Bộ giáo dục và đào tạo
Trờng đại học vinh
--------------
nguyễn thị mai
kinh tế huyện ngọc lặc (thanh hóa) từ
năm 1975 đến năm 2005
Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử
Vinh 2007
Lời cảm ơn
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Nguyễn Quang Hồng,
ngời thầy đà tận tình hớng dẫn giúp đỡ tôi kể từ khi nhận đề tài cho
đến khi luận văn đợc hoàn thành.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô giáo trong chuyên ngành
LSVN, khoa sau Đại học, khoa Lịch sử Trờng Đại học Vinh đà tận
tình dạy dỗ, giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Tôi cũng đà nhận đợc sự giúp đỡ nhiệt tình về mặt t liệu của
Huyện uỷ, HĐND, UBND Huyện, Phòng giáo dục đào tạo,
Phòng văn hoá, Đài truyền thanh truyền hình huyện và các cấp, các
ngành, cơ quan đoàn thể của Huyện Ngọc Lặc
2
Mặc dù đà có nhiều cố gắng, nỗ lực hết mình song do những điều
kiện khách quan cũng nh chủ quan nên luận văn không thể tránh khỏi
những thiếu sót. Kính mong đợc sự đóng góp chỉ bảo của quý thầy, cô
cùng toàn thể các anh chị học viên cao học.
Cuối cùng, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các bạn bè,
gia đình và những ngời thân thiết đà động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện
tốt nhất cho tôi trong quá trình học tập và hoàn thành luận văn.
Vinh, ngày tháng 01 năm 2008
Tác giả
TNguyễn Thị Mai
Các chữ viết tắt trong luận văn
Chữ viết tắt
BCH
BTV
CNXH
ĐHĐB
HĐND
HTX
KT - XH
NQ
NXB
TW
UBND
XHCN
Nội dung
Ban chấp hành
Ban thờng vụ
Chủ nghĩa xà hội
Đại hội đại biểu
Hội đồng nhân dân
Hợp tác xÃ
Kinh tế xà hội
Nghị quyết
Nhà xuất bản
Trung ơng
Uỷ ban nhân dân
XÃ hội chủ nghĩa
3
Mục lục
Trang
Các chữ viết tắt trong luận văn
Mở đầu
Nội dung
Chơng I: Tình hình kinh tế huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa) từ năm 1975 đến
năm 1985
1.1 Đặc điểm tự nhiên và xà hội ảnh hởng trực tiếp đối với sự phát triển kinh
tế huyện Ngọc Lặc
1.1.1 Đặc điểm tự nhiên
1.1.2 Đặc điểm xà hội
1.1.3 Duyên cách, tên gọi qua các thời kì
1.2 Kinh tế Ngọc Lặc trong 10 năm đầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc XHCN
(1975 - 1985)
1.2.1 Sơ lợc kinh tế Ngọc Lặc trớc năm 1975
1.2.2 Khó khăn và thuận lợi của Ngọc Lặc trong xây dựng và phát triển kinh
tế sau ngày đất nớc thống nhất
1.2.3 Kinh tế huyện Ngọc Lặc trong thực hiện kế hoạch nhà nớc 5 năm
(1976-1980)
1.2.4 Bớc đầu chuyển đổi sang cơ chế qu¶n lý s¶n xt míi (1981 - 1985)
1.2.5 ¶nh hëng của kinh tế đối với đời sống nhân dân trên địa bàn huyện
Ngọc Lặc (1976 - 1975)
*
Một vài nhận xét
Chơng II: Sù chun biÕn vỊ kinh tÕ ë hun Ngäc Lặc trong 10 năm đầu
thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 1995)
2.1
Chủ trơng đổi mới xây dựng phát triển đất nớc của Đảng
2.2
Tình hình kinh tế huyện Ngọc Lặc trong 10 năm đầu thực hiện đờng
lối đổi mới (1986 - 1995)
2.2.1 Kinh tế Ngọc Lặc chuyển sang cơ chế hoạch toán kinh doanh
(1986 1990)
2
5
11
11
2.2.2 Những thành tựu về kinh tế nổi bật của huyện trong giai đoạn
(1991 - 1995)
2.3
Tác động của kinh tế đối với đời sống văn hoá - xà hội của cộng đồng.
Chơng 3: Kinh tế Ngọc Lặc phát triển trong công cuộc công nghiệp hoá - hiện
đại hoá đất nớc (1996 2005)
3.1
Thuận lợi và thách thức của Ngọc Lặc khi thực hiện chủ trơng Công
nghiệp hoá - Hiện đại hoá
3.2
Chủ trơng xây dựng và phát triển kinh tế ở Ngọc Lặc từ (1996 - 2005)
3.3
Những thành tựu bớc đầu của kinh tế Ngọc Lặc trong quá trình thực
hiện Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá (1996 - 2000)
3.4
Kinh tế Ngọc Lặc trong những năm đầu thÕ kû XXI (2001 - 2005)
52
11
11
13
15
21
21
25
29
34
39
40
43
43
45
45
58
65
65
68
69
79
4
3.5
Tác động của kinh tế đối với đời sống xà hội trên địa bàn huyện.
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Phụ lục
90
95
100
112
Mở đầu
1. Lý do chọn đề tài
- Công cuộc đổi mới đất nớc do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xớng từ
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI đến nay đà đa đất nớc ta thoát khỏi tình
trạng khủng hoảng, đạt đợc nhiều thành tựu to lớn trên các lĩnh vực: Kinh tế,
chính trị, văn hoá - xà hội, an ninh quốc phòng, từng bớc hội nhập vào cộng
đồng khu vực và thế giới. Nghiên cứu về những thành tựu to lớn mà toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta đạt đợc trong suốt hai mơi năm qua là một trong
những nội dung mà các nhà nghiên cứu lịch sử, kinh tế, văn hoá, các chuyên
gia hoạch định chiến lợc phát triển kinh tế cho đất nớc, v.v...hết sức quan tâm.
Trong thời gian qua có rất nhiều công trình nghiên cứu, nhiều hội thảo khoa
học cấp quốc gia, nhiều đề tài luận án Tiến sĩ, luận văn tốt nghiệp Cao học
Thạc sĩ, luận văn tốt nghiệp Đại học thuộc nhiều chuyên ngành khác nhau đÃ
tiền hành nghiên cứu, bảo vệ thành công. Không ít công trình đợc xuất bản
thành sách, phổ biến rộng rÃi cho mọi tầng lớp nhân dân trong và ngoài nớc.
Chọn đề tài: "kinh tế huyện Ngọc Lặc (Thanh Hoá) từ năm 1975 đến
năm 2005", làm đế tài tốt nghiệp Cao học Thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Việt
Nam là nhằm góp phần thiết thực vào việc nghiên cứu về những thành tựu,
những tồn tại thách thức trong chặng đờng đổi mới vừa qua, rút ra những bài
học kinh nghiệm từ thực tiễn các địa phơng và mạnh dạn đa ra những đề xuất
5
đề các nhà quản lý điều chỉnh kế hoạch, phát huy thế mạnh, hạn chế tồn tại,
v.v... đa địa phơng phát triển cùng đất nớc. Đây là việc làm cần thiÕt võa cã ý
nghÜa khoa häc võa mang ý nghÜa thực tiễn sâu sắc.
- Huyện Ngọc Lặc nằm ở miền Tây tỉnh Thanh Hoá, là huyện có diện
tích tự nhiên rộng lớn, chính là địa bàn c trú của nhiều dân tộc khác nhau.
Thực hiện chủ trơng đổi mới của Đảng, sau hơn 1/5 thế kỷ (1986 - 2007)
Đảng bộ và nhân dân Ngọc Lặc đạt đợc nhiều thành tựu trên tất cả các lĩnh
vực, nhất là kinh tế, làm thay đổi căn bản bức tranh kinh tế, văn hoá, xà hội,
v.v... trên địa bàn tất cả các làng, bản của huyện và trở thành một trong những
huyện miền núi khá nhất của tỉnh Thanh Hoá. Do đó, việc thu thập t liệu,
nghiên cứu về những thành tựu kinh tế mà Đảng bộ và nhân dân huyện Ngọc
Lặc đạt đợc trong thời gian qua và những tác động của kinh tế đối với đời
sống văn hoá xà hội, an ninh quốc phòng của cộng đồng các dân tộc trên vùng
đất Ngọc Lặc là việc làm cần thiết cả về mặt khoa học và thực tiễn. Điều này
càng có ý nghĩa hơn khi đến nay (2007) cha có một công trình nào nghiên cứu
về thực trạng kinh tế Ngọc Lặc trong phạm vi không gian và thời gian mà đề
tài chúng tôi đà xác định.
- Qua tiếp cận t liệu thành văn và diền dà trên địa bàn huyện, chúng tôi
nhận thấy trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới bên cạnh những thành
tự đạt đợc về kinh tế, Đảng bộ và nhân dân huyện Ngọc Lặc còn gặp không ít
khó khăn, lúng túng trong việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, chuyển
dịch cơ cấu kinh tế nhằm phá thế độc canh cây lúa tạo điều kiện phát triển bền
vững cho kinh tế Ngọc Lặc trong thời gian tới. Thực trạng kinh tế Ngọc Lặc
phát triển không đồng đều giữa các làng trong một xÃ, giữa các xà trong một
huyện, giữa các dân tộc trên cùng một địa bàn dân c, v.v... Đề tài đề cập đến
những tồn tại, khó khăn đó trên bớc đờng xây dựng và phát triển kinh tê của
huyện Ngọc Lặc trong khoảng thời gian từ năm 1975 đến năm 2005 với hy
vọng sẽ góp phần nhỏ bé của mình để các cấp Đảng bộ, chính quyền, đoàn thể
ở địa phơng có đợc cái nhìn toàn diện, khách quan vào thực trạng kinh tế
huyện nhà trong thời gian qua, từ đó đa ra những chủ trơng, biện pháp cụ thể
nhằn phát huy những thành tựu đà đạt đợc, khắn phục hạn chế, tồn tại đa
huyện Ngọc Lặc vững bớc trên con đờng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nớc.
- Là ngời con sinh ra và lớn lên trên vùng quê Ngọc Lặc giàu truyền
thống văn hoá, truyền thống chống ngoại xâm, tôi mạnh dạn chọn đề tài:
"kinh tế huyện Ngọc Lặc (Thanh Hoá) từ năm 1975 đến năm 2005" làm đề tài
6
tốt nghiệp Cao học Thạc sĩ nhằn thể hiện tình cảm với quê hơng, xứ sở và góp
thêm một viên gạch hồng vào công cuộc xây dựng, phát triển toàn diện vùng
quê từng thấm đẫm không biết bao mồ hôi, nớc mắt, trí tuệ, lòng kiên trì, bền
bỉ và sức sáng tạo phi thờng của các thế hệ cha anh.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề.
ở phạm vi địa phơng, việc tiến hành su tầm t liệu và tiến hành nghiên
cứu lịch sử huyện Ngọc Lặc trong suốt hơn 2/3 thế kỷ qua (1930-2005), mới
đợc bắt đầu sau năm 1975, mà chủ yếu là lịch sử chính trị, quân sự. Việc
nghiên cứu đề tài: kinh tế huyện Ngọc Lặc (Thanh Hoá) từ năm 1975 đến năm
2005, hoàn toàn cha có một công trình chuyên khảo nào. Vì vậy, đây còn là
vấn đề mới mẻ. Tuy nhiên, tình hình phát triển kinh tế của huyện cũng đợc đề
cập sơ lợc trong các công trình sau:
Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Ngọc Lặc, tập 1 (1945-1985), Nxb Thanh Hoá
tháng 12 năm 1986 ®· ®Ị cËp tíi mét sè nÐt vỊ ®Ỉc ®iĨm tự nhiên, xà hội và truyền
thống đấu tranh của nhân dân Ngọc Lặc trong tiến trình lịch sử.
Cuốn Lịch sử Đảng bộ huyện Ngọc Lặc, tập 2 (1986-2000), Nxb Thanh
Hoá năm 2003 đà đề cập đến đặc điểm tự nhiên, xà hội và quá trình thực hiện
vận dụng đờng lối đổi mới của Đảng ta qua đại hội VI.
Văn kiện đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Ngọc Lặc từ khoá VIII đến
khoá XXI đà đánh giá kết đạt đợc và những khuyết điểm còn tồn tại, đồng thời
đề ra phơng hớng và nhiệm vụ của những năm tiếp theo trong quá trình thực
hiện đờng lối đổi mới.
Báo cáo của HĐND huyện, UBND huyện, Phòng giáo dục huyện, Công
an, Huyện đội, (hiện đang lu giữ tại kho lu trữ huyện Ngọc Lặc) đà đánh giá
tổng kết sơ bộ những thành tựu, hạn chế của huyện Ngọc Lặc trong quá trình
thực hiện đờng lối đổi mới.
Ngoài ra còn có Các tham luận của Bí th, Chủ tịch huyện Ngọc Lặc về
dự đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá.
Các phóng sự của đài phát thanh Huyện, đài truyền hình tỉnh và báo
chí.về các cá nhân, tập thể làm kinh tế giỏi trên địa bàn huyện.về các cá nhân, tập thể làm kinh tế giỏi trên địa bàn huyện.
Trong các công trình nói trên, phần trình bày lịch sử kinh tế còn khái lợc, cha có những đánh giá, cha có hệ thống, việc phản ánh đợc tốc độ phát
triển của huyện còn hạn chế, tuy nhiên đó là tài liệu để chúng tôi nghiên cứu,
đối chiếu. Do đó, có thể coi đây là một khoảng trống cần phải tiến hành khảo
cứu, tìm hiểu.
3. Đối tợng nhiệm vụ và phạm vi nghiên cøu
7
3.1. Đối tợng và nhiệm vụ nghiên cứu
Để giải quyết những nội dung đề tài đặt ra chúng tôi tập trung giải
quyết những nội dung chính sau đây.
- Khái quát điều kiện tự nhiên xà hội của huyện Ngọc Lặc.
- Khái quát kinh tế Ngọc Lặc trớc năm 1975.
- Nghiên cứu kinh tế Ngọc Lặc từ năm 1975 đến năm 2005 qua c¸c thêi kú:
1975 – 1985
1986 – 1995
1996 – 2005
ở các nội dung chúng tôi trình bày cụ thể nh sau:
- Chủ trơng biện pháp của huyện ủy, HĐND huyện tác động đến đời tác động đến đời
sống kinh tế, xà hội và các lĩnh vực khác trên địa bàn huyện.
- Thành tựu và hạn chế.
3.2 Phạm vi nghiên cứu.
- Về thời gian: Đề tài nghiên cứu về kinh tế huyện Ngọc Lặc (Thanh
Hoá) từ năm 1975 đến năm 2005.
- Về không gian: Chỉ bó hẹp trong phạm vi không gian huyện Ngọc lặc.
- Những nội dung khác không nằm trong phạm vi nghiên cứu của đề tài.
4. Nguồn tài liệu và phơng pháp nghiên cứu.
4.1. Nguồn tài liệu:
- Để thực hiện đề tài: Kinh tế huyện Ngọc Lặc (Thanh Hoá) từ năm
1975 đến năm 2005 chúng tôi chủ yếu sử dụng tài liệu thành văn, trong đó
bao gồm:
- Nhóm tài liệu gốc gồm: Báo cáo sơ kết, tổng kết của các ban ngành,
đơn vị, số liệu thống kê, các Nghị quyết, các văn kiện Đại hội Đảng bộ tác động đến đờiđ ợc
lu ở kho lu trữ Huyện uỷ, HĐND, UBND, Ban tuyên giáo, Th viện, Phòng văn
hoá - thông tin, Phòng thống kê huyện Ngọc Lặc... đây là nhóm tài liệu có ý
nghĩa hết sức quan trọng trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài.
- Tài liệu thông sử: Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam và một số các tài
liệu thông sử khác.
- Tài liệu lý luận chính trị: Văn kiện đại hội Đảng các cấp.
Tài liệu thông sử và tài liệu lý luận chính trị nói trên mang tính chất
tham khảo trong việc tìm hiểu đờng lối, chủ trơng của Đảng, tình hình nhiệm
vụ của đất nớc. trên cơ sở đờng lối chung, huyện Ngọc Lặc xác định phơng hớng phát triển kinh tế trong từng giai đoạn cụ thể.
8
Ngoài ra, còn phải kể đến nguồn tài liệu điền dÃ: là các cuộc trao đổi,
tiếp xúc với lÃnh đạo huyện đang công tác hoặc nghỉ hu, các nhân chứng lịch
sử, chụp ảnh minh hoạ, khảo sát thực tiễn mô hình sản xuất tiên tiến ở địa phơng.
4.2. Phơng pháp nghiên cứu
Tiến hành tìm hiểu, nghiên cứu và hoàn thành đề tài này chúng tôi sử
dụng kết hợp các phơng pháp nghiên cứu sau:
- Phơng pháp chuyên ngành gồm: Phơng pháp lịch sử, phơng pháp lôgíc.
- Phơng pháp liên ngành gồm: Phơng pháp toán học thống kê, phơng
pháp đối chiếu so sánh, phân tích điều tra xà hội học, điền dà lịch sử.
Quá trình thực hiện đề tài dựa trên quan điểm sử học Mác xít và t tởng
Hồ Chí Minh.
5. Đóng góp của luận văn.
- Tập hợp nhiều nguồn t liệu có liên quan đến tình hình kinh tế, xà hội
thuận tiện cho việc nghiên cứu lịch sử địa phơng, đối chiếu, so sánh tác động đến đời
- Kết quả nghiên cứu của đề tài không chỉ góp phần vào việc biên soạn
bộ lịch sử huyện Ngọc Lặc còn trở thành tài liệu phục vụ nghiên cứu kinh tế
Ngọc Lặc trong thời kỳ xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN.
- Nghiên cứu có hệ thống, toàn diện về kinh tế huyện Ngọc Lặc từ năm
1975 đến năm 2005. Từ đó đánh giá khách quan, toàn diện về sự chun biÕn
kinh tÕ Ngäc LỈc tõ ci thĨ kû XX đầu thế kỷ XXI.
- Đề tài là nguồn tài liệu tham khảo phục vụ giảng dạy và học tập lịch
sử địa phơng ở trờng THCS, THPT trên địa bàn huyện. Từ đó giáo dục thế hệ
trẻ tự hào, trân trọng những thành quả của nhân dân trong suốt mấy chục năm,
đồng thời xây dựng lý tởng, cũng cố niềm tin cho nhân dân Ngọc Lặc trên con
đờng xây dựng phát triển quê hơng đất nớc mà Đảng đề ra.
6. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, phụ lục, nội dung luận văn đợc
trình bày trong 3 chơng.
Chơng 1: Tình hình kinh tế huyện Ngọc Lặc (Thanh Hoá) từ năm 1975
đến năm 1985
Chơng 2: Sử chuyển biến về kinh tế ở huyện Ngọc Lặc (Thanh Hoá)
trong 10 năm đầu thực hiện công cuộc đổi mới (1986 - 1995)
Chơng 3: Kinh tế huyện Ngọc Lặc phát triển trong công cuộc công
nghiệp hoá - hiện đại hoá đất níc (1996 - 2005)
9
Nội dung
Chơng 1: Tình hình Kinh tế huyện Ngọc Lặc (Thanh Hóa)
từ năm 1975 đến năm 1985
1.1. Đặc điểm tự nhiên và xà hội ảnh hởng trực tiếp đối với sự phát triển
kinh tế huyện Ngọc Lặc.
1.1.1. Đặc điểm tự nhiên.
Ngọc Lặc là một trong 11 huyện miền núi, nằm cách trung tâm tỉnh
Thanh Hóa 77 km về phía Tây, có tọa độ địa lý 19 055 - 20017 vĩ độ Bắc,
105031 - 104057 kinh độ Đông. Phía Bắc giáp huyện Cẩm Thủy và huyện Bá
Thớc, phía Nam giáp huyện Thờng Xuân, phía Đông giáp huyện Thọ Xuân và
huyện Yên Định, phía Tây giáp huyện Lang Chánh. Ngọc Lặc là gạch nối
giữa vùng châu thổ miền núi tỉnh Thanh Hóa, giàu tiềm năng kinh tế, có vị trí
chiến lợc hiểm yếu trong các cuộc chiến ngoại xâm của dân tộc.
Với diện tích tự nhiên toàn huyện là 4.958.788 km 2, trong đó đất nông
nghiệp là 3.724.259 ha, đất lâm nghiệp có rừng 2.035.174 ha, đất chuyên dùng
là 845.357 ha, đất ở là 416.850 ha, đất sông suối, mặt nớc chuyên dùng là
138.944 ha, đất cha sử dụng 381.123 ha [49,4].
Dân số toàn huyện tính đến năm 2005 là 140.201 ngời, trong đó dân tộc
Mờng có 94.011 ngời chiếm 68,5 tổng d©n sè, d©n téc kinh cã 40.624 ngêi
chiÕm 29,6% tỉng d©n sè, d©n téc Giao cã 1.386 ngêi chiÕm 1,01% tổng dân
số, dân tộc Thái có 1.043 ngời chiếm 0,76% tổng dân số. Các dân tộc khác có
178 ngời chiếm 0,13% tổng dân số [49,4].
Địa hình huyện Ngọc Lặc phức tạp và đa dạng. Do nằm ở đồi núi phía
Tây tỉnh Thanh Hóa thuộc vị trí giáp liền giữa hai vùng châu thổ và miền núi,
lại ảnh hởng bởi đồi núi trung du và lu vực sông MÃ, sông Chu nên địa hình
huyện Ngọc Lặc có nhiều núi đá vôi víi hai d¹ng chÝnh: Mét vïng nói cao
(chiÕm 271.492 ha), với nhiều hang động kỳ thú thuộc các xà Thúy Sơn, Ngọc
Sơn, Lộc Thịnh tác động đến đời Rừng dày có nhiều gỗ quý hiếm nhiều nh : Lim, Lát hoa,
10
Táu, Sến, Luồng tác động đến đời Một vùng núi thấp (chiếm 21.842 ha) l ợn sóng mở ra các
thung lũng thuận lợi cho ngời trồng lúa, trồng cây công nghiệp nh: Cao su,
mía tác động đến đời Đó chính là tiềm năng kinh tế của huyện để Ngọc Lặc phát triển ngành
du lịch, khai thác vật liệu xây dựng, lâm sản và chăn nuôi.
Hệ thống sông ngòi của huyện gồm 3 con sông chính: Sông Âm chảy từ
biên giới Việt Lào, chảy qua huyện Lang Chánh rồi chảy vào Ngọc Lặc về
phía Tây Nam, qua các xà Vân Am, Phùng Giáo, Phùng Minh rồi đổ ra sông
Chu. Sông Cầu Chày chảy từ xà Thạch Lập đến Thúy Sơn chảy qua trung tâm
huyện rồi chảy xuống các huyện Thọ Xuân, Yên Định, Thiệu Hóa rồi nhập
vào sông MÃ. Sông Hép là con sông nằm ở phía Bắc và Đông Bắc huyện chảy
qua các xà Ngọc Liên, Lộc Thịnh, Cao Thịnh. Với một mạng lới sông ngòi,
khe suối dày đặc đà tạo điều kiện thuận lợi cho Ngọc Lặc phát triển về kinh tế
công nghiệp, nông nghiệp, giao thông, đờng thủy và tạo ra đợc các công trình
thủy điện nhỏ phục vụ cho các xà tác động đến đờiTuy nhiên với l ợng sông suối nhiều cũng
đà gây ra nhiều khó khăn cho huyện, đó là lợng ma lũ đầu nguồn lớn, làm
thiệt hại đến nông nghiệp và tài sản của nhân dân cũng nh việc đi lại khó khăn
trong từng làng xà ở các xà vùng sâu, vùng xa của huyện.
Thời tiết khí hậu Ngọc Lặc thuộc nhiệt đới gió mùa, thờng có gió Tây, khí
sắc âm u, cho nên cha đến tháng tiểu hàn, đại hàn đà rét. Mùa đông lạnh (từ
tháng 10 năm trớc đến tháng 3 năm sau), ít ma có sơng giá, sơng muối. Bình
quân có từ 11 đến 13 ngày/năm, nhng do phân bố không đều trên năm nên thờng
gây úng lụt về mùa ma và hạn hán về mùa khô. Nhiệt độ trung bình từ 230c
270c, nhiệt độ cao khoảng 340c, những ngày có gió Tây (gió Lào) khô nóng nhiệt
độ lên đến 410c. Nhiệt độ và khí hậu thích hợp cho sự phát triển của rừng cây
nhiệt đới trên địa bàn huyện Ngọc Lặc [1,8].
Giao thông vận tải của huyện chủ yếu là trên hai con đờng chính: Đờng
sông và đờng bộ. Đờng sông chủ yếu trên 3 con sông lớn: Sông Âm, sông Cầu
Chày và sông Hép. Theo đờng sông chúng ta có thể đặt chân lên nhiều vùng
đất của huyện Ngọc Lặc. Sông Âm và sông Cầu Chày nối với sông Chu và
sông MÃ là hai con sông lớn nhÊt nh× ë xø Thanh, cã nhiỊu phï lu táa khắp
các vùng trong và ngoài tỉnh. Bởi vậy, vốn là cửa ngỏ của miền núi với miền
xuôi xứ Thanh nên đờng sông Ngọc Lặc đà nối liền miền ngợc với miền xuôi
trong tỉnh và ngoài tỉnh và trở thành tuyến ®êng träng u phơc vơ cho kinh tÕ
vµ giao lu văn hóa giữa các huyện với nhau. Đờng bộ của Ngọc Lặc gồm hai
con đờng chính: Đờng quốc lộ 15A và đờng 519, đờng 15A chạy qua huyện dài
35 Km (Từ huyện Thọ Xuân chạy qua Ngọc Lặc đi Lang Chánh). Đờng 519 có
11
độ dài qua huyện là 15 Km (Từ trung tâm huyện chạy sang Cẩm Thủy). Ngày
nay có thêm một con đờng, đờng Hồ Chí Minh chạy qua huyện Ngọc Lặc nối
liền với các huyện khác, ra Bắc và vào Nam. Ngoài ra còn có các con đờng liên
thôn, liên xà ®ỵc më mang tu sưa thn lỵi cho viƯc ®i lại và giao lu, vận
chuyển hàng hóa giữa các vùng trong huyện và các tỉnh.
Khoáng sản, trên đất Ngọc Lặc đà phát hiện một số loại khoáng sản nh:
Mỏ sắt ở làng Sam (xà Cao Ngọc), Mỏ quặng Cromit tại làng Môn (xà Phùng
Giáo), Mỏ Đồng ở Đồng Trôi (xà Lộc Thịnh), nguyên liệu phân bón hóa chất
có mỏ phốtphoric ở (xà Lộc Thịnh) là nơi có sản lợng lớn nhất với trữ lợng
74.689 tấn [1,8]. Mỏ than ở (xà Nguyệt ấn), nguyên liệu sành sứ, thủy tinh
masalat ở (xà Mỹ Tân), ngoài ra còn có đất sét để sản xuất gạch, ngói và các
núi đá vôi phục vụ cho sản xuất và xây dựng tác động đến đời
Thiên nhiên đà tạo cho mảnh đất Ngọc Lặc màu mỡ, giàu tài nguyên
thiên nhiên và khoáng sản để phát triển kinh tế, văn hóa, song thiên nhiên
cũng gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế ở Ngọc Lặc nh khí hậu
khắc nghiệt hạn hán, lũ lụt tác động đến đờiTuy nhiên từ trong gian khó đà thử thách đà tạo
nên những phẩm chất cao đẹp của đồng bào các dân tộc Ngọc Lặc đà phát huy
u thế và điều kiện tự nhiên, văn hóa, quốc phòng ở tỉnh Thanh.
1.1.2. Đặc điểm xà hội.
Trên mảnh đất Ngọc Lặc c dân chủ yếu là đồng bào các dân tộc Mờng,
Kinh, Dao, Thái cùng sinh sống, tuy mỗi dân tộc có những nét văn hóa riêng,
các phong tục tập quán, nét sinh hoạt, cách làm ăn sinh sống khác nhau. Song
họ đều có chung tinh thần yêu quê hơng ®Êt níc, tr·i qua c¸c cc kh¸ng
chiÕn chèng kÏ thï xâm lợc, đồng bào các dân tộc trên địa bàn huyện Ngọc
Lặc đà cống hiến sức ngời, sức của cho tuyền tuyến, góp phần vào sự nghiệp
kháng chiến chống kẻ thù xâm lợc giành thắng lợi hoàn toàn đem lại ®éc lËp
cho d©n téc. Sau khi ®Êt níc thèng nhÊt đồng bào các dân tộc Ngọc Lặc lại bắt
tay ngay vào công cuộc tái thiết đất nớc.
Với tinh thần lao động cần cù, thông minh sáng tạo tận dụng những
điều kiện thuận lợi mà thiên nhiên ban tặng cũng nh việc từng bớc khắc phục
trở ngại, chế ngự tự nhiên, tiến tới xây dựng quê hơng đất Ngọc ngày càng
vững mạnh và phát triễn. Điều đó đà tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát
triển của kinh tế huyện Ngọc Lặc ngày càng vững mạnh và phát triển.
Cơ sở hạ tầng của huyện đợc đầu t xây dựng, đáp ứng và phục vụ tốt
nhu cầu của nhân dân. Với mạng lới điện nông thôn đà đa điện sáng đến tËn
12
các làng, xà vùng sâu, vùng xa đà góp phần đáp ứng nhu cầu sinh hoạt của
nhân dân, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sản xuất.
Hệ thống trờng học đợc xây dựng trên tât cả các xÃ, thị trấn với đầy đủ
các cấp học. Từ mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông, trờng văn hóa tập trung đảm bảo cho con em đồng bào dân tộc, đến tuổi đến trờng đều đợc đi học. Đây chính là những thuận lợi để các em hoàn tất chơng
trình giáo dục của nhà nớc quy định, đông thời để các em có điều kiện thi vào
các trờng CĐ, ĐH, trung học chuyên nghiệp, sau này trở thành nguồn lực cán
bộ chủ chốt về phục vụ cho quê hơng đất nớc.
Sự nghiệp y tế ngày càng đợc nâng cao về chất lợng khám chữa bệnh
cho nhân dân, trung tâm y tế huyện đợc nâng cấp thành bệnh viện đa khoa khu
vực miền núi, thu hút khám chữa trị cho bệnh nhân các huyện phụ cận nh Cẩm
Thủy, Thọ Xuân, Quan Sơn, Quan Hóa, Lang Chánh, Mờng Lát tác động đến đờiBên cạnh đó
các trạm y tế ở các xÃ, thị trấn đều đợc xây dựng kiên cố. Với đội ngũ cán bộ
y tế có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ giỏi và lành nghề, quan tâm chăm sóc
sức khỏe cho nhân dân là những thuận lợi cơ bản để Ngọc Lặc đủ điều kiện
thuận lợi cho sự nghiệp phát triển quê hơng.
Công tác truyền thanh truyền hình, thông tin tuyên truyền đa dạng với
nhiều nội dung thông tin bổ ích về văn hóa văn nghệ, tin tức thời sự trong nớc
và quốc tế cũng nh những trang địa phơng nêu gơng những hộ gia đình làm
kinh tế giỏi và những ứng dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào trong sản
xuất nông - lâm nghiệp, giới thiệu chính sách pháp luật, đấu tranh chống tiêu
cực. ĐÃ đáp ứng kịp thời nhu cầu hởng thụ văn hóa, góp phần nâng cao nhận
thức, kiến thức, sự hiểu biết của nhân dân.
Phong trào xây dựng đời sống văn hóa cơ sở, xây dựng gia đình văn
hóa, làng, cơ quan, khu phố văn hóa cũng nh phong trào thể dục thể thao đợc
duy trì và phát triển rộng. Góp phần tạo điều kiện nâng cao sức khỏe, giao lu
văn hóa giữa các xÃ, thị trấn trên địa bàn huyện.
Với những ®iỊu kiƯn x· héi vèn cã cđa Ngäc LỈc ®· góp phần vào việc
phát triển kinh tế thúc đẩy nền kinh tế thêm vững mạnh, là điều kiện quan
trọng để Ngọc Lặc phát triển hơn so với các huyện miền núi khác trong tỉnh.
Có thể nói với những gì mà Ngọc Lặc đang có chính là cơ sở để Ngọc Lặc
trở thành thị xà miền Tây của tỉnh Thanh Hóa.
1.1.3. Duyên cách, tên gọi qua các thời kỳ.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX những nhà khảo cổ học ngời Pháp đÃ
phát hiện một số huyện miền núi xứ Thanh nh huyện Cẩm Thủy, Bá Thớc,
Thạch Thành, Ngọc Lặc tác động đến đời.những di chỉ c trú của dân c trong thời đại đá mới
13
(Thuộc văn hóa Hòa Bình) cách ngày nay khoảng 11.000 năm. Cũng nh ở các
nơi khác, ở Ngọc Lặc c dân thời đại mới c trú trong các hang động mái đá
cạnh bờ suối nh các hang Mộc Thạch, Lộc Thịnh I, Lộc Thịnh II v.v tác động đến đời, ph ơng
thức kinh tế chủ yếu là săn bắt, hái lợm và bắt đầu đà sơ khai nền kinh tế nông
nghiệp. Tại các địa điểm khảo cổ cho biết ngời Ngọc Lặc thủa đó đà có tổ
chức xà hội sơ khai. Các bếp nấu các nơi c trú gần nhau, các mộ táng chôn
theo những công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt hay đồ trang sức tác động đến đời Các nghi
lễ tôn giáo đà có mặt trong đời sống tinh thần của họ.
Vào thời văn hóa Đông Sơn trên mảnh đất Ngọc Lặc phát hiện đợc các
nhóm đồ đồng Đông Sơn khá phong phú gồm công cụ, vũ khí và những chiếc
trống Đồng đợc phát hiện nhiều nơi trên địa bàn huyện Ngọc Lặc. Di chỉ khảo cỉ
M· MÌ, di chØ nói Mó ë x· Ngut Ên là dấu vết về chòm, bản, làng.
Thời dựng nớc Ngọc Lặc thuộc vùng đất bộ Cửu Chân, một trong 15 bộ
thuộc vơng quốc Văn Lang của Vua Hùng. Cho đến nay theo quan điểm của
nhiều nhà khảo cổ học thì ngời Mờng c trú ở đây rất đông và có cùng nguồn gốc
với ngời Việt (Kinh) và chắc chắc là c dân bản địa của Ngọc Lặc.
Đến đầu công nguyên Ngọc Lặc là miền đất thuộc huyện Đô Lung.
Thời thuộc Hán ( Năm 111 trớc công nguyên) năm 210 Ngọc Lặc thuộc
huyện Võ Biên. Thời thuộc Tùy - Đờng (581 - 905) miền đất Ngọc Lặc thuộc huyện
Di Phong rồi huyện Trờng Lâm đến tận thời Đinh Tiền Lê Lý.
Thời Trần - Hồ thuộc huyện Nga Lặc (Tơng đơng với huyện Ngọc Lặc
ngày nay) và một phần đất huyện Thọ Xuân phía tả ngạn sông Chu.
Thời thuộc Minh nhập Nga Lạc với Lỗi Giang gọi là huyện Nga Lạc
(tức 2 huyện Ngọc Lặc và Cẩm Thủy ngày nay) .
Thời Hậu Lê năm Quang Thuận thứ 10 (1469) Ngọc Lặc thuộc
huyện Lơng Giang phủ Thiệu Thiên.
Thời Nguyễn là phần đất của huyện Thụy Nguyên (không còn huyện
Nga Lạc nữa).
Năm Thành Thái 12 (1900) cắt tổng Ngọc Lặc và cả xà ngời Mờng
thuộc tổng Yên Tờng, Quảng Thi (huyện Thụy Nguyên phủ Thiệu Hóa), thành
lập Châu Ngọc, sau là Châu Ngọc Lặc, Ngọc Lặc thời kỳ này gồm 4 tổng: Hạt
Cao, Ngọc Khê, Cốc Xá và Vân Am. Trên cơ sở 17 mờng (Rặc, Lập, Yến, Tạ,
Chẹ, Ngôn, Mờng Vin, Vim, Um, Rờng, Lộc Thịnh, Ngọc Trung, Mỹ Lâm,
Bằng, Phủ Yên) sau cách mạng tháng Tám năm 1945 bỏ châu đổi là huyện
Ngọc Lặc [1,15].
14
Ngày 5/7/1977, theo quyết định số 177 - CP của Hội đồng Chính phủ
sáp nhập 2 huyện Ngọc Lặc và Lang Chánh gọi là huyện Lơng Ngọc.
Ngày 30/8/1982 theo quyết định số 149 HĐBT của Hội đồng Bộ trởng chia Lơng Ngọc thành hai huyện Ngọc Lặc và Lang Chánh và giữ nguyên
tên gọi đến ngày nay.
Hiện nay huyện Ngọc Lặc có 20 xà và 3 thị trấn: Phùng Giáo, Phùng Minh,
Phúc Thịnh, Nguyệt ấn, Kiên Thọ, Minh Tiến, Minh Sơn, Ngọc Trung, Ngọc Sơn,
Ngọc Liên, Cao Thịnh, Lộc Thịnh, Quang Trung, Thúy Sơn, Thạch Lập, Ngọc Khê,
Mỹ Tân, Cao Ngọc, Vân Am; 3 thị trấn : Phố Công (huyện lỵ) Thị trấn Nông trờng
sông Âm, Thị trấn Nông trờng Lam Sơn [1,28].
Trên mảnh đất Ngọc Lặc đồng bào các dân tộc: Mờng, Dao, Thái, Kinh
cùng chung sống đà đóng góp xứng đáng vào công cuộc dựng nớc, giữ nớc của
dân tộc. Tạo nên những giá trị lịch sử văn hóa và đậm đà bản sắc dân tộc.
Ngời Mờng Ngọc Lặc đà đóng góp vào nền văn hóa lâu đời của dân tộc
Mờng với. Sử thi Đẻ đất, đẻ nớc, dân ca Xờng, Bọ Mẹng tác động đến đời, lễ tục Pô ồn Pô
ông: Hát múa quay quanh cây hoa ớc mong cuộc sống yên lành với nhạc đệm,
trống, chiêng, sáo ôi, giả ống tác động đến đời âm vang, sôi động và đằm thắm. Hội xéc bùa
với dàn cồng chiêng 12 chiếc do 12 cô gái Mờng trong trang phục hoa văn rực
rỡ, duyên dáng trình diễn tợng trng cho 12 tháng trong năm. Dàn nhạc cồng
chiêng Mờng Ngọc Lặc cũng nh nhiều vùng dân tộc Mờng luôn gắn với nghi
thức và tham gia vào tất cả sự kiện của bản Mờng.
Dân tộc Thái, với chữ viết, tiếng nói, trang phục dân ca (Khặp Thái) hát
múa, nghi lễ, các trò diễn kin chiêng, bọc Mạy, cá sa, phấn chả (quanh cây
hoa), Coong Giàn (coong lớn), kèn bè âm vang, réo rắt, diễn tấu khua luống
vui nhộn tác động đến đời đà đóng góp vào nền văn hóa của đồng bào các dân tộc Ngọc Lặc
những nét đặc sắc.
Sự đan xen văn hóa các dân tộc cùng chung sống trên đất Ngọc Lặc đợc
thể hiện rõ nét ở một hệ thống đền thờ thiên nhiên, nhân thần và đình thờ
Thành Hoàng. Các thần và Thành Hoàng đợc thờ ở Ngọc Lặc gồm đông đảo
những ngời có công với đất nớc nh Anh hùng dân tộc Lê Lợi (tại làng Nh ánh
Kiên Thọ), các khai quốc công thần thời Lê thế kỷ XV nh Lê Lai (ở Kiên
Thọ); Đinh Lễ, Đinh Bộ, Đinh Liệt (ở xà Minh Tiến), Phạm Cuống (xà Vân
Am) tác động đến đời
Thế kỷ XV giặc Minh tàn bạo chiếm đóng miền Bắc Đại Việt. Lê Lợi
dựa vào vùng đất quê Lam Sơn, dựa vào lòng dân giơng cao ngọn cờ khởi
nghĩa. Nhiều ngời con u tó cđa Ngäc LỈc tham gia khëi nghÜa ngay tõ nh÷ng
15
ngày đầu mới nhen nhóm. Đó là phụ đạo đất Dợng Tú Lê Lai (nay là làng Tép
xà Kiên Thọ) cùng các con đều tham gia khởi nghĩa. Hai cha con quan lang
ngời Mờng ở (Ngọc Châu Kiên Thọ) là Lê Hiển, Lê Hu cũng sớm đứng dới cờ
khởi nghĩa.
Đất Ngọc Lặc trở thành căn cứ tích trữ lơng thực, khí giới, huyện, quân
của Lê Lợi ở đây hiện vẫn còn di tích một bÃi tập của nghĩa quân Lam Sơn tại
thôn Long Sơn (xà Nguyệt ấn) một vùng bằng phẳng, rộng khoảng 6 ha, nằm
dới chân núi Tạt, quanh bÃi có suối nhỏ bao quanh. Nhân dân địa phơng thờng
gọi là Hấp ông Lê. Tiếng Mờng nghĩa là BÃi tập ông Lê Lợi ở cách Lam
Sơn 10 km về phía Tây Bắc.
Đặc biệt, Lê Lai đà nêu cao tấm gơng chiến đấu hy sinh vì sự tồn vong
của sự nghiệp cứu dân, cứu nớc hành động tự nguyện đổi áo cải trang thành
Chúa Lam Sơn Lĩnh 500 quân và hai voi chiến xông ra tập kích quân Minh
của Lê Lai là tấm gơng hy sinh vĩ đại đà mở đờng sống cho toàn bộ lực lợng
cuộc khởi nghĩa. Tấm gơng đó đà trở thành biểu tợng cao đẹp rực rỡ nhất của
nhân dân Ngọc Lặc và Thanh Hóa trong cuộc chiến đấu chống quân Minh ở
thế kỷ XX và sau này.
Vào giữa thế kỹ XIX thực dân Pháp nỗ xúng xâm lợc nớc ta, dới sự lÃnh
đạo của vua tôi nhà Nguyễn, nớc ta nhanh chóng bị rơi vào ách đô hộ của thực
dân pháp, nhng nhân dân ở khắp nơi vẫn sục sôi tinh thần đánh pháp.
Hởng ứng chiếu Cần Vơng của vua Hàm Nghi (1885) đồng bào các dân
tộc Ngọc Lặc đà dấy lên phong trào chống giặc Pháp mÃnh liệt. Nhân dân đÃ
cùng với nghĩa quân Hà Văn Mao và Cầm Bá Thớc phối hợp chiến đấu, đÃ
đánh lui nhiều cuộc tiến công của quân thù vào căn cứ khởi nghĩa Đà Gấm
(thuộc xà Quang Trung), thủ lĩnh Hà Văn Mao đà dựa vào thế hiểm yếu, lập
phòng tuyến chống giặc và xây dựng đồn MÃ Cao Nhân , các tổng Ngọc Lặc
tham gia sự nghiệp cứu nớc.
Không chỉ đánh Pháp trên đất Ngọc Lặc, nhiều ngời con của Ngọc Lặc
đà tham gia trận đánh mở màn ở đập Bái Thợng (thuộc huyện Thọ Xuân) trận
đánh ở Điền L (Bá Thớc) tác động đến đời
Phong trào Cần Vơng chống Pháp ở Thanh Hóa cũng nh cả nớc bị
quân thù đàn áp đẫm máu và thất bại. Nhng ngọn lửa chống Pháp vẫn âm ỉ
cháy và nhân dân Ngọc Lặc cùng với nhân dân tỉnh Thanh tiếp tục hởng ứng
các phong trào đấu tranh giải phóng d©n téc theo khuynh híng t tëng cđa
Phan Béi Ch©u, Phan Châu Trinh, Nguyễn Thái Học lÃnh đạo. Nhng đến
những năm 30 của thế kỷ XX ánh sáng của Đảng ®· räi tíi, híng ®ång bµo
16
các dân tộc Ngọc Lặc đi theo con đờng cách mạng vô sản đánh đuổi thực dân
phong kiến lÃnh đạo nhân dân ta giành độc lập tự do cho dân tộc.
Ngày 3/2/1930, Đảng cộng sản Việt Nam ra đời. Sự kiện lịch sử trọng
đại ấy đà đánh dấu bớc ngoặt lớn trong phong trào cách mạng nớc ta. Từ đây
các địa phơng nhanh chóng thành lập Đảng bộ để đáp ứng yêu cầu lịch sử đòi
hỏi trên quê hơng mình. Ngày 29/7/1930, Đảng bộ Thanh Hóa đợc thành lập,
đồng bào các dân tộc Ngọc Lặc theo Đảng vùng dậy đấu tranh giải quyết mâu
thuẫn dân tộc, mâu thuẫn giai cấp mở đờng cho xà hội phát triển.
Ngọn đuốc soi đờng của Đảng dẫn dắt đồng bào các dân tộc Ngọc Lặc
tham gia phong trào đấu tranh đòi dân sinh, dân chủ thời kỳ 1936 1939,
tham gia phong trào phản ®Õ cøu quèc thêi kú 1940 – 1941 thæi bïng lên ngọn
lửa chiến khu Ngọc Trạo thiêng liêng, quả cảm vµ tiÕn tíi phong trµo ViƯt Minh
thêi kú 1941 – 1945 vùng lên đấu tranh giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 23/8/1945, đợc sự hỗ trợ của lực lợng khởi nghĩa Thọ Xuân, Cẩm
Thủy, Yên Định, quần chúng cách mạng Ngọc Lặc đà kéo về châu lỵ, đánh đổ
ách cai trị của chế độ thực dân phong kiến thiết lập chính quyền cách mạng, góp
phần cùng cả tỉnh, cả nớc mở ra kỷ nguyên độc lập tự do và CNXH.
Hởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Trung ơng, Hồ Chí
Minh, đồng bào các dân tộc Ngọc Lặc một lòng đoàn kết đánh đuổi thực dân
Pháp xâm lợc.
Ngày 27/8/1949, chi bộ cộng sản đầu tiên chi bộ Bắc Sơn ra đời trên
quê hơng Ngọc Lặc. Sự phát triển nhanh chóng của chi bộ Bắc Sơn đà đặt nền
tảng cho việc ra đời của Đảng bộ Ngọc Lặc và huyện ủy lâm thời vào tháng
12/1950. Với sự lÃnh đạo trực tiếp của Đảng bộ, đồng bào các dân tộc Ngọc
Lặc tích cực xây dựng, bảo vệ hậu phơng đóng góp cao nhất nhiều nhất sức
ngời, sức của cho các cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc giành thắng lợi
quyết định.
Trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Ngọc Lặc đà huy động 14.667
ngời con u tú vào bộ đội, 456 thanh niên xung phong, 4.210 dân công hỏa tuyến
(đặc biệt là thời kỳ chống Mỹ cứu nớc, Ngọc Lặc đà chi viện cho chiến trờng
Quảng trị trung đội du kích Bắc Sơn, đơn vị đà chiến đấu dũng cảm, lập công xuất
sắc đợc tặng thởng huân chơng chiến công hạng nhất). Trong chiến đấu và công
tác đà cã 1.277 chiÕn sü ®· hy sinh to lín, Ngäc Lặc đà đợc Nhà nớc phong tặng
danh hiệu 23 Bà mĐ ViƯt Nam Anh hïng, 2 Anh hïng lùc lỵng vũ trang nhân dân,
1 Anh hùng lao động. Toàn huyện đợc tặng thởng 4.437 huân huy chơng kháng
chiến tác động ®Õn ®êi [2,153- 154].
17
Nh vậy về lịch sử xà hội Ngọc Lặc thực sự đà có một bề dày lịch sử
truyền thống cùng với cả nớc và cả dân tộc. Đó chính là cơ sở vững chắc để
giúp Ngọc Lặc phát triển đi lên.
Đất nớc hòa bình độc lập thống nhất đi lên XHCN, Đảng bộ, nhân dân
Ngọc Lặc tiến hành công cuộc khôi phục phát triển kinh tế xà hội, xây
dựng lại quê hơng sau chiến tranh. Bằng sức phấn đấu của muôn ngời Ngọc
Lặc đà tạo ra những giá trị mới làm biến đổi bộ mặt quê hơng.
Xây dựng đất nớc trong thời kỳ đổi mới, nhân dân Ngọc Lặc đà đẩy
mạnh việc phát triển kinh tế dựa trên những kế hoạch sẵn có. Ngọc Lặc có
nguồn kinh tế đa dạng, với nghề nông, tài nguyên rừng phong phú sản vËt,
cïng víi mét sè nghỊ thđ c«ng trun thèng nh đan lát, bện thừng, trồng dâu
nuôi tằm, dệt vải, mộc, cơ khí, đặc biệt là trồng luồng.v.v tác động đến đời
Ngọc Lặc còn là vùng đất địa linh nhân kiệt giàu truyền thống yêu nớc
cách mạng trải qua thời kỳ dựng nớc và giữ nớc qua các cuộc kháng chiến
chống ngoại xâm, nhân dân Ngọc Lặc đà có nhiều đóng góp to lớn để góp
phần tô điểm cho trang sử hào hùng của dân tộc. Cùng với nhiều thăng trầm
và biến cố lịch sử, nhân dân Ngọc Lặc vẫn đoàn kết, tơng thân tơng ái trong
cuộc sống, siêng năng cần cù trong lao động, kiên cờng bất khuất trong chống
giặc ngoại xâm. Đó là những di sản quý báu cho lớp thế hệ con cháu hôm nay
và mai sau noi theo.
Bên cạnh những thế mạnh về tự nhiên và xà hội, chính là yếu tố cơ bản
để đa nền kinh tế của huyện phát triển. Song Ngọc Lặc vẫn gặp phải nhiều khó
khăn do khí hậu khắc nhiệt nền sản xuất nông nghiệp thấp, năng suất cha cao
đời sống nhân dân còn đói kém, nền kinh tế của huyện chủ yếu là nền kinh tế
tự cung tự cấp, sản xuất nhỏ.v.v tác động đến đờiVì vậy vấn đề đặt ra cho huyện Ngọc Lặc
cần có những chủ trơng chính sách hợp lý để đẩy mạnh hơn nữa việc phát
triển kinh tế, nhằm phát huy tiềm năng thế mạnh vốn có trong vùng để nâng
cao đời sống của nhân dân.
1.2. Kinh tế Ngọc Lặc trong 10 năm đầu xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc
XHCN (1975 1985).
1.2.1 Sơ lợc kinh tế Ngọc Lặc trớc năm 1975.
Do vị trí đất đai, đồi núi rừng rú, sông suối nên nhân dân Ngọc Lặc
sống bằng nghề nông chủ yếu là làm ruộng, phát rẫy trồng nơng. Công cụ lao
động thô sơ, kỹ thuật canh tác không đợc cải tiến nên đời sống của nhân dân
vốn đà lam lũ, chịu nhiều tác động của thiên nhiên lại càng trở nên vất vả hơn.
18
ĐÃ vậy lại còn chịu áp bức, cờng quyền với su cao thuế nặng của bọn thổ ty
lang đạo trong các bản mờng và các tổng.
Từ sau cánh mạng tháng Tám, chính quyền dân chủ nhân dân ở Ngọc
Lặc đợc xác lập, tình hình kinh tế và đời sống nhân dân đợc phát triển hơn trớc. Nhờ truyền thống lao động cần cù sáng tạo, tự lập tự cờng trong sản xuất
cộng với sự quan tâm của Đảng bộ và chính quyền huyện, nên nạn đói từng bớc đợc đẩy lùi. Trong giai đoạn 1946- 1954 chính quyền cách đà lÃnh đạo
nhân dân các dân tộc trong huyện lấy lại ruộng đất trâu bò của bọn Thổ tỵ
Lang đạo phản động, chủ trơng giảm 25% thuế đồng thời phát động trong toàn
huyện phong trào lao động tăng gia sản xuất chống giặc đói. Từng bớc ổn
định đời sống cho nhân dân. Trong giai đoạn 1954 1975. Miền Bắc chủ yếu
bớc sang giai đoạn khôi phục và cải tạo XHCN và xây dựng CNXH. Miền
Nam tiếp tục đấu tranh chống ®Õ qc Mü vµ bÌ lị tay sai, hoµn thµnh cách
mạng dân tộc, dân chủ nhân dân thực hiện hòa bình thống nhất đất nớc. Dới
chỉ đạo của Đảng bộ và chính quyền huyện đà phát động phong trào. Thi đua
sản xuất trong đồng bào các dân tộc huyện nhà đó là: thi đua sản xuất, tơng
trợ cứu đói, không để một tấc đất để hoang, đẩy mạnh khai thác lâm sản,
phát động phong trào sạch làng tốt ruộng, sạch bản tốt nơng.
Để phục vụ nhu cầu đời sống hàng ngày cho đồng bào các dân tộc trong
huyện năm 1955 cửa hàng bách hóa Phố Châu đợc xây dựng [1,69], và cũng
trong thời gian này lâm trờng Ngọc Lặc đợc thành lập mở đầu phong trào
trồng rừng (nhất là trồng luồng ở Ngọc Lặc) kết quả đến cuối năm 1965, do
những nổ lực cố gắng thực sự của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân trong huyện
đà đạt đợc nhiều kết quả đáng phấn khởi.
Về sản xuất nông nghiệp, thắng lợi bớc đầu trong việc tăng vụ, chuyển
màu diện tích gieo trồng so với năm 1960 tăng 26.6% [1,94] một số hợp tác
xà đà có chuyển biển trong việc thâm canh, tăng năng suất nh Thái Bình,
Quang Trung, Kim Ngọc.
Về rừng: Khối lợng gỗ, nứa khai thác cũng tăng nhiều so với năm 1960.
Đặc biệt công tác trồng rừng đà có những tiến bộ đáng kể làm cho nông dân
phấn khởi.
Về chăn nuôi: Các loại gia súc, gia cầm đều tăng, đàn trâu tăng 49%,
đàn bò tăng gấp đôi 4.302 con, đàn lợn 12.521 con.
Ngoài ra huyện Ngọc Lặc đà thành lập đợc 68 hợp tác xà gồm 5.860 hộ
nông dân, đồng thời với hợp tác xà mua bán và hợp tác xà tín dụng cũng đợc
thúc đẩy m¹nh mÏ.
19
Mời năm 1954 1965 với sự nỗ lực của toàn huyện. Trong quá trình
phát triển kinh tế dẫn tới đời sống của đại đa số nhân dân đợc nâng lên, nhiều
hợp tác xà đà cung cấp lơng thực, thực phẩm cho nhân dân đủ no và hoàn
thành nghĩa vụ cho Nhà nớc. Tuy thế, so với yêu cầu của cách mạng, khả năng
dồi dào phong phú của huyện thì những cố gắng và tiến bộ trên vẫn cha tơng
xứng, phong trào chuyển biến cha mạnh, cha đều, thiếu tích cực tác động đến đờiVì vậy đòi
hỏi Đảng bộ và nhân dân các dân tộc trong huyện Ngọc Lặc cần phải phấn
đấu hơn nữa để tạo ra những tiền đề để bớc vào giai đoạn cách mạng đầy thử
thách, thời kỳ vừa sản xuất vừa chiến đấu.
Thực hiện mu đồ đánh phá miền Bắc ngày mùng 3 và ngày 4 tháng 4
năm 1965 đế quốc Mỹ đà chính thức cho máy bay bắn phá cầu Ghép, cầu
Hàm Rồng, Đò Lèn và một số vùng khác trên đất Thanh Hoá. Với ý chí kiên
cờng, dũng cảm ngay từ những ngày đầu, quân và dân tỉnh Thanh Hoá đÃ
đánh trả cho chúng những đòn đích đáng. Trớc tình hình đó huyện Ngọc Lặc
đà nêu cao quyết tâm đẩy mạnh phong trào thi đua mỗi ngời làm việc bằng
hai trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, công nghiệp, thơng
nghiệp, tài chính, ngân hàng tác động đến đời
Ngày 20 10 1970. Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IX đà khai
mạc, Đại hội xác định nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế trong giai đoạn
này là chun sang ®iỊu kiƯn ®Êt níc cã chiÕn tranh, nh»m đảm bảo nhu cầu lơng thực và thực phẩm phục vụ cho tiền tuyến huyện xác định phải sản xuất
nông nghiệp trên cả 3 mặt: Trồng trọt chăn nuôi- lâm nghiệp. Khôi phục và
phát triển từng bớc, một số giống cây, con phục vụ cho nông lâm nghiệp,
nhờ vậy năm 1970. Trên cơ sở đó phấn đấu đạt 3 mục tiêu trong nông nghiệp
là (4.8 tấn thóc, 1.8 con lợn, 1 lao động làm từ 0.9 1 ha gieo trồng). Năm
1970 tổng sản lơng lơng thực tăng hơn năm 1969 là 240 Kg/ 1mẫu. Năm 1970
đà phát triển đợc 26 trại nuôi bò tập thể. Trồng luồng năm 1970 tăng hơn năm
1969 là 100.000 gốc và tỉ lệ sống đạt cao hơn.
Các ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thơng nghiệp, dần đi vào
đúng hớng phục vụ sản xuất, giải quyết đời sống ngày một tốt hơn. Tài chính
đà cố gắng thu chi hoàn thành vợt kế hoạch, giải quyết đợc một số vốn cho
hợp tác xà nông nghiệp mua trâu, bò và trồng rừng. Giao thông vận tải tu sửa
đờng, phát triển phơng tiện vận tải hàng hoá. Năm 1969 mua đợc 690 xe cái
tiến các loại.
Năm 1972, âm mu Việt Nam hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ trớc
nguy cơ bị đỗ vỡ. Níchxơn tiến hành phá hoại miền Bắc lần hai. Trong tình
20
hình chiến tranh ác liệt nhân dân tiếp tục sản xuất chiến đấu phục vụ
chiến đấu. Với tinh thần tất cả vì miền Nam ruột thịt quyết tâm thóc
không thiếu một cân, quân không thiếu một ngời. Vợt qua ma bom bÃo đạn
nhân dân Ngọc lặc đà dành đợc nhiều thắng lợi trên các mặt trận nông nghiệp.
Sản xuất lơng thực năm 1972 huyện đạt 5 tấn/ha chăn nuôi trâu bò tăng nhanh,
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tăng mỗi năm một tăng. Hoạt động các
ngành lu thông phân phối đợc đẩy mạnh, hợp tác xà mua bán đợc khôi phục
và cũng cố lại ở một số xà hàng hoá mua vào, bán ra kịp thời theo yêu cầu của
sản xuất và đời sống nhân dân.
Ngoài những nổ lực to lớn và những tiến bộ đáng kể trong khôi phục
phát triển kinh tế, nhân dân Ngọc Lặc còn duy trì đợc phong trào tòng quân
chi viện cho tiền tuyến. Năm 1971 chi viện cho miền Nam là 372/375 ngời. Là
huyện đợc đánh giá có phong trào khá đà góp phần hoàn thành nhiệm vụ
chiến dấu và khôi phục phát triển kinh tế của tỉnh.
Từ năm 1973 1974 Ngọc Lặc đà tập trung khắc phục những khó
khăn của thiên tai gây ra và những hậu quả của cuộc chiến tranh để lại. Đảng
bộ và nhân dân Ngọc Lặc đà ra sức phát triển kinh tế văn hóa, cũng cố và
xây dựng cơ sở vật chất, mau chóng ổn định đời sống của nhân dân.
Ngày 30/4/1975 miền Nam hoàn toàn giải phóng Bắc Nam sum họp
một nhà, đà trở thành ngày hội lớn của dân tộc ta nói chung và đồng bào các
dân tộc Ngọc Lặc nói riêng .
Năm 1954 1975, suốt chặng đờng vừa sản xuất, vừa chiến đấu và vừa
phục vụ chiến đấu của Đảng bộ và nhân dân các dân tộc huyện Ngọc Lặc, qua
chiến tranh, khó khăn gian khó những thử thách của phong trào. Đảng bộ và
nhân dân Ngọc Lặc đà dành đợc nhiều thành tích to lớn, luôn là huyện đi đầu
trong các huyện miền núi và hoàn thành các nhiệm vụ tỉnh giao. Ngọc Lặc
cùng cả tỉnh bớc vào giai đoạn cách mạng mới giai đoạn cả nớc quá độ đi
lên CNXH.
1.2.2. Khó khăn và thuận lợi của Ngọc Lặc trong xây dựng và phát triển
kinh tế sau ngày đất nớc thống nhất.
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nớc của dân tộc ta dành đợc thắng lợi
bằng đại thắng mùa xuân năm 1975. Việt Nam hoàn toàn thống nhất, đất nớc
bớc vào thời kỳ cách mạng mới, thời kỳ cả nớc đi lên XHCN.
Đứng trớc tình hình đó, nhiệm vụ đặt ra cho Ngọc Lặc là: nhanh chóng
hàn gắn vết thơng chiến tranh, ổn định và khôi phục kinh tế, cải thiện đời sống