Tải bản đầy đủ (.docx) (12 trang)

KỸ NĂNG GIÁM sát CHUYÊN đề của đại BIỂU hội ĐỒNG NHÂN dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (90.98 KB, 12 trang )

KỸ NĂNG GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ
CỦA ĐẠI BIỂU HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN CẤP HUYỆN, CẤP XÃ
I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ
1. Khái niệm, đặc điểm giám sát chuyên đề
1.1. Khái niệm giám sát chuyên đề
Giám sát vừa là hình thức hoạt động thực thi quyền lực, vừa là một
phương thức đảm bảo cho quyền lực nhà nước được thực hiện đúng với phạm vi
quyền hạn mà pháp luật đã quy định cho mỗi một thiết chế quyền lực nhà nước.
Đối với HĐND cấp huyện, cấp xã thì giám sát là một trong hai chức năng
cơ bản, quan trọng. Có nhiều khái niệm về giám sát, Theo Từ điển Tiếng Việt,
giám sát là theo dõi và kiểm tra xem có thực hiện đúng những điều quy định
không (tr 374. Từ điển Tiếng Việt Nxb Khoa học xã hội - Trung tâm từ điển học,
Hà Nội - VN năm 1994).
Theo Khoản 1 - Điều 2, Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội
đồng nhân dân năm 2015 quy định: Giám sát là việc chủ thể giám sát theo dõi,
xem xét, đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật về việc thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, xử lý theo thẩm quyền hoặc yêu cầu, kiến nghị cơ quan có thẩm
quyền xử lý.
Giám sát của Hội đồng nhân dân bao gồm giám sát của Hội đồng nhân
dân tại kỳ họp, giám sát của Thường trực Hội đồng nhân dân, các Ban của Hội
đồng nhân dân, Tổ đại biểu Hội đồng nhân dân và các đại biểu Hội đồng nhân
dân (Khoản 6 Điều 2 Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và HĐND năm
2015). Chất lượng hiệu quả hoạt động giám sát của HĐND tuỳ thuộc vào
chất lượng hiệu quả các hoạt động giám sát này.
Trong hoạt động giám sát của HĐND có hoạt động giám sát chuyên đề,
Khoản 4, Điều 2 - Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân năm
2015 quy định: Giám sát chuyên đề là việc chủ thể giám sát theo dõi, xem xét,

1



đánh giá vấn đề hoặc hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát
trong việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân được quy định cụ thể trong
Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015. Theo
đó, giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân là việc Hội đồng nhân dân,
Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân theo dõi, xem xét,
đánh giá hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát trong việc
tuân theo Hiến pháp và pháp luật.
Như vậy, giám sát chuyên đề là hình thức giám sát chuyên sâu về những
vấn đề cụ thể liên quan đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước
hoặc về những vấn đề nhạy cảm, bức xúc, có quan hệ đến lợi ích chính đáng
hợp pháp của đông đảo nhân dân, qua đó giúp HĐND nhận xét, đánh giá sâu
hơn về những chủ đề mà nhân dân địa phương đang quan tâm, chẳng hạn vấn
đề đầu tư dàn trải và thất thoát lãng phí trong đầu tư xây dựng cơ bản, vấn đề
hỗ trợ phát triển nông nghiệp ở địa phương…
1.2. Đặc điểm của giám sát chuyên đề
Hội đồng nhân dân thực hiện chức năng giám sát thông qua nhiều hoạt
động giám sát như: xem xét báo cáo; xem xét việc chất vấn và trả lời chất vấn;
xem xét văn bản quy phạm có dấu hiệu trái pháp luật; giám sát chuyên đề. Từ
khái niệm nêu trên cho thấy giám sát chuyên đề có nhiều điểm khác so với các
hoạt động giám sát khác ở các đặc điểm sau:
- Chủ thể giám sát chuyên đề đa dạng và phong phú. Theo Luật hoạt động
giám sát của Quốc hội và HĐND năm 2015, chủ thể giám sát chuyên đề bao
gồm: HĐND, Thường trực HĐND, các Ban của HĐND.
- Đối tượng chịu sự giám sát và địa bàn giám sát rộng; thời gian triển khai
giám sát dài nên có điều kiện xem xét, nghiên cứu kỹ những vấn đề liên quan
đến nội dung giám sát. Theo pháp luật hiện hành, đối tượng giám sát chuyên
đề của HĐND rất phong phú và đa dạng, bao gồm tất cả các cơ quan nhà
nước, đơn vị kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân ở địa phương.


2


- Địa điểm thực hiện giám sát chuyên đề có thể là ngay tại trụ sở cơ
quan, có thể khảo sát ngoài thực địa, đến tận các cơ sở xem xét thực tế vấn đề
cần giám sát nhằm khảo sát thực tế tại, gặp gỡ và trao đổi với các đối tượng có
liên quan đến nội dung giám sát, nghiên cứu và xem xét các tài liệu, sổ sách,
chứng từ, báo cáo cần thiết, từ đó có đủ căn cứ và bằng chứng để kết luận về nội
dung được giám sát và đưa ra các kiến nghị cần thiết nhằm xử lý các vi phạm,
kịp thời khắc phục các yếu kém.
- Phương thức giám sát giám sát chuyên đề là thành lập Đoàn giám sát. Để
làm rõ những vấn đề cịn vướng mắc, có thể cử thành viên Ðồn giám sát đến
các cơ quan, tổ chức hữu quan để xem xét và xác minh các vấn đề cần thiết.
2. Nội dung giám sát chuyên đề
Theo các quy định của pháp luật hiện hành, khi quyết định những vấn đề
thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của mình, HĐND ra Nghị quyết và giám sát việc
thực hiện Nghị quyết đó. Căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
HĐND, nội dung giám sát chuyên đề của HĐND bao gồm các lĩnh vực sau:
- Giám sát về lĩnh vực kinh tế như giám sát các hoạt động tài chính - ngân
sách ở địa phương; đầu tư xây dựng cơ bản; thu, chi ngân sách địa phương, các
đơn vị sự nghiệp công lập.
- Giám sát các hoạt động trong lĩnh vực giáo dục, y tế, xã hội, văn hố,
thơng tin, thể dục, thể thao.
- Giám sát các hoạt động quản lý nhà nước trong lĩnh vực khoa học, công
nghệ, tài nguyên, môi trường.
- Giám sát việc thực hiện nghĩa vụ quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã
hội .
- Giám sát việc thực hiện chính sách dân tộc và chính sách tơn giáo.
- Giám sát việc tổ chức và bảo đảm việc thi hành Hiến pháp, pháp luật và

trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, xây dựng chính quyền
-…
Như vậy, nội dung giám sát chuyên đề của HĐND rất rộng, toàn diện, bao
quát toàn bộ hoạt động quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống

3


kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, xây dựng, củng cố chính quyền, thực hiện
pháp luật, bảo đảm phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở địa phương.
3. Các nguyên tắc giám sát
Giám sát là một chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước, do đó, hoạt
động giám sát, một mặt phải tuân thủ các nguyên tắc chung về tổ chức và hoạt
động của các cơ quan nhà nước, mặt khác còn phải tuân thủ các nguyên tắc đặc
thù trong hoạt động giám sát được quy định tại Điều 3 Luật hoạt động giám sát
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2105, bao gồm:
- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật
Đây là nguyên tắc quan trọng trong hoạt động giám sát. Theo nguyên
tắc này, hoạt động giám sát phải căn cứ vào quy định của Hiến pháp và pháp
luật. Có nghĩa là, chủ thể thực hiện hoạt động giám sát phải thực thi đúng
chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn của mình. Bên cạnh đó, trình tự, thủ tục
giám sát, phương thức tiến hành giám sát cũng như việc đưa ra kết luận, kiến
nghị, quyết định xử lý cụ thể đều phải đảm bảo tuân thủ theo các quy định của
Hiến pháp và pháp luật
- Bảo đảm khách quan, cơng khai, minh bạch, hiệu quả
Tính khách quan trong hoạt động giám sát nhằm bảo đảm phản ánh đúng
sự thật, khơng thiên lệch và bóp méo sự thật. Nguyên tắc này đòi hỏi chủ thể
giám sát phải có thái độ khách quan, trung thực, cơng bằng, khơng thiên vị,
định kiến, trong q trình thực hiện giám sát phải xuất phát từ thực tế cuộc
sống, tôn trọng sự thật; phải xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng trên quan

điểm lịch sử cụ thể, biện chứng, lơgíc.
Cơng khai trong hoạt động giám sát là một đòi hỏi tất yếu, được thể
hiện ở chỗ: chủ thể giám sát hoặc cơ quan có thẩm quyền phải thơng báo đầy
đủ nội dung, thời gian giám sát để những người có trách nhiệm và có liên
quan biết nhằm khuyến khích sự tham gia của nhân dân và tổ chức vào hoạt
động này, góp phần đảm bảo tính chính xác, khách quan trong giám sát.

4


Việc công khai trong hoạt động giám sát cũng phải căn cứ theo quy định
của pháp luật, tùy từng đối tượng, nội dung mà có thời điểm, hình thức và mức độ
cơng khai thích hợp. Cơng khai thể hiện cụ thể qua các việc như: công khai quyết
định giám sát, tiếp xúc công khai đối tượng; công khai kết luận giám sát...
Nguyên tắc công khai, minh bạch đảm bảo tổ chức thực hiện giám sát
đúng mục đích, đúng đối tượng; ngăn chặn những sai phạm trong việc thực hiện
quy định pháp luật về giám sát. Ngồi ra, việc cơng khai trong hoạt động giám
sát chỉ được loại trừ trong một số trường hợp thuộc bí mật nhà nước.
Giám sát của Hội đồng nhân dân phải bảo đảm hiệu quả, thể hiện từ việc
lựa chọn các nội dung giám sát có trọng điểm, tránh giám sát dàn trải, việc tổ
chức giám sát và phương thức giám sát phải được tiến hành thực chất, tránh hình
thức hoặc chỉ dừng lại ở việc nghe báo cáo, nắm tình hình và chủ yếu dựa vào
thơng tin do chính các cơ quan chịu sự giám sát cung cấp... Tính hiệu quả trong
hoạt động giám sát của Hội đồng nhân dân còn thể hiện qua việc thông qua giám
sát, chủ thể giám sát đưa ra được những kết luận, đề xuất, kiến nghị đối với cấp
có thẩm quyền, cũng như giám sát việc thực hiện kết luận giám sát, đề xuất kiến
nghị đó.
- Khơng làm cản trở đến hoạt động bình thường của cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát
Việc quy định nguyên tắc này trong Luật hoạt động giám sát của Quốc hội

và Hội đồng nhân dân là hết sức cần thiết, trên thực tế nguyên tắc này không chỉ
giúp cho hoạt động giám sát được thực hiện một cách nghiêm túc, công khai,
minh bạch mà còn giúp cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân là đối tượng chịu sự
giám sát không bị ảnh hưởng đến hoạt động bình thường của mình.
II. KỸ NĂNG GIÁM SÁT CHUYÊN ĐỀ
Chất lượng hoạt động giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân phụ
thuộc vào chất lượng thực hiện nhiệm vụ của từng đại biểu Hội đồng nhân dân
khi tham gia Đồn giám sát. Vì vậy, khi tham gia Đoàn giám sát các đại biểu
phải nắm vững quy trình giám sát chuyên đề và nắm bắt được những kỹ năng cơ
bản sau:

5


1. Chuẩn bị giám sát
- Thành lập Đoàn giám sát
Để thực hiện giám sát chuyên đề, căn cứ vào chương trình giám sát của
mình, HĐND, Thường trực HĐND hoặc các Ban của HĐND ra quyết định
thành lập Đoàn giám. Đoàn giám sát không chỉ bao gồm các đại biểu Hội đồng
nhân dân mà cịn có cả chun gia trong lĩnh vực tiến hành giám sát. Người ra
quyết định cần nghiên cứu, tìm hiểu kỹ về đối tượng và lĩnh vực giám sát vì điều
này liên quan đến thành phần đồn giám sát. Đại biểu tham gia Đoàn giám sát
phải là người có kiến thức chun mơn sâu, am hiểu thực tiễn về vấn đề giám
sát. Trong quyết định thành lập Đoàn phải xác định rõ đối tượng, phạm vi, nội
dung, kế hoạch giám sát, thành phần Đoàn giám sát và cơ quan, tổ chức, cá nhân
chịu sự giám (xem mẫu 1,2,3). Đây là một bước hết sức quan trọng để Đoàn
giám sát xây dựng Kế hoạch giám sát.
- Xây dựng kế hoạch giám sát chuyên đề, gợi ý báo cáo và thông báo đến
đối tượng chịu sự giám sát
Trên cơ sở Quyết định, Đồn giám sát có trách nhiệm xây dựng kế hoạch,

gợi ý báo cáo gửi cho đối tượng chịu sự giám sát.
Khi xây dựng kế hoạch, gợi ý báo cáo, các thành viên của Đoàn cần nắm
bắt đầy đủ những thông tin cần thiết liên quan đến nội dung giám sát, đối tượng
giám sát; dự liệu những tình huống, những vấn đề cần đi sâu, làm rõ (có thể xây
dựng nội dung chi tiết); xác định phương pháp, hình thức giám sát khoa học và
phù hợp để việc giám sát đạt được mục đích, u cầu và khơng làm ảnh hưởng
đến hoạt động của đối tượng bị giám sát (xem mẫu 5a, 5b, 5c).
Gửi đề cương báo cáo và thông báo cho đối tượng chịu sự giám sát về nội
dung, thành phần Đoàn giám sát là việc làm hết sức quan trọng bởi báo cáo của
đối tượng chịu sự giám sát là nguồn thơng tin chính thống mà các đại biểu cần
nghiên cứu và là cơ sở để so sánh đối chiếu với các nguồn thông tin khác mà đại
biểu thu thập được. Vì vậy, địi hỏi Đồn giám sát phải gửi đề cương báo cáo và
công văn thông báo theo thời hạn luật định, cụ thể: Thông báo kế hoạch giám
sát, đề cương báo cáo chậm nhất là 15 ngày kể từ ngày ra quyết định thành lập

6


Đồn giám sát; gửi cơng văn thơng báo chương trình và thành phần Đoàn giám
sát chậm nhất là 10 ngày trước ngày Đoàn tiến hành làm việc với cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát. Nội dung công văn phải thể hiện rõ yêu cầu cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát báo cáo bằng văn bản, cung cấp thơng
tin, tài liệu có liên quan đến nội dung giám sát cho Đoàn giám sát chậm nhất là
05 ngày làm việc trước ngày Đoàn tiến hành làm việc với cơ quan, tổ chức, cá
nhân chịu sự giám sát.
- Thu thập thông tin, nghiên cứu tài liệu
Để thực hiện tốt hoạt động giám sát chuyên đề, đại biểu cần có thơng tin
đầy đủ, tin cậy, chính xác làm cơ sở cho việc tiến hành giám sát. Dựa vào nghị
quyết, quyết định thành lập Đoàn giám sát, đại biểu sẽ tìm được các nội dung:
vấn đề giám sát; kế hoạch giám sát; thành phần đoàn giám sát; chức vụ, khả

năng của từng thành viên đối với giám sát (thế mạnh, hiểu biết của từng thành
viên); cơ quan tổ chức cá nhân chịu sự giám sát, từ đó đại biểuxác định được
nội dung chú trọng nghiên cứu sâu. Đại biểu phải tìm hiểu và nghiên cứu các
loại văn bản gồm: báo cáo của đối tượng chịu sự giám sát; các văn bản về chủ
trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước có liên quan
đến nội dung giám sát và các thơng tin, tài liệu có liên quan khác. Đại biểu có
thể thu thập thơng tin qua các nguồn: nguồn tin do cán bộ, công chức trong các
cơ quan hoặc do nhân dân cung cấp; đơn, thư khiếu nại, tố cáo; những đề nghị,
kiến nghị của các cán bộ, cơng chức hay của các tổ chức chính trị - xã hội; thông
tin phản ánh trên các phương tiện thơng tin đại chúng như báo chí, chương trình
phát thanh, truyền hình; thơng tin qua việc đại biểu quan sát sự việc, hiện tượng
tại địa phương; ý kiến của các chuyên gia, các nhà chuyên môn. Khi thu thập
thông tin, đại biểu cần xác định: mục đích thu thập thông tin; lĩnh vực cần quan
tâm; chủ đề của thông tin; thông tin cần thiết khi nào; thu thập thông tin từ
nguồn nào và độ tin cậy của thông tin thu được.
Thông thường, đối tượng chịu sự giám sát sẽ chuẩn bị sẵn báo cáo và gửi
đến đoàn giám sát trước khi tổ chức tiến hành giám sát. Các báo cáo thường
nhiều thành tựu, ít khuyết điểm, nhiều khó khăn, kiến nghị đề xuất, hỗ trợ. Vì

7


vậy, đại biểu cần có kỹ năng đọc báo cáo để tìm được nội dung mình quan tâm,
phát hiện ra mâu thuẫn, tìm ra những vấn đề mà đối tượng chịu sự giám sát
không muốn báo cáo, liên kết thông tin trong báo cáo. Ngồi ra, Đồn giám sát
có thể yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát cung cấp thơng tin, tài
liệu có liên quan đến nội dung giám sát, giải trình những vấn đề đoàn giám sát
xét thấy cần thiết phải được làm rõ. Thơng qua đó, đối chiếu so sánh thơng tin
trong báo cáo với các quy định của pháp luật, các thông tin thu thập được, phát
hiện vấn đề cần tập trung xem xét và hướng xử lý trước khi tiến hành giám sát.

Từ đó, các đại biểu chuẩn bị ý kiến và thống nhất nội dung làm việc cụ thể của
Đoàn.
2. Tiến hành giám sát
Đoàn giám sát tổ chức phiên họp làm việc với đối tượng chịu sự giám sát
đúng thời gian, địa điểm đã thông báo cho đối tượng chịu sự giám sát. Nội dung
phiên họp thông thường gồm các bước sau:
- Trưởng đồn giám sát thơng báo về quyết định thành lập Đồn giám sát,
nêu rõ mục đích, u cầu, nội dung và phương thức làm việc của Đoàn giám sát,
chương trình làm việc cụ thể và những cơng việc khác có liên quan đến hoạt
động của Đồn giám sát.
- Đại diện lãnh đạo cơ quan, tổ chức chịu sự giám sát trình bày về những
nội dung theo đề cương báo cáo.
- Khách mời là đại diện các ban ngành tham gia phát biểu ý kiến.
- Thành viên đoàn giám sát yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám
sát làm rõ thêm những nội dung đã báo cáo hoặc bổ sung thêm những nội dung
khác (nếu thấy cần thiết).
- Đồn giám sát có thể trực tiếp kiểm tra hồ sơ, tài liệu, đánh giá thực trạng
làm rõ những nội dung cần giám sát.
- Để hiểu rõ, nắm rõ vấn đề giám sát thì rất cần hiểu biết thực tiễn tìm
hiểu thực tiễn tại chỗ. Đồn giám sát có thể kiểm tra, khảo sát thực tế để làm rõ
thêm những vấn đề thuộc nội dung giám sát lắng nghe người dân nói và kiểm
chứng bằng thực tiễn; mời chuyên gia tư vấn về vấn đề mà Đoàn giám sát xét

8


thấy cần thiết. Từ báo cáo của đối tượng chịu sự giám sát, đại biểu lấy báo cáo
soi vào thực tiễn, xem báo cáo có đúng khơng, thực chất chưa, đánh giá vấn đề
thế nào. Những vấn đề chưa đạt được sự thống nhất, đại biểu cho rằng chưa
đúng, cần trao đổi với đối tượng bị giám sát một cách thẳng thắn và trên tinh

thần xây dựng, hợp tác để tìm ra sự thật, chân lý. Việc trao đổi trực tiếp sẽ giúp
đại biểu dễ dàng hiểu vấn đề hơn là sau khi kết thúc cuộc giám sát thì Đồn
giám sát mới lại yêu cầu báo cáo bổ xung thêm. Đại biểu cần có kỹ năng nắm
bắt vấn đề, phân tích vấn đề một cách nhanh nhạy, kết hợp với kỹ năng trình
bày, kỹ năng thuyết trình, tranh luận để đạt được tới mục tiêu của mình (yêu cầu
đối tượng bị giám sát nói lên sự thật cịn che dấu, nhận khuyết điểm, đề ra
phương hướng khắc phục, sửa chữa…)
- Kết thúc chương trình làm việc, Trưởng đồn giám sát trình bày tóm tắt
q trình giám sát và kết quả làm việc có kết luận bước đầu về kết quả giám sát
và đưa ra những yêu cầu, kiến nghị đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự
giám sát. Người đứng đầu hoặc đại diện người đứng đầu cơ quan, tổ chức chịu
sự giám sát có thể giải trình thêm và nêu các kiến nghị với Đoàn giám sát.
- Khi phát hiện có hành vi vi phạm pháp luật, gây thiệt hại đến lợi ích của
Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, Đồn giám sát có thể
kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan áp dụng các biện pháp cần thiết để
kịp thời chấm dứt hành vi vi phạm và khôi phục lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân bị vi phạm. Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá
nhân có thẩm quyền xem xét trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có hành
vi vi phạm theo quy định của pháp luật.
3. Ban hành kết luận giám sát chuyên đề
Đây là một việc khá quan trọng, thể hiện sự nhận thức của đoàn giám sát
đối với việc thực hiện của các đơn vị được giám sát. Trước đây, ngay trong buổi
giám sát Trưởng đoàn giám sát đều kết luận về những mặt ưu điểm, tồn tại và
nêu những kiến nghị đối với các đơn vị được giám sát. Trên thực tế, ngay trong
buổi giám sát có rất nhiều ý kiến qua lại, trong đó khơng ít ý kiến có liên quan
đến các quy định của pháp luật hoặc của các cấp, các ngành. Thêm vào đó trình

9



độ của người Trưởng đồn khơng hẳn là bao qt hết mọi thứ. Nếu không đối
chiếu quy định mà kết luận hoặc kiến nghị thì có lúc khơng chính xác và như
vậy hiệu lực của kết luận sẽ không cao. Vì vậy, Đồn giám sát khơng nêu kết
luận hoặc đưa ra kiến nghị ngay trong buổi giám sát mà phải báo cáo kết quả
giám sát trước chủ thể ra quyết định thành lập Đồn theo trình tự sau đây:
- Xây dựng dự thảo báo cáo: Trưởng đoàn giám sát chủ trì việc soạn thảo
báo cáo kết quả giám sát. Dự thảo báo cáo kết quả giám sát phải bám sát nội
dung, kế hoạch và mục tiêu giám sát, nêu rõ những nhận xét, đánh giá về từng
nội dung đã tiến hành giám sát; những vi phạm, trách nhiệm đối với những vi
phạm (nếu có); các quy định pháp luật làm căn cứ để xác định hành vi vi phạm
pháp luật, tính chất, mức độ vi phạm; kiến nghị các biện pháp xử lý vi phạm.
Những thành tích nổi bật, tính điển hình trong hoạt động của cơ quan, tổ chức
(nếu có); những ưu điểm, những hạn chế cịn tồn tại của cơ quan, tổ chức, cá nhân
trong việc triển khai tổ chức thực hiện nội dung đang tiến hành giám sát, nêu rõ
những kiến nghị cụ thể đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân đó; những hạn chế về cơ
chế, chính sách, pháp luật cần sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với thực tế (xem
mẫu 6a,6b,6c).
Dự thảo Báo cáo kết quả giám sát phải được thảo luận, góp ý bởi các
thành viên của Đoàn giám sát. Báo cáo kết quả giám sát phải khách quan, chính
xác. Chỉ đưa vào báo cáo những nội dung đã được khẳng định, tránh những nội
dung còn băn khoăn, do dự. Kiến nghị của đoàn giám sát phải cụ thể, rõ ràng, sát
thực tế, có tính khả thi.
- Báo cáo kết quả giám sát
Khi kết thúc hoạt động giám sát, Đoàn giám sát báo cáo kết quả giám sát
với các chủ thể thành lập Đoàn giám sát, cụ thể: Đối với Đoàn giám sát của
HĐND thì báo cáo với Thường trực Hội đồng nhân dân và báo cáo với Hội
đồng nhân dân tại kỳ họp gần nhất; đối với Đoàn giám sát của Thường trực
HĐND, báo cáo kết quả giám sát với Thường trực Hội đồng nhân dân chậm nhất
là 15 ngày kể từ ngày kết thúc hoạt động giám sát; đối với Đoàn giám sát của


10


Ban của HĐND, phải báo cáo kết quả giám sát với Ban của Hội đồng nhân dân
chậm nhất là 10 ngày kể từ ngày kết thúc hoạt động giám sát.
- Ban hành kết luận giám sát
Sau khi nhận được Báo cáo kết quả giám sát của Đoàn giám sát, Hội đồng
nhân dân, Thường trực Hội đồng nhân dân, Ban của Hội đồng nhân dân tổ chức
phiên họp để xem xét, thảo luận về báo cáo của Đoàn giám sát và ban hành kết luận
giám sát. Tại phiên họp xem xét, thảo luận về kết luận giám sát phải có mặt của
đại diện cơ quan, đơn vị chịu sự giám sát. Chủ tọa cần tạo điều kiện cho đối
tượng giám sát trình bày quan điểm của mình về các vấn đề đã nêu; mạnh dạn
tiếp thu, bổ sung vào báo cáo kết luận những ý kiến có cơ sở. Mặt khác, nếu phát
hiện những vấn đề có sai phạm thì đề nghị với các cơ quan chức năng làm rõ và
xử lý theo quy định của pháp luật.
Kết thúc cuộc giám sát:
- Hội đồng nhân dân kết luận thông qua ban hành nghị quyết về giám sát
chuyên đề (xem mẫu số 7).
- Thường trực Hội đồng nhân dân ban hành kết luận về giám sát chuyên đề và
gửi đến cơ quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát và các cơ quan, tổ chức có
liên quan (xem mẫu số 8).
- Các Ban của HĐND kết luận thông qua xây dựng báo cáo kết quả giám sát
chuyên đề và gửi đến Thường trực Hội đồng nhân dân, Hội đồng nhân dân và cơ
quan, tổ chức, cá nhân chịu sự giám sát (xem mẫu số 9).
Đối với những sai phạm, HĐND xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị
các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
4. Giám sát việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát
Đoàn giám sát tiếp tục theo dõi việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát
của đối tượng bị giám sát vì hiệu quả cuối cùng của hoạt động giám sát tùy
thuộc vào kết quả của việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát. Do vậy, việc

theo dõi thực hiện các kiến nghị sau giám sát được xem như là sự tiếp tục của
hoạt động giám sát (tái giám sát); nhất là trong những trường hợp giữa chủ thể
giám sát và đối tượng chịu sự giám sát cịn có những ý kiến khác nhau, nhằm

11


khắc phục những hạn chế, thiếu sót… và xử lý trách nhiệm của tổ chức chịu sự
giám sát. Điều này địi hỏi các đại biểu phải có bản lĩnh và chịu trách nhiệm về
kết luận giám sát, để tiếp tục theo dõi đến nơi, đến chốn khâu tiếp thu, xử lý các
kiến nghị của đoàn giám sát, gọi là “hậu giám sát”, yêu cầu báo cáo, kết quả
khắc phục bằng văn bản. Trường hợp đã đôn đốc nhiều lần nhưng cơ quan, tổ
chức, cá nhân chịu sự giám sát chưa thực hiện, nguyên nhân không phải do
những trở ngại khách quan mà do chưa nghiêm túc tiếp thu thì có thể đưa nội
dung đó ra chất vấn tại kỳ họp để làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm.
Như vậy, để hoạt động giám sát chuyên đề của Hội đồng nhân dân đạt
chất lượng, hiệu quả địi hỏi từ người có thẩm quyền ra quyết định thành lập
Đoàn giám sát đến các đại biểu tham gia Đồn giám sát phải ln bám sát
chương trình, nghị quyết của cấp ủy và nghị quyết của HĐND cùng cấp; lựa
chọn đúng nội dung, đúng đối tượng và mời đúng thành phần tham gia; biết phát
huy quyền năng theo luật định; đồng thời qua giám sát nhằm xây dựng củng cố
quyền uy. Quyền uy này được hình thành từ chất lượng hoạt động của HĐND,
Thường trực HĐND, các ban và các tổ đại biểu của HĐND và từ chất lượng,
hiệu quả các kết luận giám sát nói chung, giám sát chuyên đề nói riêng.

12




×