Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học KHÁI QUÁT một số QUAN NIỆM về NHÂN CÁCH TRONG tâm lý học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (158.94 KB, 19 trang )

KHÁI QUÁT MỘT SỐ QUAN NIỆM
VỀ NHÂN CÁCH TRONG TÂM LÝ HỌC
MỞ ĐẦU
Nhân cách là vấn đề trung tâm trong các nghiên cứu về tâm lý học. Nhà tâm
lý học nổi tiếng người Nga L.X.Vưgốtxki đã từng khẳng định: vấn đề nhân cách và
phát triển nhân cách là vấn đề tập trung cao nhất của toàn bộ tâm lý học. Tuy nhiên,
nhân cách lại là vấn đề phức tạp không chỉ của tâm lý học mà còn của nhiều khoa
học khác. Chính vì vậy, xuất phát từ cơ sở lý luận và phương pháp luận khác nhau
nên trong tâm lý học có rất nhiều quan điểm, tư tưởng, cách tiếp cận, các trường
phái khác và lý thuyết nhau khi nghiên cứu về nhân cách, có thể kể đến đó là:
Tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân cách. Các tư tưởng này thể hiện chủ
yếu ở học thuyết kinh dịch, âm dương ngũ hành, học thuyết của Khổng Tử về
Nhân, Lễ, Nghĩa, Trí, Tín…
Tâm lý học phương Tây về nhân cách thể hiện ở các lý thuyết như Phân tâm
của S.Freud, thuyết siêu đẳng và bù trừ của A.Adller, thuyết phát huy bản ngã của
A.Maslow, thuyết Đặc trưng của G.Allport, thuyết nhu cầu tâm lý của H.Murây,
thuyết Tương tác xã hội của G.Mít, thuyết Liên cá nhân của R.Siơ, thuyết Cái tôi
của C. Rogers, thuyết Trường tâm lý của K. Lêvin, thuyết Chạy trốn tự do của
Ph.Formm, thuyết tâm lý học thể trạng của Seldum, lý thuyết nhân tố về tâm lý
nhân cách của Cattell, Eysenck…Trừ thuyết phân tâm của S.Freud, những thuyết
trên đây đều có xu hướng ngày càng phủ định nguyên nhân sinh vật của sự thù địch
giữa nhân cách và xã hội, nhấn mạnh đến nhu cầu “nhân văn”của con người, đều cố
gắng chứng minh khả năng phát triển không ngừng của nhân cách, phát hiện những
hiện tượng, những sự kiện phong phú trong đời sống tâm lý thực tế của con người,
chú ý đến tính đặc trưng và tính cơ động của nhân cách, đề xuất một số phương
pháp nghiên cứu có giá trị.

1


Xu hướng nghiên cứu nhân cách ở Liên Xô (trước đây): Trong tâm lý học


Xơviết, cũng có nhiều quan niệm khác nhau về nhân cách như: Lý thuyết nhân cách
của D.N.Udơnatde, quan điểm về nhân cách trong luận điểm triết học - tâm lý học
của X.L.Rubinstêin, lý thuyết nhân cách của B.G.Ananhiep (1907 - 1972), quan
điểm của A.G.Kôvaliôp về nhân cách, quan điểm của K.K.Platônôp về nhân cách,
cách tiếp cận nhân cách của A.N.Lêơnchiep (1903 - 1979)…
Ngồi ra, trong q trình tiếp thu, nghiên cứu, kế thừa các quan niệm khác
nhau về nhân cách trong lịch sử, các nhà tâm lý học và tâm lý học quân sự Việt
Nam cũng đưa ra những quan niệm hết sức phong phú khi nghiên cứu về nhân cách
con người nói chung và nhân cách quân nhân nói riêng…
Trong phạm vi bài thu hoạch, tác giả chỉ khái quát những vấn đề cơ bản nhất
một số quan niệm về nhân cách trong tâm lý học.
1. Tư tưởng phương Đông cổ đại về nhân cách
Các nhà tư tưởng triết học phương Đông cổ đại cho rằng con người là tiểu vũ
trụ, mang những đặc tính của vũ trụ. Những đặc tính này chi phối sự phát triển con
người. Con người liên hệ với vũ trụ bao la nên con người cần biết được các thông
tin của vũ trụ. Thực thể con người là sản phẩm của nguyên lý âm dương, vừa đối
lập vừa thống nhất, chứa đựng và chuyển hoá lẫn nhau, trời - đất - người hợp thành
một (thiên - địa - nhân hợp nhất). Mạnh Tử nhận xét: Khi phát triển hết mình, con
người có thể biết trời mà cịn hợp nhất với trời làm một.
Tính cách của con người chịu ảnh hưởng của ngũ hành và chia ra loại người:
Kim, Hoả, Thổ, Mộc, Thuỷ. Người mệnh Kim ăn ở có nghĩa khí, nếu Kim vượng
thì tính cách cương trực. Người mệnh Hoả thì lễ nghĩa, đối với mọi người nhã
nhặn, lễ độ, thích nói lý luận; nhưng nếu Hoả vượng thì nóng nảy, vội vã, dễ hỏng
việc. Người mệnh Thổ trọng chữ tín, nói là làm; nếu Thổ vượng thì hay trầm tĩnh,
không năng động, dễ bỏ thời cơ. Người mệnh Mộc hiền từ, lương thiện, độ lượng;
Mộc vượng thì tính cách bất khuất. Người mệnh Thuỷ thì khúc khuỷu, quanh co,
nhưng thơng suốt; nếu Thuỷ vượng thì tính tình hung bạo, dễ gây tai hoạ.
2



Người phương Đông đánh giá con người qua chất là chủ yếu, lượng là phụ.
Người phương Đông lấy “Tâm thiện” là lý tưởng. Phương Tây tôn sùng tiến bộ, tôn
sùng văn minh vật chất, không quan tâm nhiều đến phẩm chất.
Người phương Đơng đề cao tính thiện, tính nhân, thích sự im lặng, nhẹ
nhàng, đề cao sự cân bằng không thái quá. Mọi tu nhân, xử thế, chính trị đều hướng
tới Thiện. Biết đủ là giàu, giản dị ở vật chất, giản dị trong nội tâm, trong ngôn từ,
trong quan hệ với mọi người.
Khổng Tử quan niệm về nhân cách con người thể hiện ở Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín. Trong đó Nhân là gốc và chỉ có người “Đại nhân” mới có Nhân.
Về nhân cách con người Việt Nam, trong cuốn Tâm lý học Nhân cách, tác giả
Nguyễn Ngọc Bích đã thống nhất với quan điểm của GS Trần Văn Giàu về đặc
điểm nhân cách người Việt Nam gồm bảy phẩm chất: Yêu nước, cần cù, anh hùng,
lạc quan, sáng tạo, thương người, vì nghĩa. Và đưa thêm vào một nét đặc trưng nữa
là sự thích ứng, hồ nhập của con người với người khác trong và ngoài cộng đồng
của mình, hồ nhập với thiên nhiên…
Trên đây là những nét sơ lược về tư tưởng phương Đơng cổ đại có liên quan đến
nhân cách con người. Nó nói lên hồn cảnh và phương thức sống của con người phương
Đông. Tuy vậy, đây chưa phải là những quan điểm, học thuyết về nhân cách.
2. Quan niệm về nhân cách trong tâm lý học phương Tây.
Ở phương Tây có nhiều học thuyết khác nhau về nhân cách. Tuy nhiên, trong
phạm vi một bài thu hoạch, tác giả chỉ đề cập đến một số trường phái lớn trong tâm
lý học phương Tây về nhân cách như Phân tâm học, trường phái Gestalt, tâm lý học
nhân văn về nhân cách, tâm lý học nhận thức của Piagiê về nhân cách…
2.1. Phân tâm học về nhân cách
- Quan niệm của S.Freud về nhân cách
Theo S.Freud (1856 - 1939) người sáng lập ra trường phái Phân tâm học, cấu
trúc nhân cách con người gồm 3 khối: Cái nó, cái tơi và cái siêu tơi, tương ứng với
3 cấp độ vô thức, ý thức và siêu thức.
3



Khối vơ thức là khối bản năng, trong đó bản năng tình dục giữ vị trí trung
tâm. Khối vơ thức (id) là thùng năng lượng tâm thần chất chứa những khát vọng
bản năng sơi sục. Hoạt động của “cái nó” theo ngun tắc khối cảm địi hỏi sự
thoả mãn ngay lập tức những khát vọng bản năng. Vô thức là cái ngấm ngầm điều
khiển, điều chỉnh hành vi con người.
Khối ý thức tương đương với cái “tôi” (ego). Cái tôi được hình thành do áp
lực thực tại bên ngồi đến tồn bộ khối bản năng. Nó đảm bảo các chức năng tâm
lý như chú ý, trí nhớ…Hoạt động của cái tôi theo nguyên tắc thực tại. Nhiệm vụ
của cái tôi là làm cho cái nó thoả mãn mà khơng làm tổn hại đến cơ thể, làm giảm
sự căng thẳng một cách tốt nhất.
Siêu tôi (superego): là tổ chức bên trong bao gồm tất cả phạm trù xã hội, đạo
đức, nghệ thuật, giáo dục. Siêu tôi hoạt động theo nguyên tắc kiểm duyệt.
Cả ba khối này theo nguyên tắc chung là ở trạng thái thăng bằng tương đối: Con
người lúc ấy ở trạng thái bình thường. Nhưng cả ba khối này luôn luôn xung đột
với nhau, sự xung đột này là cơ chế của hoạt động tâm thần.
Từ quan niệm như trên S.Freud nêu ra cơ chế hoạt động tâm lý của con người.
Đó là cơ chế kiểm duyệt, chèn ép, cơ chế biến dạng, cơ chế siêu thăng, cơ chế suy thoái.
Con người sống gồm các bản năng, xu hướng của các bản năng này là luôn
vươn lên chiếm đoạt những cái khác (cái tôi và siêu tôi). Nhưng cái bản năng luôn
bị sự chèn ép, kiểm duyệt của cái siêu tơi. Do đó, nó phải biến dạng bằng một hình
thức nào đó như bệnh tâm thần, nói lắp,... Trong trường hợp khơng thốt lên được
thì nó siêu thăng. Chẳng hạn như trường hợp của danh hoạ Leonado Đa Vance đã
biến cái say mê tình dục thành nghệ thuật hội hoạ.
Cái siêu tôi thể hiện ở sự dạy dỗ, quy định của bố mẹ, thể hiện trong truyền
thống của thế hệ trước truyền lại. Cơ chế tâm lý của việc hình thành siêu tơi là sự
đồng nhất hố - cá nhân đồng nhất với cha mẹ và những người giáo dục.
Các giai đoạn phát triển nhân cách

4



S.Freud chia sự phát triển nhân cách con người thành bốn giai đoạn, trong
đó, ba giai đoạn đầu gọi là tiền sinh dục.
+ Giai đoạn lỗ miệng (Onal): Có từ lúc trẻ mới sinh, trẻ tìm thấy khối lạc ở
miệng như mút vú mẹ, cho các đồ vật vào mồm.
+ Giai đoạn hậu môn (Anles): Ở trẻ năm thứ hai và năm thứ ba. Giai đoạn
này trẻ chú ý tìm khối lạc của hoạt động hậu mơn.
+ Giai đoạn âm vật và dương vật: Giai đoạn này trẻ chú ý đến bộ phận sinh
dục, nảy sinh ra tình cảm lãng mạn đối với cha hoặc mẹ, người khác giới.
Trong ba giai đoạn trên, cá nhân hướng đến bản thân mình. Đến giai đoạn
thứ tư, cá nhân hướng ra đối tượng bên ngồi bắt đầu từ tuổi dậy thì. Các năng
lượng của con người đựơc sử dụng ở mục đích khác nhau như đi học, vui chơi, bắt
chước, hướng ra đối tượng khái giới để làm tình…
Học thuyết phân tâm của S.Freud đã đưa ra giả thuyết về vô thức, tiềm thức là
những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý của con người. S.Freud đã khám phá một thế
giới vô thức mà trước đây chưa được khám phá. Mặt khác, đóng góp của S.Freud cịn ở
chỗ đưa ra một số cơ chế tâm lý như cơ chế tự vệ, dồn nén, mặc cảm, đồng nhất hoá, các
giai đoạn phát triển nhân cách... S.Freud đã lần đầu tiên đưa ra được mơ hình tâm lý để
chữa bệnh tâm thần có hiệu quả. Phương pháp chữa bệnh bằng “liên tưởng tự do” đã
được sử dụng khá rộng rãi và hiệu quả trong điều trị bệnh tâm thần.
Tuy nhiên, S.Freud đã quá nhấn mạnh đến mặt vô thức trong con người,
không thấy được mặt bản chất trong ý thức tâm lý của con người, không thấy được
bản chất xã hội - lịch sử của các hiện tượng tâm lý người. Mặt khác, quan niệm về
con người và nhân cách con người của S.Freud bộc lộ những khía cạnh khơng đúng
đắn: con người trong học thuyết phân tâm là con người sinh vật, con người cơ thể
bị phân ly ra nhiều mảng, con người với những mong muốn là những đam mê tính
dục và luôn đối lập với xã hội.
- Phân tâm học mới về nhân cách


5


+ K.Jung (1879 - 1961) cho rằng hành vi con người được điều chỉnh bằng vô
thức và cả ý thức. Đó là q trình điều chỉnh tổng hợp, là một hệ thống tự điều
chỉnh. Ơng cho rằng con người có vô thức đạo đức bẩm sinh. Các hoạt động của
con người có tính chất bản năng và tạo thành vơ thức tập thể. Điều đó được thể hiện
trong nền văn hố dân tộc cũng như trong nghệ thuật. Ơng cho rằng có vơ thức tập
thể bởi vì mỗi người đều tiềm tàng trong mình một di sản tinh thần được truyền từ
nhiều thế hệ trong một nền văn hoá dân tộc và nền văn minh nhân loại. Chính vì
vậy, hình thức phản ứng của mỗi cá nhân cũng giống nhau.
K.Jung khơng thừa nhận bản năng tình dục là quyết định tâm lý con người
như S.Freud quan niệm, nhưng ông lại thừa nhận trong con người có vơ thức. Vì
vậy, bản chất học thuyết của K.Jung vẫn là học thuyết phân tâm được cải biến
thành học thuyết phân tâm mới.
Trong cấu trúc nhân cách của K.Jung, cái tôi là trung tâm của ý thức. Nhân
cách là mẹ của ý thức. Vô thức là mẹ của tâm lý tập thể và tâm lý cá nhân. Quan
điểm của Jung về nhân cách còn gọi là lý luận nhân cách tầng sâu. Lý luận nhân
cách tầng sâu xuất phát từ quan niệm vô thức. Vô thức được xác định bằng những
sự kiện của hành vi. Đó là những bản năng trực tiếp và bản năng tức thời. Lý luận
nhân cách tầng sâu là một khám phá mới về vô thức. Song điều này chưa đủ để nói
lên bộ mặt nhân cách con người. Nhân cách con người còn thể hiện những phẩm
chất cũng như bộ mặt đạo đức trong nó.
+ A. Adller là nhà tâm lý học người Áo. Ông cho rằng tất cả hành vi của con người
đều chịu ảnh hưởng xã hội. Nhân cách thống nhất với hồn cảnh và mơi trường xã hội.
Ơng vẫn cho vơ thức bản năng hay năng lượng tâm hồn là những cơ chế của tính tích cực,
xung đột và bảo vệ. Theo ông, con người luôn muốn hơn người khác, khi có nhược điểm
trong lĩnh vực này lại siêu đẳng trong lĩnh vực khác. Đó là cơ chế bù trừ xuất phát từ
động cơ xã hội ( Freud xuất phát từ động cơ tình dục). Ví dụ một cơ gái khi kém cỏi về
nhan sắc thì lại được bù đắp trong lĩnh vực học hành.


6


Sự bù trừ là có thật trong đời sống con người. Nhưng sự bù trừ này phụ
thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó yếu tố xã hội có tính chất quyết định. Ở đây, Atler
quá thổi phồng tính chất bù trừ trong con người, mà khơng thấy vai trị hoạt động
của con người trong xã hội.
+ E.Fromm là nhà tâm lý học sinh ra ở Đức sau đó chuyển sang Mỹ. Ơng có
ý đồ pha trộn phân tâm học của S.Freud và học thuyết xã hội học của Mác vào nhau
và xây dựng nên lý thuyết “chủ nghĩa nhân đạo mới”. Về tâm lý học, Fromm cho
rằng cơ chế tự nhiên và xã hội trong con người là vô thức, đó là cái phi lý, hạt nhân
của nhân cách. Nó biểu hiện sự mong muốn vươn tới cái phi lý, hạt nhân của nhân
cách. Nó biểu hiện cho sự mong muốn vươn tới cái hài hoà toàn diện của con
người. Sự tiến bộ xã hội là do tâm lý con người tạo ra. Ơng đưa ra mơ hình con
người mới giữa các đặc điểm sau:
* Con người mới phải từ bỏ vật chất để sống thanh thản
* Con người phải làm cho cuộc đời có ý nghĩa
* Phải có lịng yêu thương và trân trọng cuộc sống
* Phải trau dồi tình u thương vốn có
* Phải khắc phục được tính tự u mình và chấp nhận tính chất hạn chế trong
cuộc sống con người.
Tuy nhiên, đây chỉ là con người trừu tượng, chung chung không thể thực
hiện trong xã hội tư bản.
Cái sai lầm của Fromm là dung hoà giữa quan niệm của S.Freud và chủ
nghĩa Mác. Sự thật không thể có cơ sở tự nhiên nào do Freud tạo ra làm cơ sở cho
chủ nghĩa Mác. Đồng thời, sự tiến bộ xã hội do động lực kinh tế quyết định chứ
không do yếu tố tâm lý nào như Fromm giải thích.
2.2. Trường phái Gestalt về nhân cách
Trường phái Gestal mang cấu trúc trọn vẹn dựa vào các phương pháp tư duy

toán học và thực nghiệm để nghiên cứu hành vi con người. Nổi bật trong trường
phái này là K.Lêvin. Nếu như hầu hết các nhà tâm lý học Gestalt quan tâm đến vấn
7


đề tri giác, tư duy thì K.Lêvin lại quan tâm đến vấn đề động cơ, nhân cách và tâm
lý học xã hội. Ông đưa ra thuyết trường tâm lý, cho rằng con người ln ln tồn
tại trong một hồn cảnh, một trường tâm lý nào đó.
Ơng quan tâm đến tiên trị âm và tiên trị dương trong cùng một không gian
sống. Tiên trị dương là nhằm thoả mãn những nhu cầu nào đó của cá nhân (như kẹo
với đứa trẻ). Các khái niệm “trường tâm lý”, “không gian sống” thể hiện một
phương pháp mới miêu tả hành vi hiện thực của nhân cách. Về thuyết “trường tâm
lý”, ông cho rằng thế giới xung quanh ta là thế giới của các sự vật và có những
trình tự nhất định. Vì vậy, con người ln ln tồn tại trong một hồn cảnh, một
trường tâm lý nào đó.
Khái niệm “khơng gian sống” Lêvin đưa ra nhằm giải thích hành vi của
nhân cách, khơng gian sống bao gồm cả trường tâm lý. Ông cho rằng, nếu ta biết rõ
về không gian sống của con người; có những thơng tin về người ấy thì có thể dự
đoán hành vi của người ấy. Lý luận và các cơng trình thực nghiệm của Lêvin về
khơng gian sống đã đưa ơng chiếm một vị trí cao trong tâm lý học nhân cách. Các
khái niệm “trường tâm lý”, “không gian sống” thể hiện một phương pháp mới miêu
tả hành vi hiện thực của nhân cách. Ông đã khám phá động lực của mối quan hệ cá
nhân và hoàn cảnh, nhu cầu, nguyện vọng. Ơng đã sơ đồ hố các khái niệm tâm lý
bằng trường không gian, địa thế, véctơ.
Tuy vậy, lý luận về “ trường tâm lý ” và “khơng gian sống” cũng có những
khó khăn mà khơng thể giải quyết được. Ví dụ ta khơng thể biết được cấu trúc và
khơng gian sống của một con người. Hồn cảnh con người sống ln thay đổi, do
đó khơng gian sống cũng thay đổi. Vì vậy, nếu dựa vào khơng gian sống thì khó
đánh giá được nhân cách con người.
Quan điểm của K.Lêvin là quan điểm của trường phái Gestalt mang cấu trúc

trọn vẹn. Nhân cách được xét trong hoàn cảnh, trong nhóm, nhưng những quy định
về chính trị, kinh tế đối với hành vi nhân cách không được ông để ý đến một cách

8


thoả đáng. Vì vậy, lý luận nhân cách của ơng không tránh khỏi sự sơ lược trong
quan niệm của Gestalt.
2.3. Tâm lý học nhân văn về nhân cách
Trường phái tâm lý học nhân văn hình thành ở Mỹ như là một khuynh hướng
đối lập với tâm lý học hành vi và phân tâm học. Nếu tâm lý học hành vi lấy điều
kiện bên ngoài quyết định cho tâm lý con người thì phân tâm học lấy điều kiện bên
trong làm nguyên tắc quyết định.
Tâm lý học nhân văn khác với hai khuynh hướng trên là ở chỗ nó khơng tạo
nên một bộ mặt lý luận thống nhất về nhân cách. Trường phái này là sự tổng hợp
nhiều hướng mới và nhiều trường phái tư tưởng khác nhau. Nhưng những nhà tâm
lý học nhân văn đều có chung những tư tưởng là tôn trọng con người, tôn trọng
những phẩm giá cá nhân về con người. Họ cho rằng con người bẩm sinh là tốt và
đề cao vai trị của hồi bão, khát vọng tự do cũng như khả năng vươn tới cái tốt đẹp
trong con người. Động cơ chính trong cuộc đời là khuynh hướng tự thể hiện mình,
khuynh hướng này là bẩm sinh và không ngừng thúc đẩy con người hướng đến hoạt
động, giúp họ tự thể hiện mình.
Từ những quan điểm trên của trường phái tâm lý học nhân văn về nhân cách
con người ta thấy tâm lý học nhân văn đã nhìn thấy được bản chất tốt đẹp trong con
người. Đề cao hoài bão và nỗ lực vươn lên của con người. Tuy vậy tâm lý học nhân
văn đã dựa vào những kinh nghiệm chủ quan để phân tích nhân cách con người,
quay về với truyền thống tơn giáo nên rơi vào quan điểm duy tâm phản khoa học.
Con người được tâm lý học nhân văn quan niệm giống như kiểu người được mô tả
trong văn chương, tôn giáo diễn tả kiểu tư duy ước ao, mong muốn, khơng có
những cơ sở thực tiễn để hiện thực hố.

Người đầu tiên có cơng xây dựng nền tâm lý học nhân văn là A.Maslow
(1908 - 1970) đã từng là chủ tịch hội tâm lý nhân văn đầu tiên ở Mỹ.
Về nhân cách, ông đưa ra hệ thống nhu cầu, quá trình nhận thức triệu chứng
nhân cách và năng lực. Động cơ thúc đẩy mạnh mẽ nhất là nhu cầu. Theo ông có
9


thể chia ra năm loại nhu cầu theo thứ tự từ thấp đến cao và nếu nhu cầu cấp thấp
không thoả mãn thì nhu cầu cấp cao cũng khơng thể thực hiện được.
Nhu cầu cấp cao:
- Nhu cầu thực tiễn
- Nhu cầu được thực hiện
- Nhu cầu yêu thương, lệ thuộc
Nhu cầu cấp thấp:
- Nhu cầu an toàn
- Nhu cầu sinh lý
Maslow cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng của con người. Những nhu
cầu như giao tiếp, lòng kính trọng đều có tính chất bản năng đặc trưng cho giống
người. Các nhu cầu đều dựa trên cơ sở di truyền nhất định. Chính vì vậy, học thuyết
nhu cầu của A.Maslow có những điểm giống học thuyết của S.Freud.
2.4. Quan niệm về nhân cách của J.Piagiê
J.Piagiê nhà tâm lý học Thuỵ Sỹ chủ yếu nghiên cứu về tâm lý trẻ em, sự
hình thành và phát triển trí tuệ, mối quan hệ giữa chủ thể và khách thể. Ông cho
rằng phải nghiên cứu cá nhân con người, đó là chủ thể của mối quan hệ xã hội.
Khái niệm “cân bằng” là trung tâm trong học thuyết về nhân cách của ơng.
Ơng dùng khái niệm “cân bằng” đề giải thích nguồn gốc của các cấu trúc thao tác.
Nhờ có luật bù trừ mà có sự cân bằng trong tâm lý. Qua những cơng trình nghiên
cứu về trí tuệ trẻ em, ơng đã rút ra những bài học quý về nhân cách. Đó là sự cân
bằng tâm lý, tính tự kỷ trung tâm sơ khai và con đường phát triển nhân cách. Ông
khẳng định giáo dục đúng đắn là yếu tố quan trọng nhất trong việc phát triển nhân

cách, cùng với nó là tôn trọng quyền con người.
3. Quan niệm về nhân cách của tâm lý học Macxit
Đứng trên lập trường, quan điểm của triết học duy vật biện chứng, nền tâm lý
học Xôviết đã cống hiến cho nhân loại những thành tựu to lớn, phong phú, đa dạng

10


khơng ai có thể phủ nhận được. Những ngun tắc nghiên cứu tâm lý nói chung và
nhân cách nói riêng của họ là:
- Nguyên tắc phản ánh: Tâm lý con người là phản ánh hiện thực khách quan
thông qua não. Nó là hình ảnh phản chiếu hiện thực khách quan thơng qua chủ thể
mỗi người. Hình ảnh hiện thực khách quan đó thơng qua mỗi người được thể hiện
khác nhau do chủ quan của người ấy.
- Nguyên tắc quyết định luận: Đó là tồn tại quyết định ý thức. Tồn tại có trước, ý
thức có sau. Vật chất quyết định ý thức. Vì vậy muốn nghiên cứu tâm lý con người phải
nghiên cứu tồn tại con người, tức là hoàn cảnh con người sống và hoạt động.
- Nguyên tắc phát triển: Hiện thực khách quan luôn luôn biến đổi, tâm lý con
người cũng luôn luôn biến đổi và phát triển. Vì vậy, nghiên cứu hiện tượng tâm lý
nào cũng phải nhìn thấy sự phát triển khơng ngừng của nó. Trong tâm lý học nhân
cách nguyên tắc phát triển lại càng quan trọng. Nhờ nguyên tắc này mà chúng ta
đánh giá nhân cách con người không thể ở thể tĩnh mà luôn luôn động, nghĩa là
trong sự phát triển và biến đổi của nó.
- Nguyên tắc thống nhất ý thức với hoạt động, hoạt động và nhân cách, chủ
quan và khách quan, giữa xã hội và cá nhân, giữa các sinh vật và các xã hội. Hoạt
động là phương thức tồn tại ý thức, nhân cách, cá nhân và xã hội. Nhờ có hoạt động
mà ý thức, nhân cách cá nhân, xã hội mới tồn tại và phát triển. Vì vậy giữa chúng
có sự thống nhất với nhau trên một phương diện nào đó.
- Nguyên tắc tiếp cận góc độ nhân cách đối với các hiện tượng tâm lý.
Nguyên tắc này yêu cầu khi nghiên cứu một hiện tượng tâm lý nào phải gắn liền

với nhân cách của người ấy với tư cách là một cá nhân cụ thể.
- Nguyên tắc tiếp cận cấu trúc hệ thống trong tâm lý học nhân cách. Nguyên
tắc này đòi hỏi nghiên cứu nhân cách phải đặt nó trong một hệ thống cấu trúc nhất
định. Có như vậy chúng ta mới giải quyết được những vấn đề bản chất nhân cách.
3.1. Quan điểm của B.G.Ananhiep về nhân cách

11


B.G.Ananhiep đã xuất phát từ những khái niệm cá thể, chủ thể, khách thể,
hoạt động, cá nhân để giải quyết vấn đề nhân cách. Ông cho rằng nhân cách là cá
thể có tính chất xã hội, là khách thể và chủ thể của từng bước tiến lịch sử. Nhân
cách không tồn tại ngồi xã hội, khơng tồn tại ngồi lịch sử. Sự phong phú của mối
quan hệ xã hội của cá nhân đã tạo nên những đặc điểm của nhân cách. Cấu trúc
nhân cách được dần dần hình thành trong quá trình cá nhân hoạt động trong mối
quan hệ xã hội.
Ông đưa ra cấu trúc nhân cách theo hai nguyên tắc: Nguyên tắc thứ bậc và
nguyên tắc phối hợp. Nguyên tắc thứ bậc là sự sắp xếp đặc điểm xã hội chung nhất
quy định những đặc điểm tâm sinh lý. Nguyên tắc phối hợp là sự tác động qua lại
giữa các thành phần độc lập tương đối và thành phần phụ thuộc.
Theo B.G.Ananhiep, để nghiên cứu con người với tư cách là nhân cách phải
nghiên cứu xu hướng, tính cách, hành vi xã hội, động cơ hành vi, cấu trúc nhân
cách, vị thế nhân cách, con đường sống của nhân cách trong xã hội. Điều này đòi
hỏi các nhà khoa học, tâm lý học, xã hội học, giáo dục học, đạo đức học phải quan
tâm nghiên cứu.
Ananhiep coi con người là tiểu vũ trụ. Điều này rất tương đồng với quan
niệm phương Đông về con người. Con người là tinh hoa của vũ trụ, trong con
người có đại diện của quy luật vũ trụ. Quan điểm Ananhiep coi việc nghiên cứu
nhân cách là tổng hợp các khoa học nghiên cứu về con người là một đóng góp quan
trọng trong việc chỉ hướng nghiên cứu nhân cách. Nghiên cứu nhân cách không

tách rời việc nghiên cứu con người và các khoa học khác nghiên cứu về con người.
3.2. Quan điểm của A.N.Lêônchiep về nhân cách
A.N.Lêônchiep (1903 - 1979) là nhà tâm lý học kiệt xuất của Liên xô. Khi
nghiên cứu về nhân cách, ơng cũng có những quan điểm mới mẻ.
Leonchiep coi nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới, được hình thành trong
các quan hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động của người đó. Khái niệm nhân
cách thể hiện tính chỉnh thể của chủ thể cuộc sống. Nhân cách là một cấu tạo đặc
12


biệt có tính trọn vẹn. Nhân cách là sản phẩm tương đối muộn của sự phát triển xã
hội lịch sử và của sự tiến hoá cá thể của con người. Sự hình thành nhân cách là một
q trình riêng khơng trùng khớp với q trình biến đổi các thuộc tính tự nhiên của
cá thể. Những quá trình thần kinh của cá nhân sẽ khơng biến thành những thuộc
tính nhân cách, mặc dù q trình thần kinh sẽ khơng thiếu được trong quá trình
hình thành nhân cách.
Muốn hiểu nhân cách phải dựa vào hoạt động của chủ thể để phân tích hoạt
động là cơ sở của nhân cách. Việc nghiên cứu nhân cách phải xuất phát từ sự phát
triển của hoạt động, những loại hình cụ thể của hoạt động và mối liên hệ của nhân
cách đó với những người khác.
Quan điểm của A.N.Lêônchiep về động cơ, xúc cảm và nhân cách: Trước hết
ơng đưa ra cách hiểu sự hình thành nhu cầu của con người theo sơ đồ Hoạt động Nhu cầu - Hoạt động, luận điểm này cho rằng nhu cầu của con người cũng được
sản xuất ra. Nhu cầu được phân tích về mặt tâm lý sẽ dẫn tới phân tích động cơ.
Ơng chia ra hai loại động cơ: Động cơ tạo ý và động cơ kích thích. Động cơ tạo ý
gắn liền với nhân cách. Động cơ tạo ý ở cấp cao hơn so với động cơ kích thích,
song có khi nó khơng tham gia vào kích thích, thúc đẩy hoạt động mà khuất đằng
sau kích thích.
Tiền đề của sự hình thành nhân cách là sự phát triển của q trình hình thành
mục đích và phát triển những hành động của chủ thể tương ứng gắn với mục đích.
Sự hình thành nhân cách là một q trình liên tục gồm các giai đoạn tuần tự thay

thế nhau, làm thay đổi tiến trình sự phát triển tâm lý sau này. Nền tảng của nhân
cách là sự phong phú của mối quan hệ giữa cá nhân với thế giới. Trong mối quan
hệ này con người phải hoạt động bao gồm hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn.
Điều cuối cùng mà A.N.Lêônchiep bàn đến là vấn đề con người tự ý thức
mình là một nhân cách. Đó là quá trình phát triển ý thức bản ngã. Ý thức cá nhân
không chỉ là kiến thức, hệ thống ý nghĩ, hoặc các khái niệm thu nhận được mà còn
là sự vận động bên trong phân biệt sự hiểu biết về bản thân và tự ý thức về mình.
13


Tóm lại, quan điểm chủ yếu về nhân cách của Lêơnchiep lấy hoạt động là cơ
sở. Vì vậy, phải lấy hoạt động để phân tích, biện giải hiện tượng nhân cách. Khi
phân tích nhân cách phải kể đến động cơ, nhu cầu, mục đích và hành động của cá
nhân trong hoạt động. Có như vậy mới có thể tách bạch được những cấp độ khác
nhau: Cấp độ sinh vật, cấp độ tâm lý với tư cách là chủ thể và cấp độ xã hội, ở đó
con người thực hiện những quan hệ xã hội trong nghiên cứu của mình.
3.3. Quan niệm của K.K.Platonop về nhân cách
Platonop đưa ra định nghĩa: Nhân cách là một con người cụ thể như là một
chủ thể cải tạo thế giới trên cơ sở nhận thức, thể nghiệm thế giới, trên cơ sở quan
hệ với thế giới đó, như vậy, ta có thể diễn đạt tư tưởng đó ngắn gọn hơn: nhân cách
là con người mang ý thức.
Ý thức không phải là một thực thể thụ động mà là một hình thức phản ánh
bậc cao chỉ có ở người. Đứa trẻ mới ra đời chưa có ý thức. Nhân cách sẽ hình thành
trong giao tiếp với người khác. Có nhân cách tiến bộ và nhân cách phản động, nhân
cách lành mạnh và nhân cách ốm yếu. Ơng cho rằng khơng thể xác định được lúc
nào thì con người hình thành nhân cách.
Theo Platonop, cấu trúc tâm lý chức năng cơ động của nhân cách gồm bốn
cấu trúc nhỏ được xác định bằng bốn phạm trù sau đây:
- Tính cần và đủ để đưa tồn bộ các yếu tố, các nét của nhân cách vào bốn
cấu trúc ấy.

- Sự thừa nhận nhân cách phân loại các thuộc tính cá nhân và các khái niệm
tâm lý về phương diện thực tế.
- Tỉ lệ nghịch của độ chênh lệch tính chế ước xã hội và tính chế ước sinh vật của
các thuộc tính cá nhân riêng biệt và những cấu trúc nhỏ thống nhất những thuộc tính ấy.
- Tính chất chuyên biệt của các loại quan hệ trong sự hình thành mỗi cấu trúc nhỏ.
Liên quan đến bốn phạm trù trên có bốn cấu trúc nhỏ: Cấu trúc nhỏ thứ nhất
là xu hướng (lý tưởng, thế giới quan, niềm tin…); cấu trúc nhỏ thứ hai là kinh
nghiệm (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen); cấu trúc nhỏ thứ ba là các quá trình
14


tâm lý; cấu trúc nhỏ thứ tư là các thuộc tính sinh học quy đinh nhân cách (khí chất
giới tính, lứa tuổi, bệnh lý…).
Ngoài cấu trúc kể trên, theo Platonop, nhân cách con người cịn ở thuộc tính
khác là tính cách và năng lực. Tính cách cũng như năng lực là tổng hồ các thuộc tính
có trong sự tương ứng với hoạt động. Tính cách và năng lực cá nhân tương hỗ với
nhau. Trong một mức độ nào đó, năng lực biểu hiện ra và trở thành tính cách.
Tóm lại, quan điểm của K.K. Platonop là một đóng góp mới cho việc giải
quyết vấn đề nhân cách. Hệ thống chức năng cơ động, bốn tiểu cấu trúc của nhân
cách, tính cách và năng lực là các thuộc tính của nhân cách đã làm sáng tỏ thêm
vấn đề nhân cách. Tuy nhiên trong khi khẳng định nhân cách là con người có ý
thức, ơng đã khơng thấy được sự tham gia của vô thức trong hành vi con người.
Hơn nữa, xã hội đóng vai trị quyết định như thế nào đối với nhân cách, ông cũng
chưa chỉ rõ trong quan niệm của mình.
3.4. Quan niệm của D.N.Udơnatde về nhân cách
Để hiểu con người với tư cách là nhân cách, D.N.Udơnatde đã phân chia tính
tích cực tâm lý của con người ra ba cấp độ. Con người với tư cách là cá nhân đó là
cấp độ đầu tiên, thấp nhất. Cấp độ thứ hai, con người với tư cách là chủ thể. Cấp độ
thứ ba phức tạp và cao nhất con người với tư cách là nhân cách.
Theo quan niệm này, cá nhân, chủ thể, nhân cách là sự thể hiện ở ba mức độ

khác nhau của tâm thế con người. Ở mức độ thứ nhất, tâm thế quan hệ nhiều đến nhu
cầu sinh vật; ở mức độ thứ hai, tâm thế có quan hệ đến q trình tư duy để nhận thức
hoàn cảnh; ở mức độ thứ ba, tâm thế quan hệ đến ý chí và định hướng giá trị.
Quan điểm trên đã đóng góp nhiều kiến thức quý cho vấn đề nhân cách.
Song những vấn đề về tâm lý và nhân cách nếu chỉ dựa vào tâm thế để phân tích là
chưa đủ. Tâm lý và nhân cách con người vô cùng phong phú và phức tạp, liên quan
đến nhiều khoa học khác nhau.
3.5. Cách tiếp cận của X.L.Rubinstein

15


Trong các cơng trình nghiên cứu của mình, X.L.Rubinstein đi từ các phạm
trù tinh thần, ý thức, chủ thể… đến phạm trù nhân cách, coi nhân cách là các trải
nghiệm và đi vào vấn đề hình thành và phát triển nhân cách trong hoạt động.
Rubinstein đã nhấn mạnh tính chất sđặc thù của riêng từng nhân cách, nói lên xu
hướng riêng của người ấy, bao gồm ý hướng, ý muốn của từng người, năng lực của
từng người, bản tính của nó. Nội dung này gắn liền với cái gọi là ý thức của chủ thể
và các thái độ: thái độ đối với thế giới xung quanh, thái độ đối với người khác và
thái độ đối với bản thân. Rubinstêin coi nhân cách là bộ máy điều chỉnh toàn bộ hệ
thống thân thể con người nói chung, gắn liền với khái niệm đường đời.
Rubinstein đi từ một nhận xét triết học cho rằng toàn bộ tâm lý học người được
coi là tâm lý học nhân cách, coi tất cả các hiện tượng tâm lý được mô tả trong tâm lý
học đại cương đều diễn ra trong nhân cách và đều phụ thuộc vào sự phát triển của nhân
cách. Nhân cách ở đây được hiểu là các đặc điểm cá thể riêng từng người.
Nhân cách cũng được hiểu là khả năng con người điều khiển các q trình
hay thuộc tính tâm lý của bản thân, hướng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ đặt ra
cho bản thân. Từ đó muốn hiểu nhân cách là gì phải xem con người mang nhân
cách ấy có xu hướng gì, có khả năng đáp ứng mong muốn đó khơng, vấn đề nghĩa
và ý của cuộc đời, của từng công việc. Từ đây, Rubinstein đến rất gần với cách tiếp

cận của Udơnatde về nhân cách, tức là ông thấy trong nhân cách có các thành phần
gọi là hứng thú, sự đam mê, tâm thế tạo nên các xu hướng, lý tưởng của nhân cách.
Như vậy, Rubinstein đã chỉ ra cho chúng ta thấy quá trình hình thành ý thức
và thái độ như là hai thành tố tạo nên nhân cách. Ông đã chỉ ra rằng nghiên cứu
nhân cách là nghiên cứu tự ý thức của nhân cách, nghiên cứu “cái tôi” như là chủ
thể nắm lấy tất cả cái gì con người làm ra, có trách nhiệm của bản thân đối với tất
cả các sản phẩm vật chất mà mình tạo ra. Rubinstein cũng đã nói đến nhân cách
như là bộ mặt của từng người, nói lên lập trường thế giới quan của người ấy.
4. Quan niệm về nhân cách ở Việt Nam

16


Ở Việt Nam theo tác giả Nguyễn Ngọc Bích trong cuốn Tâm lý học nhân
cách thì chưa có một định nghĩa nhân cách nào một cách chính thống. Song cách
hiểu của người Việt Nam về nhân cách có thể theo các mặt sau đây:
- Nhân cách được hiểu là con người có đức và tài hay là tính cách và năng
lực hoặc là con người có các phẩm chất: Đức, trí, thể, mỹ, lao (lao động).
- Nhân cách được hiểu như các phẩm chất và năng lực của con người.
- Nhân cách được hiểu như phẩm chất của con người mới: Làm chủ, yêu
nước, tinh thần quốc tế vô sản, tinh thần lao động.
- Nhân cách được hiểu như mặt đạo đức, giá trị làm người của con người.
Theo cách hiểu này, tác giả Nguyễn Quan Uẩn trong cuốn tâm lý học đại cương
(Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội) nêu lên định nghĩa nhân cách như sau:
Nhân cách là tổ hợp những đặc điểm, những thuộc tính tâm lý của cá nhân,
biểu hiện bản sắc và giá trị xã hội của con người. Nhân cách là sự tổng hoà không
phải các đặc điểm cá thể của con người mà chỉ là những đặc điểm quy định con
người như là một thành viên của xã hội, nói lên bộ mặt tâm lý - xã hội, giá trị và cốt
cách làm người của mỗi cá nhân.
Đây là định nghĩa về nhân cách được chấp nhận rộng rãi ở Việt Nam.

Các nhà tâm lý học quân sự Việt Nam trên cơ sở tiếp thu, kế thừa và phát
triển các quan niệm về nhân cách đã đưa ra quan niệm về nhân cách của mình một
cách khá đầy đủ và rõ ràng về nhân cách: Nhân cách là tổng hòa các phẩm chất xã
hội, được cá nhân lĩnh hội trong hoạt động và giao tiếp, phản ánh giá trị xã hội của
cá nhân đó trong cộng đồng.
Có thể nói đây là quan niệm đầy đủ và rõ ràng nhất về nhân cách được các
nhà tâm lý học quân sự Việt Nam trên cơ sở kế thừa và tiếp thu có chọn lọc các
quan niệm về nhân cách từ cổ chí kim, từ phương đông đến phương tây, quán triệt
đầy đủ quan điểm của Đảng ta về nhân cách con người và chiến lược con người để
có thể khái quát và đưa ra một định nghĩa cơ bản nhất về nhân cách.

17


KẾT LUẬN
Trên đây là một số quan điểm cơ bản của các trường phái tâm lý học về nhân
cách. Nhìn chung các quan điểm khác nhau về nhân cách xoay quanh một số vấn đề
cơ bản sau đây:
Quan điểm sinh vật hoá bản chất nhân cách. Nhân cách được coi là bản năng tình
dục (S.Freud), siêu đẳng, bù trừ (Adller), vô thức tập thể (K.Jung) là các kiểu hoạt động
thần kinh cấp cao (những người quá tôn sùng học thuyết I.V.Paplơp). Thực chất của các
quan điểm trên dù hình thức biểu hiện ở mỗi người có khác nhau, nhưng đều sinh vật
hoá bản chất nhân cách, đều mang quan điểm duy tâm siêu hình.
Bản chất nhân cách là nhân tính con người đã được trường phái nhân văn
nhấn mạnh. Đại diện của trường phái này là C.Roger, A.Maslow, G.Allport….
Những người ở trường phái này đều quan tâm đến giá trị tiềm năng bẩm sinh của
con người, đến những đặc tính riêng của mỗi người, kinh nghiệm của con người.
A.Maslow cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng con người. Những quan điểm
này đều đề cao tính chất tự nhiên sinh vật của con người, phủ nhận bản chất xã hội
của nhân cách. Do đó cũng cũng rơi vào chủ nghĩa duy tâm.

Nhân cách được hiểu là toàn bộ mối quan hệ xã hội của cá nhân, các quan
niệm này lấy các mối quan hệ xã hội của cá nhân như trong quan hệ gia đình, nhà
trường, cơ quan cơng tác, nghề nghiệp, bạn bè… làm chuẩn để đánh giá nhân cách.
Về thực chất, quan điểm này đã xã hội hoá nhân cách một cách giản đơn.
Nhân cách được hiểu đồng nghĩa với hai khái niệm con người. Platônôp cho
rằng nhân cách là con người có ý thức, có lý trí và ngơn ngữ, là con người lao
động. Loại quan điểm này nói về cái chung, cái đặc trưng nhất của con người mà
không chú ý đến cái đặc thù, cái riêng của nhân cách.
Nhân cách được hiểu như cá nhân của con người với tư cách là chủ thể của
mối quan hệ và hoạt động có ý thức (A.G.Kơvaliốp, I.X.Kon). Hiện nay quan điểm
này được đa số các nhà tâm lý học xã hội chấp nhận, coi nhân cách là cá nhân là cá
thể so với tập thể và xã hội.
18


Nhân cách được hiểu như là các thuộc tính nào đó tạo nên bản chất nhân cách
như là các thuộc tính ổn định, các thuộc tính sinh vật hoặc thuộc tính xã hội. Nhân
cách là tâm thế (Udơnatde) là thái độ, là phương thức tồn tại của con người trong xã
hội, trong điều kiện lịch sử cụ thể. Những quan điểm này chỉ chú ý đến cái đơn nhất
trong nhân cách, chưa thể hiện tính tồn diện trong định nghĩa về nhân cách.
Nhân cách được hiểu như cấu trúc hệ thống tâm lý cá nhân. Trong những
năm trở lại đây, nhiều nhà tâm lý học đều có xu hướng kiểu nhân cách là cấu trúc,
hệ thống tâm lý. Nhân cách là cấu tạo tâm lý mới được hình thành trong mối quan
hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của con người đó
(A.N.Lêơnchiep).
Tóm lại nghiên cứu những quan niệm về nhân cách có vai trị rất quan trọng
trong nghiên cứu tâm lý học nói chung, tâm lý học quân sự nói riêng, góp phần
nâng cao hoạt động lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ, chỉ huy. Những hiểu biết
về nhân cách sẽ giúp cán bộ chỉ huy, lãnh đạo các cấp hiểu biết sâu sắc thế giới nội
tâm của con người nói chung, của quân nhân nói riêng để từ đó có thái độ thận

trọng, tác phong nghiêm túc, tỉ mỉ khi tiếp xúc với con người, khi phân tích lý giải
và xử lí những vấn đề về con người một cách khoa học, phù hợp với các quy luật
tâm lí góp phần nâng cao hiệu quả các mặt hoạt động ở đơn vị cơ sở.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.N.Leonchiev. (1989), Hoạt động – ý thức – Nhân cách, Nxb GD.
2. Nguyễn Ngọc Bích (1998), Tâm lý học nhân cách – Một số vấn đề lý luận, Nxb GD.
3. Nguyễn Ngọc Bích, Tâm lý học nhân cách, Nxb ĐHQG, H 2000.
4. Phạm Minh Hạc, Lê Đức Phúc (chủ biên), Một số vấn đề nghiên cứu nhân
cách, Nxb CTQG, H 2004.
5. Đào Thị Oanh (chủ biên), Vấn đề nhân cách trong Tâm lý học ngày nay,
Nxb GD, H 2007.
6. Phạm Minh Hạc, Tuyển tập Tâm lý học, Nxb CTQG, H 2006.
7. Trần Trọng Thủy (1992), Khoa học chẩn đoán tâm lý, Nxb GD, HN.
19



×