TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
NHÓM: CHÂU CHẤU –N03
----------
SỰ CẢI CÁCH VÀ ĐỔI MỚI VỀ VẤN ĐỀ RUỘNG ĐẤT
GIAI ĐOẠN (1955-1957)
TIỂU LUẬN MÔN HỌC
ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Giáo viên hướng dẫn: Phan Nguyễn Khánh Long
Thành viên nhóm:
1. Phạm Nguyễn Nhật Linh
2. Phạm Trần Thảo My
3. Đồn Thị Trâm Anh
4. Nguyễn Mai Trang
5. Trần Hoàng Mỹ Anh
6. Nguyễn Thị Thủy Chung
1
Huế, ngày 03 tháng 06 năm 2021
2
MỤC LỤC
Mục lục
Số Trang
Tóm tắt
3
Mở đầu
3
Lí do chọn đề tài
4
Nhiệm vụ nghiên cứu
4
Nội dung nghiên cứu
4
Kết quả nghiên cứu
5
Nội dung
5
Khái quát hoàn cảnh lịch sử giai đoạn 1955-1957
5
Cuộc cải cách giai đoạn 1955-1957
6
Tình hình ruộng đất ở hai miền Bắc- Nam trước cuộc cải cách
6
Sự cấp thiết của vấn đề cải cách ruộng đất
7
Các chính sách cải cách của Đảng về vấn đề ruộng đất
8
Giải quyết sai lầm của cuộc cách mạng
9
Kế hoạch sửa chữa sai lầm trong cuộc cải cách
9
Kết quả đạt được
12
Kết luận
13
Danh mục tài liệu tham khảo
14
3
TĨM TẮT
Cải cách ruộng đất là chương trình nhằm phân chia lại ruộng đất nơng thơn, xóa bỏ văn
hóa phong kiến, tiêu diệt các thành phần phản quốc (theo Mỹ, chống đất nước), phản động
(chống chính quyền) như địa chủ phản cách mạng, Việt gian,... được Đảng Cộng sản Việt
Nam và Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hịa thực hiện.
Theo Luật Cải cách ruộng đất thì Cải cách ruộng đất có mục tiêu:
"Thủ tiêu quyền chiếm hữu ruộng đất của đế quốc xâm lược ở Việt Nam, xoá bỏ chế độ phong
kiến chiếm hữu ruộng đất của giai cấp địa chủ, thực hiện chế độ sở hữu ruộng đất của nơng dân,
giải phóng sức sản xuất ở nơng thơn, đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp và mở đường cho công
thương nghiệp phát triển, cải thiện đời sống của nông dân, bồi dưỡng lực lượng của nhân dân, lực
lượng của kháng chiến, đẩy mạnh kháng chiến, hồn thành giải phóng dân tộc, củng cố chế độ
dân chủ nhân dân, phát triển cơng cuộc kiến quốc". Cải cách ruộng đất có mối liên quan chặt chẽ
với phong trào chỉnh đốn Đảng lúc đó.
Sau 3 năm tiến hành, cuộc cải cách đã phân chia lại ruộng đất công bằng cho đa số nơng
dân miền Bắc, xóa bỏ giai cấp địa chủ phong kiến.
Tuy nhiên, trong giai đoạn từ giữa 1955, do vội vã nhân rộng cải cách tới nhiều địa
phương, trong khi trình độ dân trí lại thấp đã khiến việc thi hành bị mất kiểm soát, gây ra nhiều
phương hại và tổn thất. Đến đầu năm 1956, cải cách bị đình chỉ, và suốt 1 năm sau đó, chính
phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã phải tổ chức chiến dịch nhận khuyết điểm và sửa sai, phục
hồi danh dự và tài sản cho các trường hợp oan sai, cũng như cách chức nhiều cán bộ cấp cao chịu
trách nhiệm về những sai lầm này.
MỞ ĐẦU
Việt Nam là nước nông nghiệp, phần lớn dân số là nông dân và cư trú ở vùng nơng thơn.
Trong q trình hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, nông thôn luôn là địa bàn chiến lược,
nông dân là lực lượng chủ lực quyết định đến sự phát triển kinh tế - xã hội cũng như trong lịch sử
đấu tranh chống ngoại xâm.
4
Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi nông dân là động lực của cách mạng, là đồng minh tự
nhiên và chiến lược của giai cấp công nhân. Đáp ứng nguyện vọng chính đáng của người nơng
dân, trong q trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng đến vấn đề
“độc lập dân tộc” và “người cày có ruộng”,
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước 1954 - 1975, khẩu hiệu “độc lập dân tộc” và
“người cày có ruộng” vẫn là xuyên suốt, song vào giai đoạn cuối, khi ruộng đất đã cơ bản về tay
nông dân do chính sách ruộng đất của chính quyền cách mạng và của chính quyền Nguyễn Văn
Thiệu, thì mục tiêu đấu tranh vì ruộng đất khơng cịn cấp thiết nữa. Lúc này, người nơng dân
miền Nam vẫn một lịng theo cách mạng, đóng góp cả ruộng đất và thành quả từ ruộng đất của
mình cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Nhìn lại vấn đề này để thấy được ý thức dân tộc, ý thức độc lập và thống nhất của nông dân
để phát huy vai trò của giai cấp này trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
I.
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Chúng ta nên hiểu rõ về công cuộc cải cách này, để nhận thức được kết quả của thành tích
cũng như những sai sót trong cơng cuộc cải cách ruộng đất.
Từ việc nghiên cứu về công cuộc cải cách ruộng đất, ta cần phải rút ra bài học: “Phải tôn
trọng những nguyên tắc tổ chức và nguyên tắc sinh hoạt của một đảng theo chủ nghĩa MácLênin”. Phải dũng cảm thừa nhận sai lầm và kiên quyết sửa sai, đồng thời phải giữ vững nguyên
tắc, khẳng định mặt thắng lợi của cải cách ruộng đất là căn bản và kiên quyết bảo vệ cái đúng,
bảo vệ thành quả của cải cách ruộng đất. Phải dựa vào lực lượng của quần chúng cơ bản mà tiến
hành sửa sai... kiên quyết không cho giai cấp địa chủ lợi dụng ta sửa sai mà ngóc đầu dậy trả
thù... Phải ra sức đoàn kết toàn Đảng, chống mọi tư tưởng sai lầm.”
5
Vậy từ đó chúng ta cần phải tìm hiểu được: “Thực chất tư tưởng và chính sách thực thi cơng
cuộc cải cách ruộng đất của Đảng ta nhằm hướng đến tương lai như thế nào và thực tế trong quá
trình thực hiện đã có những sai lầm gì đáng nhớ”
II.
NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
-
Làm rõ nguyên nhân dẫn đến cuộc cải cách ruộng đất
-
Phân tích chính sách của Đảng về vấn đề ruộng đất
-
Thống kê kết quả và rút ra bài học kinh nghiệm.
III.
NỘI DỤNG NGHIÊN CỨU
-
Hoàn cảnh lịch sử nước ta 1955-1957
-
Các chính sách cải cách của Đảng
-
Các khó khăn, sai lầm của cuộc cải cách và phương phướng giải quyết
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
I.
KHÁI QUÁT VỀ HOÀN CẢNH LỊCH SỬ GIAI ĐOẠN 1955-1957:
Chiến thắng Điện Biên Phủ lừng lẫy đã kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, mở
ra một thời kỳ độc lập, tiến lên Xã hội Chủ nghĩa. Nhưng thắng lợi của ta lại bị hạn chế bởi Hiệp
định Giơnevơ, đất nước được chia cắt thành hai miền lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới. Tại miền
Nam, Mỹ đã thành lập một chính quyền bù nhìn Ngơ Đình Diệm và viện trợ trực tiếp cho Diệm
cả về kinh tế lẫn quân sự nhằm thực hiện âm mưu chia cắt đất nước lâu dài. Một mặt chúng ngăn
chặn sự thống nhất Bắc Nam
Mặt khác, muốn biến niềm Nam thành một quốc gia biệt lập với miền Bắc, chúng gọi nước là
“ Cộng hòa Việt Nam” với một chế độ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội riêng biệt độc lặp với
miền Bắc. Về mọi mặt, chúng xây dựng hàng rào ngăn cách miền Bắc nói riệng và với phe dân
chủ hịa bình , với các nước khơng thuộc chính sách “viện trợ” Mỹ nói chung.Chúng muốn biến
miền Nam thành “ Một bộ phận của Hợp chủng quốc Hòa Kỳ ở chân trời Động Nam Á” và tách
ra khỏi mảnh đất liền Việt Nam, khỏi khu vực tự nhiên của nó ở Động Nam Á
6
Hai chính quyền cùng tồn tại kiểm sốt hai vùng, vùng do chính quyền Sài Gịn kiểm sốt và
vùng do chính phủ cách mạng lâm thời kiểm sốt, vùng giải phóng của ta ngày càng mở rộng, và
vùng đất do chính quyền Mỹ kiểm sốt dần dần bị thu hẹp, hai vùng khơng có sự khác biệt hồn
tồn mà vẫn có sự giao lưu kinh tế nhất đinh. Song cũng có nhiều nét khác nhau về sự phát triển
kinh tế.
II.
CUỘC CẢI CÁCH RUỘNG ĐẤT GIAI ĐOẠN 1955-1958:
1. Tình hình ruộng đất ở hai miền Bắc- Nam trước cuộc cải cách
a. Miền bắc:
Theo thống kê phân bố ruộng đất ở miền Bắc trước năm 1945, chỉ có 4% dân số đã chiếm
hữu tới 24,5% tổng số ruộng đất. Đầu năm 1945, tầng lớp nơng dân nghèo (khơng có hoặc chỉ có
rất ít ruộng đất) chiếm 60% dân số nông thôn, nhưng chỉ sở hữu khoảng 10% ruộng đất. Còn giai
cấp địa chủ phong kiến Việt Nam, địa chủ thực dân Pháp, địa chủ Công giáo chiếm không tới 5%
dân số nhưng chiếm hữu 70% ruộng đất.
Ngay từ cuối những năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã mô tả nông dân Việt Nam như sau:
“Ruộng bị Tây chiếm hết, không đủ mà cày. Gạo bị nó chở hết, khơng đủ mà ăn. Làm nhiều,
được ít, thuế nặng... Đến nỗi chết đói, hoặc bán vợ đợ con, hoặc đem thân làm nô lệ như những
người nó chở đi Tân thế giới...”.
Nạn đói năm Ất Dậu làm 2 triệu người chết, tỷ lệ chết đói cao nhất là những nơng dân khơng
có đất canh tác. Việc phân phối ruộng đất bất bình đẳng này cũng tiềm ẩn nhiều nguy cơ về các
nạn đói mới hoặc bạo động có thể xảy ra trong tương lai.
b. Miền nam:
Tính đến thập niên 1950 tại miền Nam Việt Nam thì tình hình sở hữu ruộng đất có rất nhiều
chênh lệch: 2,5% đại điền chủ sở hữu 45% tổng số ruộng trong khi 73% tiểu điền chủ chỉ chia
nhau 15%.
Trước khi đợt cải cách điền địa lần đầu tiên của Việt Nam Cộng hịa do chính phủ thời Ngơ
Đình Diệm thi hành, tại các vùng Việt Nam Dân chủ Cộng hịa kiểm sốt ở phía nam vĩ tuyến 17
- rẻo đất Trung Bộ và một số nơi ở đồng bằng sơng Cửu Long - chính phủ Việt Minh đã tịch thu
7
không bồi thường các nông trại trồng lúa của Pháp và những địa chủ cộng tác với Pháp rồi chia
những vùng đất này cho tá điền và nông dân.
Ở hầu hết các vùng còn lại, bao gồm những vùng đã từng thuộc về các giáo phái, những
người nông dân cũng tự thực hiện cải cách ruộng đất. Nhiều địa chủ đã bỏ đồng ruộng của mình
lên thành phố ở để tránh các cuộc xung đột vũ trang và tìm sự an tồn. Nơng dân đã chia nhau
những vùng ruộng đất này và ngưng nộp tô cho những thửa ruộng tự canh.
2. Sự cấp thiết của vấn đề cải cách ruộng đất:
Chính quyền Ngơ Đình Diệm đã thực hiện cuộc “cải cách điền địa” mà mục tiêu chính là
phục hồi giai cấp địa chủ, chỗ dựa cơ bản của chính quyền này. Chính sách cải cách điền địa của
chính quyền Ngơ Đình Diệm nhằm xố bỏ thành quả ruộng đất mà chính quyền cách mạng đã
đem lại cho nơng dân, cướp từ 80 - 90% ruộng đất mà chính quyền cách mạng đã giao cho nơng
dân miền Nam.
Chính sách về ruộng đất và tiếp đó cuộc phản cơng của Mỹ - Diệm vào nông thôn, nông
dân miền Nam bằng các “quốc sách” dinh điền, khu trù mật, ấp chiến lược… càng làm cho vấn
đề dân chủ, vấn đề ruộng đất đối với nông dân trở nên gay gắt hơn bao giờ hết.
Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 8, khóa II (tháng 8-1955), Ðảng ta nhận định: “Miền Bắc là
chỗ đứng của ta. Bất kể trong tình hình nào, miền Bắc cũng phải được củng cố”. Phát biểu tại Ðại
hội Mặt trận Dân tộc thống nhất toàn quốc (tháng 9-1955), Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ:
“Miền Bắc là nền tảng, là gốc rễ của lực lượng đấu tranh của nhân dân ta. Nền có vững, nhà mới
chắc. Gốc có mạnh, cây mới tốt”.
Trước tình hình đó, Đảng ta đã nhận thức được rằng không giải quyết vấn đề dân chủ, vấn đề
ruộng đất cho nơng dân, thì khơng hiệu triệu được nông dân ủng hộ cách mạng, không thực hiện
được chính sách liên minh cơng nơng, khó tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước.
Bài nói chuyện ở lớp chỉnh Đảng Trung ương khoá 3 ngày 10-4-1953: “Ta cịn khuyết điểm
trong việc thi hành chính sách ruộng đất. Ai đi bộ đội nhiều nhất? Nơng dân. Đóng thuế ai hăng
hái nhất? Nông dân. Dân công, ai đi nhiều nhất? Nơng dân. Tóm lại, đại đa số nơng dân tham gia
kháng chiến. Thế mà nông dân vẫn bị đói khổ, vẫn bị địa chủ bóc lột tơ tức”. Cho nên năm nay
8
Đảng, Chính phủ quyết tâm phát động quần chúng triệt để thi hành chính sách ruộng đất. Ta phải
hiểu rằng cách mạng của ta là dân tộc dân chủ nhân dân, thực chất là cách mạng nông dân, mà
cách mạng nông dân tức là cách mạng ruộng đất. Ba cái đó đi với nhau. Muốn kháng chiến thắng
lợi phải thi hành chính sách ruộng đất. Trái lại, khơng tán thành chính sách ruộng đất tức là
khơng kháng chiến, tức là không tán thành cách mạng. Tán thành đây không phải tán thành
miệng mà phải thực sự tham gia thực hiện chính sách ruộng đất, đảng viên, cán bộ phải gương
mẫu.Từ đó, thực hiện nguyện vọng tha thiết của nơng dân là độc lập dân tộc và người cày có
ruộng, là được giải thoát khỏi cả hai ách áp bức của đế quốc và phong kiến. Giải phóng nơng dân
khỏi ách địa chủ phong kiến, đem lại ruộng đất cho nông dân là nội dung cơ bản của cách mạng
dân chủ, đồng thời cũng là xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp giải phóng dân tộc, bởi vì vấn đề
dân tộc thuộc địa thực chất là vấn đề nông dân.
3. Các chính sách cải cách của Đảng về vấn đề ruộng đất
Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hịa thơng qua Dự luật Cải cách ruộng đất 197/HL.
Đối với ruộng đất địa chủ, Hội nghị Trung ương Cục nêu rõ: “Ruộng đất của thực dân và
địa chủ Việt Nam đã cấp cho nông dân hồi kháng chiến chống Pháp, nay kiên quyết địi lại, khơi
phục quyền sở hữu của nơng dân trên số ruộng đất đó, tịch thu ruộng đất của bọn địa chủ gian ác
hiện hành bị nhân dân lên án để chia cho nơng dân, có để lại một phần cho vợ con chúng”.
Đối với ruộng đất vắng chủ, tạm giao cho nông dân cày cấy và hưởng hoa lợi. Hội nghị
giải thích rõ thêm: “Ruộng đất của địa chủ vắng mặt đều giao cho nông dân quản lý và sản xuất.
Sau này khi cách mạng thành công, sẽ căn cứ vào thái độ chính trị cụ thể của từng người mà đối
xử”.
Đối với ruộng đất công, phải “đấu tranh giành lại công điền, chia công điền cho nông dân,
ưu tiên cho nông dân không ruộng và thiếu ruộng”.
Đối với các đồn điền trồng cây công nghiệp, Hội nghị Trung ương Cục lần thứ IV (1966)
nêu rõ: “Giải quyết theo nguyên tắc chung là đảm bảo đời sống của công nhân lao động, tiếp tục
chăn bồi cây công nghiệp đã trồng, khuyến khích chủ đồn điền tiếp tục kinh doanh và quản lý”
Thực hiện chính sách ruộng đất trên, tại các vùng giải phóng, đi đơi với việc xây dựng và
bảo vệ chính quyền cách mạng, Đảng đã thực hiện khẩu hiệu “giải phóng đến đâu, chia ruộng đến
đó”. Tính đến cuối 1965, chính quyền cách mạng đã chia 10 vạn héc ta (tức 70% diện tích canh
9
tác) cho nơng dân khơng có ruộng. Tính trung bình ở vùng đồng bằng sông Cửu Long, nông dân
đã làm chủ được từ 60 - 70% ruộng đất.
Sau cải cách, bộ mặt nơng thơn thay đổi căn bản. Tình trạng phân chia ruộng đất bất bình
đẳng bị xóa bỏ. Nơng dân nghèo được chia ruộng đất trở nên hăng hái, sản xuất nơng nghiệp gia
tăng. Ngồi ra, những tư tưởng cũ kỹ từ thời phong kiến cũng được xóa bỏ một phần. Đó là một
cuộc chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị và xã hội tại nơng thơn Việt Nam sau hàng thế kỷ
phong kiến.
Tuy nhiên, Sau khi nhận ra cuộc cải cách ở các địa phương đã diễn ra quá trớn, gây nhiều
oan sai, tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 đã tuyên bố các sai lầm trong cải cách
ruộng đất và ra lệnh đình chỉ cuộc cải cách. Trong tuyên bố của Hội nghị Trung ương 10 của
Đảng Lao động Việt Nam (tháng 9 năm 1956), chính quyền trung ương nhận trách nhiệm đã
buông lỏng theo dõi, khiến việc thi hành ở các địa phương bị mất kiểm soát.
III.
GIẢI QUYẾT SAI LẦM CỦA CUỘC CẢI CÁCH :
1. Kế hoạch sửa chữa sai lầm trong cuộc cải cách
Do nhận định chiến dịch Cải cách ruộng đất đã gây ra nhiều oan sai, làm rối loạn tình
hình nơng thơn, Đảng Lao động Việt Nam và chính phủ tiến hành các bước sửa sai như sau:
Tháng 2 năm 1956, Hội nghị Trung ương đảng lần thứ 9 tuyên bố các sai lầm trong cải
cách ruộng đất.
Tháng 3 năm 1956, Quốc hội họp lần thứ 4 tường trình bản báo cáo các sai lầm và biện
pháp sửa sai.
Ngày 18 tháng 8 năm 1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thư cho đồng bào và cán bộ nhìn
nhận sai lầm và cho biết Trung ương đảng và chính phủ đã nghiêm khắc kiểm điểm các sai lầm.
Cuối tháng 10-1956, thi hành Luật cải cách ruộng đất và cơng tác chỉnh đốn tổ chức,
quyết định những chính sách cụ thể để sửa chữa sai lầm.
Ngày 20/12/1956, Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã đưa ra bản kế hoạch sửa
chữa sai lầm về cải cách ruộng đất. Nội dung bản kế hoạch nhận định tinh thần của việc sửa chữa
10
sai lầm: "Kiên quyết sửa chữa sai lầm trong cải cách ruộng đất và chỉnh đốn tổ chức, phát huy
những kết quả và thắng lợi đã thu được. Trong lúc thực hiện nhiệm vụ đó, thì dựa trên đường lối
chung của Đảng và Chính phủ ở nơng thơn, dựa trên tin thần tinh tưởng và truyền thống đoàn kết
của nhân dân ta, thi hành đúng chính sách cụ thể sửa chữa sai lầm, nhằm đoàn kết cán bộ, đoàn
kết nhân dân, ổn định nông thôn, gây tinh thần phấn khởi đẩy mạnh sản xuất, hồn thành tốt cơng
tác cải cách ruộng đất. Trên cơ sở đó, đẩy mạnh cơng cuộc củng cố miền Bắc, tranh thủ miền
Nam và đấu tranh để thực hiện thống nhất nước nhà". Trong quá trình thực hiện, nội dung công
tác và thời gian cụ thể cho từng bước, nhưng việc thực hiện không hề máy móc, gị bó vào thời
gian. Cách sắp xếp việc nào cần thì làm trước, việc nào làm sau trong từng bước cũng phải căn cứ
vào tình hình cụ thể mỗi nơi mà quyết định. Bản kế hoạch gồm 03 bước như sau:
Bước 1: từ 15 đến 20 ngày Sửa đổi
- Yêu cầu của bước 1 do Chính phủ đưa ra:
+ Tuyên truyền giáo dục chính sách sửa sai nhằm ổn định tư tưởng cán bộ, nhân dân để mọi
người yên tâm và tham gia sửa sai theo kế hoạch, giữ vững trật tự an ninh.
+ Bước đầu củng cố các cơ quan lãnh đạo chủ yếu ở xã.
+ Giải quyết một số cơng việc cấp bách trước mắt có quan hệ trực tiếp đến đời sống của
nhân dân.
-
Nội dung công tác cụ thể của bước 1:
+ Củng cố tổ chức, nhằm bước đầu kiện toàn các cơ quan lãnh đạo ở xã: Ủy ban Hành
chính, ban chấp hành nơng hội, xã đội dân qn du kích, cơng an xã. Để làm tốt cơng tác nói trên,
các đơn vị, địa phương đã tuyên truyền, phổ biến trong nhân dân thông cáo của Hội đồng Chính
phủ để ổn định tư tưởng, cán bộ nhân
+ Tuyên truyền giáo dục, ổn định tư tưởng: Căn cứ vào tinh thần bản thơng cáo của Chính
phủ, các đơn vị, địa phương phổ biến làm cho mọi người nhận rõ Đảng và Chính phủ đã thấy
những sai lầm và quyết tâm sửa sai. Khi học tập, các xã đã lãnh đạo chu đáo, mở rộng dân chủ
làm cho ai nấy đều nhận rõ công tác cải cách ruộng đất ở địa phương đã thu được kết quả gì và đã
phạm những sai lầm gì, và động viên mọi người tham gia sửa sai. Các địa phương đã tổ chức
thăm hỏi các gia đình cán bộ, bộ đội, các gia đình có cơng với cách mạng và kháng chiến mà
11
trong giảm tô hay cải cách ruộng đất đã bị truy bức hoặc đã kích. Cán bộ cũ có uy tín với nhân
dân địa phương nên thu xếp về địa phương nói chuyện thăm hỏi đồng bào, động viên cán bộ cũ
và mới đồn kết và tích cực cơng tác. Tổ chức cuộc họp các giới, động viên khả năng tổ chức
quần chúng tham gia sửa sai.
+ Trả lại tự do: Các đơn vị, địa phương đã xét và trả lại tự do cho những người bị oan, đồng
thời giải quyết một số vấn đề về chính trị như minh oan, xóa quản chế, bỏ tiếng phản động, liên
quan cho những người được thả từ trước khi có chủ trương trả lại tự do cho những người bị oan.
+ Điều chỉnh diện tích và sản lượng: Việc điều chỉnh diện tích và sản lượng là một yêu cầu
của quảng đại quần chúng nông thôn, nếu làm được nhanh và tốt việc này sẽ tranh thủ được sự
đồng tình của nhiều người làm cho cho mọi người yên tâm sản xuất và thuận tiện cho việc thu
thuế năm nay. Việc điều chỉnh diện tích và sản lượng nói chung cần làm trong bước 1, sau khi đã
bước đầu kiện toàn tổ chức và tuyên truyền sâu rộng trong nhân dân.
Bước 2: khoảng 1 tháng Sửa đổi
-
Yêu cầu của bước hai là:
+ Trên cơ sở tuyên truyền và giáo dục chính sách cho nhân dân các đơn vị, địa phương tiến
hành sửa sai về thành phần, và đền bù tài sản cho những người bị quy sai, đồng thời sửa chữa
những sai lầm về các chính sách khác mà trong cải cách ruộng đất đã phạm phải.
-
Công tác cụ thể phải làm:
+ Tuyên truyền rộng rãi chính sách sửa sai trong nhân dân.
+ Họp các tổ nông hội để thảo luận kế hoạch sửa sai cụ thể trong xã. Trước hết là thảo luận
để nhận rõ mục đích việc sửa sai, nhận rõ phải đồn kết để sửa sai, nội dung cơng tác sửa sai, và
bàn cách sửa chữa thế nào cho tốt. Phải hướng dẫn mọi người bàn cách giải quyết những trường
hợp cụ thể và những người bị quy sai, khơng nên gị theo ý kiến cán bộ. Khi bàn cũng phải nêu cả
hai mặt, xác định xem cải cách ruộng đất đã thu được những thắng lợi gì, xử những ai sai, ai
đúng; vạch địa chủ nào đúng, quy thành phần ai là sai; diện tích sản lượng chỗ nào đúng, chỗ nào
sai; tịch thu, trưng thu, trưng mua của những người bị quy lầm địa chủ như thế nào, v.v...
Bước 3: Sửa đổi
12
- Chính phủ đã đưa ra yêu cầu của bước 3 là: kiểm điểm công tác sửa sai và bàn tiếp tục
giải quyết những vấn đề còn lại. Nơi nào cần thiết thì bầu lại cơ quan lãnh đạo, như Ủy ban Hành
chính và Ban chấp hành nơng hội xã.
Đầu nǎm 1953, để bồi dưỡng nông dân, củng cố khối liên minh công nông, đẩy mạnh kháng
chiến, Đảng ta đã đề ra chính sách phát động quần chúng triệt để giảm tô và thực hiện cải cách
ruộng đất. Việc đề ra chính sách đó là đúng và cần thiết.
2. Kết quả đạt được:
Sau cuộc vận động cải cách ruộng đất năm 1956, ta đã đạt dược nhiều kết quả tích cực chia
334.100 ha ruộng cho nơng dân, hồn thành xóa bỏ giai cấp địa chủ, xóa bỏ tàn dư chế độ phong
kiến ở miền Bắc nâng cao quyền làm chủ của nông dân trong nông thôn, Cuộc cải cách đã phân
chia lại đất canh tác một cách công bằng cho đa số nơng dân Bắc, giải quyết được nạn đói giáp
hạt, một bệnh kinh niên từ thời phong kiến. Theo tổng kê đến tháng 9 năm 1957, thì chiến dịch
sửa sai đã phục hồi danh dự và trả lại tài sản khoảng 70-80% số người bị kết án.
Sau 3 năm thực hiện cải cách (1955-1957), diện tích gieo trồng, năng suất lúa, sản lượng
lương thực, lương thực bình quân đầu người, gia súc, các cây công nghiệp, hầu hết đều vượt mức
năm 1939, riêng bông gấp 3 lần, lạc gấp 3,5 lần, đay gấp 1,5 lần.Cuộc vận động cải cách ruộng
đất năm đã đạt kết quả đáng kể. Chia 334.100 ha ruộng cho nơng dân; hồn thành xóa bỏ giai
cấp địa chủ, xóa bỏ tàn dư chế độ phong kiến ở miền Bắc; nâng cao quyền làm chủ của nông dân
trong nông thôn. Cuối năm 1956, ở miền Bắc đã chia 810 nghìn ha ruộng đất, 74 nghìn con trâu,
bị cho 2,1 triệu hộ nông dân (với hơn 10 triệu dân). Diện tích gieo trồng tồn miền Bắc tăng
thêm 23,5%, năng suất lúa tăng 30,8%, sản lượng lương thực tăng 57%, lương thực bình quân
đầu người tăng 43,6%, đàn trâu tăng 44,2%, đàn bò tăng 39%, đàn lợn tăng 20%. Về các cây
công nghiệp, hầu hết đều vượt mức năm 1939 (năm cao nhất thời Pháp thuộc), riêng bông gấp 3
lần, lạc gấp 3,5 lần, đay gấp 1,5 lần. Đến năm 1957, nền kinh tế miền Bắc được phục hồi, vượt
mức cao nhất dưới thời Pháp thống trị (năm 1939). Cuộc vận động cải cách ruộng đất ở miền Bắc
từ sau hịa bình lập lại, đến tháng 6-1955 được tiến hành ở 735 xã, bao gồm 1.608.294 nhân khẩu.
Tiếp đó tháng 12-1955, cải cách ruộng đất đợt 5 được triển khai ở 1.720 xã, có trên 6 triệu người
trong 20 tỉnh và 2 thành phố. Tháng 7-1956, cải cách ruộng đất đợt 5 kết thúc ở toàn bộ vùng
đồng bằng, trung du và 280 xã miền núi.
13
Cách mạng Việt Nam đã chuyển sang một giai đoạn mới, giai đoạn cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở miền Bắc. Sự chuyển biến đó yêu cầu phải làm tốt và làm nhanh cuộc vận động cải cách
ruộng đất để đẩy mạnh khôi phục kinh tế, củng cố miền Bắc và đưa nông thôn miền Bắc qua con
đường hợp tác hố nơng nghiệp mà tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Sau khi hồ bình được lập lại, phải hồn thành cải cách ruộng đất để đẩy mạnh khôi phục
kinh tế và mở đường cho miền Bắc nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội, củng cố miền Bắc thành cơ
sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh thực hiện thống nhất nước nhà; đồng thời cổ vũ nông dân và
nhân dân ta ở miền Nam đấu tranh chống Mỹ - Diệm, đòi cải thiện đời sống và hồ bình thống
nhất Tổ quốc
KẾT LUẬN
Sau cải cách, bộ mặt nông thôn miền Bắc thay đổi căn bản. Tình trạng phân chia ruộng
đất bất bình đẳng bị xóa bỏ, hồn thành xóa bỏ giai cấp địa chủ, xóa bỏ tàn dư chế độ phong kiến
ở miền Bắc nâng cao quyền làm chủ của nông dân trong nông thôn. Nông dân đã làm chủ nông
thôn, nguyện vọng lâu đời của người nông dân là người cày có ruộng đã được thực hiện. Sức sản
xuất ở nơng thơn đã được giải phóng, đời sống nhân dân bước đầu đã được cải thiện, mở đường
cho việc phát triển cơng thương nghiệp, góp phần quan trọng vào cơng cuộc củng cố miền Bắc,
phát triển kinh tế, văn hố. Nơng dân nghèo được chia ruộng đất trở nên hăng hái, sản xuất nơng
nghiệp gia tăng. Ngồi ra, những tư tưởng cũ kỹ từ thời phong kiến cũng được xóa bỏ một phần.
Đó là một cuộc chuyển biến to lớn về kinh tế, chính trị và xã hội tại nơng thơn Việt Nam sau
hàng thế kỷ phong kiến. Muc tiêu cǎn bản của cuộc cải cách đã đạt yêu cầu, có tác dụng quyết
định đối với việc hoàn thành nhiệm vụ xóa bỏ tàn dư phong kiến ở miền Bắc.
Tuy nhiên, ở một góc độ khác, việc thực hiện cải cách ruộng đất đã gây ra nhiều hậu quả
lớn. Ở các đợt đầu, cải cách diễn ra có kiểm sốt và trật tự, đạt hiệu quả tốt. Nhưng từ giữa năm
1955, do tiến hành vội vã, ở một số nơi đã xuất hiện hiện tượng nông dân địa phương trở nên q
khích, đấu tố tràn lan mất kiểm sốt, đã có nhiều người bị oan sai. Sau khi khắc phục được các sai
lầm, đã để lại nhiều bài học to lớn, Đường lối dựa vào nông dân thi hành cải cách là đúng, nhưng
lại không chú trọng việc giáo dục tư tưởng và chính sách một cách kỹ càng cho họ, trong khi đây
14
là đối tượng có trình độ kiến thức rất thấp. Cần Kiểm điểm tình hình, nói rõ trách nhiệm, thảo
luận các chính sách sửa sai và bàn kế hoạch sửa sai
Bỏ qua các thiếu sót, nhờ giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc, dân chủ gắn mục tiêu đấu
tranh chống Mỹ và chính quyền Sài Gịn và giành quyền làm chủ ruộng đất, xã ấp, Đảng huy
động được hàng triệu nông dân vùng lên khởi nghĩa từng phần, phá bỏ từng mảng hệ thống cai trị
của địch ở cơ. Từ đây góp phần xây dựng Xã hội chủ nghĩa, từng bước tiến tới gần giải phóng
dân tộc, thống nhất đất nước, tạo ra tiếng vang trên quốc tế.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
-
Tổng cục Hậu cần (1979), Công tác hậu cần chiến dịch Điện Biên Phủ, Hà Nội.
-
Lâm Quang Huyên (2007), Vấn đề ruộng đất ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội
-
Tạp chí Khoa học Xã hội Việt Nam, Vấn đề ruộng đất trong cách mạng dân tộc dân chủ ở
miền Nam thời kỳ 1954 – 1975
-
Wikiped, Cải cách ruộng đất tại miền Bắc Việt Nam
15