Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Khảo sát cấu tạo vần thơ lục bát (qua tuyển tập thơ lục bát việt nam )

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (746.77 KB, 86 trang )

1

TRƢỜNG ĐẠI HỌC VINH
KHOA NGỮ VĂN

KHẢO SÁT CẤU TẠO VẦN THƠ LỤC BÁT
(QUA “TUYỂN TẬP THƠ LỤC BÁT VIỆT NAM”)
KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC SƢ PHẠM
NGÀNH NGỮ VĂN
KHOÁ 40(1999-2003)
Thầy giáo hƣớng dẫn:

TS.Trần Văn Minh
(G V C Khoa Ngữ Văn)
Ngƣời thực hiện:
Trần Thị Thanh Huệ
(S.V lớp 40A3 Khoa Ngữ Văn)

VINH, 5/2003


2

Lời cảm ơn.
Em xin trân trọng cảm ơn thầy giáo – TS. Trần Văn Minh, các thầy cô
giáo trong khoa Văn và bạn bè đã tận tình hƣớng dẫn và giúp đỡ em hồn
thành khố luận này.
Mặc dù tác giả khố luận đã cố gắng nhiều nhƣng khơng tránh khỏi thiếu
sót. Tác giả mong đƣợc các thầy cơ giáo và bạn đọc lƣợng thứ và chỉ bảo
những thiếu sót.
Vinh. 5/2003


Sinh viên: Trần Thị Thanh Huệ


3

MỤC LỤC
Mở đầu
I.
II.

Lí do chọn đề tài
Đối tƣợng và mục đích nghiên cứu.
1. Đối tƣợng.
2. Mục đích.

III.

Các nhiệm vụ nghiên cứu

IV. Lịch sử vấn đề
V.
Phƣơng pháp nghiên cứu

Chƣơng I: Một số vấn đề chung.
I.

Vần trong âm tiết tiếng Việt.
1.
2.


II.

Vần trong thơ Việt Nam.
1.
2.

III.

Khái niệm vần trong âm tiết.
Vần đang dùng trong âm tiết tiếng Việt.
Khái niệm vần thơ.
Phân loại vần thơ.

Thể thơ lục bát.
1.
2.
3.

Khái niệm.
Vai trò của thể thơ lục bát trong thơ ca Việt Nam.
Đặc trƣng hình thức của thể lục bát.

Chƣơng II: Vần trong thơ lục bát Việt Nam.
I.

Kết quả thống kê.
1.
2.

II.


Giới thiệu về “Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam”.
Số liệu thống kê.

Phân loại vần thơ trong “Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam”.
1.
2.

Phân loại theo vị trí.
Phân loại theo mức độ hồ âm.

III. So sánh, đối chiếu giữa kiểu vần thơ lục bát và vần âm tiết.
IV. Vai trò của vần trong thơ lục bát.


4

Kết Luận

MỞ ĐẦU
I.

LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.Các thể loại văn học luôn chịu sự thử thách khắc nghiệt của thời gian.

Có những thể loại đã rơi vào quên lãng, nhƣng cũng có những thể loại lại
khơng ngừng phát triển với những tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Lục bát là một
thể thơ thuộc loại nhƣ vậy. Cùng với tên tuổi của nhiều tác giả, tác phẩm giá
trị của thể lục bát đã đƣợc sàng lọc và khẳng định qua bao lời bàn luận, đánh
giá :Thể thơ lục bát là thể thơ truyền thống của dân tộc. Từ lâu nhiều nhà

nghiên cứu đã đặt câu hỏi: Cái gì làm nên sự trƣờng tồn của thể thơ này? Là
vần, là nhịp, hay là sự phối điệu? Đến nay vẫn chƣa có câu trả lời hồn tồn
chính xác và thật thuyết phục cho câu trả lời trên.
Thể lục bát có cách tổ chức câu thơ, có sắc thái, vần, nhịp, âm hƣởng,
giọng điệu riêng, tạo ra đặc trƣng riêng của thể thơ lục bát, khác với các thể
thơ khác (nhƣ thất ngôn bát cú, thất ngôn tứ tuyệt, ngũ ngôn...) .So sánh với
các thể thơ khác, thơ lục bát có những khác biệt về cách gieo vần, về số câu,
số chữ, về cách phối thanh, về cách ngắt nhịp. Đặc biệt vần chiếm vị trí quan
trọng, tạo ra đặc trƣng riêng của thơ lục bát.. Đi sâu nghiên cứu “ Vần trong
thơ lục bát” sẽ góp phần chỉ ra sắc thái, âm hƣởng, giọng điệu riêng của thơ
lục bát, thấy đƣợc vai trò của thể thơ này đối với nền thơ ca dân tộc.
2. Trong chƣơng trình ngữ văn ở nhà trƣờng phổ thơng, thơ chiếm một
tỉ lệ đáng kể, trong đó có nhiều bài ( hoặc đoạn trích) theo thể lục bát. Mặt
khác, kiến thức về các thể thơ trong phần Thi luật (Tiếng Việt 11) cũng cần
đƣợc bổ sung.


5
Việc khảo sát vần trong thơ lục bát sẽ góp phần vào việc giúp giáo
viên và học sinh nắm vững hơn về thể thơ này trong khi dạy học các bài thơ
theo thể lục bát trong chƣơng trình.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tơi chọn đề tài “ Khảo sát tạo vần
trong thơ lục bát” làm đề tài cho khố luận của mình.

II. MỤC ĐÍCH VÀ ĐỐI TƢỢNG NGHIÊN CỨU
1. Mục đích nghiên cứu
Lục bát khơng những là thể thơ chủ yếu của ca dao mà còn là thể thơ
của hàng trăm tác phẩm truyện Nôm mà đỉnh cao là kiệt tác Truyện Kiều.
Nguyễn Du là ngƣời đã đƣa thể thơ lục bát đến trình độ cổ diển trong dịng
văn học Nơm bác học thơì trung đại. Đầu thế kỷ XX, trong sự chuyển đổi từ

mơ hình văn học trung đại Đơng Á sang mơ hình văn học hiện đại kiểu mới (
kiểu phƣơng Tây đƣợc quốc tế hoá), thể lục bát đã chịu đựng đƣợc những thử
thách trong cuộc cải cách thơ của phong trào Thơ Mới ( 1932 – 1945) để tiếp
tục là một trong những thể thơ tiếng Việt phổ biến trong văn học hiện đại và
đƣơng đại. Với đề tài này, chúng tôi nhằm xác định những khuôn vần phổ
biến của thể loại này, làm cơ sở để đối sánh với vần trong các thể thơ khác (
thất ngôn, song thất lục bát, ngũ ngơn...); xác định vần trong thơ lục bát có xu
hƣớng phát triển nhƣ thế nào; đồng thời xác định sự hiện diện của vần thơ lục
bát trong âm tiết tiếng Việt.
2.Đối tƣợng nghiên cứu
Đề tài tiến hành khảo sát tất cả các cặp vần thống kê đƣợc trong 166 bài
thơ in trong cuốn “ Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam” (Nhà xuất bản Văn hoá,
1994).

III.

CÁC NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI.

1. Khảo sát sự hiện diện của vần thơ lục bát.
- Thống kê, phân loại các cặp vần.


6
- Miêu tả cấu tạo các loại vần
2. So sánh, đối chiếu giữa kiểu vần thơ lục bát và vần âm tiết
3. Tìm hiểu vai trị của vần trong thơ lục bát
4. Nêu ra các đặc trƣng của vần thơ lục bát

IV.LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Ngay từ những thế kỷ trƣớc đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về

vần trong thơ, và khơng phải chỉ có các nhà nghiên cứu trong nƣớc mà cả
những nhà nghiên cứu trên thế giới:
Theo Gôn tra rốp, trong “ Tổ chức âm thanh của câu thơ và vấn đề vần”,
thì vần xét về phƣơng diện ngữ âm có thể coi nhƣ sự lặp lại các âm trong một
tập hợp âm nối giữa hai dòng thơ và kéo dài đến cuối bài thơ (“ Tiếp cận nghệ
thuật thơ ca” – Bùi Công Hùng – Nhà xuất bản văn hố thơng tin, Hà Nội
2000).
Hê ghen khi nghiên cứu vần trong thơ, Ông cho rằng: Vần trong thơ là
do nhu cầu thực sự của tâm hồn muốn nhìn thấy mình đƣợc biểu lộ rõ hơn,
nhiều hơn, có sự vang dội đều đặn (“ Tiếp cận nghệ thuật thơ ca” – Bùi Cơng
Hùng – Nhà xuất bản văn hố thông tin, Hà Nội 2000).
Trong bài viết “ Tiếng thơ” (Văn nghệ số 13 – 1949) Xuân Diệu cho
rằng: “ Vần, nhịp là gì, nếu khơng phải là những cái cản vờ, để cho tâm hồn
thơ trú ngụ; con ngựa chỉ bất kham khi ngƣời cƣỡi ngựa yếu bóng vía; khi con
ngựa lồng lộn đã chịu cƣơng rồi, nó đi nhanh hơn ngựa thƣờng”.
Trong Tạp chí Văn học (24 – 7 - 1959), Tú Mỡ khi nghiên cứu về vần
trong thơ ông đã gắn vần với nhạc điệu trong thơ: “ Tơi quan niệm rằng thơ
phải có vần, khơng có vần khơng gọi là thơ, thơ khơng nhạc điệu thì tấm tức,
khó ngâm, khó hát, khó “ vào nhân dân”.
Trong cuốn “ Thơ và ngôn ngữ” ( Nhà xuất bản Văn nghệ, Matxcova,
1959), B. V. Tômasepki cho rằng sự biến đổi trong hệ thống vần thƣờng là kết
quả của sự thay đổi các tiêu chuẩn tƣơng ứng giữa âm thanh có tính âm nhạc
và quy luật của phong cách văn học.
Trong cuốn “ Tiếp cận nghệ thuật thơ ca” ( Nhà xuất bản Văn hố Thơng tin, Hà Nội 2000), Bùi Cơng Hùng cho rằng: Nhịp trong thơ duy trì cái


7
nhịp thời gian. Còn vần làm nổi bật yếu tố cảm giác; vần có khả năng tạo nên
giọng đọc của đoạn thơ; vần có ý nghĩa về phƣơng diện ngữ âm nhƣ một sự
lặp lại âm thanh, và có ý nghĩa vận luật tạo nên giới hạn của một dãy âm trong

câu thơ.
Trong cuốn “ Ngôn ngữ thơ” ( Nhà xuất bản Văn hố - Thơng tin, Hà
Nội 2000), ở chƣơng IX, Nguyễn Phan Cảnh nghiên cứu sự vận động tạo vần
trong thơ. Ông cho rằng: Dƣờng nhƣ trong giai đoạn đầu của sự tiến hoá thi
pháp Việt Nam, tất cả các âm tiết, không kể bằng hay trắc, đều tham gia vào
vận động tạo vần, và tất cả vần đều có thể vừa kiến tạo ở cuối phát ngơn ( vần
chân) vừa ở giữa phát ngôn ( vần lƣng); Sau đây, trong giai đoạn tiếp theo của
cuộc vận động tạo vần, các quá trình thể loại chứng kiến một sự giản nở về
mọi phía: Số lƣợng âm tiết của câu thơ, hiệp vần bằng hay trắc, và vần chân
hay vần lƣng. Và ông đã xác định vần ở trong các loại thể: ngũ ngôn; thất
ngôn; Đƣờng luật bát cú..., trong đó lục bát: Kết hợp 6 – 8 âm tiết, kết hợp
vần lƣng – bằng + vần chân – bằng.
Trong bài báo “ Mơ hình cơ cấu ngữ âm học trong Truyện Kiều”
(Thông báo khoa học – Văn học – Ngôn ngữ học, tập III. Trƣờng đại học
Tổng hợp 1969), Nguyễn Phan Cảnh qua sự đúc kết về vần trong thơ lục bát
của Nguyễn Du, đã đƣa ra những nhận xét khái quát về: Âm đầu, âm đệm, âm
gốc, âm cuối (Theo cuốn “ Thơ ca ngôn ngữ tác giả và tác phẩm” – Lê Anh
Hiền – Nhà xuất bản Giáo dục, 2002).
Trong cuốn “ Thơ ca ngôn ngữ tác giả và tác phẩm” (Lê Anh Hiền),
Nhà xuất bản Giáo dục - 2002. Ở bài đầu tiên: Vần thơ và cái nền của nó
trong thơ Việt Nam, tác giả Lê Anh Hiền đã đƣa ra nhận xét khái quát về sự
phát triển của vần thơ Việt Nam, và tác giả đã định nghĩa các loại vần và cái
nền của vần thơ Việt Nam.
Qua đó chúng ta thấy :
- Vần trong thơ là vấn đề đƣợc quan tâm nhiều trong nghiên cứu văn học và
ngôn ngữ văn học.


8
- Vần trong thơ lục bát đƣợc quan tâm nhiều cả về phía ngƣời sáng tác, nhà

phê bình lẫn ngƣời đọc.
Chính vì thế cần nghiên cứu tiếp mơ hình vần trong thơ lục bát ở một
diện dài (thời gian) và rộng (nhiều tác giả) hơn. Khoá luận này tiếp tục nghiên
cứu những vấn đề khơng nằm ngồi những tài liệu đó. Những bài viết đó đã
định hƣớng cho bƣớc đi của đề tài này.

V.

PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.

Do tính chất đề tài, khố luận dùng phƣơng pháp chính là phƣơng pháp
thống kê, phân loại. Các kết quả thu đƣợc đƣợc miêu tả và phân tích, rồi tổng
hợp để rút ra nhận xét.
Ngồi ra chúng tơi cịn sử dụng phƣơng pháp so sánh, đối chiếu để xem
xét sự hiện diện của vần thơ lục bát trong âm tiết tiếng Việt và các đặc trƣng
của vần thơ lục bát.


9

CHƢƠNG I
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG
I. VẦN TRONG ÂM TIẾT TIẾNG VIỆT
1. Khái niệm vần trong âm tiết.
Âm tiết là đơn vị phát âm ngắn nhất trong dịng lời nói. Âm tiết do một
hoặc một số âm tố kết hợp lại mà thành.
Trong tiếng Việt, âm tiết đƣợc làm thành bởi sự kết hợp của một (hoặc
một số) âm tố và mang một thanh điệu nhất định ( trong số 6 thanh điệu).
Âm tiết tiếng Việt gồm ba đơn vị bậc một cấu thành: Phụ âm đầu, vần
và thanh điệu.

Trong mỗi âm tiết ( mỗi tiếng), khơng tính âm đầu và thanh điệu thì bộ
phận cịn lại là vần. Vần trong âm tiết tiếng Việt gồm các thành tố: Thành tố
chính gọi là âm chính, thành tố này ln có mặt, do một nguyên âm đứng ở vị
trí giữa, thành tố sau nguyên âm gọi là âm cuối ( do một phụ âm hay bán
nguyên âm đảm nhiệm, thành tố này có thể vắng mặt). Ngồi ra cịn có âm
đệm ( đứng trƣớc âm chính), do bán nguyên âm (u, o) đảm nhiệm. Thành tố
này có thể vắng mặt.
1. Vần đang dùng trong âm tiết tiếng Việt.
Vần trong âm tiết tiếng Việt có số lƣợng phong phú. Với hệ thống âm
vị gồm: 16 âm chính ( nguyên âm), 8 âm cuối (6 phụ âm + 2 bán nguyên âm)
một âm đệm (u, o). Chúng ta có thể xác lập đƣợc số lƣợng vần trong âm tiết
tiếng Việt là 159 vần.
Danh sách các vần trong tiếng Việt (xếp theo thứ tự chữ cái đầu vần).
Ghi chú: Do điều kiện in ấn, những cách viết chính tả khác của cùng
một vần ( hoặc cùng một âm vị) được đặt trong dấu ( ).


10

A (26 vần):

a, ai, ay, ao, am, an, ang, anh, ap, at, ac, ach, oa (ua), oai
(uai), oay (uay), oao (uao), uau, oam, oan (uan), oang
(uang), oanh (uanh), oap, oat (uat), oac (uac), oach (uach),
au.

Ă (12 vần): ăm, ăn, ăng, ăp, ăt, ăc, oăm (uăm), oăn (uăn), oăng (uăng),
uăp, oăt (uăt), oăc (uăc).

 (13 vần): ây, âu, âm, ân, âng, âp, ât, âc, uây, uân, uâng, uât, uâc.

E (13 vần): e, eo, em, en, eng, ep, et, ec, oe (ue), oeo (ueo), oem
(uem), oeng, oet (uet).
Ê 14 vần): ê, êu, êm, ên, ênh, êp, êt, êch, uê, uêu, uên, uênh, uêt, uêch.
I (26 vần): i, ia, iu, iêu (yêu), im, iêm (yêm), iên (yên), in, inh, iêng,
ip, iêp, it, iêt, ich, iêc, uy, uya, uyu, uyn uyên, uynh, uyp,
uit (uyt), uyêt, uych.
O (10 vần): o, oi, om, on, ong, oong, op, ot, oc, ooc.
Ơ (8 vần): ơ, ơi, ơm, ơn, ông, ôp, ôt, ôc.
Ơ (7 vần): ơ, ơi, ơm, ơn, ơp, ơt, uơ.
U (15 vần): u, ua, ui, uôi, um, uôm, un, uôn, ung, uông, ut, uôt, up, uc,
uôc.
Ƣ (15 vần): ƣ, ƣi, ƣa (ƣơ), ƣu, ƣơi, ƣơu ƣơm, ƣơn, ƣng, ƣơng, ƣơp, ƣt,
ƣơt, ƣơc,ƣc.
- Phân loại vần trong âm tiết tiếng Việt: Cách phân loại tiêu biểu nhất
và phù hợp với việc khảo sát vần trong thơ là dựa vào cách kết thúc âm tiết.
Cụ thể:
1.

Vần mở (18 vần).

Vần mở là vần đƣợc kết thúc bằng các nguyên âm ( tức khơng có âm
cuối).
- Ngun âm dịng trƣớc: i (y), ia, ê, e


11
- Ngun âm dịng sau khơng trịn mơi: ƣ, ƣa, ơ, a.
- Ngun âm dịng sau trịn mơi: u, ua, ô, o.
- Các vần có âm đệm: uy, uya, uê, oe (ue), uơ, oa (ua)
2.


Vần nửa mở (27 vần).

Vần nửa mở là vần có âm cuối (tức kết thúc bằng bán nguyên âm): i
(y), u (o)
- Các vần nửa mở khơng có âm đệm: ai, ay, ao, au, ây, âu, êu, iu, iêu
(yêu), oi, ôi, ơi, ui, uôi, ƣi, ƣu, ƣơi, ƣơu, eo
- Các vần nửa mở có âm đệm: oai (uai), oay (uay), oao (uao), uau,
uây, oeo (ueo), uêu, uyu.
3.

Vần nửa khép (57 vần).

Vần nửa khép là vần có âm cuối (kết thúc bằng các phụ âm mũi): m,
n, ng (nh).
- Các vần nửa khép khơng có âm đệm: am, an, ang, anh, ăm, ăn, ăng,
âm, ân, âng, em, êm, ên, ênh, en, eng, iêm (yêm), yên (iên), in, inh,
iêng, om, on, ong, oong, ôm, ôn, ông, ơm, ơn, um, uôm, un, uôn, ung,
uông, ƣơm, ƣơn, ƣng, ƣơng.
- Các vần nửa khép có âm đệm: oam, oan (uan), oang (uang), oanh
(uanh), oăm (uăm), oăn (uăn), oăng (uăng), uân, uâng, oem, uen,
oeng, uên, uênh, uyn, uyên, uynh.
4. Vần khép (57 vần):
Vần khép là loại vần có âm cuối ( kết thúc bằng các phụ âm tắc – vô
thanh): p, t, c (ch).
- Vần khép khơng có âm đệm: ap, at, ac, ăp, ăt, ăc, âp, ât, âc, ep, et,
ec, êp, êt, êch, iêp, iêt, ich, iêc, ip, it, op, ot, oc, ooc, ôp, ôt, ôc, ơp, ơt,
ut, uôt, up, uc, uôc, ƣơp, ƣt, ƣơt, ƣc, ƣơc.,ach



12
- Vần khép có âm đệm: oap, oat (uat), oac (uac), oach (uach), uăp,
oăt (uăt), oăc (uăc), uât, uâc, oet( uet), uêt, uêch, uyp, uit (uyt), uyêt,
uych.


13

Bảng 1: Phân loại vần trong âm tiết tiếng Việt
(Theo căn cứ có / khơng có âm đệm)
Chữ đầu âm chính

Vần có âm đệm

Vần khơng có âm đệm

Tổng số

A

13

13

26

Ă

6


6

12

Â

5

8

13

E

5

8

13

Ê

6

8

14

I


10

16

26

O

0

10

10

Ơ

0

8

8

Ơ

1

6

7


U

0

15

15

Ƣ

1

14

15

Tổng số

47 (29,56%)

112 (70,44%)

159
(100%)

Nhận xét: Vần có âm đệm gồm 47 vần ( chiếm 29, 56%). Trong khi đó vần
khơng có âm đệm gồm tới 112 vần (chiếm 70,44%). Nhƣ vậy, vần khơng có
âm đệm có số lƣợng và tỉ lệ gần gấp 3 lần vần có âm đệm



14

Bảng 2: Phân loại khuôn vần âm tiết tiếng Việt theo kiểu
kết thúc của vần (Cũng là kết thúc âm tiết)
Chữ đầu
âm chính

Vần mở

Vần nửa
mở

Vần nửa
khép

Vần khép

Tổng

A

2

8

8

8

26


Ă

0

0

6

6

12

Â

0

3

5

5

13

E

2

2


5

4

13

Ê

2

2

5

5

14

I

4

3

9

10

26


O

1

1

4

4

10

Ơ

1

1

3

3

8

Ơ

2

1


2

2

7

U

2

2

6

5

15

Ƣ

2

4

4

5

15


Tổng số
(tỉ lệ %)

18
(11,32%)

27
(16,98%)

57
(35,85%)

57
(35,85%)

159
(100%)

Nhận xét: Trong âm tiết tiếng Việt, vần mở và vần nửa mở có số lƣợng ít hơn
vần nửa khép và vần khép. Sắp xếp theo thứ tự tăng dần:
Vần mở:

18 (11,32%)

Vần nửa mở: 27 (16,98%)
Vần nửa khép: 57 (35,85%)
Vần khép:

57 (35,85%)



15
Bảng 3: Các kiểu nguyên âm chính trong vần âm tiết tiếng Việt
Chữ đầu âm
chính

Vần âm chính là
nguyên âm đơn

Vần âm chính là
ngun âm đơi

Tổng

A

26

0

26

Ă

12

0

12


Â

13

0

13

E

13

0

13

Ê

14

0

14

I

14

9


9

O

10

0

10

Ơ

8

0

8

Ơ

7

0

7

U

9


6

15

Ƣ

6

9

15

Tổng số

135 (84,91%)

24 (15,09%)

159 (100%)

Nhận xét: Trong âm tiết tiếng Việt, số vần có âm chính là nguyên âm đơn
chiếm ƣu thế: 84,91%. Còn các vần có âm chính là ngun âm đơi chỉ chiếm
tỉ lệ: 15,09%.

II.VẦN TRONG THƠ VIỆT NAM
1. Khái niệm về vần thơ.
Vần thơ là một phƣơng tiện tổ chức văn bản thơ dựa trên cơ sở sự lặp
lại khơng hồn tồn giữa các tiếng ở những vị trí nhất định của dịng thơ
nhằm tạo nên tính hài hồ và liên kết của dòng thơ và giữa các dòng thơ (Từ

điển thuật ngữ Văn học, NXB Giáo dục, 1992, trang 292).
Chẳng hạn:
“Ba ngƣời một cái chăn bông
Nằm thẳng cũng khổ nằm cong cũng phiền”
(Lê Kim)


16
Ở trên “bông” và “cong” hiệp vần với nhau: Âm đầu khác nhau, âm
chính cùng là ngun âm dịng sau trịn mơi, âm cuối giống nhau, “bơng” và
“cong” ở hai vị trí trong câu thơ trên tạo nên tính hài hồ và liên kết của cặp
thơ lục bát.
“Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang
Tóc buồn bng xuống lệ ngàn hàng
Đây mùa thu tới – mùa thu tới.
Với áo mơ phai dệt lá vàng”
(Xuân Diệu - Đây mùa thu tới)
Ở bốn câu thơ này, “tang”, “hàng”, “vàng” hiệp vần với nhau: Âm đầu
khác nhau, âm chính và âm cuối giống nhau. Sự lặp lại âm chính và âm cuối
này tạo nên tính hài hồ và sự liên kết giữa các câu thơ với nhau.
Nếu xét về phƣơng diện ngữ âm thì vần nhƣ là một sự lặp lại âm thanh
trong một tập hợp âm nối giữa hai dòng thơ và kéo dài đến cuối bài thơ.
Ví dụ:

Ơng đồ (Vũ Đình Liên)
Mỗi năm hoa đào nở.
Lại thấy ông đồ già.
Bày mực tàu giấy đỏ.
Bên phố đông ngƣời qua
Bao nhiêu ngƣời thuê viết

Tấm tắc ngợi khen tài.
“Hoa tay thảo những nét.
Nhƣ phƣợng múa rồng bay”
Nhƣng mỗi năm một vắng.
Ngƣời thuê viết nay đâu.
Giấy đỏ buồn không thắm.


17
Mực đọng trong nghiên sầu
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đƣờng khơng ai hay.
Lá vàng rơi trên giấy.
Ngồi trời mƣa bụi bay
Năm nay đào lại nở.
Không thấy ông đồ xƣa.
Những ngƣời muôn năm cũ.
Hồn ở đâu bây giờ?
Các cặp vần: nở - đỏ; già - qua; viết – nét; tài – bay; vắng – thắm; đâu
– sầu; đấy – giấy; hay – bay; nở – cũ; xƣa – giờ, lặp lại âm thanh bởi ngun
âm chính cùng dịng ( trừ ơ và u); phụ âm cuối cùng nhóm, thanh điệu cùng
nhóm.

Đồng thời cặp vần chân trong bài thơ khơng những có vai trò

cách biệt các dòng thơ và tạo nên liên kết giữa chúng với nhau, mà còn tạo
âm hƣởng, tiếng vang trong bài thơ. Đặc biệt trong bài thơ, vần tạo tâm thế
“chờ đợi vần” đối với các tiếng xuất hiện sau đó ở vị trí nhất định nhằm làm
nổi bật ý nghĩa của từ hiệp vần. Chẳng hạn vần “nở” trong câu “Mỗi năm hoa
đào nở” nó tạo tâm thế “chờ đợi vần” đối với các tiếng xuất hiện sau đó

(“đỏ”)
Ví dụ:
“Em ơi Ba Lan mùa tuyết tan
Đƣờng bạch dƣơng sƣơng trắng nắng tràn.
Em đi nghe tiếng ngƣời xƣa vọng.
Một giọng thơ ngâm một giọng đàn
(Em ơi Ba Lan – Tố Hữu)


18
Các vần chân: “tan’’, “tràn’’, “đàn’’ có vai trị tách biệt các dòng thơ và
tạo liên kết giữa chúng với nhau. Các vần này kết thúc bằng các phụ âm mũi
– vang, tạo âm hƣởng ngân vang cho bài thơ. Và vần của câu thơ trƣớc tạo
tâm thế “ chờ đợi vần” đối với câu sau.
2. Phân loại vần thơ.
Vần thơ có thể phân loại theo những cách khác nhau, tuỳ theo sự phân
loại nhấn mạnh mặt này hay mặt kia, theo cách ngƣời nghiên cứu vần thơ
chọn lựa. Nhƣng thƣờng có hai cách phân loại: thứ nhất là phân loại theo vị trí
gieo vần, thứ hai là phân loại theo mức độ hồ âm.
2.1 Theo vị trí gieo vần.
Theo vị trí gieo vần, vần thơ có hai loại là vần chân và vần lƣng.
2.1.1 Vần chân.
Vần chân là vần đƣợc gieo vào cuối dịng thơ, có tác dụng đánh
dấu sự kết thúc dòng thơ và tạo nên mối liên kết giữa các dòng thơ. Vần chân
rất đa dạng: Khi liên tiếp, khi gián cách, khi ôm nhau, khi hỗn hợp các loại
trên.
Ví dụ:
- Vần liên tiếp.
“Làng tơi nghèo đất cày lên sỏi đá.
Tôi với anh đôi ngƣời xa lạ”

(Đồng chí – Chính Hữu)
- Vần gián cách.
“Mỗi năm hoa đào nở.
Lại thấy ông đồ già.
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phố đơng ngƣời qua”
(Ơng đồ – Vũ Đình Liên)


19
Vần chân là hình thức gieo vần phổ biến nhất trong thơ ca.
2.1.2 Vần lƣng
Vần lƣng là vần đƣợc gieo vào giữa dịng thơ
Ví dụ:
“Trời mƣa ƣớt bụi, ƣớt bờ
Ƣớt cây, ƣớt lá ai ngờ ƣớt em
(Ca dao)
“Tôi lại về quê mẹ nuôi xƣa
Một buổi trƣa nắng dài bãi cát
(Mẹ Tơm- Tố Hữu)
“Thơn đồi ngồi nhớ thơn đơng.
Cau thơn đồi nhớ giầu khơng thơn nào...”
(Tƣơng tƣ - Nguyễn Bính)
Vần lƣng là một hiện tƣợng đặc sắc của luật vần Việt Nam tạo nên tính
chất giàu nhạc điệu của tiếng Việt và câu thơ Việt Nam.
2.2 Theo mức độ hoà âm
Theo mức độ hoà âm ,vần thơ đƣợc chia thành hai loại: Vần chính và
vần thơng.
2.2.1Vần chính
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” (trang 293) thì vần chính là vần

mà sự hoà phối âm thanh ở mức độ cao giữa các tiếng đƣợc gieo vần, trong
đó bộ phận vần cái ( kể từ ngun âm chính đến cuối âm tiết) hồn toàn
trùng hợp. Phụ âm đầu của các tiếng gieo vần (nếu có) phải khác nhau.
Ví dụ:
“Lọng vàng che nải chuối xanh
Tiếc cho loan phƣợng đậu cành tre khô”
(Ca dao)


20
“Các vị La Hán chùa Tây Phƣơng
Tôi đến thăm về lòng vấn vƣơng
Há chẳng phải đây là sứ phật
Mà sao ai nấy mặt đau thƣơng
( Các vị La Hán chùa Tây Phƣơng – Huy Cận )
2.2.2 Vần thông
Theo “ Tử điển thuật ngữ văn học ’’ (Trang 293), vần thông là một loại
vần đƣợc tạo nên bởi sự hoà phối âm thanh giữa các tiếng đƣợc gieo vần,
trong đó bộ phận vần cái (kể từ nguyên âm chính đến mỗi âm tiết ) khơng lặp
lại hồn tồn mà có thể khác chút ít. Hay nói cách khác vần thơng là vần mà
phần vần hai âm tiết giống nhau ở một mức độ nào đó. Đó là kiểu vần mà âm
chính có sự hiệp vần của các ngun âm cùng dịng và cả các nguyên âm cùng
độ ; âm cuối hoặc là hoàn toàn trùng lặp, hoặc cùng là phụ âm mũi
:m,n,ng(nh) hay cùng là phụ âm tắc -vơ thanh :p,t,c(ch)
Ví dụ: - Âm cuối chỉ gần giống nhau (cùng nhóm phụ âm )
“ Vác pháo băng qua đỉnh một ngàn
Quân đi đất dậy,tiếng cƣời vang’’
(Tiến Thoại )
- Nguyên âm chính chỉ gần giống nhau
“Đêm nay rừng hoang sƣơng muối

Đứng cạnh bên nhau chờ giăc tới”
(Đồng Chí – Chính Hữu)
- Cả ngun âm chính và

âm cuối đều khơng

giống nhau.
“ Kì hộ lƣng nhau ngang bờ cát trắng
Quờ chân tìm hơi ấm đêm mƣa ’’
(Nhớ – Hồng Nguyên )


21

III . THỂ THƠ LỤC BÁT
1.Khái niệm
Lục bát là một thể thơ cách luật cổ điển thuần tuý của thơ tiếng Việt.
Đơn vị cơ bản của thể thơ này là một cặp gồm 2 câu, một câu lục – sáu tiếng
(chữ ) và một câu bát – tám tiếng ; số câu của bài thơ làm theo thể này là
không hạn định : có thể chỉ gồm 2 câu (một cặp )nhƣ nhiều câu ca dao cổ
truyền,có thể hàng ngàn câu nhƣ trong các truyện thơ Nôm và các diễn ca lịch
sử.
2.Vai trò của thể thơ lục bát trong thơ ca Việt Nam
Thể loại thơ lục bát đã góp phần vào sự thành công và sự trƣờng tồn
của hàng trăm truyện thơ Nôm (Truyện Kiều là tiêu biểu ), hàng vạn bài ca
dao.Với ca dao, đó là sự phong phú về hình thức biểu hiện.Thể lục bát đã làm
cho ca dao mãi mãi gần gũi và thân thuộc với ngƣời Việt. Và chính thể thơ
lục bát đã làm nên kho tàng ca dao ngƣời Việt.Với những ƣu điểm của
mình,thể thơ lục bát đã và sẽ mãi mãi khơi nguồn cho những bài ca dao.Vì
phần lớn ca dao ngƣời Việt đƣợc sáng tác theo thể thơ này.Với Truyện Kiều

thể thơ lục bát đã đạt đến độ hồn chỉnh của nó về tất cả mọi mặt,mọi
phƣơng diện. Truyện Kiều đã đạt đến những giá trị nội dung và nghệ thuật
cũng chính là nhờ đến mặt mạnh của thể thơ lục bát.Truyện Kiều – với thể lục
bát đã trở thành hơi thở của ngƣời dân Việt Nam
Phong trào thơ Mới tuy chịu ảnh hƣởng của thơ Pháp, thơ Đƣờng
nhƣng không làm mất đi bản sắc dân tộc của thơ Việt Nam mà trái lại nó làm
cho câu thơ tiếng Việt ngày càng giầu có hơn, tinh tế hơn


22
Thơ Việt Nam sau cách mạng tháng tám, chúng ta không thấy xuất
hiện thêm thể thơ nào mới, nhƣng hầu hết các thể thơ dân gian và truyền
thống, các thể thơ mới đều đƣợc khai thác sử dụng và trở nên nhuần nhuyễn
trong nội dung mới
Các thể thơ dân gian có một vai trị quan trọng đối với nền thơ ca mới.
Hƣớng về dân gian là một nét tiêu biểu trong tâm thế sáng tác của nhiều nhà
thơ và dấu ấn của các thể loại thơ dân gian có thể thâý ở hầu hết các nhà thơ
thuộc đủ loại các thế hệ.Thể lục bát vẫn phát triển, hầu nhƣ nhà thơ nào cũng
ít nhiều sử dụng đến.
Sau năm 1945, các thế hệ nhà thơ đàn anh sử dụng lục bát theo hƣớng
khai thác những khả năng vốn có, theo hƣớng tơn trọng những quy luật ngữ
âm thiết yếu của nó.
Lịch sử thời gian đã khẳng định vị trí, vai trị quan trọng của thể thơ lục
bát trong dòng văn học Việt Nam. Qua sự biến thiên của lịch sử của nền văn
học, thể thơ lục bát đã có sự phát triển, sự thay đổi, sự đổi mới để đáp ứng
dần sự thay đổi trong nội dung văn học. Càng ngày nó càng chứng minh rằng
đây là một thể thơ dân tộc có nhiều ƣu việt nó góp phần vào sự thành cơng
của nền văn học nƣớc nhà.
3. Đặc trƣng hình thức của thể thơ lục bát.
3.1 Vần.

Thể thơ lục bát vừa gieo vần chân,vừa gieo vần lƣng :tiếng cuối
câu lục gieo vần xuống tiếng thứ 6 câu bát hoặc cá biệt ở tiếng
thứ 4 (vần lƣng ); tiếng cuối câu bát gieo vần xuống tiếng cuối
câu lục tiếp theo (vần chân chân )
Ví dụ: “ Non cao những ngóng cùng trơng
Suối khơ dịng lệ chờ mong tháng ngày
Sƣơng mai một nắm hao gầy.
Tóc mây một mái đã đầy tuyết sƣơng”


23
(Thề non nƣớc – Tản Đà)
“Tay cầm cái kéo cây kim.
Vai mang hàng lụa đi tìm thợ may.
Tìm anh bảy tám hôm nay.
Mƣợn may cái áo mƣợn may cái quần”
(Ca dao)
Thể thơ lục bát sử dụng cả vần chính và vần thơng.
Ví dụ: - Vần chính:
“Chàng ơi đƣa gói thiếp mang.
Đƣa gƣơm thiếp vác, cho chàng đi không”
(Ca dao)
- Vần thơng:
“Thà rằng ăn nửa quả hồng.
Cịn hơn ăn cả chùm sung chát lè”
(Ca dao)
Trong thơ lục bát có hai loại vần: Vần bằng và vần trắc.
- Vần bằng ở câu lục và câu bát đều là thanh bằng
- Vần trắc ở câu lục và câu bát đều là thanh trắc.
Ví dụ:

“Nƣớc ngƣợc ta bỏ sào ngƣợc.
Ta chống chẳng đƣợc ta bỏ sào xi”
(Ca dao)
“Tị vị mà ni con nhện.
Ngày sau nó lớn nó quện nhau đi”
(Ca dao)
3.2 Nhịp.


24
Nhịp thơ khơng chỉ để hiểu thơ mà cịn để đọc thơ. Nhịp
thơ căn cứ vào số tiếng trong mỗi bộ phận của câu thơ, các tiếng này đƣợc
đọc liền nhau trong câu thơ.
Nhịp phổ biến của thể lục bát là nhịp chẵn ( 2/2/2 )
Ví dụ:
“Ngƣời yểu điệu/ khách văn chƣơng.
Trai tài/ gái sắc/ xuân đƣơng vừa thì.
Tuy rằng/ vui chữ vu quy.
Vui này/ dễ cất sầu kia/ đƣợc nào.
Khi ăn ở/ lúc ra vào.
Càng âu duyên mới/ càng dào tình xƣa.
Nỗi nàng nhớ đến bao giờ.
Tn châu địi trận/ vị tơ trăm vịng.
Có khi/ vắng vẻ thƣ phịng.
Đốt lị hƣơng/ dỡ phím đồng/ ngày xƣa.
Bẻ bai/ rầu rỹ/ tiếng tơ.
Trầm bay nhạt khói gió đƣa lay rèm”
(Truyện Kiều 2841 – 2852 – Nguyễn Du)
2.3 Phối điệu (luật bằng trắc).
Thanh bằng là những từ không dấu, là thanh bằng cao (hoặc thanh

ngang), những từ mang dấu huyền là thanh bằng thấp (hoặc thanh huyền).
Thanh trắc là những từ có các dấu sắc, nặng, ngã, hỏi. Sau mỗi tiết tấu thanh
điệu bắt buộc là bằng hoặc trắc. Hình mẫu của các tác phẩm lục bát cổ điển
đƣợc phối điệu nhƣ sau:
t B t T t B
t B t T t B t B

(Nhất – tam – ngũ bất luận)
(nhị – tứ – lục phân minh).


25
Trong đó : B: bằng, T: trắc, t: tự do (bằng hoặc trắc). Tiếng thứ 6 và
tiếng thứ 8 của câu bát trong cùng là thanh bằng, nhƣng cần có sự chuyển đổi
giữa bổng (thanh ngang) và trầm (thanh huyền).
Ví dụ:
“Hoa đào năm ngối cịn cƣời gió đơng”.
“Những điều trơng thấy mà đau đớn lòng”.
Riêng tiếng thứ 2 của câu lục hoặc câu bát có thể linh động, là bằng hay
trắc cũng đƣợc.
Ví dụ:

“Có oản anh tình phụ xơi.
Có cam phụ quýt, có ngƣời phụ ta.”
(ca dao)
“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài.
Chẳng lịch cũng thể con ngƣời thƣợng kinh.”
(Ca dao)

CHƢƠNG II: VẦN TRONG THƠ LỤC BÁT VIỆT

NAM
I. KẾT QUẢ THỐNG KÊ
1. Giới thiệu về “Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam” (NXBVH –
1994).
“Tuyển tập thơ lục bát Việt Nam” đƣợc tuyển chọn từ gần 15 nghìn bài
thơ (gần 5 nghìn bài đã đăng báo, in sách và gần 10 nghìn bài thơ phần lớn
chƣa công bố từ khắp miền đất nƣớc gửi về). Phạm vi tuyển chọn thơ lục bát
vào tuyển tập này là từ Truyện Kiều ( đầu thế kỷ XIX) đến năm 1993 ( cuối
thế kỷ XX). Có 154 tác giả có thơ đƣợc chọn, trong đó có một tác giả chọn 7
bài (Nguyễn Bính), 5 tác giả chọn 3 bài ( Hồ DZếch, Tản Đà, Trần Huyền


×