Tải bản đầy đủ (.docx) (11 trang)

ý thức pháp luật , liên hệ với sinh viên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (69.47 KB, 11 trang )

MỤC LỤC


MỞ ĐẦU
Pháp luật có vai trị hết sức quan trọng đối với đời sống xã hội. Pháp luật như là
hành lang và đường biên cho ứng xử của mõi con người. Nhờ có pháp luật mà các
thành viên trong xã hội nắm bắt được những hành vi nào là hợp pháp, được khuyến
khích, hành vi nào là bắt buộc, hành vi nào bị ngăn cấm để từ đó có cách ứng xử phù
hợp khi bắt gặp một tình huống cụ thể. Chính vì thế mà việc thực hiện đúng những quy
định pháp luật là một điều vô cùng quan trọng và cần thiết. Bên cạnh những mặt tích
cực vẫn cịn một số hạn chế nhất định cần phải khắc phục. Đặc biệt, trong giai đoạn
hiện nay khi đất nước đang tiến hành hội nhập sâu rộng, qua đó thể hiện được ý thức
của mỗi con người Việt Nam, đồng thời góp phần vào xây dựng đất nước. Nhưng
trong thực tế vẫn có một bộ phận nhỏ người dân vẫn chưa chấp hành đúng các quy
định của pháp luật mà Nhà nước ta đã để ra như : Luật giao thông, luật hơn nhân , luật
gia đình,..Vấn đề đó khơng chỉ xẩy ra đối với người dân mà nó cịn gặp phải ở một số
bộ phận sinh viên vẫn chưa chấp hành đúng nhiều quy định của pháp luật. Qua đó,
Nhà nước ta cần phải có các biện pháp khắc phục để xây dựng một đất nước Việt Nam
phát triển toàn diện , nhất là về vấn đề ý thức pháp luật, đó là một điều hết sức quan
trọng.
Vì vậy , em chọn đề tài : “Ý thức pháp luật - liên hệ với ý thức pháp luật của
sinh viên hiện nay” làm đề tài tiểu luận.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ Ý THỨC PHÁP LUẬT
1. Khái niệm ý thức pháp luật
Theo đó, dưới góc độ triết học phạm trù ý thức nói chung thuộc lĩnh vực đời
sống tinh thần và ý thức pháp luật là một hình thái của ý thức xã hội. Như vậy, ý thức


pháp luật là hiện tượng có đời sống thực tế gắn kết chặt chẽ với đời sống của nhà nước
và sự cộng sinh của pháp luật Tương tự như các hình thái ý thức xã hội khác, ý thức
pháp luật là phạm trù chủ quan, vơ hình, do đó, việc nhận diện nó chủ yếu cảm quan
qua các yếu tố khác của đời sống pháp lí.
Ý thức pháp luật là tổng thể những học thuyết, tư tưởng, quan điểm, quan niệm,
thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật và các hiện tượng pháp lí khác, thể
hiện mối quan hệ giữa con người đối với pháp luật (pháp luật đã qua, pháp luật hiện
hành và pháp luật cần phải có) và sự đánh giả về mức độ cơng bằng, bình đẳng; tính
hợp pháp hay khơng hợp pháp... đổi với các hành vi, lợi ích hoặc quan hệ từ thực tiễn
đời sống pháp lí và xã hội.
Ý thức pháp luật luôn chịu sự tác động đa chiều của nhiều yếu tố như nền tảng
kinh tế, kết cấu xã hội, tương quan so sánh lực lượng, quan điểm, tư tưởng của lực
lượng cầm quyền, xu thế thời đại... Trong đời sống pháp lí, ý thức pháp luật là nhân tố
đóng vai trị quyết định chi phối trực tiếp đến tính chất, hiệu quả thực tế của các hoạt
động pháp lí.
2. Cấu trúc và hình thức cơ bản của ý thức pháp luật
Ý thức pháp luật, xét về cấu trúc, bao gồm hai bộ phận:
Tư tưởng pháp luật, đó là tổng thể những quan điểm, quan niệm, học thuyết, sự
hiểu biết về pháp luật;
Tâm lí pháp luật, đó là thái độ, tình cảm của con người đối với pháp luật. Tình
cảm đó có thể là sự đồng tình, sự vui mừng phấn khởi, sự tôn trọng pháp luật hoặc là
sự phản đối, sự thờ ơ, thiếu tôn trọng pháp luật.
Ý thức pháp luật có thể hiểu trên nhiều cấp độ khác nhau, vì vậy có thể phân
chia ý thức pháp luật thành các loại: Ý thức pháp luật cá nhân, ý thức pháp luật giai
3


cấp, ý thức pháp luật xã hội. Trong các nhà nước bóc lột, ý thức pháp luật của giai cấp
thống trị và giai cấp bị thống trị hoàn toàn khác nhau. Do nhiều quy định của pháp luật
chỉ thể hiện ý chí và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị mà không bảo vệ quyền lợi

của giai cấp bị thống trị nên một đạo luật được giai cấp thống trị ủng hộ lại gặp phải sự
phản đối quyết liệt từ phía giai cấp bị thống trị. Trong các nhà nước dân chủ, tiến bộ
khi pháp luật thể hiện ý chí chung của nhân dân thì ý thức pháp luật trong xã hội sẽ
thống nhất, việc nâng cao ý thức pháp luật cho các tầng lớp nhân dân sẽ thuận lợi hơn.
Ý thức pháp luật là một hình thái ý thức xã hội, chịu sự chỉ phối của tổn tại xã hội. Vì
vậy, muốn nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân, trước hết phải chăm lo đến đời
sống của nhân dân, làm cho đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày một nâng
cao. Xây dựng một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh
là tạo ra một nền tảng kinh tế-xã hội để xây dựng một xã hội có ý thức pháp luật và
văn hố pháp lí cao. Mặt khác, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối, nó có thể đi
trước làm tiền để cho kinh tế-xã hội phát triển. Vì vậy, việc tuyên truyền giáo dục pháp
luật cho các tầng lớp nhân dân trong xã hội, nâng cao ý thức pháp luật cho nhân dân có
vai trị quan trọng trong q trình cơng nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, thúc đẩy
nền kinh tế - xã hội phát triển.
3. Đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật
Dưới góc độ tổng quan, việc nghiên cứu ý thức pháp luật có thể rút ra những
điểm cơ bản sau:
Cũng như mọi hình thái ý thức xã hội khác, ý thức pháp luật do tồn tại xã hội
quy định. Mặc dù vậy, ý thức pháp luật có tính độc lập tương đối với tồn tại xã hội. Nó
phản ánh điều kiện tồn tại xã hội và là cơ sở nhận thức để cải tạo, phục Vụ xã hội của
con người. Gắn liền với sự vận động và phát triển của xã hội, ý thức pháp luật tác động
trở lại đối với tồn tại xã hội theo những chiều hướng khác nhau.
Ý thức pháp luật mang tính giai cấp. Khơng có ý thức pháp luật thuần túy,
ngồi giai cấp, phi giai cấp. Suy cho cùng, ý thức pháp luật chính là sản phẩm từng
giai cấp trong sự phát triển của lịch sử xã hội. Nó là tiền đề để xây dựng các giá trị,
chuẩn mực pháp lí của từng giai cấp đối với xã hội, là cơ sở để hình thành thế giới
quan pháp lí chính thống trong xã hội.
4



Ý thức pháp luật được coi là tiền đề thiết yếu cho quá trình để tạo lập hay làm
ra pháp luật bằng những con đường, cách thức cụ thể khác nhau thông qua nhà nước.
Nhu cầu, khuynh hướng điều chỉnh và phương thức thể hiện nhà nước bảo đảm cho
quá trình pháp luật hóa quan hệ xã hội một cách phù hợp, sát thực trên thực tế được
thực hiện qua phạm trù ý thức pháp luật.
Trong quá trình vận động và phát triển, ý thức pháp luật có tính kế thừa trên cơ
sở chọn lọc đối với một số nhân tố của ý thức pháp luật trước đó, chẳng hạn như các
nguyên lí, học thuyết của pháp luật hoặc các tư tưởng, giá trị pháp lí ghi nhận về quyền
con người...
Trong ý thức pháp luật có bộ phận tư tưởng khoa học về pháp luật có thể vượt
lên trước tồn tại xã hội. Đối với hệ tư tưởng pháp luật thì tri thức khoa học là yếu tố cơ
bản bởi nó có thể đem lại sự nhìn nhận khách quan đối với tồn tại xã hội. 'Trong những
điều kiện nhất định, tư tưởng khoa học có tính dẫn đường, đi trước đối với tồn tại xã
hội.
Ý thức pháp luật có quan hệ và sự tác động qua lại với các hình thái ý thức xã
hội khác cũng như các hiện tượng khác của thượng tầng pháp lí. Nhìn chung, sự tác
động của ý thức pháp luật với ý thức chính trị, ý thức đạo đức, ý thức tôn giáo... luôn
thể hiện ở sự đan xen, tương hỗ lẫn nhau trong q trình tồn tại và vận động
Có thể nói, ý thức chính trị và ý thức pháp luật khơng chỉ cùng xuất hiện và
đồng hành tồn tại trong môi trường xã hội có giai cấp mà giữa nó có sự gắn bó, tương
tác với nhau. Thực tiễn nhận thức cũng đã từng có quan niệm sai lầm dẫn đến mặc
nhiên nhất thể hoá hai hiện tượng ý thức này, coi ý thức pháp luật là một phần của ý
thức chính trị và giáo dục chính trị đồng nghĩa vớì giáo dục pháp luật. Ý thức pháp
luật và ý thức chính trị đều coi trọng, sử dụng công cụ pháp luật để thể hiện các yêu
cầu, nội dung của mình trong đời sống thực tiễn, đời sống chính trị - pháp lí.
Ý thức đạo đức là loại hình ý thức xuất hiện sớm nhất cùng với xã hội con
người. Đó là những phạm trù, ngun lí cho việc hình thành hệ thống chuẩn mực đạo
đức được lưu truyền, phổ biến để quản lí xã hội. Ý thức pháp luật xuất hiện muộn hơn
nhưng có quan hệ chặt chẽ với ý thức đạo đức bởi cả hai phạm trù ý thức này đều có
vai trị tiền đề nhận thức cho việc hình thành các cơng cụ quản lí xã hội thiết yếu là

đạo đức và pháp luật. Trên- thực tế, sự hài hoà và tác động qua lại lẫn nhau.
5


Thực tiễn lịch sử cho thấy, các quan niệm về tơn giáo xuất hiện từ thời kì xã hội
ngun thủy. Đó là ý thức sơ khai về niềm tin có một sự chở che của thần linh với con
người. Cùng với sự phát triển, ý thức tơn giáo cũng có đổi thay ít nhiều về khuynh
hướng, nội dung nhưng nhìn chung xét về bản chất nó phục thiện, vị nhân. Giữa ý thức
pháp luật và ý thức tôn giáo đều hướng tới sự hoàn thiện nhân cách con người, điều
chỉnh hành vi con người và đều thể hiện nội dung, ý chí của mình bằng hệ thống quy
tắc, chuẩn mực trên thực tế. Như vậy, ý thức pháp luật là nền tảng cho hệ thống pháp
luật thực định thì ý thức tôn giáo là nền tảng cho các quy tắc của các tôn giáo.
Sự tác động qua lại giữa ý thức pháp luật đối với các bộ phận khác của kiến trúc
thượng tầng pháp lí như nhà nước, pháp luật ln là sự tương tác cơ bản và có ý nghĩa
quan trọng nhất. Ý thức pháp luật chi phối trực tiếp việc hình thành hệ thống cơ quan
nhà nước và quá trình thực thi quyền lực nhà nước.
4. Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật
Mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và pháp luật được thể hiện qua ba vấn đề
chính sau:
Một là , ý thức pháp luật là tiền đề trực tiếp cho hoạt động xây dựng pháp luật.
Nếu những người có nhiệm vụ trực tiếp soạn thảo và ban hành pháp luật là công dân –
những người được hỏi ý kiến hoặc được tham gia hoạt động xây dựng pháp luật, đề có
tư tưởng pháp luật cao, tâm lý pháp luật đúng đắn thì đương nhiên sẽ ban hành pháp
luật tốt.
Hai là, ý thức pháp luật là cơ sở cho việc thực hiện pháp luật, đặc biệt là hoạt
động áp dụng pháp luật . Bởi vì mọi chủ thể nếu có tư tưởng pháp luật tiên tiến và thái
độ, tình cảm đúng với pháp luật sẽ tự giác và biết chấp hành tốt pháp luật . Các cơ
quan có thẩm quyển biết áp dụng các quy đinh của pháp luật vào các trường hợp cụ thể
phù hợp với yêu cầu của pháp chế , sẽ phát huy hết hiệu quả của quy phạm đó.
Ba là , pháp luật cũng tác động ngược trở lại tới ý thức pháp luật . Bản thân

pháp luật được xây dựng tốt sẽ chứa đựng trong đó những tư tưởng , quan điểm ,
nguyên tắc pháp lý tiên tiến trong xã hội, những giá trị xã hội cao quý như chủ nghĩa
nhân đạo , lẽ công bằng , tự do, bác ái với tư cách là công cụ quản lý có tính chất bắt
buộc chung nó khơng chỉ giúp tun truyền giải thích pháp luật mà cịn cả hoạt động
6


áp dụng , thực hiện đúng đắn pháp luật, là phương tiện tuyền bá hiệu quả ý thức xã hội
tiên tiến tới từng cá nhân.
CHƯƠNG 2 : THỰC TRẠNG Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG SINH VIÊN
HIỆN NAY
1. Thực trạng
Thực trạng vấn đề ý thức pháp luật các năm gần đây của sinh viên có nhiều
điểm tốt đáng chú ý , nhưng bên cạnh đó vẫn cịn những tồn tại hạn chế nhất định cần
khắc phục :
1.1 Điểm mạnh
Nhìn chung đa số bộ phận sinh viên là những người có ý thức và có trình độ
học vấ , họ đã và đang được xây dựng một nền tảng lí thuyết vững vàng về pháp luật
chính vì thế, nên khơng chỉ về ý thức pháp luật, mà còn về tất cả kiến thức khác về luật
pháp nhà nước Việt Nam, cũng như các nội dung vấn đề trừ tượng khác như thực hiện
pháp luật, vi phạm pháp luật được thực hiện một cách nghiêm chỉnh , chính vì thế mà
những năm gần đây việc nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật là tương
đối tốt.
Trong các hoạt động của pháp luật, ý thức của sinh viên hiện nay đã nâng lên.
Sự hiểu biết về pháp luật của sinh viên đã biểu hiện rõ nét, nhân sinh viên thức được
trách nhiệm, quyền hạn của mình đối với nhà nước thơng qua pháp luật do đó họ tích
cực tham gia vào các hoạt động quản lí nhà nước, giám sát các hoạt động của cơ quan
nhà nước để thực hiện quyền lợi hợp pháp của mình.
Trong những năm qua, sinh viên đã tích cực tham gia đóng góp các ý kiến cho
các văn bản pháp luật, những ý kiến đó được đánh giá cao và có tính thực tiễn. Có

những ý kiến cũng đã được các cơ quan có thẩm quyền ghi nhận để xem xét, nghiên
cứu và bổ sung thêm. Như vậy, do nhận thức đúng trách nhiệm của mình trong các vấn
đề quan trọng của đất nước cho nên sinh viên ngày càng quan tâm đến pháp luật; tự
giác học hỏi và nghiên cứu nhằm hoàn hiện nhận thức đúng đắn nhất đưa ra những
quan điêm sáng suốt và có giá trị.

7


Trong hoạt động thực hiện và tổ chức thực hiện pháp luật hiện nay cũng có
nhiều bước chuyển biến tích cực, sinh viên đã chủ động tích cực, đã tơn trọng và thực
hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, số sinh viên vi phạm pháp luật giảm,
khơng có những vi phạm pháp luật nghiêm trọng.
Ý thức trong thực hiện pháp luật của sinh viên cũng được cải thiện rõ rệt. Sinh
viên đã ngày càng nêu cao tinh thần “ sống và làm việc theo pháp Hiến pháp và pháp
luật”. Sinh viên trở nên có nhận thức tốt về các vấn đề của đời sống xã hội coi trọng
tính mạng, nhân phẩm và tài sản của nhau. Sinh viên đã nghiêm chỉnh, tự giác trong
việc chấp hành pháp luật.
1.2 Hạn chế
Về cơ bản, sinh viên các trường đại học đã được học thì đều hiểu biết về pháp
luật. Đại bộ phận sinh viên có ý thức tơn trọng pháp luật, chấp hành nội quy, quy chế
của các nhà trường, thực hiện tốt các quy tắc và lối sống công cộng.
Tuy nhiên, vẫn cịn một bộ phận sinh viên có biểu hiện xuống cấp về đạo đức,
lối sống, vi phạm pháp luật, thậm chí phạm tội nghiêm trọng làm cho cả xã hội phải
quan tâm, lo lắng. Qua điều tra 1.211 phạm nhân đã thành án trong các trại giam do Bộ
Cơng an quản lý, có 0,57% là sinh viên. Theo số liệu thống kê của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao cho thấy tỷ lệ giữa số học sinh, sinh viên bị khởi tố hình sự hàng năm trong
cả nước luôn chiếm từ 0,54% đến 0,66% số lượng các vụ án. Con số này tuy rất thấp
nhưng cũng là điều đáng phải quan tâm. Bởi vì học sinh, sinh viên là những thanh niên
được giáo dục và có trình độ nhận thức nhất định, sẽ là những người có vị trí quan

trọng trong xã hội, vì vậy, họ phải tu dưỡng và làm gương cho thế hệ trẻ noi theo.
Hiện nay, ý thức pháp luật của một bộ phận sinh viên vẫn cịn thấp. Họ chưa tơn
trọng pháp luật, thái độ thờ ơ và lẩn tránh các quy định của pháp luật vẫn còn xảy ra
nhiều, sự tùy tiện trong việc chấp hành kỉ luật lao động, sinh hoạt và làm việc.
Ý thức pháp luật trong một số sinh viên vẫn cịn chậm được nâng cao do những
thói quen truyền thống. Những thói quen như “ bất tuân pháp luật”, nhiêu người cố tìm
mọi cách để lách luật, tìm ra những kẽ hở và hạn chế của pháp luật để thực hiện hành
vi vi phạm nhằm đạt được mục đích. “Lách luật” xảy ra rất nhiều trong hoạt động giao
thơng hiện nay, có thể thấy rõ tình trạng một số sinh viên tham gia giao thông trên
8


đường bằng xe máy chỉ chấp hành việc đội mũ bảo hiểm khi nhìn thấy cảnh sát giao
thơng hoặc khi nhìn thấy cảnh sát giao thơng từ xa sẽ đi vào đường tránh khác để
khơng bị bắt khi biết mình đã vi phạm. Hay tình trạng khơng đội mũ bảo hiểm khi
tham gia giao thơng, vượt đèn đỏ, phóng nhanh, vượt ẩu, dàn hàng ngang, chở quá số
người quy định . Một tực tế đáng buồn hiện nay là tình trạng một số sinh viên thờ ơ,
vô trách nhiệm với những hành vi trái pháp luật. (Nguồn [3] )
2. Nguyên nhân
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế , những thiếu sót về ý thức pháp
luật của sinh viên , những có một số ngun nhân chính sau đây :
Thứ nhất, nguyên nhân chủ quan ở đây chính là ý thức chấp hành pháp luật của
mỗi sinh viên. Thực trạng của vấn đề vi phạm pháp luật diễn ra hàng ngày, chính là do
ý thức yếu kém của chính các sinh viên. Phần lớn là do sinh viên chưa thực sự nhận
thức đúng vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội. Có khơng ít những sinh viên cho
rằng, họ chỉ chấp hành đúng luật giao thông khi mà có cơng an giao thơng kiểm tra,
tức là việc thực hiện và áp dụng pháp luật chỉ được thực hiện khi mà có người trực tiếp
giám sát hành vi thực hiện pháp luật
Thứ hai, nguyên nhân khác đó là do tác động của xã hội đã dẫn đến hành vi vi
phạm pháp luật của sinh viên , cụ thể như chúng ta sẽ thườn bắt gặp câu trả lời vì sao

bạn vượt đèn đỏ như là : “ do mình thấy những người xung quanh mình vươtj nên
mình cũng vượt ”, hay sự rủ rê , cám dỗ của bạn bè.

Thứ ba, một số nguyên nhân khách quan như là : Do tình thế mà cụ thể đó
đột xuất khiến họ không thể chấp hành đúng luật lệ giao thông,.. hay do những
năm gần đây hệ thống pháp luật của Nhà nước ta hiện nay chưa đồng bộ, còn
thiếu, nhiều lĩnh vực chưa có luật điều chỉnh cịn nhiều bất cập nên từ đó đã dẫn
đến những yếu kém vêg ý thức pháp luật.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO Ý THỨC PHÁP LUẬT TRONG SINH
VIÊN

Để nâng cao ý thức pháp luật trong sinh viên , điều đó địi hỏi mỗi cá
nhân sinh viên, nhà trường , Đảng và Nhà nước vào cuộc tích cực , cụ thể :
9


Thứ nhất , mỗi cá nhân các sinh viên cần phải có ý thức nghiêm chỉnh chấp
hành pháp luật do Nhà nước đề ra và thực hiện nguyên tắc sống và làm việc theo pháp
luật, đồng thời tích cực học tập, rèn luyện để nâng cao trình độ kiến thức của bản thân
về pháp luật và việc thực hiện pháp luật.
Thứ hai, cần kết hợp nâng cao ý thức pháp luật với giáo dục tư tưởng, chính trị
đạo đức, lối sống cho sinh viên. Nâng cao ý thức pháp luật là giáo dục chính trị, đường
lối, chủ trương quan điểm của Đảng và cũng qua việc giáo dục chính trị để nâng cao
nhận thức, thái độ đối với các quy định của pháp luật, biến thành những hành vi ứng
xử đúng đắn trong cuộc sống.
Thứ ba, các trường đại học cần đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục, tuyên
truyền ý thức pháp luật cho sinh viên. Muốn sinh viên có ý thức pháp luật tốt, khơng vi
phạm pháp luật, giữ vững kỷ cương, an ninh trật tự của trường, có ý thức tuân thủ
nghiêm túc những nội quy, quy định của trường. Các trường cần thấy được tầm quan
trọng của việc giáo dục và nâng cao ý thức pháp luật cho sinh viên, thấy được tầm

quan trọng của môn học Pháp luật đại cương. Từ đó đưa mơn học này vào chương
trình khung và quy định đây là mơn bắt buộc học cho tất cả các ngành đào tạo. Các
trường nghiêm túc nghiên cứu, biên soạn chương trình giảng dạy môn học cho phù
hợp với đặc điểm sinh viên và phù hợp với sự thay đổi của thực tiễn đất nước.
Thứ tư, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên của các trường cần đẩy mạnh hơn nữa
vai trị của mình trong việc nâng cao ý thức pháp luật của sinh viên. Thường xuyên tổ
chức các cuộc thi tìm hiểu pháp luật, các cuộc thi về an tồn giao thơng, phịng chống
ma túy thơng qua hình thức sân khấu hóa và được các cơ quan thông tin: Đài, báo của
trường quảng cáo, truyền hình rộng rãi, thường xuyên sẽ tác động trực tiếp và hiệu quả
đến nhận thức, tình cảm đối với pháp luật của đông đảo sinh viên.
Thứ năm, các trường cần tăng cường các nguồn lực hỗ trợ cho công tác giáo
dục tuyên truyền ý thức pháp luật cho sinh viên trong giai đoạn hiện nay bằng việc
tăng cường kinh phí cho hoạt động nâng cao ý thức pháp luật, tăng cường về đội ngũ
báo cáo viên, tuyên truyền viên pháp luật và đội ngũ giảng viên giảng dạy pháp luật.

10


KẾT LUẬN
Ý thức pháp luật là những tư tưởng và thái độ của mỗi con người về pháp luật.
Với những cấu trúc, hình thức và đặc điểm cơ bản của ý thức pháp luật thì ý thức pháp
luật có vai trị vơ cùng quan trọng đối với đời sống qua đó thể hiện sự hiểu biết của
mỗi cá nhân về pháp luật đồng thời cho thấy mỗi qua hệ qua lại giữa ý thức pháp luật
và pháp luật. Trong công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước ta hiện nay, pháp luật
ngày càng có vị trí quan trọng để điều chỉnh các quan hệ của xã hội. Đồng thời đi đơi
với pháp luật đó là ý thức pháp luật. Thự tế cho thấy ý thức pháp luật trong sinh viên
đạt được kết quả khá tốt , đó là nhờ vào sự cố gắng và nỗ lực của cả hệ thống giáo dục
và đào tạo, cũng như riêng mỗi cá nhân. Nhưng bến cạnh đó vẫn cịn một số hạn chế
yếu kém của một số bộ phận sinh viên chưa chấp hành tốt ý thức pháp luật. Qua đó đòi
hỏi mỗi cá nhân sinh viên cần nỗ lực phấn đấu đồng thời là sự quan tâm của các

trường đại học và của cả Nhà nước để từ đó góp phần cải thiện và nâng cao ý thức
pháp luật.
TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Đại học quốc gia Hà Nội ,khoa luật , giáo trình nhà nước và pháp luật đại cương
, chủ biên Nguyễn Cửu Việt , NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội (2000)

2. />3. />
11



×