TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC
GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG HOẠT ĐỘNG
DU LỊCH TÂM LINH Ở QUẬN TÂY HỒ, HÀ NỘI
HIỆN NAY
Mã số đề tài: ĐTSV.2020.07
Chủ nhiệm đề tài : Trần Thị Huyền
Lớp
: ĐH. Chính trị học 16A
Cán bộ hƣớng dẫn : TS. Đỗ Thu Hƣờng
Hà Nội, 2020
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI
KHOA KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
BÁO CÁO TỔNG HỢP
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA NGƢỜI HỌC
GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG HOẠT ĐỘNG
DU LỊCH TÂM LINH Ở QUẬN TÂY HỒ, HÀ NỘI
HIỆN NAY
Mã số đề tài: ĐTSV.2020.07
Chủ nhiệm đề tài
Thành viên tham gia
Lớp
Cán bộ hƣớng dẫn
: Trần Thị Huyền
: Nguyễn Thiện Thành
Nguyễn Huệ Chi
: ĐH. Chính trị học 16A
: TS. Đỗ Thu Hƣờng
Hà Nội, 2020
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài............................................................................... 1
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài ............................................................................ 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.................................................. 3
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ............................................................... 4
5. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................. 4
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài ......................................................................... 5
7. Kết cấu của đề tài ........................................................................................ 5
CHƢƠNG 1. LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ DU
LỊCH TÂM LINH ............................................................................................... 6
1.1. Khái quát về Phật giáo và giá trị văn hóa Phật giáo ở Việt Nam ............. 6
1.1.1. Khái quát quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Việt Nam ...... 6
1.1.2. Giá trị văn hóa Phật giáo ở Việt Nam.................................................... 9
1.2. Khái quát về du lịch tâm linh ................................................................. 15
1.2.1. Khái niệm du lịch, tâm linh và du lịch tâm linh .................................. 15
1.2.1.1.Khái niệm du lịch .............................................................................. 15
1.2.1.2. Khái niệm tâm linh ........................................................................... 16
1.2.1.3. Khái niệm du lịch tâm linh ............................................................... 17
1.2.2. Đặc điểm của du lich tâm linh ở Việt Nam ......................................... 18
Tiểu kết chương 1: ......................................................................................... 20
CHƢƠNG 2. THỰC TRẠNG KHAI THÁC CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA
PHẬT GIÁO TRONG HOẠT ĐỘNG DU LỊCH TÂM LINHTẠI QUẬN
TÂY HỒ HIỆN NAY ......................................................................................... 22
2.1. Khái quát về quận Tây Hồ ...................................................................... 22
2.1.1. Giới thiệu về quận Tây Hồ .................................................................. 22
2.1.2. Tình hình Phật giáo ở quận Tây Hồ .................................................... 23
2.1.3. Tiềm năng và điều kiện để khai thác giá trị văn hóaPhật giáo trong
phát triển Du lịch tâm linh tại quận Tây Hồ .................................................. 25
2.2. Thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật giáo trong hoạt động du lịch
tâm linh tại Quận Tây Hồ .............................................................................. 28
2.2.1.Khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo tại các ngôi chùa ở quận Tây Hồ 28
2.2.1.1.Du lịch tham quan ............................................................................. 28
2.2.1.2. Du lịch tham quan kết hợp với thiện nguyện ................................... 35
2.2.1.3. Khai thác các giá trị văn hóa Phật giáo quận Tây Hồ tại các lễ hội
Phật giáo ........................................................................................................ 37
2.2.2. Cơ sở vật chất kỹ thuật và nguồn lực phục vụ du lịch tâm linh tại quận
Tây Hồ hiện nay ............................................................................................ 38
2.2.2.1. Cơ sở vật chất của dịch vụ lưu trú .................................................... 38
2.2.2.2. Nguồn nhân lực phục vụ du lịch tâm linh ........................................ 40
2.3. Đánh giá thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật giáo tại Quận Tây Hồ 41
2.3.1. Những mặt đạt được ............................................................................ 41
2.3.2. Những mặt hạn chế .............................................................................. 47
*Tiểu kết chương 2: ....................................................................................... 50
CHƢƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KHAI
THÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA PHẬT GIÁO TRONG PHÁT TRIỂN VĂN
HÓA DU LỊCH TÂM LINH Ở QUẬN TÂY HỒ HÀ NỘI HIỆN NAY ........ 51
3.1. Những vấn đề đặt ra đối với việc khai thác giá trị văn hóa Phật giáo
phục vụ du lịch tâm linh tại Quận Tây Hồ Hà Nội. ...................................... 51
3.1.1. Đối với quản lý nhà nước .................................................................... 51
3.1.2. Đối với các chùa .................................................................................. 53
3.1.3. Đối với khách du lịch .......................................................................... 54
3.2. Một số giải pháp và kiến nghị phát huy giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ
du lịch tâm linh tại Quận Tây Hồ, Hà Nội. ................................................... 55
3.2.1. Một số giải pháp .................................................................................. 55
3.2.1.1.Định hướng bảo tồn, và khai thác giá trị văn hóa Phật giáo Hà Nội 55
3.2.1.2.Giải pháp về công tác tổ chức, quản lý ............................................. 58
3.2.1.3. Giải pháp về xây dựng, quảng bá các chuyên tour du lịch đến chùa59
3.2.1.4. Nâng tầm lễ hội và tăng cường khai thác giá trị văn hóa Phật giáo
trong các lễ hội Phật giáo tại Quận Tây Hồ Hà Nội ...................................... 60
3.2.2. Khuyến nghị ........................................................................................ 62
Tiểu kết chương 3: ......................................................................................... 63
KẾT LUẬN ........................................................................................................ 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 67
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo du nhập vào Việt Nam vào khoảng thế kỷ II sau cơng ngun và
gắn bó mật thiết với lịch sử dân tộc ta. Tuy là một tôn giáo ngoại sinh nhưng
Phật giáo trong quá trình hàng ngàn năm tồn tại và phát triển, đã thực sự gần
gũi, thân thiết với người dân Việt Nam. Theo dòng lịch sử của dân tộc, Phật giáo
đã và đang đóng một vai trị quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt Nam.
Đặc biệt Hà Nội là một trong những trung tâm Phật giáo của nước ta trong
lịch sử (xa nhất có thể biết là sự có mặt của chùa Khai quốc vào thể kỷ VI – nay
là chùa Trấn Quốc) cũng như hiện tại (với chùa Quán Sứ vào nửa đầu thế kỷ XX
– nơi đặt trụ sở của Giáo hội Phật giáo Việt Nam). Phật giáo Hà Nội trong dịng
chảy văn hóa này đã tạo nên những nét đặc trưng riêng, thấm đẫm tinh thần Phật
giáo trong lối sống, ứng xử của con người Hà thành. Giá trị văn hóa Văn hóa
Phật giáo Hà Nội được thể hiện qua những ngôi chùa, trong nghệ thuật Phật giáo
và trong những lễ hội chùa đặc sắc, mang lại sức hút thúc đẩy du lịch phát triển.
Đặc biệt là kể từ 1/8/2008 khi tỉnh Hà Tây sát nhập vào Hà Nội thì số lượng di
tích lịch sử, tơn giáo, tín ngưỡng của Hà Nội trở thành lớn nhất cả nước (Hà Nội
đứng đầu cả nước về số lượng di tích Việt Nam với 3840 di tích trên tổng số gần
40.000 di tích Việt Nam trong đó có 1164 di tích trên tổng số gần 3500 di tích
cấp quốc gia ở Việt Nam). Trong các di tích đó thì các ngơi chùa của Phật giáo
đóng góp nhiều nhất. Ngồi ra, thủ đơ cũng có rất nhiều các lễ hội truyền thống
gắn liền với sinh hoạt Phật giáo.Đó là điều mà ngành du lịch Hà Nội nói riêng
và du lịch Việt Nam nói chung cần tiếp tục khám phá và thấu hiểu những giá trị
quý báu của văn hóa Phật giáo để khai thác tốt hơn.
Quận Tây Hồ với 18 ngôi chùa lớn nhỏ tọa lạc trên 8 phường, đặc biệt
những ngôi chùa xung quanh Hồ Tây là di tích lịch sử nổi tiếng trong và ngồi
nước như chùa Kim Liên được đánh giá là một trong 10 di tích kiến trúc cổ đặc
sắc nhất Việt Nam và là Bông Sen vàng trên mặt nước Tây Hồ. Như vậy với
những điều kiện những giá trị văn hóa Phật giáo Hà Nội nói chung và quận Tây
Hồ nói riêng thì du lịch tâm linh trở thành một loại hình du lịch quan trọng của
1
thành phố. Mặc dù hiện nay nguồn tài nguyêndu lịch tâm linh Phật giáo của
quân Tây Hồ phong phú nhưng lại chưa được nghiên cứu thật đầy đủ, sản phẩm
du lịch tâm linh Phật giáo chưa được khai thác có hiệu quả. Với mong muốn
đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc giới thiệu với du khách trong và
ngồi nước về những giá trị văn hóa Phật giáo tại quân Tây Hồ nơi ngôi trường
mà tôi đang học, đồng thời góp phần bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa
Phật giáo Hà Nội nói chung, từ đó thúc đẩy việc khai thác những giá trị này,
tương xứng với tiềm năng và lợi thế của du lịch Hà Nội và quận Tây Hồ. Trên
cơ sở đó tơi lựa đề tài “Giá trị văn hóa phật giáo trong hoạt động du lịch tâm
linh ở quận Tây Hồ, Hà Nội hiện nay”
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Cho đến nay các cơng trình nghiên cứu về vấn đề văn hóa và văn hóa Phật
giáo ở Việt Nam rất phong phú như: Nguyễn Đăng Duy với Văn hóa tâm linh;
Văn hóa tâm linh Nam Bộ; Các hình thái tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam; Mai
Thanh Hải với Tôn giáo thế giới và Việt Nam; Nguyễn Duy Hinh với Người
Việt Nam với Đạo giáo; Tâm linh Việt Nam; Hồ Văn Khánh với Tâm hồn - khởi
nguồn cuộc sống văn hóa tâm linh, Phan Ngọc với Bản sắc văn hóa Việt Nam;
Minh Chi với Phật giáo và tâm linh; tác giả Văn Quảng với Văn hóa tâm linh
Thăng Long - Hà Nội... các cơng trình đã nghiên cứu về khái niệm văn hóa, cấu
trúc văn hóa, văn hóa tâm linh và những giá trị của văn hóa Phật giáo tuy nhiên
các cơng trình chưa đi sâu vào giá trị văn hóa Phật giáo với phát triển du lịch
tâm linh hiện nay.
Về các cơng trình, đề tài nghiên cứu về du lịch văn hóa tâm linh ở Việt
Nam như: Nguyễn Thị duyên với đề tài Nghiên cứu phát triển du lịch tâm linh
tỉnh Nam Định trong cơng trình này tác giả đã phân tích tiềm năng, thực trạng
phát triển du lịch tâm linh ở tỉnh Nam Định và đưa ra một số giải pháp để phát
triển du lịch tâm linh ở tỉnh này.
Công trình nghiên cứu tác giả Nguyễn Trùng Khánh với đề tài Nghiên cứu
loại hình du lịch tâm linh ở Việt Nam, tác giả đã phân loại du lịch tâm linh trên
cơ sở nguồn tài nguyên và động cơ du lịch, đồng thời xây dựng được cơ sở lý
2
thuyết trên phương diện du lịch cho những nghiên cứ chi tiết hơn như nghiên
cứu phát triển du lịch gắn với Phật giáo, tín ngưỡng dân gian...
Luận văn Khai thác văn hóa Phật giáo Khmer phục vụ phát triển du lịch
tỉnh Trà Vinh của Hà Thế Linh, cơng trình nghiên cứu này tác giảđã phân tích
những giá trị văn hóa Phật giáo trong phát triển du lịch tâm linh ở tỉnh Trà Vinh
và đưa ra những giải pháp nhằm khai thác loại hình du lịch này phát triển một
cách bền vững trong tương lai.
Về vấn đề du lịch tâm linh ở Hà Nội, đã có một số cơng trình nghiên cứu
như: Nguyễn Vinh Phúc với Du lịch Hà Nội hướng tới 1000 năm Thăng Long,
Nguyễn Phạm Hùng với Tượng đài Hà Nội và du lịch văn hố, Du lịch tơn giáo
và vấn đề giữ gìn bản sắc văn hố dân tộc, Khai thác món ăn dân tộc trong các
khách sạn ở Hà Nội, Tiềm năng du lịch phố cũ Hà Nội, Du lịch đêm Hà Nội; Đa
dạng văn hóa và sự phát triển du lịch ở Việt nam; Đoàn Thị Thùy Trang đề tài
Tìm hiểu hoạt động du lịch văn hóa tâm linh của người Hà Nội (khảo sát trên địa
bàn quận Đống Đa) và Trương Sỹ Tâm với đề tài Nghiên cứu phát triển loại
hình du lịch văn hóa tín ngưỡng tại các huyện phía tây Hà Nội (tỉnh Hà Tây cũ).
Đây là những cơng trình đã nghiên cứu đến những giá trị văn hóa Hà Nội nói
chung, văn hóa Phật giáo nói riêng và đã đưa ra những tiềm năng về loại hình du
lịch văn hóa tín ngưỡng quận huyện trên địa bàn Hà Nội.
Tuy nhiên về công trình nghiên cứu về giá trị Phật giáo đối với việc phát
triển du lịch tâm linh ở Hà Nội và quậnTây Hồ chưa có một cơng trình nào
nghiên cứu trực tiếp tuy nhiên những cơng trình là cơ sở lý luận để tác giả tiếp
tục nghiên cứu giá trị Phật giáo với phát triển du lịch tâm linh ở Quận Tây Hồ
hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích của đề tài
Khảo sát, làm rõ thực trạng việc khai thác những giá trị văn hóa Phật giáo
trong du lịch tâm linh ở Hà Nội từ năm 2010 đến nay. Từ đó đềxuất các giải
pháp kiến nghị nhằm khai thác và bảo tồn giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ phát
triển du lịch quận Tây Hồ.
3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những giá trị văn hóa Phật giáo Việt Nam, Phật giáo Hà Nội tại
quận Tây Hồ, du lịchtâm tinh
- Làm rõ thực trạng thực trạng việc khai thác những giá trị văn hóa Phật
giáo trong du lịch tâm linh ở quận Tây Hồ.
- Rút ra nhận xét và đề xuất các giải pháp kiến nghị nhằm khai thác và
bảo tồn giá trị văn hóa Phật giáo phục vụ phát triển du lịch ở quận Tây Hồ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những giá trị văn hóa Phật giáo ở quận Tây Hồ như kiến trúc, điêu khắc,
lễ hội và thực trạng khai thác những giá trị này trong du lịch tâm linh
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Chủ yếu tập trung nghiên cứu nhữnggiá trị văn hóa Phật
giáo ở quận Tây Hồ.
Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 2017 đến nay khi Luật du lịch được
thông qua
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập và xử lý tài liệu: Là phương pháp chính được sử
dụng trong đề tài. Trên cơ sở thu thập thông tin tư liệu từ nhiều lĩnh vực, nhiều
nguồn khác nhau có liên quan tới đề tài nghiên cứu, người viết sẽ xử lý, chọn lọc
để có những kết luận cần thiết, có được tầm nhìn khái qt về vấn đề nghiên cứu
nhằm có một cái nhìn tổng quan nhất về loại tài nguyên giá trị còn đang bị bỏ
ngỏ này.
Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh tổng hợp: Phương pháp này
giúp định hướng, thống kê, phân tích để có cách nhìn tương quan, phát hiện ra
các yếu tố và sự ảnh hưởng của yếu tố tới hoạt động du lịch trong đề tài nghiên
cứu; việc phân tích, so sánh, tổng hợp các thông tin và số liệu mang lại cho đề
tài cơ sở trong việc thực hiện các mục tiêu dự báo, các định hướng và giải
phápphát triển du lịch trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4
- Các phương pháp liên ngành như chính trị học, tôn giáo học, xã hội học, sử
học.
6. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài
Đề tài nghiên cứu tiềm năng và thực trạng khai thác giá trị văn hóa Phật
giáo trong phát triển du lịch văn hóa tâm linh của quận Tây Hồ và từ đó đưa ra
các giải pháp mang tính thực tế nhằm khai thác tài nguyên du lịch văn hóa Phật
giáo trong phát triển du lịch tâm linh một cách hiệu quả.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, đề
tài có kết cấu chủ yếu gồm 3 chương.
5
CHƢƠNG 1.
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA PHẬT GIÁO VÀ DU LỊCH
TÂM LINH
1.1. Khái quát về Phật giáo và giá trị văn hóa Phật giáo ở Việt Nam
1.1.1. Khái quát quá trình du nhập và phát triển của Phật giáo Việt
Nam
Phật giáo là một tơn giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ ra đời từ thế kỷ VI trước
công nguyên với nội dung cơ bản là triết lý nhân sinh về nỗi khổ của con người
và cách tu luyện diệt khổ, giải thốt. Cốt lõi của triết lý đó là tứ diệu đế: khổ đế,
diệt đế, tập đế và đạo đế. Phật giáo chủ trương bình đẳng giữa các giai tầng xã
hội và đề cao lòng từ bi bác ái. Từ rất sớm, Phật giáo đã lan toả hồ bình đến các
miền đất rộng lớn, nhất là ở Đông Bắc Á và Đơng Nam Á trong đó có Việt Nam.
Theo nhiều cơng trình nghiên cứu lịch sử Phật giáo Việt Nam Phật giáo
du nhập vào nước ta từ đầu công nguyên.Đáng chú ý trong thời kỳ đầu chủ yếu
sự truyền bá Phật giáo vào Việt Nam trực tiếp từ Ấn Độ sang bằng đường biển.
Một số tăng sỹ Ấn độ và Trung Á sang truyền giáo ở Việt Nam như:
Marajavaka, K’sudara đến Việt Nam, sau đó là Khương Tăng Hội, Lương
Cương, tiếp đó Dharmadeva, dưới thời vua Asoka đã có những tăng đoàn truyền
giáo từ Ấn Độ sang Miến Điện, Thái Lan, Việt Nam.
Đến thế kỷ V, tại Việt Nam Phật giáo đã được truyền đến nhiều nơi. Đã
xuất hiện những nhà sư Việt Nam có danh tiếng như: Huệ Thắng, Đạo Thiền,
Đạo Cao và Pháp Minh.
Trong lịch sử Phật giáo Việt Nam, từ thế kỷ VI đến đến thế kỷ X đa số các
cơng trình vẫn coi là giai đoạn truyền giáo. Tuy nhiên, có thể thấy từ thế kỷ VI,
ảnh hưởng của các nhà truyền giáo Ấn Độ giảm dần, trong khi đó các nhà truyền
giáo Trung Quốc tăng lên, nhất là một số thiền phái trung Quốc du nhập ảnh
hưởng rõ nét tại Việt Nam như: Thiền phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi với 18 đời và 29 vị
sư tổ, kể từ người đầu tiên là Pháp Hiền (626) đến người cuối cùng là Y Sơn
(1216), Thiền phái Vô Ngôn Thông với 15 đời và 40 vị sư tổ, kể từ người đầu
tiên là Cảm Thành (860) đến người cuối cùng là Ứng Vương (1287).
6
Trong gần mười thế kỷ đầu truyền bá vào Việt Nam mặc dù trong hoàn
cảnh đất nước bị xâm lược và đô hộ nhưng do điều kiện hiện thực tương hợp,
Phật giáo đã du nhập một cách hồ bình vào xã hội Việt Nam. Bước đầu Phật
giáo đã tạo ảnh hưởng trong nhân dân và có những chuẩn bị cho sự phát triển
mới trong giai đoạn đất nước độc lập tự chủ.
Việc nước ta bước vào kỷ nguyên độc lập tự chủ sau một ngàn năm Bắc
thuộc đã tạo điều kiện cho Phật giáo phát triển một bước mới. Từ thế kỷ X Phật
giáo đã trở thành quốc giáo. Tuy vậy nó vẫn mang đậm yếu tố dân gian. Ở kinh
đô Hoa Lư chùa chiền xuất hiện nhiều chùa như chùa Bà Ngơ, chùa Tháp…và
nhiều cột kinh Phật, hình tượng Phật đã quen thuộc với người Việt Nam.
Từ thế Kỷ X - XIV dưới thời Lý - Trần, Phật giáo phát triển đến mức cực
thịnh, hầu hết các đời vua đều sùng Phật, xây dựng chùa tháp, tô tượng, đúc
chuông, dịch kinh phật. Đông đảo quần chúng nô nức theo Phật giáo, dân chúng
quá nửa là sư. Rất nhiều chùa, tháp có quy mơ lớn với kiến trúc độc đáo như
chùa Phật Tích, chùa Diên Hựu, chùa Phổ Minh, chùa Quỳnh Lâm… Giai đoạn
này Phật giáo có vai trị rất lớn đối với văn hoá (như thơ ca, kiến trúc, điêu
khắc), đối với đường lối đối ngoại, đặc biệt Phật giáo có vai trị lớn đối với
những thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống quân xâm lược chống Tống
thời Lý và ba lần chống quân Nguyên Mông thời Trần.
Sang thế kỷ XV, cùng với sự xác lập của triều đình phong kiến nhà Lê đã
tuyên bố lấy Nho giáo làm quốc giáo. Mất vị trí quốc giáo nhưng Phật giáo vẫn
lan toả trong tầng lớp bình dân và những làng quê.
Thời kỳ biến động thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII cũng là thời kỳ hậu Nho,
Phật giáo lại được sùng mộ. Thế kỷ XVII, vua Quang Trung có quan tâm chấn
hưng Phật giáo, đã xuống chiếu xây cất chỉnh đốn các chùa lớn như chùa Bút
Tháp, Tây Phương, Kim Liên, Keo, Hương Tích, Trấn Quốc…
Sang thế kỷ XIX, thời Nguyễn Phật giáo vẫn được phát triển nhưng dưới
sự kiểm soát của nhà nước. Đầu thế kỷ XX, đất nước rơi vào tay thực dân Pháp.
Trước trào lưu ảnh hưởng phương Tây đến cả phương Đơng trong đó có Việt
Nam. Đã dẫn đến phong trào chấn hưng Phật giáo, Phật giáo từ đó mới bắt đầu
7
khởi sắc. Cũng từ đây Phật giáo đi vào hoạt động có tổ chức khác với sự rời rạc,
lỏng lẻo trước đó. Một loạt tổ chức Phật giáo ra đời trong thời kỳ này ở ba miền,
nhưng trong đó có 6 tổ chức quan trọng của tăng ni và cư sỹ, đó là:
Ở Miền Nam có hai tổ chức: Hội Nam Kỳ nghiên cứu Phật học do nhà sư
Khánh Hòa lập năm 1930 và Hội Tăng già Nam Việt lập tháng 6 năm 1951.
Ở Miền Trung có hai tổ chức: An Nam Phật Học Hội do ơng Lê Đình
Thám lập năm 1932 và Hội Tăng già Trung Việt thành lập năm 1949.
Ở Miền Bắc có hai tổ chức:Hội phật giáo bắc kỳ do ông Nguyễn Năng
Quốc lập năm 1934 và Hội chỉnh lý Tăng ni Bắc Việt do nhà sư Tố Liên lập năm
1949, sau nay năm 1950 đổi thành hội Tăng già Bắc Việt
Sau 1954, đất nước bị chia cắt, tình hình Phật giáo ở hai miền có sự khác
nhau.
Ở miền Bắc, tháng 3 năm 1958, “Hội Phật giáo Thống nhất Việt Nam” ra
đời đã quy tụ giới Phật giáo miền Bắc trong một tổ chức duy nhất, vừa hoạt
động tơn giáo, vừa hoạt động u nước. Có thể nói đây là bước chuyển quan
trọng trong tiến trình gắn bó với dân tộc của giới phật tử miền Bắc, Phật giáo có
điều kiện chuyển mình.
Sau đại thắng mùa xn năm 1975, đất nước hịa bình độc lập thống nhất
đã tạo cơ duyên rất thuận lợi cho giới Phật giáo thực hiện một Phật sự lớn đã đặt
ra từ lâu. Sau hai năm chuẩn bị, tháng 11 năm 1981, Đại hội đại biểu thống nhất
Phật giáo đã tổ chức tại thủ đô Hà Nội với 165 đại biểu tăng ni, cư sỹ trong cả
nước đã về dự. Đại hội đã tổ chức ra Giáo hội Phật giáo Việt Nam, thông qua
Hiến chương và chương trình hoạt động của giáo hội với đường lối "Đạo pháp Dân tộc - Chủ nghĩa xã hội" và bầu ra Hội đồng Chứng minh gồm 50 vị hòa
thượng; Hội đồng Trị sự gồm 50 vị tăng ni và cư sỹ tiêu biểu là cơ quan lãnh đạo
của Giáo hội. Sự kiện này cực kỳ trọng đại trong lịch sử Phật giáo Việt Nam.
Thống nhất Phật giáo và việc ra đời Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã đáp
ứng tình cảm, nguyện vọng của tuyệt đại đa số tăng ni, phật tử, lại được đảm bảo
bằng chính sách tơn trọng tự do tin ngưỡng, tơn giáo của Đảng và Nhà nước ta,
nên Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã không ngừng trưởng thành ngày càng
8
khẳng định vị trí của mình trong lịng dân tộc. Hiện nay tổ chức Giáo hội của
Giáo hội Phật giáo Việt Nam được xây dựng theo cơ cấu gồm cấp trung ương,
cấp tỉnh, huyện và cơ sở, trong đó cấp trung ương và cấp tỉnh giữ vài trò chủ
chốt, ở cấp trung ương có Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự.
Tính đến năm 2019 thì ở Việt Nam cóTăng Ni: 53.941 Tăng Ni, gồm:
38.629 Bắc tơng; 8.574 Nam tông Khmer, 1.754 Nam tông kinh (1.100 chư
Tăng, 654 Tu nữ); 4.984 Khất sĩ; Khoảng gần 50 triệu tín đồ và những người có
niềm tin yêu mến Đạo Phật. Có18.466 Tự viện, gồm: 15.846 Tự viện Bắc Tông;
454 chùa Nam Tông Khmer; 106 chùa Nam tông Kinh; 541 Tịnh xá, 467 Tịnh
Thất, 998 Niệm Phật đường, 54 Tự viện Phật giáo Người Hoa [5].
1.1.2. Giá trị văn hóa Phật giáo ở Việt Nam
Phật giáo truyền vào Việt Nam đến nay đã khoảng 20 thế kỷ, Phật giáo đã
được nhân dân Việt Nam đón nhận một cách trân trọng có chọn lọc và đã trở
thành tôn giáo của dân tộc trên cơ sở đạo đời không thể phân ly. Trong suốt hơn
hai ngàn năm lịch sử Phật giáo luôn đồng cam cộng khổ với vận mệnh thăng
trầm của xứ sở và có những đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ đất nước ngay từ buổi đầu.
Sự gắn bó lâu đời giữa Phật giáo và dân tộc đã tạo cảm hứng cho nhà thơ
Hồ Dzếnh viết nên ý thơ”.
“Trang sử Phật,
Đồng thời là trang sử Việt Nam
Trải bao độ hưng suy
Có nguy mà chẳng mất…” [11, 58]
Có một đặc điểm là, bất kỳ dân tộc nào cũng có nền văn hóa riêng của
mình, khơng ai có quyền phủ nhận, bác bỏ hay coi thường hoặc chụp lên nó một
nền văn hóa khác. Dân tộc Việt Nam là một dân tộc vốn có một nền văn hóa lâu
đời. Là một hệ tư tưởng không giáo điều, khiêm tốn khép mình, nên khi vào
nước ta Phật giáo sẵn sàng tiếp thu truyền thống bản địa, không buộc người Việt
phải từ bỏ những gì vốn có trong nền văn hóa bản xứ. Do đó, nó đi sâu vào tâm
hồn của con người một cách tự nhiên. Về phía dân tộc, dĩ nhiên là nhận thức
9
rằng cần tiếp thu Phật giáo để làm phong phú thêm đời sống văn hóa của mình.
Hơn thế nữa, dân tộc ta luôn phải đối mặt với âm mưu đồng hóa văn hóa của kẻ
thù phương Bắc, tư tưởng Phật giáo sau khi đã bản địa hóa, kết hợp những yếu
tố dân tộc là bức tường thành kiên cố, chặn đứng mọi sự tiến cơng, góp phần giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trong q trình tồn tại và phát triển Phật giáo đã
ảnh hưởng khá sâu sắc đến nền văn hóa dân tộc, đặc biệt trên các sinh hoạt tín
ngưỡng, nghệ thuật, kiến trúc.
Phật giáo tuy là một tơn giáo ngoại nhập nhưng Phật giáo có vai trị to lớn
đến đời sống sinh hoạt tín ngưỡng, phong tục tập quán của người Việt Nam cho
đến nay. Từ lâu, những ngôi chùa đã trở nên quen thuộc, trở thành một phần
không thể thiếu được với cộng đồng làng xã Việt Nam. Hiện nay, hơn bao giờ
hết, các ngôi chùa vẫn phát huy được vai trị tích cực của mình trong việc đáp
ứng nhu cầu tín ngưỡng, văn hóa tinh thần của nhân dân. Có nhiều ngơi chùa
hay quần thể di tích Phật giáo đã trở thành những trung tâm văn hóa vùng, đáp
ứng nhu cầu tín ngưỡng, tham quan vãng cảnh của nhân dân cả nước và du
khách nước ngồi như: di tích Chùa Hương, danh thắng n Tử, Thiền viện Tây
Thiên, chùa Mía, chùa Dâu, chùa Keo...các ngơi chùa Khmer,... khơng những
thế ngơi chùa cịn đi vào thơ cả của nhiều thi sĩ về cảnh đẹp nên thơ của các ngơi
chùa.
Trong nhân dân vẫn lưu truyền câu nói "trẻ vui nhà, già vui chùa". Nhưng
ngày nay lại khác, trong những dịp lễ hội sóc hay vọng có rất đông người đi lễ
chùa thuộc hầu hết các lứa tuổi, đặc biệt là tầng lớp thanh niên. Đây là một điều
đáng mừng. Điều này có tác dụng giáo dục to lớn, bởi vì đến với ngơi chùa là
đến với khơng gian văn hóa tâm linh tơn nghiêm, thành kính, từ đó mỗi người
đều tìm thấy cho mình những nhu cầu tinh thần cần thiết. Đối với thế hệ trẻ đây
thực sự là cơ hội tốt để họ giữ gìn một hình thức sinh hoạt văn hóa truyền thống.
Có thể thấy rằng kho tàng Phật giáo được lưu giữ đến ngày nay là hệ
thống chùa chiền. Các chùa Phật giáo Việt nam với những nét kiến trúc đặc
trưng của mỗi thời đại là minh chứng cụ thể cho lịch sử phát triển của đạo Phật
Việt Nam. Kiến trúc Phật giáo Việt Nam vừa chịu ảnh hưởng của kiến trúc Phật
10
giáo Ấn Độ lại vừu chịu ảnh hưởng kiến trúc Phật giáo Trung Quốc. Với sự ảnh
hưởng của hai dòng kiến trúc nay đã tạo cho chùa Việt Nam sự đa dạng về kiến
trúc, điêu khắc. Chùa Việt mô phỏng chùa Hang Ấn Độ nên hình thành kiến trúc
chi vồ rất phổ biến trong chùa làng. Vốn mơ hình một hang đá như Ajanta
(Ấn Độ) gồm có một tiền đường và một hậu cung đặt biểu tượng Phật và một số
tăng phòng vây quanh, chuyển sang kiến trúc nhà gỗ nhà ở thì gian nhà ba gian
được nối thêm một chi vồ, các thiền phịng thành những hành lang nhà tổ. Ở
mỗi miền của nước ta chùa ngoài những đặc điểm chung giống nhau thì lại có
những đặc điểm rất riêng về kiến trúc, điêu khắc
Ở miền Bắc, với lợi thế thiên nhiên có những đặc điểm tự nhiên hùng vĩ,
có núi có sơng, có chỗ nhơ cao có nơi trũng thấp, nhiều cảnh đẹp sơn thủy hữu
tình thích ứng với việc dựng chùa. Các ngôi chùa thường được dựng tại những
nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp, ngồi ra cịn phải có mơi trường xã hội thuận
tiện và cho các sư tăng tu dưỡng và giáo hoá chúng sinh. Những điều kiện tự
nhiên hịa hợp với điều kiện mơi trường xung quanh tạo nên thế tổng thể kiến
trúc chùa nổi bật trên trong toàn cảnh.
Kiến trúc mở đầu của một ngôi chùa là Tam quan với 3 cửa biểu thị 3
cách nhìn về thế gian của Phật giáo. Qua cổng tam quan là vào bên trong chùa là
Tam bảo với ba tào Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện phần lớn gắn với
nhau theo kiểu chữ Công hoặc chữ Đinh tạo nên một khơng gian nội thất chung,
cũng có khi theo kiểu chữ Tam nhưng lại xây nối hai đầu thành chữ Cơng. Ngồi
ra có nhiều khu vực phụ mà đa phần là hành lang ở hai bên và thường có hậu ở
đường đằng sau, để tất cả quy thành hình chữ Quốc. Hành lang thường bày
tượng La Hán và để những đồ phục vụ lễ hội hàng năm. Hậu đường có thể chia
từng phần làm nhà Tổ, nhà Tăng và điện Mẫu. Những khu nhà này có thể xây
riêng ở bên trong hoặc bên cạnh khung hình chữ quốc. Một số chùa thờ thần địa
phương và Thánh hình thành kiểu kiến trúc tiền Phật hậu thần hay tiền Phật hậu
Thánh.
Một kiến trúc khơng thể thiếu khi nói đến kiến trúc chùa là Tháp. Tháp
Phật giáo chia làm hai loại: tháp mộ và tháp chùa hay tháp điện. Kiến trúc tháp
11
nổi tiếng như: Tháp chùa Dâu, chùa Một Cột, Tháp phổ Minh, Tháp Báo Thiên
vịi vọi…
Các ngơi chùa Khmer ở miền Nam có một hình tứ giác nhiều tầng bậc, chỉ
thờ một tượng Thích Ca và trang trí nhiều bích họa kể về lịch sử tu hành của
Phật Tổ. Trên các thềm bậc có những tháp vây quanh và một cửa cổng rất đặc
sắc với hai apxara hai bên góc như chùa Xvay Ton ở An Giang. Kiến trúc chùa
như vậy làm người ta liên tưởng đến cổng tháp Sanchi nổi tiếng của Ấn Độ.
Chùa ở vùng Huế được xây dựng dưới thời Nguyễn, bên cạnh các hương
tự và quan tự như Thiên Mụ, Thánh Duyên, Giác Hoàng, Diệu Đế…Những ngơi
chùa này pha nét kiến trúc cung đình.
Trong các ngơi chùa cần phải nói đến một số lượng rất lớn tượng Phật có
giá trị về nghệ thuật điêu khắc, trong đó có những pho tượng đẹp nổi tiếng, như
tượng A Di Đà (chùa Phật Tích), tượng Quán Thế Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn
(chù Mễ Sở và chùa Bút Tháp), bộ tượng La Hán (chùa Tây Phương).
Đạo Phật hòa nhập vào nền văn hóa của dân tộc Việt Nam như sữa hịa
với nước, đến mức khơng phân biết được đâu là yếu tố đạo Phật, đâu là yếu tố
của dân tộc. Đặc biệt là ngôi chùa - Chùa không phải là của riêng ai mà là của
nhân dân, là trung tâm văn hóa của làng, của nhiều làng hay của một vùng, nếu
ở đó là một ngơi chùa lớn, một tổ đình. Chùa là nơi tổ chức các lễ hội tơn giáo,
đồng thời là trường học, là nhà thương, là nơi tạm nghỉ của khách qua đường,
thậm chí cịn là nơi trọ thường xuyên của những của những kẻ không nhà, không
cửa.
“Mái chùa che chở hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tông” [20,58]
Đúng vậy ngôi chùa hiện nay không chỉ đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng của
nhân dân mà còn là nơi lưu giữ những giá trị về mặt kiến trúc và nghệ thuật rất
đặc sắc của cha ông ta cho đến nay nó vẫn cịn những giá trị đối với xã hội Việt
Nam hiện nay.
Phật giáo du nhập vào Việt Nam tạo ra nền văn học, nghệ thuật Phật giáo
đặc sắc, sự ảnh hưởng phật giáo không ngừng ở phạm vi từ ngữ mà nó cịn lan
12
rộng, ăn sâu vào những ca dao dân ca và thơ ca của người dân Việt Nam. Ca dao
dân ca là một thể loại văn vần truyền khẩu, dễ hiểu trong dân gian, được lưu
truyền từ đời này sang đời khác, bao gồm nhiều đề tài khác nhau, và đều thấm
nhuần tư tưởng đạo lý của Phật giáo. Có thể nói trong tâm hồn của mỗi con
người Việt Nam đều có chứa đựng ít nhiều triết lý nhà phật và những hình ảnh
về ngơi chùa, về phật. Danh từ chun mơn của Phật Giáo như: trí tuệ, từ bi,
thiện ác, nhân quả, nghiệp báo... nếu tách rời ra khỏi nền văn học Việt Nam thì
văn hóa Việt tộc trở nên khơ cằn khơng cịn sức sống tinh anh nữa. Chúng ta
cũng có thể đơn cử ra đây một vài câu tục ngữ để chứng minh giá trị sự hội nhập
của văn hóa Phật Giáo trong văn hóa Việt, điển hình như những từ ngữ: “Tội
nghiệp quá!”; “Hằng hà sa số”, “Ta bà thế giới”, ”Lù khù như ông Cù độ
mạng”...
Ca dao là những câu hò tiếng hát theo giọng điệu tự nhiên, phát xuất từ
tâm hồn mộc mạc đầy tình cảm của người bình dân Việt Nam, được lưu truyền
trong dân gian. Những câu ca dao này mang tính chất tư tưởng, tình cảm của dân
tộc nhằm diễn tả luân lý, đạo đức, tình ý, phong tục, tập quán, trạng thái thiên
nhiên, đặc tính xã hội của từng thời kỳ. Tư tưởng Phật Giáo thâm nhập vào ca
dao Việt Nam tự bao giờ và tản mát khắp tâm hồn của người bình dân, khơng có
ranh giới thời gian cũng như khơng có khu biệt khơng gian. Điển hình như
những bài ca dao sau đây đượm nhuần tư tưởng của Phật Giáo:
Ai ơi! Hãy ở cho lành,
Kiếp này không được, để dành kiếp sau.
Hay để nói về triết lý vơ thường của kiếp người:
Cuộc đời đâu khác lồi hoa,
Sớm cịn tối mất nở ra lại tàn.
Nền văn học bác học của dân tộc Việt Nam đã được ảnh hưởng nền văn
hóa Phật Giáo. Văn hóa Phật giáo đã dung hịa vào văn hóa Việt vơ cùng phong
phú được biểu hiện qua các tác phẩm văn học như: Cung Oán Ngâm Khúc của
Nguyễn Gia Thiều, Truyện Kiều của Nguyễn Du, cho đến Văn Học Lý Trần đều
thấm nhuần các tư tưởng của đạo Phật như nhân sinh là cõi mộng, thuyết nhân
13
quả, lý vơ thường...
Bên cạnh đó, các Thiền sư Việt phần nhiều đều có sáng tác thi văn, biểu
hiện tính sáng tạo độc lập, sự nội chứng trác tuyệt và phong cách tự tại an nhiên.
Qua các triều đại anh hùng của lịch sử như Lý, Trần, thi ca Phật giáo rạng ngời
với tên tuổi của những Thiền sư Vạn Hạnh, Mãn Giác, Viên Chiếu, Huyền
Quang... Có thể nói rằng các tác phẩm văn học đầu tiên của nước ta trước thế kỷ
15 hầu hết đều mang nội dung Phật giáo.
Khơng chỉ có vậy, Phật giáo cịn là khởi nguồn cho vô số lễ hội của Việt
Nam mà mỗi một lễ hội đều là một bảo tàng văn hóa dân tộc. Lễ hội là hình thức
sinh hoạt văn hóa cộng đồng đặc biệt, bản thân nó là một kho lịch sử khổng lồ,
tích tụ vơ số những lớp phù sa văn hóa, là bảo tàng sống về sinh hoạt văn hóa,
chứa đựng các giá trị tinh thần sâu sắc. Trong lễ hội là kho tàng phong tục tín
ngưỡng, là ứng xử của con người với môi trường tự nhiên và mơi trường xã hội,
là những lớp văn hóa trầm tích và được lưu giữ suốt chiều dài lịch sử. Lễ hội
xuất phát từ tơn giáo tín ngưỡng sẽ thỏa mãn các nhu cầu của con người về đời
sống tâm linh, đời sống văn hóa. Có thể điểm qua những lễ hội Phật giáo tiêu
biểu như Đại lễ Vesak (rằm tháng tư), Lễ Vu lan, Lễ Phật thành đạo...
Bên cạnh các giá trị văn hóa kể trên, khi nói đến Phật giáo chúng ta không
thể bỏ qua ẩm thực chay của văn hóa Phật giáo. Phong tục ăn chay đang mở
rộng khắp nơi, ngay cả Châu Âu ngày càng có nhiều người nhận ra lợi ích từ
việc ăn chay. Các nhà khoa học đều cho rằng ăn chay rất hợp vệ sinh và khơng
kém phần bổ dưỡng. Trên tinh thần đó, nên nguời Việt Nam dù không phải là
Phật tử cũng thích ăn chay, và tập tục này đã ảnh hưởng sâu rộng trong mọi giai
tầng xã hội Việt Nam từ xưa đến nay. Ở Việt Nam, tại Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh,
Huế và các thành thị khác đều có các cửa hàng ăn chay.
Như vậy, trong dòng chảy văn hóa Việt Nam, sức ảnh hưởng của Phật
giáo đã trở thành một yếu tố quan trọng được ngưng kết lại trong đạo đức, văn
học, trong kiến trúc, điêu khắc, âm nhạc, lễ hội, ẩm thực. Đó chính là những giá
trị văn hóa trường tồn đã đóng góp chung vào kho tàng văn hóa của dân tộc.
14
1.2. Khái quát về du lịch tâm linh
1.2.1. Khái niệm du lịch, tâm linh và du lịch tâm linh
1.2.1.1.Khái niệm du lịch
Do có nhiều cách tiếp cận khác nhau nên cho đến nay trên thế giới và ở
Việt Nam có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch.
Năm 1963, Hội nghị Liên Hợp Quốc Tế về Du lịch ở Rơma đã định nghĩa
“Du lịch là tổng hịa các mối quan hệ, hiện tượng, các hoạt động kinh tế bắt
nguồn từ các cuộc hành trình và lưu trú của các cá nhân hay tập thể ở bên ngoài
nơi thường xuyên của họ hay ngồi nước của họ với mục đích hịa bình. Nơi họ
đến lưu trú khơng phải là nơi làm việc của họ.”
Theo Pirogiơnic (1985) thì “Du lịch là một dạng hoạt động của dân cư
trong thời gian rỗi liên quan tới sự di chuyển và lưu lại tạm thời bên ngoài nơi
cư trú thường xuyên nhằm nghỉ ngơi, chữa bệnh, phát triển thể chất và tinh thần,
nâng cao trình độ nhận thức - văn hóa hoặc thể thao kèm theo việc tiêu thụ
những giá trị về tự nhiên, kinh tế, văn hóa”.
Hay định nghĩa theo Hội nghị Quốc tế về thống kê du lịch ở Otawa,
Cannada tháng 6/1991: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngồi
mơi trường thường xun (nơi ở của mình), trong một khoảng thời gian ít hơn
khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, mục đích của
chuyến đi khơng phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi
vùng tới thăm”.
Theo Luật du lịch (2005): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến
chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên của mình nhằm đáp ứng
nhu cầu tham quan , tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng trong một khoảng thời gian
nhất định”.
Mặc dù có quan niệm khác nhau nhưng các khái niệm về du lịch đều có
điểm chung đó là hiểu du lịch là tổng hợp các hiện tượng và các mối quan hệ
phát sinh từ tác động qua lại giữa khách du lịch, các nhà kinh doanh, chính
quyền và cộng đồng dân cư địa phương trong quá trình thu hút và tiếp đón
khách du lịch, hành trình và lưu trú của họ ở ngoài nơi cư trú để thoả mãn các
15
nhu cầu khác nhau: hồ bình, hữu nghị, tìm kiếm kinh nghiệm sống hoặc thoả
mãn các nhu cầu về vật chất và tinh thần khác và quá trình tổ chức các điều kiện
về sản xuất và phục vụ nhằm thoả mãn, đáp ứng các nhu cầu của người du lịch
và đạt được mục đích số một của mình là thu lợi nhuận.
1.2.1.2. Khái niệm tâm linh
Tâm linh gồm chữ “tâm” và chữ “linh” tạo nên. Theo từ điển Hán Việt
của tác giả Thiều Chửu, “tâm” có nghĩa là tim (lịng), thuộc về thế giới bên
trong. “Linh” có rất nhiều nét nghĩa như: “linh” trong linh hoạt, nhạy bén; “linh”
trong thần linh; người chết cũng được gọi là “linh”; “linh” còn dùng để nói đến
những ứng nghiệm, bói tốn. Tác giả Hoàng Phê cũng cho rằng tâm linh là “tâm
hồn, tinh thần” hoặc là “khả năng biết trước một biến cố nào đó sẽ xảy ra đối với
mình, theo quan niệm duy tâm” [44,tr.897].
Đại Từ điển tiếng Việt đã định nghĩa về tâm linh, coi tâm linh là khả năng
cảm nhận, đoán định một cách khoa học, hợp lý trước các biến cố tốt và khơng
tốt có thể xẩy ra với mình. Giáo sư, Anh hùng Lao động Vũ Khiêu luận bàn sự
tồn tại đáng ghi nhận về văn hóa tâm linh ở các quốc gia phương Đông. Rằng,
tâm linh là điều có thật trong ý niệm, quan niệm, cần hướng nó đến sự tốt đẹp,
trong sáng, cho con người, vì con người.
Tác giả Nguyễn Đăng Duy: “Tâm linh là cái linh thiêng cao cả trong cuộc
sống đời thường, là niềm tin thiêng liêng trong cuộc sống tín ngưỡng tơn giáo.
Cái thiêng liêng cao cả, niềm tin thiêng liêng ấy được ngưng đọng lại ở những
biểu tượng, hình ảnh, ý niệm” [15; tr.11].
Cịn theo tác giả Sơn Nam trong bài Nói thêm về tâm linh trong liên hệ
với văn hóa Việt Nam thì tâm linh được hiểu là: “Tâm linh tồn tại trong mọi mặt
đời sống từ xưa cho tới nay, từ trong truyền thuyết, các bài văn tế, các tác phẩm
văn học, trong việc thờ cúng tổ tiên, cúng cô hồn cho tới những ca khúc về tổ
quốc và cả những hành động, mọi việc làm, nghĩa cử cao đẹp của con người
bình thường trong cuộc sống” [50, 15].
Tâm linh của con người ngưng đọng trong trí nhớ và con người ln tâm
niệm, thành kính về điều mình đã tin, đã làm. Như vậy tâm linh được hiểu là
16
một hình thái ý thức, tâm linh gắn liền với ý thức của con người và tâm linh là
phần thiêng liêng trong ý thức của mỗi con người.
1.2.1.3. Khái niệm du lịch tâm linh
Du lịch tâm linh là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh
làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người trong đời sống tinh
thần. Daniel H. Olsen cũng cho rằng, du lịch tâm linh có thể bao gồm các yếu tố
của du lịch tôn giáo, du lịch hành hương. Khách du lịch tâm linh có thể hoặc
khơng liên hệ rõ ràng với truyền thống tôn giáo quen thuộc [53, tr.36].
Du lịch tâm linh cũng gắn với niềm tin, nâng cao đức tin, nâng cấp đời
sống tâm linh của mỗi cá nhân theo hướng chân, thiện, mỹ tức con người luôn
hướng tới chân lý (đúng đắn), cái đẹp về đạo đức (tức thiện) và cái đẹp (cả về
mặt thể chất và tinh thần/tâm hồn). “Xét về nội dung và tính chất hoạt động, du
lịch tâm linh thực chất là loại hình du lịch văn hóa, lấy yếu tố văn hóa tâm linh
vừa làm cơ sở, vừa làm mục tiêu nhằm thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người
trong đời sống tinh thần” [6, tr.64]. Du lịch tâm linh đến các thắng tích sẽ giúp
con người tháo gỡ được các cảm xúc khổ đau, tài bồi tâm trí và tinh thần minh
triết. Du lịch tâm linh rất cần thiết cho con người trong xã hội hiện đại với nhiều
bức xúc, ưu tư, trầm cảm, mất niềm tin, cảm thấy lạc lõng trong cuộc sống, bao
gồm cả hành trình tìm kiếm các giá trị văn hóa truyền thống lẫn tìm lại chính
mình. Du lịch tâm linh ở một góc độ khác chính là việc quy ngưỡng các bậc khai
sáng tơn giáo, các bậc hiền triết, trí tuệ siêu việt trong lịch sử nhân loại. P. J.
Abdul Kalam (1931-2015) cố Tổng thống Ấn Độ cho rằng, “Du lịch tâm linh
hoàn toàn khác với việc tham quan các địa danh. Du lịch tâm linh có nghĩa là
thăm viếng trái tim và tâm trí của những bậc hiền triết” [6]. Du lịch tâm linh
nhấn mạnh sự tự nhận thức, chăm sóc sức khỏe và đổi mới (về mặt tinh thần).
Du lịch tâm linh tham quan nơi ở, làm việc của những người đặc biệt nổi tiếng ở
phương diện cá nhân trong lịch sử. Tham quan những địa điểm có ý nghĩa tơn
giáo, nơi chiêm nghiệm, thiền định,…
Du lịch tâm linh là sản phẩm của sự kết hợp giữa cơ sở tín ngưỡng, văn
hóa, di sản, doanh nghiệp và cộng đồng. Tuy nhiên, để mang lại sự trải nghiệm
17
du lịch tâm linh thực sự có ý nghĩa cho du khách, cần có sự tham gia của doanh
nghiệp, cộng đồng địa phương vào hoạt động nhằm cung cấp các dịch vụ thiết
yếu và bổ sung như vận chuyển, ăn uống, mua sắm, tham gia của chính quyền
địa phương trong kiến tạo và duy trì cảnh quan mơi trường xanh, sạch, đẹp, đảm
bảo an ninh, an tồn cho du khách
Có thể nói một cách ngắn gọn du lịch tâm linh là một loại hình du lịch lấy
yếu tố tâm linh là mục tiêu để thỏa mãn nhu cầu từ con người. Vì thế du lịch tâm
linh thường diễn ra các hoạt động khai thác giá trị văn hóa phi vật thể về tín
ngưỡng, tơn giáo để thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người, mang đến cho du
khách những cảm xúc thiêng liêng, sâu thẳm trong tâm hồn. Du lịch tâm linh là
chuyến du lịch khám phá thế giới tâm linh để trở về với thế giới nội tâm, lắng
nghe và tìm về những điều tốt đẹp.Đi sâu vào cuộc hành trình tâm linh này,
người ta có thể rũ bỏ những ưu phiền, khổ đau để có được một tâm hồn tự do và
hạnh phúc, lòng ngập tràn niềm vui sống cùng tình u thương bao la, vơ tận…
Về bản chất, tâm linh gắn liền và biểu hiện những cái thiêng liêng, cao cả, siêu
việt trong đời sống tinh thần, đời sống sinh hoạt xã hội của con người, nhất là
những cư dân vùng Á đơng nói chung trong đó ở Việt Namvăn hóa tâm linh đã
tạo nên chiều sâu, sức sống cho nền văn hóa cộng đồng, dân tộc.
1.2.2. Đặc điểm của du lich tâm linh ở Việt Nam
Thứ nhất, du lịch tâm linh gắn với tôn giáo và đức tin và ở Việt Nam,
trong đó Phật giáo có số lượng lớn nhất (chiếm tới 90%) cùng tồn tại với các tôn
giáo khác như Thiên Chúa giáo, Cao đài, Hịa Hảo… Triết lý phương đơng, đức
tin, giáo pháp, những giá trị vật thể và phi vật thể gắn với những thiết chế, cơng
trình tơn giáo ở Việt Nam là những ngơi chùa, tịa thánh và những cơng trình
văn hóa tơn giáo gắn với các di tích là đối tượng mục tiêu hướng tới của du lịch
tâm linh.
Ở Việt Nam hàng năm có tới 8.000 lễ hội diễn ra trên khắp các vùng miền
đất nước. Cùng với đó cả nước có hơn 44.000 địa danh, danh thắng và di tích
lịch sử, trong đó hơn một nửa là nơi có thể khai thác mơ hình du lịch tâm linh
[6]. Như vậy với nhiều tiềm năng và thế mạnh để phát triển du lịch tâm linh thể
18
hiện ở bề dày văn hóa gắn với truyền thống, tơn giáo, tín ngưỡng. Sự đa dạng và
phong phú của các thắng tích tơn giáo và với số lượng lớn các tín ngưỡng, lễ hội
dân gian được tổ chức quanh năm trên phạm vi cả nước. Nhu cầu du lịch tâm
linh của người Việt Nam đang trở thành động lực thúc đẩy du lịch tâm linh phát
triển. Ngày nay du lịch tâm linh ở Việt Nam đang trở thành xu hướng phổ biến
Du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với tín ngưỡng thờ cúng, tri ân những vị
anh hùng dân tộc, những vị tiền bối có cơng với nước, dân tộc (Thành Hoàng)
trở thành du lịch về cội nguồn dân tộc với đạo lý uống nước nhớ nguồn. Mới
đây, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương ở Việt Nam đã được UNESCO công
nhận là di sản phi vật thể đại diện nhân loại.
Thứ hai, du lịch tâm linh ở Việt Nam gắn với những hoạt động thể thao
tinh thần như thiền, yoga hướng tới sự cân bằng, thanh tao, siêu thoát trong đời
sống tinh thần, đặc trưng và tiêu biểu ở Việt Nam mà khơng nơi nào có đó là
Thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Thứ ba, số lượng khách du lịch tâm linh ngày càng tăng, chiếm tỷ trọng
lớn trong cơ cấu khách du lịch, đặc biệt là khách nội địa. Số khách du lịch đến
các điểm tâm linh tăng cho thấy du lịch tâm linh ngày càng giữ vị trí quan trọng
trong đời sống xã hội.Nhu cầu và du lịch tâm linh ngày càng đa dạng không chỉ
giới hạn trong khuôn khổ hoạt động gắn với tôn giáo mà ngày càng mở rộng tới
các hoạt động, sinh hoạt tinh thần, tín ngưỡng cổ truyền của dân tộc và những
yếu tố linh thiêng khác. Hoạt động du lịch tâm linh ngày càng chủ động, có
chiều sâu và trở thành nhu cầu không thể thiếu trong đời sống tinh thần của đại
bộ phận nhân dân.
Thứ tư, hoạt động kinh doanh, đầu tư vào du lịch linh ngày càng đẩy
mạnh thể hiện ở quy mơ, tính chất hoạt động của các khu, điểm du lịch tâm linh.
Ra đời và phát triển ngày càng nhiều các điểm du lịch tâm linh ở hầu hết các địa
phương, vùng, miền trên phạm vi cả nước, tiêu biểu như: Đền Hùng (Phú Thọ);
Yên Tử (Quảng Ninh); Chùa Hương (Hà Nội); Phát Diệm (Ninh Bình); Núi Bà
Đen, Thánh thất Cao Đài (Tây Ninh); Chùa Bái Đính (Ninh Bình); Đại Nam
Văn Hiến (Bình Dương); Miếu Bà Chúa Xứ (An Giang); Công Sơn-Kiếp Bạc
19
(Hải Dương); Tây Thiên (Vĩnh Phúc); Đền Trần-Phủ Dầy (Nam Định)…
Thứ năm, du lịch tâm linh có tính mùa vụ rõ nét. Vào mùa cao điểm nhất
là dịp các sự kiện, lễ hội lớn được tổ chức tại các không gian văn hóa tâm linh
vấn đề sức chứa là vấn đề cần được tính tốn kỹ lưỡng cho hoạt động du lịch
tâm linh. Khách du lịch tâm linh trong nước có thành phần đa dạng (từ khách có
khả năng chi trả thấp đến cao). Nhưng khách du lịch tâm linh ra nước ngồi
thường là khách có khả năng chi trả cao và khi họ hồn thành chuyến đi họ có
những niềm tin và vị thế phát triển một cách vượt bật trong cộng đồng có cùng
niềm tin về tơn giáo. Đối với du khách tham gia vào các tuyến du lịch tâm linh
có sự phân hóa theo hoạt động và đặc điểm tơn giáo của họ. Trước tiên nếu đồn
du khách có cùng niềm tin tơn giáo và có mục đích thực hành nghi lễ tơn giáo
thì tuyến du lịch tâm linh có bản chất là tuyến du lịch chuyên đề vì thế trong một
hành trình du lịch tâm linh có thể xuất hiện nhiều điểm tham quan du lịch có
tính chất văn hóa tâm linh khá tương đồng hoặc sự mâu thuẫn về niềm tin là rất
hạn chế. Ngược lại nếu đoàn du khách tham gia vào hoạt động du lịch tâm linh
chỉ dừng lại ở mức độ tham quan và tìm hiểu và khơng có nhu cầu thực hành
nghi lễ tơn giáo thì tuyến du lịch tâm linh rõ ràng có thể kết hợp nhiều điểm
tham quan du lịch tâm linh có tính chất khác nhau và lúc này du lịch tâm linh là
một biểu hiện thường gặp của loại hình du lịch văn hóa.
Như vậy, du lịch tâm linh ngày càng được xã hội tiếp cận và nhìn nhận
tích cực cả về khía cạnh kinh tế và xã hội. Nhà nước ngày càng quan tâm hơn
đối với phát triển du lịch tâm linh và coi đó là một trong những giải pháp đáp
ứng đời sống tinh thần cho nhân dân đồng thời với việc bảo tồn, tôn vinh những
giá trị truyền thống, suy tôn những giá trị nhân văn cao cả.
Tiểu kết chƣơng 1:
Phật giáo từ lâu đã thâm nhập vào tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân
tộcViệt Nam và đã trở thành bản chất và bản sắc của dân tộc Việt Nam nói
chung và của Hà Nội nói riêng. Phật giáo Hà Nội đã khẳng định những bước
tiến vững chắc và xác lập vị thế quan trọng trong sự phát triển củaHà Nội, hình
thành những giá trị văn hóa đa dạng và phong phú văn hóa Phật giáo Hà Nội. Từ
20
chùa chiền, nhạc lễ, lễ nghi, lễ hội... đến các hoạt động trong đời sống tăng ni
đều mang những nét riêng, đặc trưng và điển hình bởi các yếu tố văn hóa truyền
thống chi phối, mà trong đó, dấu ấn văn hóa truyền thống của cư dân Hà Nội.
Văn hóa Phật giáo nổi lên như một dịng văn hóa chủ đạo, đang ngày đêm
hịa cùng nhịp sống của hàng nghìn, hàng vạn người dân nơi đây, đã đi vào đời
sống và tâm thức của người Hà Nội một cách tự nhiên và cũng thật nhẹ nhàng,
tạo nên một nét chấm phá rất riêng mà "chẳng nơi nào có được".
Du lịch tâm linh là một loại hình du lịch khai thác các giá trị tâm linh
nhằm mục đích thỏa mãn nhu cầu du lịch của xã hội (nhu cầu tham dự vào
khơng gian tâm linh, tìm hiểu văn hóa tâm linh và nhu cầu giải trí, thưởng thức,
trải nghiệm.) mang lại những lợi ích kinh tế và bảo tồn các giá trị văn hóa tâm
linh truyền thống của nơi đến.
Phân tách nội hàm tên gọi của loại hình du lịch này, ta thấy nhu cầu của
khách khi tham gia loại hình du lịch tâm linh có hai nhu cầu cơ bản là nhu cầu
du lịch và nhu cầu tâm linh. Có khi nhu cầu tâm linh là động cơ chính, có khi
nhu cầu du lịch là động cơ chính. Tuy nhiên kết quả của khách du lịch tâm linh
luôn luôn là cùng một mức độ mặc dù đi với động cơ nào đó là sự thỏa mãn.
Nếu điểm qua tất cả các lễ hội trong cả nước và các danh lam thắng cảnh
thu hút khách du lịch hiện nay thì chúng ta thấy tỉ trọng của loại hình du lịch
tâm linh trong tổng thể nền du lịch của nước ta là khơng nhỏ, nếu khơng muốn
nói du lịch tâm linh chiếm một tỷ trọng ngang bằng với các loại hình du lịch
khác cộng lại. Qua đó ta thấy được tiềm năng du lịch tâm linh to lớn của Hà Nội.
21