Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

Hình tượng nhân vật nữ trong truyện thơ nôm đề tài phật giáo

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.3 MB, 99 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2017 – 2018
XÉT GIẢI THƯỞNG "TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT"
NĂM 2018

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ
TRONG TRUYỆN THƠ NƠM ĐỀ TÀI PHẬT GIÁO

Thuộc nhóm ngành: Khoa học Xã hội và Nhân văn


TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA NGỮ VĂN

BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN THAM GIA
CUỘC THI SINH VIÊN NGHIÊN CỨU KHOA HỌC NĂM HỌC 2017 – 2018
XÉT GIẢI THƯỞNG "TÀI NĂNG KHOA HỌC TRẺ ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT"
NĂM 2018

HÌNH TƯỢNG NHÂN VẬT NỮ
TRONG TRUYỆN THƠ NƠM ĐỀ TÀI PHẬT GIÁO

Thuộc nhóm ngành: Khoa học Xã hội và Nhân văn

Sinh viên thực hiện:
Dân tộc:


Lớp, khoa:
Ngành học:
Người hướng dẫn:

Phan Thanh Trinh
Kinh
D15NV01, Ngữ văn
Sư phạm Ngữ văn
ThS. Lê Sỹ Đồng

Nam, Nữ:

Nữ

Năm thứ:

3/4


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
1. Lý do lựa chọn đề tài .......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ..................................................................................................... 1
3. Mục đích, đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu ....................................................... 3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu ................................................................................... 5
5. Cấu trúc đề tài .................................................................................................... 6
Chƣơng 1: Những vấn đề chung .................................................................................. 8
1.1.

Bối cảnh ra đời truyện thơ Nôm và truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo .......... 8

1.1.1. Bối cảnh ra đời truyện thơ Nôm .............................................................. 8
1.1.2. Bối cảnh ra đời truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo ................................. 12

1.2.

Đặc điểm truyện thơ Nôm và truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo .................. 16
1.2.1. Đặc điểm truyện thơ Nôm ...................................................................... 16
1.2.2. Đặc điểm truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo ........................................... 20

1.3.

Sự ảnh hƣởng qua lại giữa Phật giáo với tín ngƣỡng dân gian Việt Nam .. 22
1.3.1. Nguồn gốc ............................................................................................... 22
1.3.2. Biểu hiện ................................................................................................. 27

 Tiểu kết ............................................................................................................... 30
Chƣơng 2: Hình tƣợng ngƣời phụ nữ thế tục trong truyện thơ Nôm đề tài Phật
giáo ................................................................................................................................ 31
2.1.

Ngƣời phụ nữ trong mối quan hệ gia đình ..................................................... 31
2.1.1. Vị trí và vai trị của phái nữ trong gia đình........................................... 31
2.1.2. Tình cảm giữa người phụ nữ với các thành viên trong gia đình ......... 36

2.2.

Ngƣời phụ nữ trong mối quan hệ cộng đồng ................................................. 42
2.2.1. Vị trí và vai trị của phái nữ trong cộng đồng ....................................... 42
2.2.2. Tình cảm giữa người phụ nữ với các thành viên trong cộng đồng ..... 45


2.3.

Ngƣời phụ nữ với ý thức về giá trị bản thân.................................................. 49
2.3.1. Ý thức về ngoại hình và tài năng của người phụ nữ ............................ 49
2.3.2. Ý thức về phẩm chất đạo đức của người phụ nữ .................................. 52

 Tiểu kết ............................................................................................................... 56


Chƣơng 3: Hình tƣợng ngƣời phụ nữ thốt tục trong truyện thơ Nôm đề tài Phật
giáo ................................................................................................................................ 58
3.1.

Ngƣời phụ nữ trên hành trình tiếp nhận giáo lí Phật giáo ........................... 58
3.1.1. Người phụ nữ trong nghịch cảnh .......................................................... 58
3.1.2. Căn duyên của người phụ nữ ................................................................ 62

3.2.

Ngƣời phụ nữ trên hành trình trì giới ............................................................ 66
3.2.1. Người phụ nữ trong thử thách .............................................................. 66
3.2.2. Sự thành đạo của người phụ nữ ............................................................ 70

3.3.

Ngƣời phụ nữ với sự hòa hợp giữa đời và đạo............................................... 75
3.3.1. Người phụ nữ và mối tình đời ............................................................... 76
3.3.2. Người phụ nữ và mối tình đạo ............................................................... 80

 Tiểu kết ............................................................................................................... 84

KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ............................................................................. 86
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................... 89


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Trong lịch sử văn học dân tộc, sự ra đời của truyện thơ Nơm là bước tiến lớn cả
về nội dung lẫn hình thức của một tác phẩm văn chương. Được xây dựng bằng chất
liệu thân thuộc – chữ Nôm, truyện thơ Nôm mà chủ yếu là truyện thơ Nôm lục bát rất
phổ biến trong đời sống nhân dân lao động.
Đạo Phật là tơn giáo lâu đời, có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống người dân
Việt Nam. Với tư tưởng nhân bản, Phật giáo bắt gặp sự tương đồng cùng khuynh
hướng nhân đạo trong nền văn học nước nhà. Do đó, có rất nhiều tác phẩm văn học thể
hiện đạo lí nhà Phật.
Nhìn chung, sự kết hợp giữa Phật giáo và truyện thơ Nơm lục bát là khuynh
hướng dễ thấy. Mượn hình thức của một tác phẩm văn chương, Phật giáo thâm nhập
vào cuộc sống xã hội. Tuy nhiên, khác với kinh tạng, truyện thơ Nôm lục bát chủ yếu
xoay quanh các nhân vật nữ. Mặt khác, ngồi tư tưởng tơn giáo, những nhân vật nữ
này đều mang dáng dấp của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Có thể nói, đây là
minh chứng rõ ràng cho sự nỗ lực dung hòa tôn giáo và thế tục của người Việt.
Lựa chọn đề tài Hình tượng nhân vật nữ trong truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo,
chúng tơi mong muốn tìm hiểu rõ hơn về đặc trưng của hình tượng nhân vật nữ trong
nhóm truyện thơ Nơm có đề tài Phật giáo. Đồng thời, đề tài hướng tới khẳng định sự
giao thoa giữa tơn giáo, văn hóa và văn học. Từ đó, chúng tơi hy vọng góp thêm một
phần cơng sức vào việc lưu giữ và giới thiệu các giá trị văn hóa cổ của dân tộc.
2. Lịch sử vấn đề
Theo khảo sát của chúng tơi, hình tượng nhân vật nữ trong văn học trung đại
Việt Nam nói chung và trong truyện thơ Nơm lục bát nói riêng rất được giới nghiên

cứu quan tâm. Tuy nhiên, hình tượng nhân vật nữ trong nhóm truyện thơ Nơm có đề
tài Phật giáo lại chưa được chú ý đúng mực. Dưới đây, chúng tôi xin điểm qua một số
bài viết liên quan trực tiếp đến hình tượng nhân vật nữ trong các truyện thơ Nôm:
Trong Nhân vật nữ trong truyện Nôm và vấn đề “tài, sắc, mệnh”, Nguyễn
Đông Triều tập trung vào “sắc và mệnh”, “tài và mệnh” của người phụ nữ. Thông qua
việc chỉ ra mối quan hệ “tương đố”, tác giả bài viết kết luận rằng “truyện Nôm không


2

chỉ thể hiện đơn thuần quan niệm “hồng nhan bạc mệnh” hay “tài mệnh tương đố”,
cũng không chỉ phản ánh cuộc đấu tranh lâu dài, tất thắng của cái thiện trước cái ác,
mà còn thể hiện ước vọng thiết thực, chính đáng và rất nhân bản về quyền bình đẳng
và truy cầu hạnh phúc của người phụ nữ trong xã hội xưa và ước vọng của người phụ
nữ muốn thoát khỏi ngục tù xã hội phong kiến khơng gì to lớn hơn và cịn là một
chặng đường dài phía trước”1. Như vậy, trong bài viết này, từ việc phân tích hình
tượng nhân vật nữ, tác giả đã chỉ ra được mối quan hệ giữa văn chương và hiện thực
xã hội. Tuy nhiên, ở đây, tác giả hầu như không đề cập đến nhân vật nữ nhóm truyện
có đề tài Phật giáo. Chúng tôi nghĩ rằng vấn đề “sắc và mệnh”, “tài và mệnh” của
người phụ nữ vẫn tồn tại trong truyện thơ Nơm Phật giáo.
Cịn trong khóa luận Hình tượng người phụ nữ trong truyện Nơm bình dân và
truyện Nơm bác học, Lê Phương Thảo đã có cái nhìn tổng thể về hình tượng người
phụ nữ trong truyện thơ Nơm. Và để làm rõ hình tượng người phụ nữ, tác giả khóa
luận đã đi so sánh những nét tương đồng và dị biệt về hình tượng người phụ nữ trong
truyện Nơm bình dân và truyện Nơm bác học. Tác giả cũng chỉ ra nghệ thuật xây dựng
hình tượng nhân vật nữ ở góc độ so sánh như trên. Cũng tương tự như bài viết của
Nguyễn Đơng Triều, khóa luận này hồn tồn khơng nhắc đến các nhân vật trong
nhóm truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo, mặc dù nhóm truyện này được xem là một bộ
phận trong truyện Nơm bình dân.
Tác giả Trần Phước Thuận trong Quan Âm Thị Kính, hình ảnh đẹp người phụ

nữ Việt nam đã phân tích hình tượng nhân vật Thị Kính. Qua việc tìm hiểu hiểu về
cuộc đời của nhân vật này, ông cho rằng truyện “đề cao các hạnh trì giới, tinh tấn,
nhẫn nhục, thuộc lục độ Bà La mật của Phật giáo […] kết hợp tự nhiên, nhuần nhị giữa
giáo lý nhà Phật với thuần phong mỹ tục của dân tộc”2. Mặc dù chỉ khai thác duy nhất
một hình tượng Thị Kính trong truyện thơ Nơm Quan Âm Thị Kính nhưng nhận xét
của tác giả rất phù hợp cho diện mạo chung của nhóm truyện thơ Nơm đề tài Phật
giáo. Với chúng tơi, đây là gợi ý thiết thực cho đề tài nghiên cứu.

1

Nguyễn Đông Triều (2013), Nhân vật nữ trong truyện Nôm và vấn đề "tài, sắc, mệnh", avanhoc
-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com/content&view=article&id=5107%3Afr grdgt&catid=65%3Ahannom&Itemid=153&lang=vi (truy cập lúc 2 giờ 0 phút, 19/09/2017).
2
Trần Phước Thuận (2015), Quan Âm Thị Kính, hình ảnh đẹp người phụ nữ Việt Nam, http://www.p
hatgiaohue.vn/news.aspx?KenhID=72&ChuDeID=0 &TinTucID=3971 (truy cập lúc 6 giờ 0 phút, 19/9/2017).


3

Tương tự như vậy, trong Quan Âm Thị Kính và cách nghĩ của người Việt về
người phụ nữ Việt, Thích Huệ Thiện nhận định “từ trong tâm thức, người Việt luôn
dành một không gian tôn trọng và đề cao vai trò người phụ nữ trong xã hội và cuộc
sống. Truyện Nơm Quan Âm Thị Kính đã kế thừa và phát huy được rất nhiều những di
sản văn hoá dân tộc, qua đó người Việt đã bảo lưu thành cơng, ký thác một cách chân
thực, trọn vẹn cách nghĩ về thế giới và con người. Đồng thời khẳng định, chính tâm
thức mới là yếu tố làm nên bản sắc văn hoá Việt”1. Do dung lượng của một bài báo có
hạn nên tác giả đưa ra những câu đúc kết ngắn gọn mà chưa chứng minh cụ thể, rõ
ràng qua hình tượng Thị Kính.
Tác giả Lê Sỹ Đồng trong Quan Âm Thị Kính và Lưu Hương diễn nghĩa bảo
quyển từ góc nhìn so sánh đã “đi sâu tìm hiểu hai tác phẩm này ở hai vấn đề chính:

con đường đạo hạnh và hiện thực cuộc đời của Thị Kính và Lưu Hương nhằm tìm ra
những mối liên hệ giữa văn học với tôn giáo, văn học với hiện thực”2. Bài viết này
bước đầu đã nêu được một vài khía cạnh về hình tượng nhân vật nữ trong nhóm truyện
thơ Nơm đề tài Phật giáo. Việc so sánh cuộc đời của Lưu Hương trong Lưu Hương
diễn nghĩa bảo quyển với Thị Kính trong Quan Âm Thị Kính đã tạo ra cái nhìn tổng
hợp, đa chiều về hình tượng nhân vật nữ trong truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo.
Nhìn chung, hình tượng nhân vật nữ trong nhóm truyện thơ Nơm có đề tài Phật
giáo giàu tính khoa học nhưng chưa được quan tâm, khai khác đúng tầm. Rất ít bài viết
liên quan đến vấn đề này hoặc nếu có, những bài viết vẫn tồn tại nhiều hạn chế đã
được nêu trên đây. Do vậy, chúng tơi hy vọng đề tài Hình tượng nhân vật nữ trong
truyện Thơ Nôm đề tài Phật giáo sẽ bổ khuyết thêm vào những khoảng trống mà
những đề tài nghiên cứu trước đó chưa đề cập. Ngồi ra, chúng tơi cũng mong muốn
đề tài sau khi hồn thành, sẽ trở thành nguồn cung cấp tư liệu tham khảo cho những ai
quan tâm đến nhân vật nữ trong văn học nói riêng, và văn học về đề tài Phật Giáo nói
chung.
3. Mục đích, đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
1

Thích Huệ Thiện (2006), Quan Âm Thị Kính và cách nghĩ của người Việt về người phụ nữ Việt,
attuvietnam.net/van-hoc/736-quan-%C3%A2m-th%E1%BB%8B-k%C3%ADnh-v%C3%A0-c%C 3%A1ch-ngh
%C4%A9-c%E1%BB%A7a-ng%C6%B0%E1%BB%9Di-vi%E1%BB%87t-v%E1 %BB%81-ng% C6%B0%E1
%BB%9Di-ph%E1%BB%A5-n%E1%BB%AF-vi %E1%BB%87t.html (truy cập lúc 8 giờ 0 phút, 19/9/2017).
2
Lê Sỹ Đồng (2016), Quan Âm Thị Kính và Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển từ góc nhìn so sánh, trích trong
Nguyễn Cơng Lý – Đồn Lê Giang (chủ biên), Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn học Phật giáo Việt Nam: thành
tựu và định hướng nghiên cứu mới, NXB Khoa học Xã hội, tr.618.


4


3.1.

Mục đích nghiên cứu
3.1.1. Mục đích chung

Đề tài hướng đến tìm hiểu hình tượng nhân vật nữ trong nhóm truyện thơ Nôm
về đề tài Phật giáo. Qua nghiên cứu này, chúng tôi hy vọng sẽ làm rõ thêm nghệ thuật
xây dựng nhân vật, cũng như vai trò của nhân vật nữ trong thể loại truyện Nơm đề tài
Phật giáo nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung. Đồng thời, thông qua đề
tài này, chúng tôi cũng mong góp phần khơi gợi sự quan tâm của giới trẻ đối với
những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc.
3.1.2. Mục đích cụ thể
Từ hai mục đích cơ bản nêu trên, chúng tơi đề ra những mục đích cụ thể trong
quá trình thực hiện đề tài như sau:
Một là, làm rõ những vấn đề mang tính lý luận về thể loại truyện thơ Nơm. Bên
cạnh đó, chúng tơi thử lý giải về một số tư tưởng Phật giáo thường được phán ánh
trong các sáng tác văn học. Mặt khác, chúng tơi khái qt lại hình tượng nhân vật nữ
trong văn học Việt Nam nói chung và văn học giai đoạn trung đại nói riêng.
Hai là, làm rõ những đặc trưng cơ bản của hình tượng nhân vật nữ trong nhóm
truyện thơ Nơm có đề tài Phật giáo. Từ đó, chúng tơi hướng tới một cách nhìn nhận và
đánh giá mới về hình tượng nhân vật nói chung và hình tượng nhân vật nữ được thể
hiện trong những tác phẩm vốn được xem là phương tiện truyền giáo.
Ba là, khẳng định sự quan tâm, sự hiểu biết của những người trẻ tuổi đối với
vốn văn hóa truyền thống của dân tộc. Ngồi ra, chúng tơi mong muốn đề tài trở thành
chiếc cầu nối để đưa giới trẻ lại gần hơn những giá trị tốt đẹp này.
3.2.

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài tập trung chủ yếu vào hình tượng nhân vật nữ trong nhóm truyện thơ

Nơm có đề tài Phật giáo. Ngồi ra, chúng tôi nghiên cứu thêm những nét cơ bản của
truyện thơ Nơm, tư tưởng Phật giáo và hình tượng nhân vật nữ trong văn học Việt
Nam nói chung, văn học giai đoạn trung đại nói riêng để làm cơ sở nhận thức cho việc
tìm hiểu hình tượng trên.
3.3.

Phạm vi nghiên cứu


5

Chúng tơi tiến hành khảo sát một số tích truyện thơ Nơm có đề tài Phật giáo
phổ biến như sự tích Quan Âm Thị Kính, sự tích Quan Âm Diệu Thiện… và các bài
viết liên quan đến hình tượng nhân vật nữ trong nhóm truyện thơ này.
4. Phƣơng pháp ngiên cứu
Để thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng đồng bộ nhiều phương pháp khoa học
khác nhau. Tùy theo từng công đoạn, từng trường hợp cụ thể mà chúng tôi vận dụng
phương pháp phù hợp. Trong đó, thơng dụng nhất là năm phương pháp sau:
4.1.

Phương pháp phân tích, tổng hợp

Phương pháp phân tích, tổng hợp là phương pháp chủ yếu mà chúng tôi vận
dụng. Phương pháp này giúp chúng tôi vừa khai thác hình tượng nhân vật ở những
khía cạnh riêng biệt nhằm nắm vững bản chất cốt lõi của hình tượng lại vừa đưa ra
những nhận định chung, khái quát về các vấn đề liên quan đến hình tượng ấy.
4.2.

Phương pháp so sánh, đối chiếu


Để đưa ra đặc điểm chung nhất về hình tượng nhân vật nữ trong nhóm truyện
thơ Nôm đề tài Phật giáo, chúng tôi tiến hành so sánh hình tượng các nữ nhân vật
trong từng truyện thơ với nhau. Ngoài ra, việc đặt những tác phẩm trong thế so sánh sẽ
tạo ra một cái nhìn vừa chung lại vừa riêng, vừa toàn diện lại vừa chi tiết. Từ đó, hình
tượng nhận vật nữ trong nhóm truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo được tái hiện sinh
động, chân thực hơn.
4.3.

Phương pháp lịch sử – xã hội

Tác phẩm văn học là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử cụ thể trong tiến trình
phát triển của lịch sử dân tộc. Chúng tôi quan tâm đến thời gian xuất hiện của các tác
phẩm để có sự đánh giá phù hợp với giá trị của tác phẩm ở phương diện hình tượng
nhân vật mà nhất là nhân vật nữ.
4.4.

Phương pháp hệ thống

Nhóm truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo là một bộ phận của nền văn học trung
đại Việt Nam. Chúng tơi nhìn nhận các tác phẩm này trong mối tương quan với tiến
trình vận động của văn học trung đại nhằm có cái nhìn tổng quan về các đặc điểm của
tác phẩm nói chung và hình tượng nhân vật nữ nói riêng. Mặt khác, hệ thống hóa các


6

tư liệu liên quan, các đặc trưng về hình tượng nhân vật vốn bị phân thành các tiểu mục
giúp chúng tơi tiến hành tìm hiểu dễ dàng hơn.
4.5.


Phương pháp liên ngành

Ngoài “tư cách” như một tác phẩm văn học, những truyện thơ Nơm đề tài Phật
giáo cịn là phương tiện truyền bá tư tưởng tơn giáo. Chính vì thế, để nhìn nhận được
giá trị của hình tượng nhân vật nữ trong các tác phẩm này, chúng ta không nên dùng
phương pháp nghiên cứu của một ngành khoa học đặc thù mà cần kết hợp phương
pháp nghiên cứu của nhiều ngành khác nhau. Khi tìm hiểu hình tượng nhân vật nữ
trong truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo, nhờ phương pháp liên ngành, chúng tôi đã đánh
giá được những đặc trưng của hình tượng này một cách sâu sắc và tồn diện.
Ngồi năm phương pháp kể trên, trong q trình thực hiện đề tài, chúng tôi
thường xuyên kết hợp các thao tác từ sưu tầm những đánh giá của giới chuyên mơn về
hình tượng của các nữ nhân vật trong tác phẩm đến phân loại, chứng minh, thống kê
tần số xuất hiện của các chi tiết mô tả nhân vật và các biện pháp nghệ thuật được sử
dụng… nhằm đánh giá chính xác những nét tiêu biểu của hình tượng nhân vật nữ trong
nhóm truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo.
5. Cấu trúc đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và tài liệu tham khảo thì nội dung chính
được chia thành ba chương.
Ở chương một, chúng tôi nghiên cứu những vấn đề chung nhất, làm cơ sở phục
vụ việc phân tích ở các chương sau. Cụ thể, chúng tơi tìm hiểu bối cảnh ra đời của
truyện thơ Nơm nói chung và nhóm truyện thơ Nơm có đề tài Phật giáo nói riêng. Bên
cạnh đó, chúng tơi đi sâu làm rõ những đặc điểm của thể loại này. Cũng trong chương
1, chúng tôi khái quát về sự ảnh hưởng qua lại giữa Phật giáo với tín ngưỡng dân gian
Việt Nam và thử lý giải hiện này.
Ở chương hai, chúng tôi phân tích khía cạnh đầu tiên của hình tượng nhân vật
nữ trong truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo. Đó là hình tượng người phụ nữ thế tục. Cụ
thể, chúng tơi xem xét nhân vật nữ trong mối quan hệ với gia đình, với cộng đồng và
sự ý thức về giá trị bản thân của người phụ nữ.



7

Ở chương ba, chúng tơi phân tích khía cạnh cịn lại của hình tượng nhân vật nữ
trong truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo. Đó là hình tượng người phụ nữ thốt tục. Cụ
thể, chúng tơi xem xét nhân vật nữ trên hành trình tiếp nhận giáo lí Phật giáo và trên
hành trình trì giới. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng làm rõ sự hòa hợp giữa đời và đạo
trong các nhân vật nữ này.


8

Chƣơng 1

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.

Bối cảnh ra đời truyện thơ Nôm và truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo
1.1.1. Bối cảnh ra đời truyện thơ Nôm
Xét về mặt chữ viết, thế kỷ XIII – XVII, chữ Nôm xuất hiện trong nhiều tác

phẩm nổi tiếng từ thơ tuyệt cú như Quốc âm thi tập (Nguyễn Trãi), Hồng Đức quốc
âm thi tập (Lê Thánh Tông), Bạch Vân am thi tập (Nguyễn Bỉnh Khiêm)… đến diễn
ca lịch sử bằng lối lục bát hay song thất lục bát như Thiên Nam minh giám (khuyết
danh), Thiên nam ngữ lục (khuyết danh)… Thế kỷ XVIII – XIX, các tác phẩm viết
bằng chữ Nôm phát triển lên đỉnh cao rực rỡ. Chữ Nôm được vận dụng trong nhiều thể
loại như tuyệt cú trong thơ Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan…, song thất lục
bát trong các khúc ngâm như Chinh phụ ngâm (Đồn Thị Điểm), Cung ốn ngâm
(Nguyễn Gia Thiều)… hay lục bát trong truyện thơ Nôm như Truyện Kiều (Nguyễn
Du), Lục Vân Tiên (Nguyễn Đình Chiểu)… Ngoài ra, trong dân gian cũng lưu truyền
các truyện thơ khuyết danh như Thạch Sanh, Trê Cóc, Nhị độ mai, Phan Trần, Tấm

Cám, Lưu Bình Dương Lễ… Có thể nói, trong các sáng tác bằng chữ Nơm thì thể loại
truyện thơ này là nổi trội hơn cả. Ở đây, do điều kiện lịch sử, văn xuôi Nôm hầu như
không phát triển. Văn Nôm chỉ tồn tại ở dạng văn vần hay biền ngẫu và có vị trí khơng
mấy quan trọng. Nhìn chung, chữ Nơm từ loại chữ mượn để ký âm thuần túy đã trở
thành thứ ngôn ngữ tinh tế, giàu sức biểu đạt, thậm chí, so với dịng văn học chữ Hán,
văn học chữ Nôm “thực hơn, đời thường hơn, giàu tính thế tục hơn, đậm đà phong vị
dân tộc hơn”1.
Xét về mặt thể loại, trong nền văn học Việt Nam nói riêng và cả Đơng Nam Á
nói chung, truyện thơ là một thể loại quan trọng thời trung đại. Cũng chính vì xuất
hiện tại vùng Đơng Nam Á này, truyện thơ ít khi được viết bằng chữ Hán. Ở Việt
Nam, hiện tại, giới sưu tầm và nghiên cứu chỉ phát hiện một truyện thơ chữ Hán duy
nhất là Hương miết hành. Trong khi đó, truyện thơ Nơm lại phát triển rầm rộ. Theo

1

Bùi Duy Tân (1998), Văn học chữ Nôm: tinh hoa sáng tạo của văn học cổ điển Việt Nam thời trung đại, trích
trong Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia (2000), Việt Nam học: kỷ yếu hội thảo quốc tế lần thứ
nhất, NXB Thế giới, tr. 26.


9

thống kê, hiện tại có khoảng trên 100 truyện1. Truyện thơ Nôm Việt Nam phát triển
mạnh mẽ trong hai thế kỷ XVII – XIX. Giai đoạn đầu tiên là các truyện thơ cấu tạo
bằng một chuỗi thơ Đường luật như: Tô Công phụng sứ, Lâm Tuyền kỳ ngộ… Những
truyện này gần gũi với thơ trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Giai đoạn hai là sự xuất
hiện của các truyện thơ Nơm bình dân như Phạm Cơng – Cúc Hoa, Quan Âm Thị
Kính… Các tác phẩm này khá giống diễn ca lịch sử Thiên Nam ngữ lục. Trong đó, giai
đoạn cao trào là sự ra đời của các truyện thơ Nôm bác học, bắt đầu bằng các tác giả
như Nguyễn Hữu Hào, Nguyễn Thiện… Cách gieo vần, kể chuyện, miêu tả của những

truyện thơ ở thế kỷ XVIII đã khác hẳn với lối truyện bình dân trước đó. Có thể nói
rằng, truyện thơ Nơm trong giai đoạn này đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ.
Ở đây, qua những điều đã trình bày bên trên, chúng tơi nhận thấy có một sư
tương đồng trong lịch sử phát triển như sau: nhắc đến chữ Nôm là nhắc đến thể loại
truyện thơ và nhắc đến truyện thơ cũng là nhắc đến chữ Nôm. Tuy nhiên, theo khảo
sát, các truyện thơ Nôm Đường luật lại có số lượng rất hạn chế, trong khi đó, truyện
thơ Nôm phần nhiều được viết theo thể song thất lục bát và lục bát nhưng chủ yếu là
lục bát. Khơng sai khi cho rằng nói truyện thơ Nơm chính là nói truyện thơ Nơm lục
bát bởi sự chiếm ưu thế vượt trội về số lượng của thể loại này. Vậy, nguyên nhân nào
đã dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của thể loại lục bát? Tại sao các tác giả lại dùng thể
lục bát khi sáng tác truyện thơ? Để trả lời vấn đề này, chúng ta bắt đầu từ những đặc
trưng nổi bật của thể thơ lục bát. Đó là tính dân tộc. Thơ lục bát tồn tại từ rất lâu đời và
gần gũi với ca dao dân gian. Cặp câu thơ 6/8 mượt mà, nhịp điệu êm ái, niêm luật chặt
chẽ, phối thanh hài hoà và hiệp vần nhịp nhàng đã khiến thể lục bát như là khúc hát ru
quen thuộc của ngày thơ ấu. Vậy nên, với thể lục bát này, truyện thơ Nôm trở nên giản
dị, gần gũi, dễ dàng đi vào đời sống của nhân dân. Từ đó, người dân dễ thuộc, tác
phẩm dễ truyền bá rộng rãi. Bên cạnh đó, nội dung trong truyện thơ Nôm thường phản
ánh một câu chuyện rộng lớn nhưng đồng thời cũng thể hiện tình cảm của nhân dân
đối với những sự việc diễn ra ấy. Như vậy, so với các thể thơ luật Đường bị hạn chế về
số câu số chữ và về độ dài hoặc bị bó buộc bởi những quy tắc cứng nhắc thì thể lục bát
lại khá tự do cho việc tái hiện lại những việc đã từng xảy ra. Mặt khác, vào thế kỷ

1

Kiều Thu Hoạch, Luận án Truyện nơm bình dân của người Việt - lịch sử hành thành và bản chất thể loại,
ptDQy1996.1.13&e=-------vi-20--1--img-txIN-------# (truy
cập lúc 13 giờ 07 phút, 22/01/2018).


 10 


XVI, diễn ca lịch sử rất phát triển đã chứng minh cho khả năng tự sự của thể thơ lục
bát. Do đó, thơ lục bát là lựa chọn tối ưu cho thể loại truyện thơ này.
Trên đây, chúng tơi đã trình bày sơ lược về q trình hình thành và phát triển
của truyện thơ Nôm lục bát. Tuy nhiên, xét về bản chất, sự xuất hiện của truyện thơ
Nơm có ý nghĩa như thế nào? Nói cách khác, vì sao truyện thơ ra đời? Quanh vấn đề
này có khá nhiều ý kiến khác nhau. Trong đề tài này, dựa trên quan điểm rằng văn học
phản chiếu cuộc sống, chúng tôi cho rằng “sự ra đời của truyện Nôm bắt nguồn từ một
yêu cầu phản ánh xã hội với những nội dung thời đại cũng như với những điều kiện
thực tiễn của bản thân thời đại ấy”1. Xét hoàn cảnh lịch sử nước ta vào thế kỷ XVIII –
thời kỳ những tác phẩm truyện Nôm xuất hiện và phát triển mạnh mẽ, chúng tôi đủ
dẫn chứng để khẳng định nhận định này. Cụ thể : thế kỷ XVI, xã hội Việt Nam chứa
nhiều mâu thuẫn. Các phe phái phong kiến trong triều đình tranh giành quyền lực. Đời
sống nhân dân khốn khổ bởi các cuộc chiến tranh của những tập đồn này. Khởi nghĩa
nơng dân nổ ra ở nhiều nơi. Đến thế kỷ XVIII, về cơ bản, nền móng phong kiến tại
Việt Nam đã lung lay tận gốc. Sự khủng hoảng về tư tưởng phong kiến dẫn đến sự mất
niềm tin của nhân dân vào những truyền thống đạo đức xưa cũ. Hệ giá trị nho giáo bị
phá vỡ. Nhân dân hướng đến những chân trời mới – nơi cơng lý, tình người được đảm
bảo. Lúc này, trên văn đàn, các sáng tác của những nhà nho chính thống (chủ yếu là
vua chúa và quan lại) khơng cịn phổ biến như trước kia. Thay vào đó, nho sĩ bình dân
– những người khơng theo sự đào tạo chính quy và không theo con đường khoa cử trở
thành lực lượng sáng tác đơng đảo. Chính vì vậy, các thể loại văn học mang tính điển
nhã, bác học khơng được ưa chuộng, văn học thời kỳ này theo xu hướng bình dân hóa.
Mặt khác, để đáp ứng nhu cầu phản ánh rộng lớn, đa dạng các mặt xã hội của nhân
dân, các thể loại mang tính khn mẫu đã bị thay thế bởi những thể loại mới, khơng bó
buộc về số lượng câu từ. Vì vậy, truyện thơ Nơm mà chủ yếu là truyện thơ Nôm lục
bát (nguyên nhân đã lý giải ở trên) bắt đầu hình thành và phát triển. Vậy, có thể khẳng
định rằng “truyện Nơm là sản phẩm văn học vào thời kỳ phong kiến suy tàn, mang ý
nghĩa phản ánh một thời kỳ bùng nổ mạnh mẽ của đấu tranh giai cấp dưới chế độ
phong kiến”2. Do đó, sự ra đời của nó gắn liền với sự ra đời của một ý thức mới. “Có

thể hình thức đầu tiên của các truyện Nôm là những bài hát tự sự của các nghệ nhân
1
2

Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, NXB Khoa học Xã hội, tr. 50.
Đặng Thanh Lê (1979), Truyện Kiều và thể loại truyện Nôm, NXB Khoa học Xã hội, tr. 57.


 11 

hát rong”1. Từ hình thức truyền khẩu ban đầu trong dân gian như thế các nhà nho đã
mạnh dạn dùng chữ viết để ghi lại và sau đó là sáng tác những tác phẩm mới, tạo nên
sự phát triển mạnh mẽ như đã thấy.
Để chắc chắn hơn cho nhận định trên, chúng tôi khảo sát nguồn gốc cụ thể của
những tác phẩm hiện hành. Qua đó, chúng tơi nhận thấy có hai nguồn cơ bản hình
thành nên truyện thơ Nơm.
Thứ nhất: chuyện thế sự. Đó là những gì tác giả mắt thấy tai nghe, những thứ
diễn ra trong cuộc sống hằng ngày. Chẳng hạn, truyện Phạm Công – Cúc Hoa là mối
quan hệ giữa mẹ ghẻ với con chồng. Một bộ phận nữa trong đề tài thế sự này là hiện
thực các cuộc khởi nghĩa nông dân diễn ra thời bấy giờ như Vợ ba Cai vàng2. Ngoài
ra, một số truyện Nơm thuộc mảng này là bóng dáng cuộc đời của chính tác giả, chẳng
hạn, truyện Sơ kính tân trang là cuộc tình đẫm nước mắt của Phạm Thái và Trương thị
- người chàng yêu tha thiết. Như vậy, truyện thơ Nơm chính là tấm gương để nhân dân
phản ánh về xã hội mình đang sinh sống.
Thứ hai: truyện xưa tích cũ. Đó là những chuyện cổ tích có sẵn trong dân gian
hay Phật tích trong nhà chùa. “Rất nhiều những sự tích như Tấm Cám, Trương Chi…
lưu truyền lâu đời đều được diễn ca thành những truyện thơ hấp dẫn, đậm đà màu sắc
dân tộc và hương vị quê hương đất nước”3. Song song đó, “diễn ca Phật giáo là loại
hình tiền thân truyện Nơm, cung cấp đề tài và cốt truyện hấp dẫn”4 chẳng hạn như Cổ
Châu Phật bản hạnh, Quan Âm tống tử bản hạnh… Ngồi ra, tương tự việc mượn cổ

tích và Phật tích, truyện Nơm cịn mượn đề tài và cốt truyện quen thuộc trong kho tàng
văn học cổ điển Trung Quốc như các truyện Nhị độ mai diễn ca, Truyện Tây sương…
Tuy nhiên, có thể khẳng định rằng, các tác giả Việt đã tái tạo thành công những
chuyện xưa ấy và không ngồi mục đích là phục vụ cho nhu cầu phản ánh thời đại lúc
bấy giờ. Mượn chuyện đời xưa để nói chuyện đời nay, đó là thủ pháp quen thuộc của
văn học Việt Nam và thế giới.
1

Nguyễn Thị Thanh Lâm, Đề cương tóm tắt Văn học Trung đại Việt Nam 2 trường Đại học Cần Thơ, https://
websrv1.ctu.edu.vn/coursewares/supham/vhvntrungdai2/ch5.htm, (truy cập lúc 1 giờ 07 phút, 11/01/2018).
2
Có một số quan điểm cho rằng Vợ ba Cai vàng là diễn ca lịch sử, do sự hạn chế về dung lượng, chúng tôi
không đi vào phân tích so sánh diễn ca lịch sử và truyện thơ để chứng minh bác bỏ, mà trong đề tài này, chúng
tôi mặc nhiên thừa nhận tác phẩm này là truyện thơ.
3
Hoàng Hữu Yên (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, tr. 233
4
Đinh Thị Khang – Nguyễn Thị Hồng Vân (2008), Diễn ca Phật giáo – tiền thân loại hình truyện Nơm, trích
trong Trần Đình Sử (2008), Tự sự học – một số vấn đề lý luận và lịch sử (phần 2), NXB Đại học Sư phạm, tr.
404.


 12 

Như vậy, sự ra đời của truyện thơ Nôm thực chất là vấn đề sáng tạo văn học có
tính cộng đồng. “Chỉ có thể xem truyện thơ Nơm là một thể loại văn học đặc thù của
dân tộc, thì mới có thể tìm ra nội dung đích thực hàm chứa trong khuôn khổ nghệ thuật
thể loại, đồng thời có được nhận thức đúng đắn về giá trị một di sản văn học của dân
tộc”1.
1.1.2. Bối cảnh ra đời truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo

Như đã trình bày ở mục 1.1.1, trong nguồn gốc hình thành nên truyện thơ Nơm
có sự đóng góp của những tích truyện Phật giáo. Nói cách khác, truyện thơ Nơm đề tài
Phật giáo là một bộ phận của truyện thơ Nôm lục bát. Do đó, sự hình thành nên nhóm
truyện này cũng chính là q trình hình thành của truyện thơ Nơm. Như vậy, khi nói
về bối cảnh ra đời truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo, chúng tôi sẽ không đề cập lại các
vấn đề đã trình bày ở trên mà chủ yếu quan tâm đến sự xuất hiện của các tích truyện
Phật giáo được diễn Nơm. Bên cạnh đó, chúng tơi cũng khảo sát cụ thể ba Phật tích
phổ biến là Quan Âm Thị Kính, Quan Âm Diệu Thiện và Lưu Hương diễn nghĩa.
Có ghi chép cho rằng, thế kỷ XV, “giới Phật tử bình dân phát triển một loại văn
học truyền miệng để duy trì những tài liệu lịch sử về các vị tổ sư Phật Giáo. Loại văn
học truyền miệng này được gọi là kể hạnh. Kể là kể chuyện, hạnh là hành trạng các vị
tổ sư. Văn kể hạnh là văn đặc biệt của nhà chùa; đó là một lối văn hát; giọng của các
già lớn tuổi xen vào giọng của các thiếu nữ. Các bà các cô thuộc lịng những điều họ
kể, nếu thiết sót hay sai lầm thì đã có các thầy […] sửa chữa hoặc bổ sung lại”2. Chúng
tôi cho rằng, từ lối kể hạnh như trên, các tích truyện trong kinh Phật trở nên phổ biến
rộng rãi trong dân gian. Bắt gặp sự tương đồng về nhiều mặt, các tích truyện ấy được
nhân dân biên soạn lại cho phù hợp với bối cảnh thời đại và nhu cầu xã hội lúc ấy.
Nghĩa là, từ một nghi lễ mang đậm tính tơn giáo, các tích truyện kể hạnh lan truyền và
phát triển thành truyện thơ Nôm như đã thấy. Đây không phải là hiện tượng quá hiếm
hoi. Trong lịch sử văn học thế giới, cũng từng có những thể loại văn học xuất hiện như
vậy. Ở Trung Quốc, vào đời nhà Tống, để thu hút tín đồ, mở rộng ảnh hưởng, Phật
giáo phổ biến một cách hoằng pháp mới. Đó là đem những câu chuyện về cuộc đời

1

Trần Anh Tuấn (2013), Vấn đề thể loại truyện Nôm và một số nhà nghiên cứu tiên phong vào nữa đầu thế kỷ
XX, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh, số 44.
2
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, (truy cập lúc 21 giờ 27 phút, 20/01/2018).



 13 

Đức Phật phát triển thành lối diễn thuyết trước quần chúng nhân dân trong các buổi lễ
tại chùa. Phần truyện cốt lõi trong những buổi xướng đạo như vậy gọi là Biến văn. Thể
loại này tuy được nhân dân u thích nhưng nhà nước lại xem là khơng phù hợp để
phát triển nên bị cấm lưu hành. Tuy nhiên, trong dân gian, vẫn có những người bắt
chước kiểu giảng xướng kinh truyện của nhà chùa, tạo thành các thể loại khác như
Tiểu thuyết, Giảng sử… Về sau, lệnh cấm Biến văn có phần lơi lỏng, các đệ tử Phật
môn lại “xuống núi” đăng đàn diễn xướng dưới tên gọi mới – Bảo quyển. Để đáp ứng
nhu cầu phù hợp với đại đa số người dân, các thể loại này về cơ bản đã được giảm nhẹ
nội dung tôn giáo, bớt đi giáo lý, giáo luật mà mở rộng về mặt lịch sử, xã hội. Vậy,
tương tự như thế, có thể khẳng định rằng, nguồn gốc của các truyện thơ Nơm đề tài
Phật giáo tại Việt Nam cũng chính là sự nối tiếp của hình thức thuyết xướng này.
Xét hai truyện thơ Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện, về bản chất, cả
hai cùng là sự tích liên quan đến một nhân vật duy nhất trong kinh Phật, đó là Quan
Thế Âm Bồ Tát. Trong kinh Pháp Hoa, phẩm Phổ Môn, Quan Thế Âm được mô tả là
vị bồ tát có khả năng thần thơng, tùy dun mà thị hiện1 nhằm độ hóa chúng sanh. Như
vậy, hai Phật tích trên đều dựa vào cơ sở này để sáng tạo nên.
Về thời gian ra đời của hai hình tượng này, theo các nhà nghiên cứu, tượng
Quan Âm Thị Kính2 lần đầu xuất hiện vào thế kỷ thứ XVII cịn tượng Quan Âm Diệu
Thiện3 xuất hiện trước đó, vào thế kỷ XVI4. Tuy nhiên, thời điểm ra đời truyện thơ lại
chưa được xác định. Cho đến hiện nay, chưa có một nghiên cứu nào chắc chắn thời
gian hình thành truyện thơ Quan Âm Thị Kính. Có quan niệm cho rằng, “xét lời văn thì
có thể tác phẩm này ra đời giữa thế kỷ XIX, sau Truyện Kiều ít lâu”5. Tuy nhiên, theo
ý kiến của chúng tôi, quan niệm này có phần cảm tính. Bản in xưa nhất cịn lại của
Truyện Kiều là năm 1871, trong khi đó, bản in sớm nhất được lưu giữ của truyện thơ
Quan Âm Thị Kính là năm 1868. Tương tự như vậy, việc cho rằng truyện “Quan Âm
Diệu Thiện do một vị tăng thời Nguyên sáng tác rồi truyền vào đất Việt vào khoảng


1

Thị hiện là tùy vào hoàn cảnh và điều kiện mà hiện thân tương ứng. Cụ thể, nếu cần hiện ra thân gì để cứu độ
thì hiện ra thân đó, như thân quốc vương, thân tể tướng, thân phụ nữ, thân nhi đồng…
2
Tức Quan Âm có tay ơm đồng tử.
3
Tức Quan Âm nghìn mắt nghìn tay.
4
Giác Ngộ, Nguồn gốc tích truyện Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện, />5916/nguon-goc-tich-truyen-quan-am-thi-kinh-va-quan-am-dieu-thien (truy cập lúc 22 giờ 27 phút, 20/01/2018).
5
Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, />/Viet-Nam-Phat-Giao-Su-Luan-NguyenLang.pdf (truy cập lúc 23 giờ 27 phút, 20/01/2018).


 14 

thế kỷ XIV – XV”1 và được Việt hóa cũng chưa đầy đủ căn cứ. Cần có những chuyên
khảo cụ thể về vấn đề trên. Vì vậy, trong đề tài này, chúng tôi quan tâm nhiều hơn đến
thời điểm mà các tác phẩm được lưu truyền và phổ biến rộng rãi trong dân gian.
Xét giai đoạn XVII – XVIII – XIX, đây là thời kỳ phong kiến Việt Nam có
những hệ tư tưởng phức tạp. Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện chính là hai
lát cắt của một ý thức hệ đầy mâu thuẫn. Nếu Diệu Thiện là đại diện cho tầng lớp trên,
tức vua và quan lại thì Thị Kính là tượng trưng cho người dân lao động nghèo trong xã
hội. Vậy nên: Chuyện công chúa Diệu Thiện đi tu là sự nối tiếp truyền thống về một
quốc gia mà ở đó người thống trị vốn đề cao tư tưởng hịa bình, nhân ái, tức là, Diệu
Thiện là hy vọng về một tấm lòng đại từ đại bi, về sự dang tay cứu khổ của thế lực
cầm quyền; Cịn chuyện Thị Kính đi tu lại là sự biểu dương cho tinh thần nhẫn nhục
chịu đựng, tìm kiếm sự cứu rỗi tương lai ngay trong chính bản thân mình, nói cách
khác, Thị Kính là nơi nhân dân ta gởi niềm tin trong nỗi tuyệt vọng về một xã hội loạn
lạc, bất cơng. Bên cạnh đó, Diệu Thiện đi tu vì sự tự giác ngộ cịn Thị Kính đi tu do sự

cùng đường bế tắc của hồn cảnh. Chính sự khác nhau này cũng góp phần thể hiện sự
chênh lệch địa vị của hai nhân vật nữ, từ đó, khẳng định rõ hơn về sự mâu thuẫn trong
tư tưởng của nhân dân thời bấy giờ. Người ta vừa phải tự tìm đường giải thốt chính
mình nhưng đồng thời, vừa trông chờ tầng lớp trên “cứu độ”.
Như vậy, mặt ngồi, hai truyện thơ Nơm này có nguồn gốc trực tiếp từ Phật
giáo và đều thể hiện quan điểm tu hành nhà Phật, tuy nhiên, về bản chất, chúng là nơi
người dân lao động phản ánh tâm tư, tình cảm và nguyện vọng của chính mình. Điều
này cũng lý giải nguyên nhân về việc Quan Âm Thị Kính phổ biến hơn so với Quan
Âm Diệu Thiện dù cả hai tồn tại song song nhau trong văn hóa Việt Nam. Cụ thể, càng
về sau, nhân dân càng mất dần niềm tin vào giai cấp cầm quyền, tư tưởng phản kháng
bắt đầu thắng thế.
Khác với hai truyện thơ trên, Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển được tìm thấy ở
vùng Nam Bộ và mang dấu ấn riêng của mảnh đất này. Dựa vào quy luật phát triển
chung của truyện thơ Nôm, vào bối cảnh xã hội và tình hình Phật giáo những năm cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, có giả thuyết cho rằng Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển

1

Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, />Viet-Nam-Phat-Giao-Su-Luan-NguyenLang.pdf (truy cập lúc 21 giờ 27 phút, 20/01/2018).


 15 

được sáng tác trong thời kỳ này và bởi một nhà nho bình dân “thân” Phật giáo. Đồng
tình cùng quan điểm ấy, khi tìm hiểu về diện mạo miền Nam Việt Nam giai đoạn trên,
chúng tôi nhận thấy ngồi sự tương đồng về tính chất xã hội với thời điểm xuất hiện
phổ biến các truyện thơ Quan Âm Thị Kính và Quan Âm Diệu Thiện, thời kỳ này cịn
có một số vấn đề cần lưu ý.
Trước hết, sau khi củng cố bộ máy cai trị, thực dân Pháp tiến hành cải biến
nhiều mặt đời sống xã hội, trong đó có tơn giáo. Vì quan niệm Phật giáo gắn liền với

dân tộc Việt Nam, chúng thi hành nhiều biện pháp nhằm giảm bớt sự ảnh hưởng của
đạo Phật trong lịng nhân dân. Một trong những chính sách đó là dễ dãi giới luật với
các tu sĩ, tạo ra một thế hệ nữa tăng nữa tục1. Cũng từ ấy, hiện tượng mê tín dị đoan
trỗi lên mạnh mẽ ngay trong những người khoác áo tu hành. Vấn đề cấp thiết lúc bấy
giờ là chấn chỉnh tình hình suy thối đang diễn ra trong nội bộ Phật giáo. Vì vậy, sự ra
đời của Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển chính là hồi chuông thức tỉnh những người
con Phật đang bị “ma đưa lối quỷ dẫn đường”. Do đó, ý nghĩa tơn giáo của tác phẩm
mạnh mẽ hơn hai truyện thơ trên.
Ngoài ra, khi nền văn minh phương Tây tràn sang, con người ta chống ngợp
bởi sự mới mẻ của nó mà chạy theo những giá trị phù phiếm. Bắt gặp một tác phẩm
mang tư tưởng nhân quả, khuyến thiện, nhân dân ta bắt đầu lưu truyền rộng rãi ngay
vào lúc ấy. Đó là minh chứng cho khát vọng mãnh liệt của người dân về ước muốn
giải thoát khỏi hiện thực cuộc sống đầy khủng hoảng. Phải tìm đến tơn giáo như một
sự cứu rỗi, ý thức phản kháng xã hội của nhân dân rơi vào bế tắc hồn tồn.
Như vậy, nhìn chung, dù là Lưu Hương diễn nghĩa, truyện Quan Âm Thị Kính
hay Quan Âm Diệu Thiện thì tất cả đều hình thành dựa trên cơ sở là sự khủng hoảng ý
thức hệ xã hội. Mượn những Phật tích sẵn có rồi sáng tạo theo nhu cầu thời đại, sự ra
đời của nhóm truyện thơ Nơm có đề tài Phật giáo là minh chứng cho “sự tương tác

1

Dưới sự tiếp tay của thực dân, nhiều thầy tu được quan trên cưới vợ. Ơng thầy vừa có vợ, có con lại vừa sống
kiếp “đầu trịn áo vng”! Trong dân gian, người ta truyền tai nhau những câu như:
Thầy chùa đi lùa bánh cúng
Vợ ở nhà xách thúng đi theo
Hay:
Muốn ăn đậu hủ, tương Tàu
Mài dao, đánh kéo gọt đầu đi tu
Mồm thì tụng niệm nam mơ
Miệng thì rượu thịt lu bù sớm hôm



 16 

giữa văn học với tôn giáo, giữa tôn giáo với cuộc đời và giữa cuộc đời với lăng kính
nhân văn của các nhà văn”1.
Tóm lại, truyện thơ Nơm nói chung và truyện thơ Nơm đề tài Phật giáo nói
riêng đều là những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của người nghệ sĩ. Sự xuất hiện của
thể loại này là bước tiến dài của lịch sử văn học dân tộc. Bắt đầu từ hình thức diễn
xướng dân gian, trải qua q trình dài hồn thiện, nó đã trở thành thể loại phổ biến và
nổi bật của văn học Việt Nam trung đại. Xem xét bối cảnh ra đời của truyện thơ Nôm
và truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo tạo cách nhìn khách quan hơn khi nhận xét về giá
trị của những tác phẩm thuộc thể loại này.
1.2.

Đặc điểm truyện thơ Nôm và truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo
1.2.1. Đặc điểm truyện thơ Nơm
“Truyện thơ Nơm có một số lượng khá lớn hơn nữa lại do nhiều tầng lớp khác

nhau sáng tác cho nên nội dung cũng như nghệ thuật của nó đều khơng thuần nhất. Ðể
tiện cho việc nghiên cứu người ta đã tiến hành phân loại bộ phận văn học này. Dựa
theo những căn cứ khác nhau mà có những cách phân loại khác nhau”2. Cụ thể:
Thứ nhất, truyện thơ Nôm được phân loại theo nguồn gốc đề tài. Cách phân loại
này, ở mục 1.1.1, chúng tơi đã tiến hành làm rõ. Về ưu điểm, nó thể hiện thể hiện cụ
thể về nguồn gốc hình thành của truyện thơ Nơm. Các yếu tố mang tính văn hóa – xã
hội tồn tại trong tác phẩm được biểu hiện rõ ràng hơn. Tuy nhiên, phân loại truyện thơ
Nôm theo nguồn gốc đề tài gây ra sự nhặp nhằng trong việc phân biệt các đặc trưng
nghệ thuật của từng nhóm truyện.
Thứ hai, truyện thơ Nơm được phân loại dựa theo tác giả, nghĩa là, truyện thơ
Nôm khuyết danh và truyện thơ Nôm hữu danh. Tuy nhiên, vấn đề hữu danh hay

khuyết danh rất khó xác định chắc chắn. Gần đây, “một số tác phẩm vốn được xếp vào
truyện Nôm khuyết danh đã tìm ra được tác giả hoặc đã được dự đoán về tác giả như
truyện Nhị độ mai”3. Ở đây, vấn đề khuyết danh cũng cần được đánh giá đúng đắn.
1

Lê Sỹ Đồng (2016), Quan Âm Thị Kính và Lưu Hương diễn nghĩa bảo quyển từ góc nhìn so sánh, trích trong
Nguyễn Cơng Lý – Đồn Lê Giang (chủ biên), Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Văn học Phật giáo Việt Nam: thành
tựu và định hướng nghiên cứu mới, NXB Khoa học Xã hội, tr.635.
2
Nguyễn Thị Thanh Lâm, Đề cương tóm tắt Văn học Trung đại Việt Nam 2 trường Đại học Cần Thơ, https://
websrv1.ctu.edu.vn/coursewares/supham/vhvntrungdai2/ch5.htm, (truy cập lúc 9 giờ 56 phút, 20/01/2018).
3
Hoàng Hữu Yên (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, tr. 232.


 17 

Truyện không đề tên tác giả một mặt do tâm lý coi thường chữ Nôm của các nhà nho
đương thời khiến tác giả của các sáng tác này không được chú ý đến và dần dần bị
quên lãng. Mặt khác, do sự cấm đoán của giai cấp thống trị1 nên nhiều tác giả không
dám công khai tên họ. Ngoài ra, tác phẩm được lưu hành trong nhân dân chủ yếu là
truyền khẩu. Qua một thời gian dài từ người này sang người khác, từ vùng nọ sang
vùng kia, tên tác giả ban đầu bị lãng quên, trở thành tác phẩm khuyết danh.
Thứ ba, truyện thơ Nôm được phân loại dựa trên đặc điểm nghệ thuật. “Loại
mang nội dung và hình thức chưa đạt đến trình độ một tác phẩm nghệ thuật cao được
gọi là truyện Nơm bình dân. Loại có nội dung sâu sắc và nghệ thuật điêu luyện được
gọi là truyện Nôm bác học”2. Về cơ bản, hai khái niệm này mang tính phân biệt tương
đối, chưa thật sự khoa học. Rất khó để có một chuẩn mực chung cho việc đánh giá nội
dung và nghệ thuật của thể loại này. Nhìn chung, khái niệm “bình dân” nên được hiểu
với nghĩa là những truyện do các nho sĩ bình dân sáng tác, nội dung mang đậm tính

chất quần chúng, nghệ thuật mộc mạc, giản dị. Tương tự, khái niệm “bác học” để chỉ
những truyện do các nhà nho thuộc tầng lớp trên sáng tác, tư tưởng và nghệ thuật có
phần phức tạp hơn truyện Nơm bình dân.
Vậy, tính đến thời điểm hiện tại, việc phân loại truyện thơ Nơm cịn là bài tốn
chưa thực sự có lời giải đáp thuyết phục. Tùy vào những nhu cầu khác nhau mà người
nghiên cứu lựa chọn cách phân chia phù hợp. Tuy nhiên, điều này nhìn chung là minh
chứng cho sự đa dạng và phong phú của thể loại trên.
Ở phần 1.1.1, chúng tôi đã chứng sự ra đời của truyện thơ gắn liền với sự ra đời
của một ý thức mới. Tuy nhiên, ý thức mới này là gì? Đây là vấn đề cần được xem xét
cẩn trọng. Theo ý kiến của chúng tơi, đó là ý thức về nhân cách cá nhân của con người.
Hình thành vì nhu cầu phản ánh hiện thực xã hội nên so với các thể loại mang tính
điển nhã trước đó, nội dung trong truyện thơ Nôm đã quan tâm đến số phận cá nhân và
quyền được sống, được phúc của cá nhân ấy. Nghĩa là, “về mặt nội dung, nếu ngâm
1

Dưới thời chúa Trịnh, truyện thơ Nơm bị cấm lưu hành:
“Kì như Thích, Đạo, phi Kinh
Lời tà, mối lạ, tập tành chuyện ngoa
Cũng là truyện cũ nôm na
Hết thơ tập ấy lại ca khúc này
Tiếng dâm dễ khiến người say
Chớ cho in bản hại ngay thói thuần”
2
Hồng Hữu n (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, tr. 236.


 18 

khúc thông qua đời sống nội tâm để nói lên những vấn đề con người thì truyện thơ trực
tiếp miêu tả những gì liên quan chặt chẽ đến cuộc sống con người trong một bối cảnh

lịch sử xã hội cụ thể”1. Vấn đề trung tâm đặt ra trong hầu hết các truyện Nôm này là
cuộc đấu tranh của những người lao động bị áp bức bởi cường quyền bạo chúa để bảo
vệ tình yêu thủy chung, bảo vệ hạnh phúc gia đình và bảo vệ nhân phẩm chính mình.
Qua đó, những truyện này “tố cáo bộ mặt thối nát, tàn bạo của xã hội phong kiến trên
bước đường suy vong của nó, đề cao phẩm chất tốt đẹp của quần chúng lao động và
đưa ra những cách giải quyết tích cực, tiến bộ cho các vấn đề xã hội này”2. Trong đó,
hình tượng trung tâm thường là nhân vật nữ. Những nhân vật này dám hành động theo
suy nghĩ của mình chứ khơng theo đạo đức phong kiến. Họ chủ động xây dựng và tích
cực đấu tranh để bảo vệ hạnh phúc chính mình nhưng vẫn giữ được những phẩm chất
tốt đẹp (lòng vị tha, đức hi sinh, nghị lực phi thường, trí thơng minh quyết đốn...).
“Cuộc đấu tranh của họ ngoài ý nghĩa bảo vệ hạnh phúc, tình u cịn có ý nghĩa bảo
vệ nhân phẩm, bảo vệ chính nghĩa, bảo vệ cơng lý”3. Mặt khác, việc lựa chọn các nhân
vật là người phụ nữ thể hiện sự trân trọng của tác giả đối với những con người nhỏ bé,
đáng thương trong xã hội. Ở đây, chúng tôi xin bàn thêm, tuy xuất hiện ý thức về nhân
cách cá nhân của con người nhưng điều ấy không đồng nghĩa với sự tồn tại của ý thức
cá nhân trong truyện thơ Nơm. Nhìn vào các nhân vật nữ đã nói ở trên, tuy họ chủ
động trong tình u và tích cực đấu tranh bảo vệ hạnh phúc nhưng hầu như tất cả đều
mang lý tưởng phụng sự hết lịng vì tương lai của chồng. Và kết quả, ai cũng trở thành
quan bà hay hoàng hậu nhờ vào sự thành cơng của chồng mình! Mơtip nâng cao địa vị
xã hội này được xem là phần thưởng xứng đáng cho nhân vật giống truyện cổ tích.
Như đã trình bày, hình thức ban đầu của truyện thơ Nôm là các bài hát tự sự
được nhân dân sáng tạo và truyền miệng rộng rãi. Do đó, truyện thơ Nơm chịu ảnh
hưởng rất lớn bởi văn học dân gian mà cụ thể là truyện cổ tích. Các mơtip quen thuộc
của cổ tích được sử dụng phổ biến trong truyện thơ như lai lịch đặc biệt của nhân vật
chính, những khó khăn thử thách mà nhân vật chính gặp phải, sự chiến đầu và chiến
thắng các thế lực tàn ác, kết thúc có hậu… Tuy nhiên, đây khơng đơn giản là đem
truyện cổ tích kể lại bằng thơ lục bát. Do đó, nếu xem truyện thơ Nơm là một bộ phận
1

Hồng Hữu n (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, tr. 237.

Nguyễn Thị Thanh Lâm, Đề cương tóm tắt Văn học Trung đại Việt Nam 2 trường Đại học Cần Thơ, https://
websrv1.ctu.edu.vn/coursewares/supham/vhvntrungdai2/ch5.htm, (truy cập lúc 8 giờ 15 phút, 20/01/2018).
3
Nguyễn Thị Thanh Lâm, Đề cương tóm tắt Văn học Trung đại Việt Nam 2 trường Đại học Cần Thơ, https://
websrv1.ctu.edu.vn/coursewares/supham/vhvntrungdai2/ch5.htm, (truy cập lúc 9 giờ 38 phút, 20/01/2018).
2


 19 

của văn học dân gian thì điều này chưa hồn tồn chính xác. Trong một số truyện thơ
mà chủ yếu là truyện thơ Nôm bác học, dấu ấn tác giả tuy chưa rõ nét nhưng đã được
thể hiện. Mặt khác, khi xem xét lời thơ trong truyện thơ Nôm, chúng tôi nhận thấy, dù
gần gũi với khẩu ngữ, nhưng đó vẫn là ngơn ngữ viết chứ khơng phải ngơn ngữ nói1.
Nhân vật trong truyện thơ Nơm, dù là truyện thơ Nơm bình dân cũng đã ít nhiều có cá
tính có thể phân biệt được. Đây là phương diện quan trọng đánh dấu sự khác biệt lớn
nhất giữa truyện thơ Nôm với các thể loại văn học dân gian.
Xét các yếu tố thi pháp, truyện thơ Nơm có cốt truyện hồn chỉnh. Trong đó,
yếu tố tự sự đã được chú trọng, dù vẫn mang tính ước lệ nhưng những lời trần thuật,
miêu tả đã chi tiết và sinh động hơn. Ngồi ra, yếu tố trữ tình chiếm một liều lượng
phong phú và có cả yếu tố kịch tính. Cũng có sự xuất hiện của các yếu tố phi cốt
truyện như lời bình luận ở đầu và cuối truyện. Đặc biệt, truyện thơ Nôm đã chú trọng
xây dựng hệ thống hình tượng nhân vật. Nhân vật ở đây rất gần gũi với kiểu nhân vật
loại hình của văn học dân gian. Tuy nhiên, các nhân vật này ít nhiều đã được khắc họa
cá tính thơng qua các hành động hay lời đối thoại. Chính những điều này đã khiến
truyện thơ Nôm được nhận xét là mang xu hướng tiểu thuyết hóa2. Một số nhà nghiên
cứu mạnh dạn cho rằng truyện thơ Nôm là thể loại tiểu thuyết cổ điển của Việt Nam.
Ở đây, như đã trình bày, hình tượng trung tâm trong các sáng tác thường là nhân
vật nữ. Người phụ nữ xuất hiện ở mọi hoạt động của đời sống, từ lao động sản xuất
đến đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Mặt khác, phái nữ được khắc họa với những đức tính tốt

đẹp của dân tộc như thủy chung son sắt, nhân hậu vị tha… Trong các mối quan hệ,
người phụ nữ luôn luôn chịu đựng, sẵn sàng hi sinh bản thân vì người khác. Nhìn
chung, tính mềm mại và nhu hịa uyển chuyển của phái nữ ln được đề cao. Đó là
minh chứng tiêu biểu cho thiên tính nữ trong văn học Việt Nam. Phải chăng, sự đề cao
người phụ nữ – người mẹ là mục đích hướng tới của tâm hồn người Việt mà không
phải đất nước nào trên thế giới cũng có?
Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời đại, truyện thơ Nôm lục bát vẫn tồn tại một
số thiếu sót khách quan so với thể loại tiểu thuyết. Như đã chứng minh, ý thức cá nhân
trong truyện thơ Nơm vẫn chưa hình thành. Tác giả chưa nhìn thấy ở quần chúng nhân
1

Đây là hiện tượng khác biệt so với văn học thế giới. Chẳng hạn, thoại bản và tiểu thuyết chương hồi Trung
Quốc vẫn mang phong cách kể miệng của các thuyết thoại nhân thời trước.
2
Điều này cũng là cơ sở tốt nhất để phân biệt truyện thơ Nơm bình dân và truyện thơ Nơm bác học.


 20 

dân sức mạnh để giải quyết các vấn đề thời đại, trong cuộc đấu tranh giành hạnh phúc
hay chân lý, họ phải nhờ đến những lực lượng siêu nhiên như thần Phật giúp đỡ. Ngồi
ra, do sự bình dân hóa mà cách kể chuyện trong truyện đơi chỗ rườm rà, lời thơ quá
mộc mạc mà trúc trắc, thiếu lưu lốt.
Như vậy, nhìn chung, chúng tơi nhận thấy truyện thơ Nôm là cột mốc đánh dấu
sự trưởng thành của bút pháp tự sự, là bước tiến vượt bâc trong nền văn học dân tộc.
“Truyện thơ Nôm thực chất là sản phẩm được tạo nên từ sự kết hợp các cốt truyện có
sẵn với khả năng tự sự của thơ lục bát1. Những kinh nghiệm như khai thác đề tài, sử
dụng ngơn ngữ, khắc họa tính chất tiểu thuyết… đều hết sức bổ ích cho cơng cuộc tạo
lập một nền văn học thật sự dân tộc”2.
1.2.2. Đặc điểm truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo

Truyện thơ Nôm đề tài Phật giáo là một bộ phận của truyện thơ Nôm lục bát,
vậy nên, nó tồn tại đầy đủ các đặc điểm như đã phân tích ở mục 1.2.1 trên đây.
Về vấn đề phân loại, nhóm truyện thơ Nơm có đề tài Phật giáo là những truyện
khuyết danh. Cho đến hiện nay, chưa có căn cứ xác định chính xác ai là người sáng tác
những truyện thơ ấy. Bên cạnh đó, sự kết hợp giữa các yếu tố nội dung và nghệ thuật
của nhóm truyện này chưa đạt đến độ nhuần nhị. Tác phẩm có xu hướng bình dân hóa,
giản dị và gần gũi với nhân dân lao động hơn là tầng lớp văn nhân, quý tộc. Nghĩa là,
đây là các truyện thơ Nơm bình dân.
Về cơ bản, nhóm truyện thơ Nơm có đề tài Phật giáo là phương tiện để hoằng
hóa, truyền giảng tư tưởng tôn giáo nên nội dung gắn liền với cốt truyện ấy. Qua khảo
sát, chúng tôi nhận thấy, bên cạnh sự tương đồng với truyện thơ Nôm thế sự (hội ngộ –
li tán – đoàn viên), cốt truyện ở những tác phẩm này có nét dị biệt nhỏ – đó là sự li tán
gắn liền với thử thách giới luật. Từ khác biệt đó, chúng tơi xây dựng được mơ hình
như sau: Giới thiệu nhân vật – thử thách – siêu thăng thành Phật. Cụ thể, đầu mỗi
truyện, nhân vật chính xuất hiện qua lời kể lai lịch đầy đủ và chi tiết. Nhìn chung, lai
lịch này gắn liền với sự khác thường như trong truyện cổ tích. Tuy nhiên, ở truyện thơ
Nơm đề tài Phật giáo, tác giả đã chú trọng miêu tả thời gian và địa điểm rõ ràng, chẳng
hạn: truyện Quan Âm Thị Kính là ở Cao Ly, truyện Quan Âm Diệu Thiện là ở Hưng
1
2

Trần Đình Sử (2005), Thi Pháp Văn Học Trung Đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, tr. 336.
Hoàng Hữu Yên (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Sư phạm, tr. 244.


 21 

Lâm, truyện Lưu Hương diễn nghĩa là ở Hoa Sơn…). Nhìn chung, những địa điểm này
rất khó kiểm chứng tính chân thật nhưng sự xuất hiện của nó trong tác phần một lần
nữa là đặc điểm minh chứng rằng truyện thơ Nôm rất gần gũi với tiểu thuyết. Ở phần

giữa truyện, nhân vật phải trải qua vô số khó khăn. Đó là những kiếp nạn trên con
đường đi đến giải thoát. Tùy vào tư tưởng cốt lõi tác phẩm thể hiện mà chuỗi thử thách
diễn ra nhiều hay ít, liên tục hay gián đoạn và tính chất nặng nhẹ cũng khác nhau. Nếu
Diệu Thiện gặp phải tai họa liên quan đến tính mạng, phải vận dụng phép thần thơng
để vượt thốt thì họa mà Thị Kính gánh chịu lại địi hỏi sự nhẫn nhịn nơi nàng, tuy
khơng mất mạng nhưng khơng có cách nào hóa giải. Vượt qua chướng duyên, cuối
truyện, nhân vật hóa thành Phật. Như đã nói, phần thành đạo này ứng “đồn viên”, là
cùng một kiểu kết thúc có hậu trong những cốt truyện mang màu sắc dân gian Việt
Nam. Mặt khác, môtip phần thưởng và sự trừng phạt này là quen thuộc với truyện cổ
tích dân tộc. Dù là Thị Kính (truyện Quan Âm Thị Kính), Diệu Thiệu (truyện Quan Âm
Diệu Thiện)… siêu thăng thành Phật hay cô Tấm (truyện Tấm Cám) trở thành Hồng
Hậu thì tất cả đều chung một chân lý: cái thiện chiến thắng cái ác. Đây cũng là biểu
hiện chứng tỏ sự ảnh hưởng qua lại giữa tôn giáo và đời sống người dân, mà chúng tơi
sẽ trình bày cụ thể ở mục 1.3.2 bên dưới. Bên cạnh đó, nội dung truyện còn được thể
hiện qua những thành phần phi cốt truyện. Trong kết cấu của nhóm tác phẩm này ln
tồn tại những phần bình luận trữ tình ngoại đề. Các phần ấy thường nằm ở đầu và cuối
truyện. Về mặt nội dung, phần này khái quát những vấn đề cơ bản của giáo lý Phật
giáo, thể hiện chủ đề chính của tác phẩm và là cơ sở để phát triển cốt truyện cũng như
xây dựng hình tượng nhân vật.
Như đã trình bày, truyện thơ Nơm bình dân nói chung và truyện thơ Nơm có đề
tài Phật giáo nói riêng chịu sự chi phối bởi quan niệm thiện – ác, chính – tà. Do vậy,
trong truyện tồn tại hai cặp phạm trù tách bạch nhau, được thể hiện cụ thể ở thế giới
nhân vật. Hai tuyến tốt – xấu, thiện – ác, chính diện – phản diện tồn tại rất rõ ràng
trong từng tác phẩm. Trên mặt bằng chung, các nhân vật được khắc họa tương đối sinh
động. Trong đó, hành động và lời nói là hai yếu tố nổi bật. Nhân vật ít được chú trọng
đến ngoại hình và chưa có sự phát triển nội tâm. Tuy nhiên, qua hành động và lời nói,
ít nhiều tính cách đã được bộc lộ. Nhìn chung, hình tượng nhân vật được xây dựng
theo lối tư duy bình dân, đơn giản. Vì tính cách một chiều, những nhân vật này tương
đối gần gũi với kiểu nhân vật chức năng trong truyện dân gian. Đây vừa là hạn chế



×