Tải bản đầy đủ (.pdf) (16 trang)

PHÉP BIỆN CHỨNG vé mẫu THUẪN và vận DỤNG PHÂN TÍCH mâu THUẫN BIỆN CHỨNG TRONG nền KINH tế THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (12.89 MB, 16 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

TIỂU LUẬN TRIÉT HỌC
PHÉP BIỆN CHỨNG VÉ MẪU THUẪN VÀ VẬN DỤNG PHÂN
TÍCH MÂU THUẦN BIỆN CHỨNG TRONG NÉN KINH TẾ
THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY

Sinh viên thực hiện

: Hồng Trọng Quần

Mã sinh viên
Lớp hành chính

: 2012380031
: Anh 01 —-CTTTT TCNH — Khóa 59

Giáo viên hướng dẫn : Ths.Nguyễn Tùng Lâm

Hà Nội, tháng 12 năm 2020


MỤC LỤC
KÉT LUẦN
TÀI LIỆU THAM KHẢO..................-.
c2 2220121122012 1 111111111311 1 re. 1


LỜI MỞ ĐẦU


Trong quá trình phát triển của đời sống xã hội hiện nay, chúng ta không thể
không tránh khỏi những mâu thuẫn dù to hay nhỏ. Mâu thuẫn là một phần
khơng thẻ thiếu trong xã hội và có đa dạng các loại mâu thuẫn. Ngoải ra, mâu

Ta tong thôn CTriết Học MKC Lê hìn! Tường CHỌC Sóng,
rRỊI HẸƯớI có HHĨI quan
điểm, một tính cách riêng nên việc xảy ra các cuộc tranh chấp hay bất đồng ý

kiến là không thể tránh khỏi. Thật vậy, nếu thiếu đi sự mâu thuẫn hay bất đồng
thì chúng ta sẽ mất đi điều kiện thúc đây tư duy, kĩ năng phản biện phát triển và
đồng thời chúng ta cũng mất đi điều kiện thúc đây sự vật phát triển. Từ đó, ta

vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta.


I. Quy luật mâu thuẫn của phép biện chứng duy vật
1. Khái quát lịch sử phát triển của phép biện chứng

Phép biện chứng xuất hiện từ thời cổ đại, và từ đó đến nay lịch sử phát
triển của nó đã trải qua nhiều gian đoạn khác nhau gắn liền với sự phát triển của
khoa học và thực tiễn. Từ phép biện chứng mộc mạc, chất phác thời cô đại đã

thê hiện rõ những tư tưởng biện chứng khá sâu sắc như mối quan hệ quy định
lẫn nhau tạo ra sự thống nhất giữa cái bất biến với cái biến đổi, giữa cái duy
nhất với số nhiều, bất kỳ sự vật nào cũng là thê thống nhất của hai mặt đối lập
vừa xung khắc nhau, vừa nương tựa vào nhau, vừa bao hàm lẫn nhau. Thế giới
vật chất tôn tại trong sự hình thành, vận động vĩnh viễn của sự thống nhất giữa

các mặt đôi lập... Đặc trưng cơ bản của phép biện chứng cơ đại là tính tự phát,

ngây thơ. Cho dù cịn nhiều hạn chế, nhưng nhìn chung phép biện chứng cô đại
đã coi thế giới là chỉnh thế thống nhất giữa các bộ phận của thế giới có mối lien
hệ qua lại, thâm nhập, tác động và quy định lẫn nhau, thế giới không ngừng vận
động, biến đồi. Tiếp theo đó là phép biện chứng duy tâm trong triết học cổ điển
Đức và đỉnh cao là phép biện chứng duy tâm của Hêghen. Về hình thức, phép
biện chứng này bao quát cả 3 lĩnh vực: logic thuần túy, tự nhiên, biện chứng của

tồn bộ q trình lịch sử. Về nội dung, phép biện chứng chia thảnh tồn tại, bản
chất và khái niệm. Phép biện chứng trong giai đoạn này là sự phát triển từ cái
trừu tượng đến cái cụ thể, từ chất này sang chất khác nhờ giải quyết mâu thuẫn.
Phát triển được coi là sự tự phát triển, và là nguyên lý cơ bản nhất của phép biện
chứng với phạm trù trung tâm là “tha hóa” và khẳng định “tha hóa được diễn ra
ở mọi nơi, mọi lúc trong cả tự nhiên, xã hội và tĩnh thần”.

Phép biện chứng duy tâm trong triết học cô điển Đức thời kỳ này đã xây
dựng được hệ thống lý luận tương đối hoàn chỉnh trong một chừng mực nhất
định vả đã trở thành một phương pháp tư duy triết học phổ biến. Tuy nhiên nó


vẫn tồn tại một số mặt hạn chế nhất định và sau này sẽ bị phủ định, thay thế

băng phép biện chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy
vật và phương pháp biện chứng, giữa lý luận nhận thức và logic biện chứng. Sự
ra đời của phép biện chứng duy vật là cuộc cách mạng trong phương pháp tư
duy triết học, là phương pháp tư duy khác về chất so với những phương pháp tư
duy trước đó. “Nó xem xét những sự vật và những phản ánh của chúng trong tư
tưởng, trong mối liên hệ qua lại lẫn nhau, trong sự rằng buộc, sự vẫn động, sự

phát sinh và sự tiêu vong của chúng”. Phép biện chứng duy vật thể hiện ở 2

nguyên lý, 6 cặp phạm trù và 3 quy luật.
2. Nội dung cơ bản của phép biện chứng duy vật
2.1. Hai nguyên lý

2.1.1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến
Các sự vật, hiện tượng trên thế giới dù có đa dạng, có khác nhau đến thế

nảo đi chăng nữa thì cũng chỉ là những dạng cụ thể khác nhau của một thế giới
vật chất duy nhất. Nó có tác động qua lại, chuyển hóa lẫn nhau tạo nên sự phát
triển. Trong hoạt động thực tiễn, phải xem xét sự vật, hiện tượng trong mối liên

hệ phổ biến.
2.1.2. Nguyên lý về sự phát triển
Mọi sự vật hiện tượng đều vận động từ thấp đến cao, đơn giản đến phức
tạp, từ kém hoàn thiện đên hoàn thiện hơn. Quá trình đó diễn ra lắm cho sự vật,
hiện tượng cũ mất đi, sự vật, hiện tượng vật chất mới ra đời. Phát triển là tự
thân, có mặt trong cả tự nhiên, xã hội và tư duy, rất đa dạng và phong phú.
Động lực của sự phát triển là mâu thuẫn giữa các mặt đối lập bên trong sự vật,
hiện tượng. Phát triển đi theo đường xoáy Ốc, cái mời dường như lặp lại một số

điêm của cái cũ nhưng trên cơ sở cao hơn.
2.2. Ba quy luật

2.2.1. Quy luật lượng chất


Mọi sự vật đều có lượng và chất. Lượng là tính quy định, thuộc tính vốn
có của sự vật. Chất là cái để phân biệt sự vật, hiện tượng này với sự vật, hiện
tượng khác. Mỗi sự vật đều là sự thống nhất giữa chất và lượng. Lượng biến đôi
đạt tới điểm nút, phá vỡ độ cũ thì chất của sự vật thay đổi căn bản. Sự vật biễn


thành sự vật khác. Lượng biến đổi, chưa đạt tới mức phá vỡ độ thì chất của sự
vật đã thay đổi cục bộ. Khi chất biến đổi lại tác động ngược trở lại lượng làm
lượng biến đổi hoặc lượng mới xuất hiện. Sự chuyền hóa lượng — chất phụ
thuộc vào những điều kiện nhất định.
2.2.2. Quy luật phủ định của phủ định
Quy luật này chỉ ra khuynh hướng phát triển của sự vật. Quá trình phủ
định của phủ định tạo thành sự vận động phát triển khơng ngừng mang tính chu

kỳ của thế giới khách quan. Sau hai lần phủ định, sự vật dường như lặp lại cái
ban đầu nhưng trên cơ sở cao hơn. Phủ định là tự phủ định và khuynh hướng
diễn ra theo vịng trịn xốy ơc, nói lên tính tiên lên và kê thừa trong sự phát
triển.
2.2.3. Quy luật mâu thuẫn (thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối lập)
Quy luật này là hạt nhân của phép biện chứng duy vật, nó chỉ ra nguồn
sốc, động lực của sự vận động, phát triển. Mọi sự vật đều có những mặt đối lập.
Sự tác động qua lại g1ữa các mặt đối lập tạo thành mâu thuẫn bên trong của sự
vật. Mâu thuẫn tồn tại khách quan, phổ biến trong các sự vật, hiện tượng. Các

mặt đối lập vừa thống nhất vừa đấu tranh với nhau. Trong đó, thống nhất là

tương đối, tạm thời, đấu tranh là tuyệt đối, vĩnh viễn.
2.3. Sảu cặp phạm trù cơ bản

2.3.1. Cái riêng, cái chung và cái đơn nhất
Sự vật, hiện tượng nào cũng có cái chung, cái riêng và cái đơn nhất,

chúng tôn tại không tách rời nhau mà tác động biện chứng với nhau, thông qua
nhau mà thê hiện sự tôn tại của mình. Nó mang tính chât tương đơi và trong


những điều kiện nhất định chúng có thể chuyển hóa cho nhau.


2.3.2. Nguyên nhân và kết quả
Mọi sự vật, hiện tượng đều có ngun nhân, mỗi một ngun nhân thì

sinh ra một kết quả. Ngun nhân ln có trước kết quả. Giữa ngun nhân, kết
quả ln có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau. Một sự vật, hiện tượng ở

trong mối quan hệ nảy lả nguyên nhân, nhưng lại là kết quả ở trong mối quan hệ
khác và ngược lại tạo nên chuỗi nhân quả vô tận. Nguyên nhân và kết quả chỉ
mang tính chất tương đối và được xem xét ở trong một mối quan hệ cụ thê.

2.3.3. Tất nhiên và ngẫu nhiên
Tất nhiên là phạm trủ chỉ mối liên hệ xuất phát bên trong của sự vật trong

những điều kiện nhất định phải xảy ra như thế. Ngẫu nhiên do mỗi liên hệ
không bản chất, do những ngun nhân, hồn cảnh bên ngoải quy định, có thể

xuất hiện, không xuất hiện, xuất hiện thế nảy hoặc xuất hiện thế khác. Ranh giới
giữa tất nhiên và ngẫu nhiên có tính chất tương đối. Trong điều kiện nhất định
hai cái có thể chuyền hóa lẫn nhau. Giữa ngẫu nhiên vả tất nhiên có mối liên hệ
biện chứng lẫn nhau. Cái tất nhiên biểu hiện thông qua vô số cái ngẫu nhiên. Tắt
nhiên đóng vai trị chỉ phối sự phát triển, còn ngẫu nhiên làm cho sự phát triển
diễn ra nhanh hoặc chậm trong hình thức này hay hình thức khác.
2.3.4. Nội dung và hình thức
Nội dung là tổng hợp tất cả những mặt, những yếu tố tạo nên sự vật, hiện

tượng. Hình thức là phương pháp tồn tại của nội dung. Giữa nội dung và hình
thức có mối liên hệ qua lại, quy định lẫn nhau, trong đó nội dung giữ vài trị quy


định hình thức. Nội dung thay đổi thì hình thức cũng phải thay đổi cho phù hợp.
Tuy nhiên hình thức cũng có tính độc lập tương đối và tác động tích cực trở lại
nội dung. Khi phù hợp nó là động lực thúc đầy nội dung phát triển, cịn khơng
phủ hợp, nó sẽ cản trở sự phát triển của nội dung. Một nội dung có thể thể hiện

dưới nhiều hình thức và ngược lại, một hình thức có thể phù hợp với nhiều nội
dung khác nhau.

2.3.5. Bản chất và hiện tượng


Bản chất là tổng hợp tất cả những mặt, những mối liên hệ tất nhiên tương
đối ôn định bên trong, quy định sự tồn tại, vận động và phát triển của sự vật. Sự

vật là những biểu hiện bên ngoài. Bản chất và hiện tượng căn bản thống nhất
biện chứng với nhau. Bản chất tương đối ơn định, cịn hiện tượng thường xuyên

biến đồi.
2.3.6. Khả năng và hiện thực

Khả năng là cái hiện chưa xảy ra nhưng sẽ xảy ra khi có các điều kiện
thích hợp. Hiện thực là cái đang có, đang tồn tại thực sự. Trong hiện thực bao

giờ cũng chứa đựng những khả năng nhất định, ngược lại khả năng lại nằm

trong hiện thực vả khi đủ điều kiện sẽ biến thành hiện thực mới. Mối quan hệ
giữa khả năng và hiện thực diễn ra rất phức tạp. Mỗi sự vật đều có nhiều khả
năng, xuất hiện trong q trình vận động và phát triển của nó. Nhưng bản thân
khả năng cũng luôn luôn vận động và biến đổi không ngừng. Từ khả năng đến

hiện thực phải thơng qua một tập hợp điêu kiện thích hợp.
3. Pháp biện chứng về mâu thuẫn
Mỗi sự vật, hiện tượng là một tổng thể của những mâu thuẫn khác nhau.

Mỗi mâu thuẫn có một vai trị nhất định đối với q trình phát sinh, phát triển
tất yêu của sự vật, hiện tượng chứa đựng chúng. Theo nguyên lý về mối liên hệ
phổ

biến, các mâu thuẫn củng tồn tại trong một sự vật, hiện tượng phải tác

động, ảnh hưởng lẫn nhau. Và sự tác động, ảnh hưởng này tạo thành một tổng

hòa tác dụng của chúng. Sự thông nhât và đâu tranh của các mặt đơi lập trong
từng mâu thuẫn chỉ có thể diễn ra trong tổng hòa tác dụng của tất cả các mâu
thuẫn cùng tồn tại trong một chỉnh thể. Vai trò động lực của mâu thuẫn đối với
chủ thể chỉ có thể phát huy tác dụng thơng qua tổng hịa tác dụng của chúng.
Như vậy mâu thuẫn khơng tác động đến chủ thể trong trạng thái riêng lẻ, đơn
chiếc. Động lực phát triển bao giờ cũng là một tổng hòa tác dụng của tất cả các
mâu thuần.


Quá trình phát triển tất yếu của sự vật hiện tượng không chỉ chịu ảnh
hưởng của riêng một mâu thuẫn nào, dù đó là mâu thuẫn quan trọng nhất, mà

chịu tác động của tất cả các mâu thuẫn chứa đựng trong nó. Chính tổng hợp tác
động này là động lực của q trình phát triển. Các mâu thuẫn bên ngồi của sự
vật có thể tác động đến sự phát triển của sự vật đó thơng qua các mâu thuẫn bên

trong của nó. Tức là mâu thuẫn bên ngồi tác động đến mâu thuẫn bên trong
làm cho các mâu thuẫn này biến đổi, và đến lượt chúng, chính các mâu thuẫn


bên trong của sự vật làm biến đổi chủ thể của chúng. Xét trong một điều kiện
nhất định thì mâu thuẫn bên ngồi và mâu thuẫn bên trong có thể chuyển hóa
cho nhau, mâu thuẫn bên ngồi của sự vật này cũng là mâu thuẫn bên trong của
sự vật kia. Triết học duy vật biện chứng khăng định: các mặt đối lập cùng tồn

tại với nhau trong một mâu thuẫn nhưng vận động theo những phương hướng

đối lập nhau, nên chúng bài trừ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau. Từ đó có thể thây
răng đâu tranh chỉ có thê diễn ra giữa các mặt đơi lập, găn bó với nhau một cách

hợp quy luật khách quan trong một mâu thuẫn xác định, khơng có thể có sự đầu
tranh giữa các sự vật hiện tượng bất kỳ mà sự tồn tại của chúng hồn tồn

khơng phải là kết quả của sự phân cực. Đấu tranh của các mặt đối lập bắt đầu từ
sự thông nhất của chúng. Chừng nảo sự thông nhất của các mặt đối lập khơng
cịn nữa thì sự đấu tranh của chúng cũng chấm dứt.
Sự tác động ảnh hưởng lẫn nhau giữa các mâu thuẫn có ý nghĩa to lớn.

Nó địi hỏi người hoạt động thực tiễn, khi giải quyết bất kỳ mâu thuẫn nào của
đời sống, phải cân nhắc thần trọng đến ảnh hưởng của hoạt động giải quyết mâu
thuẫn này đối với các mâu thuẫn khác và tác động ngược lại từ các mâu thuẫn
khác đối với các mâu thuẫn được giải quyết.
Mâu thuẫn không chỉ được hình thành từ thống nhất và đấu tranh của các
mặt đối lập. Nó cịn nhất thiết phải được hình thành từ sự thống nhất, theo nghĩa

loại trừ đối lập, của các phần tử không đối lập nhau. Logie của kết luận là: để có

mâu thuẫn phải có mặt đối lập, để có mặt đối lập phải có mặt khơng đối lập. Từ



đó nổi lên mối quan hệ biện chứng quan trọng lả: đối lập phải được hình thành

từ khơng đối lập
Mối quan hệ thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập cịn có một nghĩa
khác: đấu tranh giữa các mặt đối lập có tác dụng trở lại đối với sự thống nhất

giữa các mặt đối lập. Để có sự thống nhất giữa các mặt đối lập thì phải có các
mặt đối lập. Nhưng các mặt đối lập trong một mâu thuẫn chỉ có thể tồn tại trong

sự đấu tranh của chúng. Trong đấu tranh các mặt đối lập không ngừng loại trừ
lẫn nhau nhưng đồng thời cũng không ngừng tự khẳng định mình, do đó cả hai
mặt đối lập đều được kích thích, tăng cường vận động và phát triển. Chính đó,
đấu tranh là phương thức tồn tại của sự vật. Chúng ta hiểu tồn tại không phải là
tồn tại biệt lập, cách biệt với thế giới bên ngoài, mà là khăng định mình trong sự
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau giữa các sự vật, hiện tượng khác nhau, đôi lập

nhau. Quan điểm này là quan trọng. Sự đấu tranh giữa các cực là một phương
pháp của sự phân cực. Ta vẫn quan niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập là để
giải quyết mâu thuẫn, mà khi mâu thuẫn được giải quyết thì các mặt đối lập của
mâu thuẫn không tồn tại nữa — chúng bị tiêu diệt hoặc chuyên hóa thành các mặt

đối lập khác. Vậy quan niệm cho rằng đấu tranh giữa các mặt đối lập là điều
kiện để khăng định sự tồn tại của các mặt đối lập có trái với quan niệm được

thừa nhận khơng? Về thực chất thì các quan niệm này khơng trái ngược với
nhau. Các mặt đối lập nào thực sự tiêu biểu cho xu thế phát triển của cái mới,
của cái tiễn bộ thì tồn tại và phát triển cao hơn, cịn ngược lại cái nào khơng có

đủ sức tồn tại thêm nữa thì phải chấm dứt. Đó là ngun tác phát triển chung

của sự vật.
Như vậy từ mối liên hệ của sự đấu tranh giữa các mặt đối lập với sự
thống nhất của các mặt đối lập có thể rút ra kết luận: sự thống nhất giữa các mặt

đối lập không thể hiểu đơn giản sơ lược, chỉ diễn ra một lần. Theo tinh thần biện
chứng, đây là một quá trình vận động, phát triển, một quá trình đấu tranh lâu

đải.


H. Vận dụng phân tích mâu thuẫn biện chứng trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
1. Mâu thuẫn giữa yêu cầu tăng trưởng, phát triển kinh tế với sự bất cập của
cơ chế, chính sách khai thác ngn lực hiện nay.
Đề đạt mục tiêu đến năm 2015 thốt khỏi tình trạng một nước kém phát
triển, tốc độ phát triển kinh tế thời gian tới phải đạt mức trung bình khoảng
8%⁄2/năm. Chỉ bằng cơ chế, chính sách như hiện nay, chúng ta khó có thể thực
hiện phát triển đột biến về khả năng khai thác những tiềm năng lớn về tài
nguyên, lao động trong nước, về khả năng tận dụng những cơ hội quốc tế để gia
tăng mạnh và sử dụng tốt các nguồn lực từ bên ngoải. Nền kinh tế hiện vẫn rất
dễ bị tổn thương trước tác động không lớn lắm của những biến đổi kinh tế bên
ngoài. Khoảng cách về kinh tế giữa nước ta với nhiều nước trong khu vực và thế
giới ngày càng mở rộng. Sự tụt hậu trên lĩnh vực này chưa được ngăn chặn.
2. Mâu

thuẫn giữa tính ưu việt của nên kinh tễ thị trường đỉnh hướng

XHCN với những hạn chế trong việc tìm ra quyết sách khắc phục mặt trái
của kinh tễ thị trường.
Tính ưu việt của quá trình phát triển nên kinh tế thị trường định hướng xã

hội chủ nghĩa phải được thể hiện ngày càng đậm nét trước hết và chủ yếu ở khả
năng bảo đảm sự kết hợp hải hoả giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn
hoá, thực hiện tiễn bộ và cơng bằng xã hội, trong khi đó, chúng ta chưa tìm
được những giải pháp hữu hiệu để giải quyết những hậu quả xã hội do tác động
tiêu cực của những mặt trái thuộc kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế

gây ra. Nhiều vấn đề xã hội có xu hướng ngày càng gay sắt. Đặc biệt, điều làm
cho nhân dân hết sức bất bình, lo lắng là tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí,
nhũng nhiễu dân, suy thối về tư tưởng chính trị và phẩm chất đạo đức, lối sống
của .một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên rất nghiêm trọng. Văn hố lai
căng có xu hướng phát triên. Hiện tượng ma chay, cưới xin, hội hè với nhiêu hủ


tục được khôi phục ở nhiều nơi. Đạo lý xã hội, gia đình xuống cấp. Tình huống
mất ơn định cục bộ có khả năng xảy ra nhiều hơn, mức độ phức tạp của tình

hình gia tăng hơn... Chúng ta chưa tìm được những phương hướng ngăn chặn
có hiệu quả tình trạng đó.
3. Mâu thuẫn giữa tính tất yếu khách quan phải nâng cao sự đồng thuận xã
hội trong đổi đất nước với sự tấn công của các thế lực thù địch trong và

ngoài nước nhằm phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân lộc.
Sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong nhân dân là một điều kiện

tất yếu để đưa công cuộc đổi mới tiến lên mạnh mẽ hơn. Nhưng, cùng với
những yếu kém của chính chúng ta, thì sự tác động của các thế lực thù địch

nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hoả bình” đối với nước ta bằng nhiều con
đường, nhiều biện pháp và phương tiện, cả trực tiếp lẫn gián tiếp qua một số
phần tử cơ hội về chính trị để chống phá trên lĩnh vực tư tưởng -lý luận đã làm

cho một bộ phận cán bộ, Đảng viên và nhân dân phân tâm... Chúng ta có phần

cịn lúng túng, hữu khuynh trong cuộc đấu tranh trên lĩnh vực này.
4. Mâu thuẫn giữa yêu cầu nâng cao tính tích cực chính trị với lỗi sống thực
dụng trong một bộ phận cán bộ, đáng viên và nhân dân.
Trong khi cuộc sống đòi hỏi phải thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của nhân
dân, phát huy đóng góp của nhân dân vào việc hồn thiện và tổ chức thực hiện
đường lỗi đổi mới, thì tình trạng thờ Ở chính trị, chỉ lo vun vén cho lợi ích của
bản thân và gia đình, lỗi sống thực dụng chạy theo đồng tiên của một bộ phận

cán bộ, đảng viên và nhân dân có chiều hướng gia tăng. Chúng ta chưa tìm được
cách đê khắc phục tình hình này với hiệu quả cao.
%5. Mâu thuẫn giữa yêu cầu đẩy mạnh dỗi mới hệ thống chính trị với sự thiễu
hụt trong những biện pháp mang tính đột phá trên lĩnh vực này.

Công cuộc đổi mới kinh tế đã phát triển tới mức địi hỏi phải đây mạnh
hơn nữa việc đơi mới tổ chức, phương thức hoạt động của hệ thống chính trỊ, sự


kết hợp hài hoà hơn nữa giữa các bộ phận cấu thảnh hệ thống đó, song, chúng ta
chưa có những đột phá trên lĩnh vực này. Đã có nhiều nghị quyết, nhiều chủ
trương chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, nhưng hiệu quả thực tiễn còn
thấp. Bộ máy của hệ thống chính trị cịn q cồng kềnh, cơ chế vận hành chưa

thân
he uống chính Úl Gịn xuất hiện ở nhiều cap nhiêu Hịa phương, Việt thực
`

hiện luật pháp, kỷ cương khơng nghiêm. Nhiều nơi cịn vi phạm quyền làm chủ
của nhân dân. Đội ngũ cán bộ, công chức chưa đủ mạnh, phương pháp hoạt

động của nhiều cán bộ đảng, đoàn thể cịn trong tình trạng viên chức hố... Sự
yếu kém đó, nếu khơng được khắc phục có hiệu quả, thì một số phương diện

của hệ thống chính trị sẽ trở thành lực cản lớn đối với đổi mới trên lĩnh vực kinh
7
^

te.

6. Mâu thuẫn giữa quá trình phát triển dân chủ với tình trạng thiếu giá đỡ về
lý luận và thực tiễn cho q trình đó.

Dân chủ hố đời sống xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của đổi
mới. Nhưng chúng ta chưa tìm được những giải pháp tất nhất để xác lập vững
chắc quan điểm khoa học về dân chủ phù hợp với điều kiện một Đảng duy nhất
cầm qun, khơng đa ngun về chính trị, không tổ chức quyền lực Nhà nước
theo nguyên tắc phân quyền, chưa tìm được những cơ chế và hình thức thực
hiện dân chủ thích hợp với truyền thống văn hố chính trị, với trình độ dân trí,

trình độ văn hố chung của nhân dân. Dân chủ trong Đảng, trong xã hội và ở cơ
sở tuy đã được nhân mạnh trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng và các văn
bản pháp quy của Nhà nước, nhưng kết quả đạt được trên thực tế cịn nhiều hạn

chế. Cải cách hành chính tiến hành chậm, thiếu kiên quyết, hiệu quả thấp. Chưa
có cơ chế để bảo đảm quyền lực Nhà nước thực sự thuộc về nhân dân, vai trò
giám sát thực hiện quyền kiểm tra của nhân dân đối với chính quyền vả cán bộ,
Đảng viên còn mờ nhạt.


7. Mâu thuẫn giữa tích cực, chủ động hội nhập kinh tẾ quốc tế với khả năng

giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập và khắc phục những tác động tiêu
cực của hội nháp.
Hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế là một nhân tô tất yếu để phát triển,

nhưng
quan

chúng ta còn thiếu nhất quán và lúng túng, bị động trong

hệ giữa mặt tích cực và tiêu cực của quá trình hội nhập

việc xử lý mội

kinh tê quỗc tê,

giữa độc lập tự chủ về kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế, lúng túng trong việc

giải quyết mỗi quan hệ giữa hội nhập đồng thời nhiều cấp độ hơn, sâu hơn, rộng
hơn, đa dạng hơn... với việc giữ vững bản sắc văn hoá dân tộc.


KÉT LUẬN

“Cuộc sống tiến lên thông qua những mâu thuẫn. Những mâu thuẫn sinh
động thì mn hình, mn vẻ, đồi dào hơn nhiều so với điều mà người ta suy
nghĩ ban đầu” (Hêgen). Một số mâu thuẫn và vấn đề có tính mâu thuẫn nêu trên
khơng phải là tât cả những mâu thn đang có trong q trình đơi mới hiện nay
ở nước ta. Song, việc điểm danh một cách đại thể như vậy cũng đủ cho chúng ta
thấy tính phức tạp của tình hình mà chúng ta đang phải giải quyết.
Việc giải quyết có hiệu quả những mâu thuẫn và những vấn đề có tính

mâu thuẫn trên đây là một điều kiện căn bản để nâng cao năng lực lãnh đạo và

sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh tồn dân tộc, đây mạnh tồn diện
cơng cuộc đơi mới, sớm đưa nước ta thốt khỏi tình trạng kém phát triên.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
I.

“Giáo trình Triết học” — dùng cho học viên cao học và nghiên cứu sinh

không thuộc chuyên ngành Triết học — Bộ giáo dục và đào tạo — NXB
Chính trị- Hành chính — 2008
2.

“Đổi mới ở Việt Nam

— nhớ lại và SH

ngắm ”—

ŒS.TS Phạm

Ngọc

Quang — NXB Trì thức — 2008
3.

“Biện chứng của mâu thuần — nhận thức mới về quy luật mâu thuần ” —
Lê Đức Quảng - NXB Đại học Quốc gia Hà Nội — 200


4.

“Mác- Anghen tồn tập”— NXB Chính trị, Quốc gia 1997



×