
Thủ Dầu Một.
Về thời gian, đề tài giới hạn trong phạm vi 21 năm kháng chiến
chống đế quốc Mĩ xâm lược từ năm 1954 đến năm 1975. Trong giai
đoạn này, đề tài đi sâu nghiên cứu hoạt động của trí thức Thủ Dầu
Một trong bối cảnh chung của Đơng Nam Bộ lúc bấy giờ, từ đó làm rõ
những đóng góp của trí thức Thủ Dầu Một trong tiến trình lịch sử của
dân tộc.
5.


PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN TÀI LIỆU

5.1.Phương pháp nghiên cứu
Đề tài “Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một trong sự
nghiếp đấu tranh giải phóng dân tộc 1954 -1975” là một đề tài mang
tính lịch sử.
Phương pháp chủ đạo và xuyên suốt quá trình chúng tơi thực
hiện đề tài là “phương pháp nghiên cứu lịch sử” nhằm phục lại quá
trình đấu tranh cách mạng vẻ vang của trí thức Thủ Dầu Một giai
đoạn 1954 - 1975. Mặt khác, áp dụng phương pháp này chúng tôi
cũng hướng đến cung cấp cho người đọc một cái nhìn tồn diện về
phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một trong giai đoạn 1954 1975. Qua đó, chúng tơi đưa ra các vấn đề được xem xét cùng với
diễn trình thời gian để tránh bỏ qua những giai đoạn hay sự kiện lịch
sử quan trọng.

Trang 14


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
Cùng với phương pháp lịch sử thì chúng tôi cũng áp dụng
“phương pháp logic” nhằm rút ra mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử
có mối tương quan với nhau. Trong khi nghiên cứu phong trào đấu
tranh của trí thức Thủ Dầu Một trong giai đoạn 1954 -1975, chúng tơi
khơng loại trừ việc xem xét q trình đấu tranh của trí thức Bình
Dương trong các giai đoạn trước đó nhằm nhận thức tương đối đầy
đủ về các mối tương quan giữa các giai đoạn lịch sử. Phương pháp
này cịn hướng đến nhìn nhận phong trào đấu tranh của trí thức Thủ
Dầu Một trong tổng thể phong trào đấu tranh của trí thức Đơng Nam
Bộ với những tính chất chung như tinh thần cách mạng và phương

pháp đấu tranh cách mạng. Tinh thần dân tộc cũng được làm rõ ở
phương pháp này nhằm xâu chuỗi các sự kiện lại với nhau và hình
thành những quan điểm thống nhất trong q trình nghiên cứu đề
tài.
Ngồi ra hai phương pháp chủ đạo trên thì chúng tơi cịn sử dụng
phương pháp so sánh, đối chiếu

và phương pháp nghiên cứu liên

nghành để làm rõ mối tương quan giữa các giai đoạn với nhau, để có
sự tiếp cận phù hợp về kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm đối chiếu so
sánh, tổng hợp để thấy được sự khác biệt của giai đoạn này với giai
đoạn trước đó nhằm bổ sung và kế thừa cho giai đoạn tiếp theo.
Những phương pháp trên đây được áp dụng linh hoạt cho từng
giai đoạn và từng phần của cơng trình nghiên cứu, tất nhiên trong
q trình đó cũng có sự bổ sung, kết hợp giữa các phương pháp lại
với nhau để tránh đưa ra cái nhìn chủ quan, làm tăng tính thuyết
phục cho đề tài nghiên cứu.
5.2.Nguồn tài liệu
Đề tài nghiên cứu được thực hiện dựa trên những nguồn tài liệu
chính như sau:

Trang 15


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
• Thứ nhất, nguồn tài liệu chính thống có mức độ tin cậy cao
nhất là các văn kiện, tài liệu của Đảng và Nhà nước về trí thức trong
các giai đoạn.
• Thứ hai, những cơng trình nghiên cứu chính thức được thực

hiện liên quan đến đề tài. Những cơng trình này bao gồm các luận án
tiến sĩ và luận văn thạc sĩ, những báo cáo khoa học như luận văn tiến
sĩ của tác giả Hồ Sơn Diệp về đề tài trí thức Đơng Nam Bộ trong sự
nghiệp kháng chiến chống Mĩ xâm lược (1945-1975),…
• Thứ ba, các sách chun khảo và sách tham khảo như: “Trí
thức Sài Gịn - Gia Định 1945 – 1975” của Hồ Hữu Nhựt, “Địa chí Bình
Dương”, “Lịch sử Đảng bộ tỉnh Bình Dương (1954-1975)”, “Trí thức
Nam Bộ trong kháng chiến chống xâm lược (1945-1975)” của tác giả
Hồ Sơn Diệp, “Lịch sử chiến tranh nhân dân tỉnh Bình Dương (19451975)”,...
• Thứ tư, những trang báo, tạp chí, website chính thống và có độ
tin cậy cao.
6.

NỘI DUNG ĐỀ TÀI
Đề tài “Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một

(1954-1975)” được bố cục thành ba chương trải dài trong giai đoạn
từ năm 1954 – 1975 trong lịch sử đấu tranh chống đế quốc Mĩ của
dân tộc.
Chương I: Khái quát về tỉnh Thủ Dầu Một và khái niệm về trí
thức.
Trong chương này, chúng tơi giới thiệu khái quát về về quá trình
hình thành và phát triển của tỉnh Thủ Dầu Một; bước đầu nêu lên
khái niệm về trí thức trong giai đoạn năm 1954 – 1975 và trong giai
đoạn hiện nay.
Trang 16


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
Chương II: Trí thức Thủ Dầu Một trong cuộc kháng chiến

chống Mĩ cứu nước (1954 – 1965).
Tình hình đội ngũ trí thức Thủ Dầu Một sau Hiệp định Genève và
cuộc đấu tranh đòi thi hành Hiệp định Genève; Các hoạt động chống
chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” chiến lược “Chiến tranh cục bộ”,
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của Mĩ; Tình hình đội ngũ trí
thức Thủ Dầu Một sau Hiệp định Pariss năm 1973, các hoạt động đấu
tranh chính trị địi thi hành Hiệp định Pariss; Tham gia vào các cuộc
đấu tranh giải phóng tồn miền Nam năm 1975.
Chương III: Vai trị và đặc điểm của trí thức Thủ Dầu Một
trong phong trào giải phóng dân tộc giai đoạn 1954 – 1975.
Trên cơ sở nghiên cứu “Phong trào đấu tranh của trí thức
Thủ Dầu Một (1954-1975)” bước đầu nêu lên vai trò và một số
đặc điểm rút ra từ những phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu
Một.
Kết luận:
Rút ra một số bài học kinh nghiệm từ phong trào đấu tranh của
trí thức Thủ Dầu Một (1954-1975), từ đó đưa ra một số đề xuất nhằm
phát huy tốt vai trị lịch sử của đội ngũ trí Thủ Dầu Một trong hiai
đoạn hiện nay.

Trang 17


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TỈNH THỦ DẦU MỘT VÀ KHÁI NIỆM VỀ TRÍ
THỨC.
1.1. Khái qt về q trình hình thành và phát triển của tỉnh
Thủ Dầu Một.
1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của tỉnh Thủ Dầu

Một.
Đơng Nam Bộ một vùng đất rộng lớn nổi tiếng với nhiều vùng
căn cứ cách mạng (vùng bắc Tây Ninh, chiến khu Đ, Củ Chi…), cái
nôi của cách mạng trong hai cuộc kháng chiến trường kỳ. Về vị trí
địa lý, tiếp giáp với thành phố Hồ Chí Minh về mạn nam và tây nam,
tỉnh Bình Phước về phía bắc, tỉnh Tây Ninh về phía tây, tỉnh Đồng Nai
về phía tây và nối sườn phía nam của dãy Trường Sơn với các tỉnh
đồng bằng sơng Cửu Long. Vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng này
đã giúp Bình Dương trở thành một vùng đệm không thể thay thế
nằm trên hành lang nối Sài Gịn với các tỉnh miền Đơng, miền Trung
và miền Tây Nam Bộ1 Bình Dương là mảnh đất chứa đựng nhiều giá
trị văn hóa truyền thống như các ngơi chùa (Hội Khánh, Tây Tạng...)
và còn nổi tiếng với các khu di tích lịch sử dân tộc (nhà tù Phú Lợi,
chiến khu Đ...).
Thủ Dầu Một thuộc tỉnh Bình Dương địa bàn tương đối rộng lớn
và hoang vu, trải qua nhiều giao đoạn biến động theo chiều dài lịch
sử phát triển vùng đất Đơng Nam Bộ (Bình Dương). Từ rất sớm, chúa
Nguyễn đã ý thức việc mở rộng lãnh thổ thông qua hoạt động khẩn
hoang và khai phá vùng đất phía Nam. Năm 1698, chúa Nguyễn
Phúc Chu (Tộ Minh Vương, 1691-1725) “sai Thống suất Nguyễn Hữu
Kính (Cảnh) kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố, lấy xứ Đồng
Nai làm huyện Phúc Long (nay thăng làm phủ), dựng dinh Trấn Biên
Hồ Sơn Đài (chủ biên) (2010), Lịch sử Lực lượng Vũ trang Nhân dân tỉnh Bình Dương
(1945 – 2005), Nxb. Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, tr. 639.
1

Trang 18


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)

(tức Biên Hòa ngày nay), lấy xứ Sài Gịn làm huyện Tân Bình (nay
thăng làm phủ), dựng dinh Phiên Trấn (tức Gia Định ngày nay)” 1 và
thiết lập các đơn vị hành chính. Địa phận tỉnh Bình Dương hiện nay
tương ứng với tổng Bình An, tỉnh Biên Hịa. Nhờ có vị trí thuận lợi, đất
đai màu mỡ nên xứ Đàng Trong (trong đó có Bình Dương ngày nay)
thu hút nhiều cư dân sinh sống và lập nghiệp. Trải qua nhiều biến
động trong lịch sử đấu tranh để gìn giữ và phát huy những giá trị của
miền đất mới, mảnh đất Bình Dương ln khơng ngừng phát triển và
có thay đổi về nhiều mặt (vị trí hành chính, kinh tế, văn hóa, giáo
dục....)
Nằm trong kế hoạch cải cách các đơn vị hành chính trên tồn
quốc, Minh Mệnh đã chia vùng Gia Định Thành thành 6 tỉnh (Nam Kỳ
lục tỉnh)2. Năm 1837, huyện Bình An chia ra hai huyện Bình An (Thủ
Dầu Một) và Ngãi An (Thủ Đức). Đều này giúp ta chứng minh rằng
Thủ Dầu Một là tên gọi cũ của tỉnh Bình Dương trước năm 1956. Sau
khi liên quân Pháp – Tây Ban Nha nổ súng xâm lược nước ta (rạng
sáng 1-9-1858) tại bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng). Tuy nhiên, địch vấp
phải sự kháng cự mãnh liệt của ta và kế hoạch “đánh nhanh, thắng
nhanh” đã bị thất bại. Giữa lúc phong trào kháng Pháp ngày càng
dâng cao và tạo cho ta ưu thế rõ rệt thì triều đình Huế lại ký Hịa ước
Nhâm Tuất (5-6-1862), với điều khoản thứ 3 là nhượng ba tỉnh miền
Đông Nam kỳ (Gia Định, Biên Hòa, Định Tường) cho thực dân Pháp.
Theo Sắc lệnh 143-NV ngày 22-10-1956 của Tổng thống Ngô Đình
Diệm, Nam Phần (tức Nam Bộ) được phân thành bao gồm Đơ thành
Sài Gịn và 22 tỉnh. Trong đó, Thủ Dầu Một trực thuộc Biên Hòa.
Trải qua thăng trầm của lịch sử, vùng đất Bình Dương đã có
nhiều giai đoạn phân tách và hợp nhất các đơn vị hành chính. Từ sau
ngày miền Nam hồn tồn giải phóng (1975), căn cứ theo Quyết
Quốc sử quán triều Nguyễn (2002), Đại Nam thực lục, tập 1, Viện Sử học dịch, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, tr. 111.

2
“Lục tỉnh” (6 tỉnh) hay “Nam Kỳ lục tỉnh” chỉ chung toàn bộ khu vực Nam Bộ thời Nguyễn
là cách gọi xuất hiện từ sau việc thiết lập 6 tỉnh năm 1832 này.
1

Trang 19


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
định ngày 2-7-1976 tại kỳ họp thứ nhất quốc hội khóa VI của Quốc
hội nước Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tỉnh Sông Bé được
thành lập trên cơ sở sáp nhập tỉnh Thủ Dầu Một và tỉnh Bình Phước.
Kể từ ngày 1-1-1997, tỉnh Bình Dương được chính thức thành lập trên
cơ sở là một trong hai tỉnh được tách ra từ tỉnh Sơng Bé (tỉnh cịn lại
là tỉnh Bình Phước)1.
Trải qua hai cuộc kháng chiến (chống Pháp và chống Mĩ)
ròng rã, Thủ Dầu Một ngày càng khẳng định vai trị quan trọng góp
phần to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngay từ khi xâm lược
Việt Nam thực dân Pháp chọn Thủ Dầu Một làm trụ sở và đặt trụ sở
hành chánh tại Thủ Dầu Một (hạt tham biện Thủ Dầu Một) vì nơi đây
địa bàn rộng lớn luyện tập quân lính kịp thời chi viện cho chiến
trường Đông Nam Bộ. Trên địa bàn tỉnh Bình Dương liên tiếp nổ ra
các cuộc đấu tranh chống chính quyền thực dân Pháp tạo ra các tầng
lớp lao động mới như công nhân cao su, công nhân xe lửa bị áp bức
nặng nề sức lao động điều kiện sống khắc nghiệt. Bình Dương ban
đầu một vùng đất nhiều cánh rừng già, đầm lầy nhiều thú dữ chính
những cư dân ta đã khai phá tạo dựng xóm làng thực dân Pháp đã
tàn phá những giá trị vật chất lẫn tinh thần, họ đã đứng lên lôi kéo
các tầng lớp khác như học sinh, sinh viên,... đấu tranh chống lại
chính sách cai trị của thực dân Pháp2.

1.1.2. Bối cảnh xã hội trước năm 1954.
Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chúng nhanh chóng
triển khai các chiến lược nhằm mục đích biến Việt Nam thành thuộc
địa. Miền Đơng Nam Bộ đã nhanh chóng trở thành thuộc địa của
Pháp sau hai bản hiệp định Nhâm Tuất (1862), Giáp Tuất (1874) mà
triều đình Nguyễn đã ký với thực dân Pháp. Với “thắng lợi” này, thực
Hồ Sơn Đài (chủ biên) (2010), Lịch sử Lực lượng Vũ trang Nhân dân tỉnh Bình Dương
(1945 – 2005), Sđd, tr. 9.
2
Phan Xuân Biên (chủ biên) (2010), Địa chí Bình Dương, tập 2, Nxb chính trị quốc gia, Hà
Nội.
1

Trang 20


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
dân Pháp đã thi hành các biện pháp hà khắc nhằm kìm hãm sự phát
triển của các phong trào đấu tranh từ các tầng lớp yêu nước trong xã
hội. Tỉnh Bình Dương (Thủ Dầu Một) - nơi ln sôi sục tinh thần đấu
tranh chủ yếu tập trung vào lực lượng cơng nhân đồn điền, những
bước đầu hình thành trong chính lịng địch gia cấp cơng nhân trở
thành lực lượng nịng cốt lãnh đạo cuộc kháng chiến thành cơng 1.
Giai đoạn trước năm 1954, dưới tác động của chính sách khai
thác thuộc địa lần thứ hai của thực dân Pháp, tình hình trong nước
diễn biến vơ cùng phức tạp. Mục đích của thực dân Pháp là vơ vét
cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên, nguồn công nhân rẻ mạt tại
thuộc địa với thị trường tiêu thụ rộng lớn. Trong chiến tranh thế giới
thứ I (1914 – 1918) Pháp là nước thắng trận nhưng phải chịu ảnh
hưởng nặng nề của chiến tranh. Để nhanh chóng hàn gắn các vết

thương chiến tranh, khơi phục nền kinh tế tại chính quốc, Pháp phải
tăng cường đầu tư khai thác thuộc địa (Việt Nam). Nhưng song đó
chính sách của thực dân Pháp làm cho xã hội Việt Nam có nhiều biến
động. Cùng với sự ra đời của nhiều tầng lớp như công nhân và tiểu tư
sản,.... thì tầng lớp trí thức cũng là lực lượng đấu tranh ngồi mặt
trận và ngay trong lịng địch. Tầng lớp trí thức mới ra đời nhưng là
lực lượng nịng cốt cho cách mạng, góp phần tạo nên sức mạnh đồn
kết dân tộc.
Đứng trước tình hình khó khăn của cách mạng trong nước, ngày
28/1/1941 Nguyễn Ái Quốc trở về nước nhằm đưa ra đường lối lãnh
đạo cho cách mạng. Nguyễn Ái Quốc đã học tập theo con đường
Cách mạng Tháng mười Nga (tiếp thu tư tưởng Mác –Lênin) và áp
dụng vào tình hình thực tế ở Việt Nam. Chính Nguyễn Ái Quốc đã góp
phần hình thành một giai cấp công nhân mới ở Việt Nam. Nguyễn Ái
Quốc đã soi sáng con đường cách mạng đang dần bước vào bế tắc,
thức tỉnh, giác ngộ mọi tầng lớp nhân dân ta đứng lên đấu tranh
1

Đinh Xuân Lâm (chủ biên)(2008), Đại cương lịch sử Việt Nam tập III , Nxb Giáo dục.

Trang 21


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
chống ách áp bức của thực dân Pháp và phong kiến tồn tại dai dẳng
ở nước ta.
Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, dưới sự chủ trì của Nguyễn Ái
Quốc, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức Cộng sản đã diễn ra và nhất trí
thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam
(3/2/1930). Từ đó cách mạng đặt dưới sự lãnh đạo của một Đảng duy

nhất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, “Đảng có vững cách mệnh
mới thành cơng, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy” 1.
Đảng Cộng sản ra đời đã cổ vũ tinh thẩn đấu tranh của quân và nhân
dân ta. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, thắng lợi của cách mạng Tháng
Tám năm 1945 đã xóa tan hai tầng xiềng xích (Pháp - Nhật). Bên
cạnh đó, thắng lợi còn khẳng định cách mạng Việt Nam ngày càng
lớn mạnh và phát triển qua việc xây dựng lực lượng chính trị, lực
lượng vũ trang, căn cứ địa các mạng thể hiện tinh thần đồn kết mọi
tầng lớp nhân dân.
Đó là những bước chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa sau này.
Ngày 2-9-1945, chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập
khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa. Miền Bắc hồn tồn giải
phóng là hậu phương vững chắc cho cách mạng lâu dài ở miền Nam.
Trong giai đoạn quan trọng đánh dấu bước phát triển nhảy vọt của
cách mạng thì chiến dịch Điện Biên phủ thắng lợi (1954) đánh bại
thực dân Pháp đã tạo ra bước ngoặc trong lịch sử đấu tranh của nhân
dân ta trước một cường quốc trên thế giới.
Tình hình thế giới trong giai đoạn này xảy ra nhiều sự kiện
quan trọng. Cách mạng tháng mười Nga (1917) thành công đã cổ vũ
cho phong trào đấu tranh của các nước đi theo con đường xã hội chủ
nghĩa. Tinh thần đó đã lan rộng ra toàn châu Á, châu Âu và các nước
khác trên thế giới, góp phần hình thành khối liên minh công-nông.
Cuộc khủng hoảng kinh tế (1929-1933) đã ảnh hưởng đến sức sản
xuất xã hội, lực lượng cách mạng cũng suy yếu dần, các nhà máy
1

Hồ Chí Minh (1995), Tồn tập, NXB. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, tập 2, tr. 289.

Trang 22



Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
đóng cửa, mất việc làm dẫn đến đời sống giai cấp cơng nhân gặp
khó khăn. Năm 1945 nhân dân ta phải chịu hai tầng áp bức là PhápNhật, làm cho đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Lợi dụng tình
hình Nhật đảo chính Pháp, Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành thắng
lợi trong cách mạng tháng Tám. Sau thất bại trận Điên biên phủ
(1954) thực dân Pháp đã kí hiệp định Genève (21-7-1954) nhằm
chấm dứt chiến tranh ở Đơng Dương nói riêng và Việt Nam nói
chung. Từ đây, cách mạng Việt Nam đã trưởng thành dưới sự lãnh
đạo của Đảng và được nhiều tầng lớp hưởng ứng tham gia. Trong đó
tầng lớp trí thức đóng vai trị quan trọng.

Trang 23


Phong trào đấu tranh của trí thức Thủ Dầu Một (1954 – 1975)
1.2. Khái niệm về trí thức.
Hiện nay có khá nhiều cách tiếp cận về trí thức và những đặc điểm của trí thức.
Theo quan điểm của Lenin thì trí thức là những người lao động trí óc và có trình độ
chun mơn cao. Lenin quan niệm: “Tơi dịch người trí thức, tầng lớp trí thức theo ngữ
nghĩa Đức là Literat, Literatentum bao gồm không chỉ các nhà văn hóa học mà là tất cả
những người có văn hố, những người làm nghề tự do nói chung, những đại biểu của
lao động trí óc (brain worker - như người Anh nói) để phân biệt với những đại biểu của
lao động chân tay”1. Theo Từ điển Triết học thì “trí thức là tập đoàn người gồm những
người làm nghề lao động trí óc. Giới trí thức bao gồm kỹ sư, kỹ thuật viên, thầy thuốc,
luật sư, nghệ sĩ, thầy giáo và người làm công tác khoa học, một bộ phận lớn viên
chức”2.
Dựa vào tiêu chuẩn phân loại của Karl Marx thì trí thức gồm những đối tượng cụ
thể như: nhà văn, nhà báo, giáo viên, bác sĩ, luật sư, sĩ quan, viên chức, các nhà hoạt
động chính trị, những người hoạt động nghệ thuật,... Dựa trên cách phân loại này, có

thể nhận thấy trí thức khơng phải là một lực lượng thuần nhất, khơng có địa vị kinh tế,
khơng có địa vị chính trị mà trí thức được xem như là một tầng lớp trung gian có mối
quan hệ với tư sản mà đặc biệt có mối quan hệ gần gủi với tầng lớp cơng nhân do có
nhiều yếu tố tác động như: điều kiện làm việc, đời sống vật chất,... Mặt khác trí thức
có nguồn gốc xuất thân từ nhiều giai cấp khác nhau như một số xuất thân từ giai cấp
bóc lột và một số ra đời trong giai cấp bị bóc lột, nên trí thức đã sớm giác ngộ hơn và
có thái độ chính trị kiên quyết hơn. Xét về thái độ chính trị thì Lenin phân loại làm ba
nhóm: trí thức tư sản, trí thức tiểu tư sản, trí thức vơ sản, với từng loại trí thức mà ơng
có những cách ứng xử và tiếp cận một cách khác nhau. Như trí thức vơ sản được coi
như là động lực của cách mạng, trí thức tư sản thì lợi dụng hoặc trung lập đây được
xem như phần tử thường dao động,...
Qua tiếp thu chủ nghĩa Marx – Lenin về trí thức, Hồ Chí Minh đã sớm nhận rõ về
vai trị và vị trí của trí thức trong xã hội. Mặt khác do xuất thân trong một gia đình trí
thức, sinh ra trong hồn cảnh đất nước bị xâm lược nên Hồ Chí Minh đã sớm nhận
1
2

Lênin, Toàn tập, t.8, tr. 309 (bản tiếng Nga).
Từ điển triết học (1986), tr. 598.

Trang 24


×