ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA Y DƯỢC
TRẦN NGỌC PHƯƠNG ANH
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
NHÂN TRẮC HỌC PHÁT TRIỂN TAI
NGƯỜI VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH Y
ĐA KHOA
Hà Nội - 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA Y DƯỢC
Người thực hiện: TRẦN NGỌC PHƯƠNG ANH
NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM
NHÂN TRẮC HỌC PHÁT TRIỂN TAI
NGƯỜI VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC NGÀNH Y
ĐA KHOA
Khóa: QH-2014.Y
Người hướng dẫn:
PGS. TS. NGUYỄN HỒNG HÀ
Hà Nội - 2020
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và hồn thành khóa luận này, em đã nhận
được nhiều sự giúp đỡ của thầy cơ và bạn bè. Với lịng biết ơn sâu sắc, em xin chân
thành gửi lời cảm ơn tới:
Ban chủ nhiệm, thầy cô giáo Bộ môn Ngoại, Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Ban giám đốc Bệnh viện Việt Đức đã tạo mọi điều kiện cho em trong quá trình
học tập và nghiên cứu.
Em xin gửi lời cảm ơn đến lãnh đạo và tập thể cán bộ nhân viên Khoa Phẫu
thuật Hàm mặt Tạo hình và Thẩm mỹ, Khoa Phẫu thuật Nhi và Trẻ sơ sinh Bệnh viện
Việt Đức đã tạo điều kiện thuận lợi cho em trong q trình thực hiện khóa luận.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn chân thành tới các Thầy/Cô Giáo sư, Phó giáo sư,
Tiến sỹ trong hội đồng khoa học bảo vệ khóa luận đã đóng góp nhiều ý kiến q báu
cho em để hồn chỉnh khóa luận tốt nghiệp này.
Em xin tỏ lịng kính trọng và biết ơn tới:
PGS.TS. Nguyễn Hồng Hà, trưởng khoa Phẫu thuật Hàm mặt Tạo hình và
Thẩm mỹ Bệnh viện Việt Đức, người thầy kính yêu đã tận tâm dìu dắt, giúp đỡ, hướng
dẫn em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
TS. Nguyễn Việt Hoa, trưởng khoa Phẫu thuật Nhi và Trẻ sơ sinh Bệnh viện
Việt Đức đã tạo mọi điều kiện cho em thu thập số liệu hồn thành khố luận này.
Cuối cùng em xin bày tỏ lòng biết ơn tới cha mẹ, anh chị em trong gia đình,
bạn bè đã động viên, chia sẻ với em trong suốt quá trình học tập và nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2020
TRẦN NGỌC PHƯƠNG ANH
LỜI CAM ĐOAN
Em là Trần Ngọc Phương Anh, sinh viên khoá QH.2014.Y, ngành Y đa khoa,
Khoa Y Dược, Đại học Quốc gia Hà Nội, xin cam đoan:
1. Đây là luận văn do bản thân em trực tiếp thực hiện dưới sự hướng dẫn của
PGS.TS. Nguyễn Hồng Hà.
2. Cơng trình này không trùng lặp với bất kỳ nghiên cứu nào khác đã được
công bố tại Việt Nam.
3. Các số liệu và thơng tin trong nghiên cứu là hồn tồn chính xác, trung thực
và khách quan, đã được xác nhận và chấp thuận của cơ sở nơi nghiên cứu.
Em xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về những cam kết này.
Hà Nội, ngày 20 tháng 05 năm 2020
Tác giả
TRẦN NGỌC PHƯƠNG ANH
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
AI
BMI
: Chỉ số tai (auricular index)
: Chỉ số khối cơ thể (body mass index)
n
PPE
: Số lượng
: Polyethylene xốp (porous polyethylene)
SD
: Độ lệch chuẩn (standard deviation)
X
: Giá trị trung bình
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................1
CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU ...................................................................3
1.1. Giải phẫu tai ngoài ............................................................................................3
1.1.1. Giải phẫu tai ngoài .....................................................................................3
1.1.2. Các mốc giải phẫu và chỉ số sử dụng trong nghiên cứu .............................4
1.2. Các nghiên cứu nhân trắc học tai trẻ em trên thế giới ......................................5
1.2.1. Tóm lược lịch sử hình thành và phát triển nhân trắc học ...........................5
1.2.2. Một số nghiên cứu nhân trắc học tai trẻ em trên thế giới ...........................7
1.2.3. Một số nghiên cứu nhân trắc học tại Việt Nam..........................................9
1.3. Các phương pháp nghiên cứu nhân trắc học tai................................................9
1.3.1. Đo trực tiếp .................................................................................................9
1.3.2. Đo trên ảnh .................................................................................................9
1.3.3. Đo trên phim chụp cắt lớp vi tính dựng hình ba chiều (3D Computed
Tomography) ......................................................................................................10
1.4. Dị tật tai nhỏ bẩm sinh ....................................................................................10
1.4.1. Đại cương về dị tật tai nhỏ bẩm sinh........................................................10
1.4.2. Ảnh hưởng tâm lý của dị tật tai nhỏ bẩm sinh trên bệnh nhi ...................12
1.5. Phẫu thuật tạo hình tai ....................................................................................14
1.5.1. Lịch sử phát triển của phẫu thuật tạo hình tai ..........................................14
1.5.2. Phương pháp sử dụng sụn sườn tự thân ...................................................15
1.5.3. Phương pháp sử dụng sụn nhân tạo bằng polyethylene xốp ....................16
1.5.4. Tình hình tại Việt Nam.............................................................................17
CHƯƠNG 2 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ....................20
2.1. Đối tượng nghiên cứu .....................................................................................20
2.1.1. Nhóm 1 - Nghiên cứu đặc điểm nhân trắc học phát triển tai ...................20
2.1.2. Nhóm 2 - Bước đầu ứng dụng trong phẫu thuật tạo hình tai....................20
2.2. Địa điểm và thời gian nghiên cứu ...................................................................21
2.3. Phương pháp nghiên cứu nhân trắc học phát triển tai ....................................21
2.3.1. Thiết kế nghiên cứu ..................................................................................21
2.3.2. Chọn mẫu .................................................................................................21
2.3.3. Thiết lập biến số nghiên cứu ....................................................................21
2.3.4. Phương pháp đo kích thước tai ngồi .......................................................22
2.3.5. Phương pháp phân tích và xử lý số liệu ...................................................23
2.4. Bước đầu ứng dụng trong phẫu thuật tạo hình tai ..........................................23
2.4.1. Thiết kế nghiên cứu ..................................................................................23
2.4.2. Chọn mẫu .................................................................................................23
2.4.3. Tiến hành nghiên cứu ...............................................................................23
2.5. Sơ đồ nghiên cứu ............................................................................................26
2.6. Vấn đề đạo đức trong nghiên cứu ...................................................................27
CHƯƠNG 3 KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ...............................................................28
3.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu nhân trắc học phát triển tai ........28
3.2. Đặc điểm nhân trắc học phát triển tai người Việt Nam ..................................31
3.3. Bước đầu ứng dụng trong phẫu thuật tạo hình tai điều trị dị tật tai nhỏ bẩm sinh
...............................................................................................................................41
CHƯƠNG 4 BÀN LUẬN ........................................................................................45
4.1. Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu nhân trắc học phát triển tai ........45
4.2. Đặc điểm nhân trắc học phát triển tai người Việt Nam ..................................46
4.3. Bước đầu ứng dụng trong phẫu thuật tạo hình tai ở trẻ mắc dị tật tai nhỏ bẩm
sinh tại Bệnh viện Việt Đức...................................................................................49
KẾT LUẬN ..............................................................................................................52
1. Một số đặc điểm nhân trắc học phát triển tai người Việt Nam..........................52
2. Bước đầu ứng dụng trong phẫu thuật tạo hình tai điều trị trẻ mắc dị tật tai nhỏ
bẩm sinh tại Bệnh viện Việt Đức ...........................................................................53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 3.1. Phân bố tuổi theo giới của nhóm nghiên cứu ...........................................29
Bảng 3.2. Tuổi trung bình của người trưởng thành...................................................29
Bảng 3.3. Đặc điểm tăng trưởng của trẻ ...................................................................30
Bảng 3.4. Kích thước tai trẻ em theo nhóm tuổi và giới ...........................................31
Bảng 3.5. Kích thước tai của người trưởng thành .....................................................35
Bảng 3.6. Chỉ số tai của trẻ theo nhóm tuổi ..............................................................36
Bảng 3.7. Chỉ số tai của người trưởng thành ............................................................37
Bảng 3.8. Tỉ lệ kích thước tai trẻ so với người trưởng thành cùng giới (%) ............37
Bảng 3.9. Tỉ lệ kích thước tai trẻ nam có số đo tai bố so với kích thước tai bố, trẻ nữ
có số đo tai mẹ so với kích thước tai mẹ (%) ............................................................39
Bảng 3.10. Kết quả bước đầu ứng dụng nhân trắc trong tạo hình tai nhỏ khung sụn
nhân tạo PPE .............................................................................................................41
Bảng 4.1. Tỉ lệ % chiều dài tai của nhóm trẻ 5 – 6 tuổi so với người trưởng thành ở
một số nghiên cứu trên thế giới .................................................................................49
DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 3.1. Phân bố theo giới của đối tượng nghiên cứu ........................................28
Biểu đồ 3.2. Đồ thị chiều rộng tai trái trung bình của trẻ theo nhóm tuổi ................33
Biểu đồ 3.3. Đồ thị chiều dài tai trái trung bình của trẻ theo nhóm tuổi ..................34
DANH MỤC HÌNH
Hình 1.1. Loa tai phải (mặt ngồi)[55] .......................................................................3
Hình 1.2. Các mốc giải phẫu và số đo sử dụng trong nghiên cứu của Barut (2003)
[1] ................................................................................................................................4
Hình 1.3. Các mốc giải phẫu và số đo sử dụng trong nghiên cứu của Purkait (2013)
[34] ..............................................................................................................................5
Hình 2.1. Giản đồ tai trái [12] ...................................................................................22
Hình 2.2. Đo kích thước khung sụn nhân tạo trong mổ ............................................24
Hình 2.3. Khung sụn PPE và vạt cân thái dương đỉnh với đầy đủ hai cung mạch ...24
Hình 2.4. Da đầu tại chỗ lấy vạt khơng có sẹo xấu nhờ ứng dụng nội soi................24
Hình 2.5. Sau mổ 6 tháng, kết quả thẩm mỹ tốt chỉ với một lần phẫu thuật.............25
Hình 2.6. Tai mới to hơn tai đối diện nhưng gia đình và bệnh nhân hiểu và hài lịng
...................................................................................................................................25
Hình 3.1. Bệnh nhân số 1 trước và sau mổ ...............................................................42
Hình 3.2. Bệnh nhân số 2 trước và sau mổ ...............................................................43
Hình 3.3. Bệnh nhân số 4 trước và sau mổ ...............................................................44
ĐẶT VẤN ĐỀ
Một trong những dị tật chiếm tỷ lệ lớn trong bất thường hình dạng vành tai
bẩm sinh là dị tật tai nhỏ bẩm sinh. Dị tật tai nhỏ bẩm sinh là sự phát triển bất thường
của vành tai, đặc trưng bởi một hay cả hai vành tai có kích thước nhỏ bất thường và
hình dáng bị biến dạng [18]. Tỷ lệ mắc của dị tật tai nhỏ bẩm sinh trung bình trên thế
giới là 2,06/10.000 trẻ mới sinh [25]. Ở những trẻ sinh ra với dị tật này, bất thường
về thẩm mỹ sớm trở thành bất lợi lớn trong các giao tiếp xã hội và có thể gây ra sự
chế nhạo, xa lánh hay chối bỏ ở các trẻ đồng trang lứa dẫn tới những sang chấn tâm
lý hay thậm chí là sự gián đoạn phát triển tâm lý, để lại những di chứng phức tạp
trong sự phát triển tâm lý bình thường của trẻ [29]. Trẻ nhỏ hình thành ý thức về bản
thân ở độ tuổi 4 – 6, trong giai đoạn này trẻ rất nhạy cảm trong các giao tiếp xã hội.
Đây là thời gian quan trọng trong cuộc đời, có ảnh hưởng tới sự hình thành và hoàn
thiện nhân cách của trẻ trong tương lai. Do đó vấn đề phẫu thuật tạo hình tai được đặt
ra và khuyến khích thực hiện trước hoặc trong giai đoạn này [29, 35].
Phẫu thuật tạo hình tai có lịch sử kéo dài qua nhiều thế kỷ cùng với sự hình
thành và phát triển của nhiều kỹ thuật khác nhau, cùng đi theo sự hoàn thiện về mặt
kỹ thuật là hành trình tìm kiếm và hồn thiện vật liệu tối ưu cho phẫu thuật tạo hình
tai, từ việc sử dụng sụn sườn ở cuối thế kỷ 19 cho tới việc sản xuất và sử dụng vật
liệu nhân tạo ở cuối thế kỷ 20 [3]. Các phẫu thuật viên luôn mong muốn giảm số lần
phẫu thuật và thực hiện tái tạo càng sớm càng tốt, trước độ tuổi đến trường để tránh
ảnh hưởng tới tâm lý của trẻ. Phương pháp tạo hình kinh điển bằng sụn sườn tự thân
yêu cầu trẻ phải có lồng ngực đủ lớn để tạo hình khung sụn nên chỉ thực hiện được ở
lứa tuổi từ 8 – 12 tuổi. Với việc sử dụng khung sụn nhân tạo Polyethylene, từ những
năm 1990, một nhóm các phẫu thuật viên Hoa Kỳ đã có thể triển khai tái tạo tai cho
trẻ ở độ tuổi trước khi đi học. Hiện tại ở Việt Nam, các bác sỹ khoa Phẫu thuật Hàm
mặt Tạo hình và Thẩm mỹ Bệnh viện Việt Đức đã thực hiện thành cơng nhiều ca phẫu
thuật tạo hình tai sớm bằng sụn nhân tạo một thì với sự hỗ trợ của nội soi cho trẻ chỉ
từ 3 – 6 tuổi [56]. Nhưng vấn đề các phẫu thuật viên gặp phải là khi tái tạo tai sớm
cho trẻ việc ước lượng được kích thước tai mới như thế nào cho phù hợp để sau này
khi trưởng thành không cần phẫu thuật thêm nữa.
Nhiều nghiên cứu nhân trắc học về kích thước tai ở trẻ nhỏ đã được thực hiện
trên thế giới, ở các quốc gia, vùng lãnh thổ và chủng tộc khác nhau, như ở trẻ người
1
da trắng tại Thổ Nhĩ Kỳ và Bắc Mỹ [1, 12], trẻ người da vàng tại Trung Quốc [49] và
trẻ người da đen tại Zimbabwe [29]. Những nghiên cứu này đều có giá trị ứng dụng
cao trong đánh giá và theo dõi sự phát triển bình thường của tai ở trẻ nhỏ cũng như
việc lựa chọn kỹ thuật và vật liệu phù hợp trong phẫu thuật tạo hình tai cho các trẻ
mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh. Tuy nhiên hiện tại ở Việt Nam qua tìm hiểu trên y văn
vẫn chưa có nghiên cứu nào về nhân trắc học tai trẻ em, chưa có một cơ sở dữ liệu
nào về kích thước tai của trẻ qua từng giai đoạn phát triển của cuộc đời và các báo
cáo về kỹ thuật tạo hình tai hiện mới tập trung chủ yếu tại bệnh viện Việt Đức.
Xuất phát từ những vấn đề trên, chúng tôi tiến hành đề tài: “Nghiên cứu một
số đặc điểm nhân trắc học phát triển tai người Việt Nam” với mục tiêu:
1. Mô tả một số đặc điểm nhân trắc học tai ở trẻ trong độ tuổi dưới 18, so
sánh với người trưởng thành.
2. Bước đầu ứng dụng trong phẫu thuật tạo hình tai điều trị dị tật tai nhỏ
bẩm sinh tại bệnh viện Việt Đức.
2
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Giải phẫu tai ngoài
1.1.1. Giải phẫu tai ngoài
Tai ngoài là một trong ba phần cấu trúc nên cơ quan tiền đình ốc tai. Tai ngồi
bao gồm có loa tai và ống tai ngồi ngăn cách với tai giữa bởi màng nhĩ, có nhiệm vụ
thu nhận và dẫn truyền sóng âm thanh trong khơng khí đến màng nhĩ.
Hình 1.1. Loa tai phải (mặt ngồi)[55]
Loa tai có hình vành loa cùng những chỗ lồi lõm giúp ta thu nhận âm thanh từ
mọi phía mà khơng cần cử động tai hoặc xoay đầu về phía tiếng động như ở nhiều
lồi động vật. Loa tai có hai mặt: mặt ngồi và mặt trong. Mặt ngồi loa tai lõm khơng
đều hướng nhẹ ra trước và có nhiều chỗ lồi, lõm. Mặt trong loa tai áp vào sọ và hướng
ra sau, giới hạn với mặt bên sọ bởi rãnh tai sau.
Xung quanh loa tai có 4 gờ: gờ ln chạy vịng theo chu vi loa tai, bắt đầu từ
gốc gờ luân (trụ gờ luân). Nơi gờ luân đổi hướng chạy xuống dưới có một mấu nhỏ
nhơ lên là củ loa tai, phần dưới gờ gọi là đuôi gờ luân; gờ đối luân chạy song song
phía trước và trong gờ luân, phần trên tách thành hai trụ, giữa hai trụ là hố tam giác;
bình tai (gờ bình) là một gờ nhỏ chắn phía trước xoắn tai; gờ đối bình nằm đối diện
bình tai. Dưới tất cả là dái tai.
3
Loa tai được cấu tạo bởi da, sụn, dây chằng và cơ. Lớp da phủ loa tai mỏng,
dính chặt vào mặt ngoài của sụn. Sụn tai là một mảnh sụn sợi đàn hồi, hình dạng lồi
lõm như ở loa tai, nhờ vậy mà sụn tai có tác dụng tạo và giữ hình dáng của loa tai. Ở
dái tai khơng có sụn mà chỉ có mơ sợi và mơ mỡ phủ bởi da. Các dây chằng của loa
tai có tác dụng cố định loa tai vào mặt bên đầu và giữ hình dáng của loa tai, các cơ
tai kém phát triển [54].
1.1.2. Các mốc giải phẫu và chỉ số sử dụng trong nghiên cứu
Các nghiên cứu của Farkas (1992) và Barut (2006) đưa ra các mốc giải phẫu
để sử dụng trong đo lường như sau [1, 12]:
-
Gốc gờ luân (preaurale – pra): điểm trong nhất của mặt ngoài loa tai.
-
Củ loa tai (postaurale – pa): điểm ngoài nhất của mặt ngoài loa tai.
-
Đỉnh gờ luân (superaurale – sa): điểm trên nhất của mặt ngoài loa tai.
-
Gờ dái tai (subaurale – sa): điểm dưới nhất của mặt ngồi loa tai.
Hình 1.2. Các mốc giải phẫu và số đo sử dụng trong nghiên cứu của Barut
(2003) [1]
Các nghiên cứu trên cũng xác định các số đo chiều rộng và chiều dài tai dựa
trên các mốc giải phẫu như sau:
4
-
Chiều rộng tai (pra-pa): là khoảng cách giữa gốc gờ luân và củ loa tai.
-
Chiều dài tai (sa-sba): là khoảng cách giữa hai đường thẳng song song đi qua
đỉnh gờ luân và gờ dái tai và song song với đường thẳng đi qua gốc gờ luân và
củ loa tai.
Các nghiên cứu của Kalcioglu (2003) và Purkait (2013) lại đưa ra cách xác
định chiều dài tai khác: chiều dài tai là khoảng cách trực tiếp giữa đỉnh gờ luân và gờ
dái tai, với chiều rộng tai được xác định tương tự như Farkas và Barut [22, 34].
Hình 1.3. Các mốc giải phẫu và số đo sử dụng trong nghiên cứu của Purkait
(2013) [34]
Để phục vụ cho việc đánh giá sâu hơn những khác biệt về sự phát triển chiều
rộng và chiều dài tai giữa các nhóm tuổi và hai giới, các nghiên cứu của Barut (2006),
Purkait (2013) và Zhao (2017) đã đưa ra chỉ số tai (Auricular Index – AI) như sau [1,
34, 49]:
AI = Chiều rộng tai x 100 / Chiều dài tai
1.2. Các nghiên cứu nhân trắc học tai trẻ em trên thế giới
1.2.1. Tóm lược lịch sử hình thành và phát triển nhân trắc học
Việc đo đạc các kích thước của từng bộ phận cơ thể cũng như toàn bộ cơ thể
đã được thực hiện từ thời Hy Lạp cổ đại. Rất nhiều phép đo từ thời cổ đại vẫn được
5
áp dụng trong nhân trắc học hiện đại. Điểm khác biệt chính giữa nhân trắc học cổ
điển và hiện đại là sự phủ nhận những kích thước và tỷ lệ được đưa ra bởi các nghệ
sỹ và nhà khoa học thời trước, các tác giả này thường mơ tả hình thái và các tiêu
chuẩn của cơ thể một cách chủ quan theo ý muốn của họ. Tuy nhiên, đối với phẫu
thuật tạo hình và thẩm mỹ, những kích thước và tỷ lệ thật được đánh giá bằng cách
sử dụng các kỹ thuật nhân trắc học và được dùng như những nguyên tắc để sửa chữa
những khiếm khuyết và sự mất cân đối.
Những tiêu chuẩn chính về cơ thể con người đã được định nghĩa bởi các nghệ
sỹ Ai Cập cổ đại và có ảnh hưởng lớn đến người Hy Lạp và La Mã cổ đại. Sang thời
kỳ Hy Lạp cổ đại, Polycleitus (khoảng 450 – 420 TCN) là một nhà điêu khắc đã dựa
trên các tỷ lệ cơ bản của Ai Cập để định nghĩa nên các tiêu chuẩn tỷ lệ cơ thể lý tưởng
đầu tiên. Aristotle (384 – 322 TCN) đã đưa ra những triết lý về vẻ đẹp lý tưởng trong
các nghiên cứu về cơ thể và khuôn mặt. Trong Physiognomica ơng đã mơ tả cách chỉ
ra tính cách của mỗi người dựa trên các đặc điểm cơ thể của họ [50].
Đến thời kỳ Phục hung Leonardo Da Vinci (1452 – 1519) tập trung nghiên
cứu các tỷ lệ cơ thể và khuôn mặt được cho là lý tưởng và ứng dụng chúng vào những
tác phẩm nghệ thuật của mình. Từ thế kỷ 18 – 19, mục đích đo đạc chủ yếu là để chỉ
ra sự ưu việt của một số nhóm người so với các nhóm người khác.
Tới thế kỷ 20, nhân trắc học bước vào thời kỳ của những tỷ lệ và phép đo
khách quan:
-
Jacques Joseph (1865 – 1934): được coi là cha đẻ của ngành tạo hình mũi hiện
đại nhấn mạnh tầm quan trọng của mũi nhìn nghiêng với thẩm mỹ của khn
mặt.
-
Brodie (1941): Nghiên cứu về sự tăng trưởng sọ mặt ở trẻ em.
-
Hunter (1966), Popovich và Thompson (1977): Nghiên cứu mối liên hệ giữa
tăng trưởng đầu mặt và tăng trưởng chiều cao qua các giai đoạn phát triển.
-
Farkas (1994): Nghiên cứu sự phát triển các số đo đầu mặt trên người da trắng
Bắc Mỹ.
6
1.2.2. Một số nghiên cứu nhân trắc học tai trẻ em trên thế giới
Đến cuối thế kỷ 20, phẫu thuật tạo hình tai trong điều trị các trẻ mắc dị tật tai
nhỏ bẩm sinh đã trở thành một lĩnh vực được nhiều chuyên gia phẫu thuật tạo hình
quan tâm tới. Tuy đã có nhiều tác giả đề cập đến sự phát triển kích thước của tai sau
sinh trong y văn, vẫn chưa có một nghiên cứu nào đưa ra được những kết luận rõ ràng
về tuổi trưởng thành của kích thước tai. Do đó giữa các bác sĩ phẫu thuật tạo hình có
nhiều ý kiến trái chiều về việc lựa chọn thời gian tối ưu cho phẫu thuật tạo hình tai.
Để giải đáp cho vấn đề này, Farkas đã công bố nghiên cứu nhân trắc học tai vào năm
1992, là tác giả đầu tiên nêu ra được các mốc thời gian cụ thể trong q trình trưởng
thành về kích thước tai [12].
Nghiên cứu của Farkas (1992)
Nghiên cứu được thực hiện trên 1590 trẻ người da trắng ở Bắc Mỹ trong độ
tuổi từ 1 đến 18 tuổi, bao gồm cả hai giới, các số đo được lấy từ tai trái và rút ra được
những kết quả sau [12]:
Ở mốc 1 tuổi, chiều rộng tai đã đạt 93,5% kích thước trưởng thành ở cả hai
giới, chỉ kém trung bình 2,3mm so với kích thước trung bình của nhóm 18 tuổi. Mặt
khác, ở mốc 1 tuổi chiều dài tai mới chỉ đạt 76,4%, cịn chênh lệch gấp năm lần
(12,3mm) so với nhóm 18 tuổi. Ở mốc 5 tuổi, chiều rộng tai đã đạt 96,7%, gần bằng
kích thước trưởng thành trong khi chiều dài đạt 86,6% ở cả hai giới và còn thấp hơn
8,2mm so với nhóm 18 tuổi. Sự tăng trưởng chiều rộng tai theo năm là tương đối ít,
xen lẫn với các khoảng không ghi nhận sự phát triển. Ở nam giới ghi nhận sự tăng
chiều dài tai nhanh trong giai đoạn sớm từ 2 – 3 tuổi và sau đó chậm lại, với các
khoảng ngắn không thay đổi. Nữ giới cũng đi theo hình mẫu phát triển tương tự.
Chiều rộng tai đạt kích thước trưởng thành tại mốc 7 tuổi ở nam giới và 6 tuổi ở nữ
giới, chiều dài tai trưởng thành tại mốc 13 tuổi ở nam giới và 12 tuổi ở nữ giới. Tại
thời điểm này, trung bình chiều dài tai kém hơn kích thước trung bình ở nhóm 18 tuổi
khoảng từ 1,1 – 1,4mm.
Nghiên cứu của Kalcioglu (2003) và Barut (2006)
Nghiên cứu của Kalcioglu được thực hiện trên 1552 trẻ ở Thổ Nhĩ Kỳ trong
độ tuổi từ 0 đến 18 tuổi, bao gồm cả hai giới, các số đo được lấy từ tai phải và rút ra
được những kết quả sau [22]:
7
Chiều dài tai đạt mức trưởng thành ở tuổi 12 với trẻ nam và 11 với trẻ nữ còn
chiều rộng tai đạt mức trưởng thành ở mốc 6 tuổi tại cả hai giới.
Nghiên cứu của Barut được thực hiện trên 153 trẻ ở Thổ Nhĩ Kỳ trong độ tuổi
từ 6 đến 13 tuổi, bao gồm 87 trẻ nam và 66 trẻ nữ, các số đo được lấy từ cả hai tai và
rút ra được những kết quả sau [1]:
Chiều rộng trung bình của tai trái lớn hơn đáng kể so với tai phải ở tất cả các
đối tượng nghiên cứu. Mặt khác, cho dù chiều dài trung bình của tai phải lớn hơn so
với tai trái, sự khác biệt này khơng có ý nghĩa thống kê. Khi so sánh giữa hai giới về
chiều rộng và chiều dài của cả hai tai, quan sát thấy các giá trị này đều cao hơn ở nam
giới, và các giá trị này đều có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu của Purkait (2013)
Nghiên cứu của Purkait được thực hiện trên 2147 trẻ ở Ấn Độ trong độ tuổi từ
0 đến 18 tuổi, bao gồm 1163 trẻ nam và 984 trẻ nữ, các số đo được lấy từ tai phải và
rút ra được những kết quả sau [34]:
Các số đo đều tăng trưởng rất nhanh trong 3 – 6 tháng đầu của thời kỳ sơ sinh
và sau đó tiếp tục phát triển với tốc độ chậm cho tới tuổi trưởng thành. Tại trẻ mới
sinh, chiều rộng đã đạt 70% kích thước trưởng thành và chiều dài đạt 61%. Chiều
rộng trưởng thành sớm hơn, ở trẻ nam 7 tuổi và trẻ nữ 6 tuổi. Trong khi đó, chiều dài
trưởng thành muộn hơn, ở trẻ nam 14 tuổi và trẻ nữ 13 tuổi.
Nghiên cứu của Muteweye (2015)
Nghiên cứu của Muteweye được thực hiện trên 305 trẻ ở Zimbabwe trong độ
tuổi từ 9 đến 13 tuổi, bao gồm cả hai giới, số đo về chiều dài tai được lấy từ cả hai tai
và rút ra được những kết quả sau [29]:
Chiều dài tai trung bình của tất cả các đối tượng nghiên cứu là 56,95±5,00mm
(tai phải) và 56,86±4,92mm (tai trái). Chiều dài tai của nam lớn hơn ở nữ giới.
Nghiên cứu của Zhao (2017)
Nghiên cứu của Zhao được thực hiện trên 480 trẻ ở Trung Quốc trong độ tuổi
từ 1 đến 18 tuổi, bao gồm cả hai giới, các số đo được lấy từ cả hai tai và rút ra được
những kết quả sau [49]:
8
Chiều rộng và chiều dài tai tăng theo tuổi. Chiều dài tai đạt mức trưởng thành
ở mốc 14 tuổi đối với cả hai giới. Chiều rộng tai trưởng thành tại 7 tuổi với trẻ nam
và 5 tuổi với trẻ nữ. Chỉ số tai thay đổi theo hai xu hướng khác nhau giữa hai giới.
Những người trong cộng đồng này quan tâm tới chiều dài tai nhiều hơn chiều rộng.
1.2.3. Một số nghiên cứu nhân trắc học tại Việt Nam
Ở Việt Nam hiện tại đã có một số cơng trình nghiên cứu về nhân trắc đầu mặt
như sau [50]:
-
Phạm Thị Hương Lan và Hoàng Tử Hùng (1999): Nghiên cứu so sánh đặc
điểm cung răng người Việt với người Ấn Độ và Trung Quốc.
-
Lê Đức Lánh (2002): Nghiên cứu đặc điểm hình thái đầu mặt và cung răng ở
140 trẻ từ 12 – 15 tuổi bằng cách đo trực tiếp và trên mẫu hàm thạch cao.
-
Võ Trương Như Ngọc (2010): Nghiên cứu đặc điểm kết cấu sọ mặt và đưa ra
tiêu chuẩn khn mặt hài hồ từ 18 – 25 tuổi bằng cả ba phương pháp đo.
-
Hồ Thị Thuỳ Trang (2015): Nghiên cứu tuổi xương đốt sống cổ và ứng dụng
khảo sát tăng trưởng hệ thống sọ mặt giai đoạn 8 – 18 tuổi.
Tuy nhiên hiện qua tìm hiểu trong y văn tại Việt Nam vẫn chưa có tác giả nào
nghiên cứu về nhân trắc học tai.
1.3. Các phương pháp nghiên cứu nhân trắc học tai
1.3.1. Đo trực tiếp
Đo trực tiếp trên lâm sàng cho chúng ta biết chính xác kích thước thật và đưa
ra các chỉ số. Đây là phương pháp dễ thực hiện, thao tác đơn giản và khơng địi hỏi
máy móc, kỹ thuật phức tạp. Tuy nhiên phương pháp này tiêu tốn nhiều thời gian và
yêu cầu người thực hiện nắm chắc các mốc giải phẫu trên tai và phương pháp đo. Mặt
khác, kết quả đo dễ bị ảnh hưởng bởi tính chất đàn hồi của mơ mềm. Do đó khi lựa
chọn phương pháp này cần người thực hiện có kinh nghiệm và cần sự giám sát khi
đo để giảm tối đa sai số do kỹ thuật đo.
1.3.2. Đo trên ảnh
Thực hiện trên ảnh chụp chuẩn hoá tư thế thẳng và nghiêng. Đây là phương
pháp được sử dụng phổ biến trong nhiều lĩnh vực khác nhau như nhân trắc, hình sự,…
9
với nhiều ưu điểm: tiết kiệm thời gian, nhân lực, dễ lưu trữ, bảo quản và trao đổi
thông tin, kỹ thuật chụp ảnh chuẩn hoá giúp cho việc đánh giá và so sánh kết quả
được đồng nhất và dễ dàng hơn. Mặt khác thơng qua việc phân tích ảnh chuẩn hố
nhà nghiên cứu có thể đưa ra các đánh giá về sự tương quan của các cấu trúc, sự cân
xứng của gương mặt. Tuy nhiên phương pháp này đòi hỏi phải có phần mềm riêng
nhằm phục vụ cho q trình phân tích hình ảnh và người thực hiện cần có sự thành
thạo trong việc sử dụng phần mềm này.
Hai phương pháp nêu trên có tác dụng bổ trợ qua lại cho nhau và có thể được
sử dụng làm cơ sở đối chiếu lẫn nhau [46].
1.3.3. Đo trên phim chụp cắt lớp vi tính dựng hình ba chiều (3D Computed
Tomography)
Trong vài năm trở lại đây nhiều kỹ thuật dựng hình ba chiều đã được ứng dụng
trong việc đo đạc trên mô mềm, bao gồm nhiều phương pháp như siêu âm, chụp cắt
lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ,… trong đó chụp cắt lớp vi tính được cho là phương
pháp chụp cho ra kết quả chính xác nhất [46]. Hình ảnh thu được nhờ kỹ thuật chụp
cắt lớp vi tính dựng hình ba chiều có nhiều ưu điểm vượt trội so với cách đo cổ điển
trên lâm sàng nhờ loại bỏ được sai số do xác định sai mốc giải phẫu cũng như do tính
chất của mơ mềm. Thay vào đó nhà nghiên cứu thu được hình ảnh đa trục, đa chiều,
mơ tả chi tiết và chính xác cấu trúc giải phẫu phức tạp của tai ngoài ngay cả với những
cấu trúc nhỏ, khó đo trực tiếp trên lâm sàng. Tuy nhiên nhược điểm lớn nhất của
phương pháp này lại là yêu cầu về máy móc kỹ thuật cao, giá thành đắt và chỉ có thể
thực hiện tại các cơ sở y tế, bệnh viện lớn.
1.4. Dị tật tai nhỏ bẩm sinh
1.4.1. Đại cương về dị tật tai nhỏ bẩm sinh
Dị tật tai nhỏ bẩm sinh là tình trạng bệnh lý gây ra bởi những khiếm khuyết
trong giai đoạn phát triển phôi thai, dẫn tới sự phát triển khơng hồn thiện của các
thành phần cấu tạo nên tai ngoài trong bào thai, đặc trưng bởi những biến dạng hình
dạng và kích thước tai ngoài, đi từ những bất thường nhỏ trong cấu trúc tai cho tới
tình trạng tai ngồi hồn tồn biến mất [24].
Bệnh căn của dị tật tai nhỏ đến nay vẫn chưa được làm sáng tỏ. Có nhiều giả
thuyết về di truyền học cũng như ảnh hưởng của các yếu tố mơi trường đến sự hình
10
thành tai ngồi trong thời kỳ phơi thai nhưng chưa có tác giả nào đưa ra được những
kết luận mang tính khẳng định về nguyên nhân dẫn đến dị tật tai nhỏ bẩm sinh. Các
yếu tố nguy cơ được nhiều tác giả đề ra bao gồm [18, 24, 25]:
-
Đột biến ngẫu nhiên.
-
Di truyền: hội chứng Treacher – Collins.
Tuổi của mẹ khi mang thai: tuổi cao tăng nguy cơ.
-
Số lần mang thai nhiều.
Mẹ mắc bệnh khi mang thai: đái tháo đường thai kỳ,…
-
Mẹ sử dụng một số loại thuốc, rượu hoặc chất kích thích trong thời kỳ mang
thai: Isotretionin (thuốc điều trị mụn, biệt dược Accutane), Thalidomide (thuốc
điều trị ung thư), Mycophenolat mofetil (thuốc ức chế miễn dịch),
-
Methamphetamine,…
Trẻ sinh thiếu tháng, thiếu cân.
Suy thai.
Ống tai bắt đầu hình thành vào tuần thứ năm của thai kỳ, với tai ngoài hay cụ
thể là loa tai được biệt hoá vào tuần thứ bảy. Loa tai phát triển từ khe mang thứ nhất.
Khe mang thứ nhất hình thành nên các gị lồi của His. Ba gò lồi đầu tiên phát sinh từ
cung hàm dưới, tách ra trước và hình thành nên bình tai, gờ luân và một phần xoắn
tai. Ba gò lồi còn lại phát sinh từ cung xương móng, tách ra sau và hình thành nên đối
bình tai, gờ đối ln, phần cịn lại của xoắn tai, dái tai và các phần còn lại của loa tai
[45]. Bất kỳ gián đoạn nào trong thời kỳ hình thành của tai đều gây nên các dị tật và
thời điểm gián đoạn càng sớm thì gây nên các dị tật càng nghiêm trọng hơn.
Có nhiều tác giả đã đề xuất các hệ thống phân độ dị tật tai nhỏ bẩm sinh. Marx
phát triển hệ thống đầu tiên vào năm 1926, gồm ba phân độ, với hai phân độ đầu tiên
dựa vào các mốc giải phẫu còn nhận diện được và phân độ thứ ba là chỉ cịn di tích
dái tai rất nhỏ hoặc hồn tồn khơng có tai ngồi [28]. Tanzer cơng bố hệ thống phân
độ của mình vào năm 1978 bao gồm năm typ từ 1 tới 5 dựa trên mức độ bất thường
và giới thiệu hai khái niệm mới là dị tật không tai ngoài (anotia) và dị tật vành tai bị
vùi (cryptopia) [17]. Weerda đưa ra hệ thống phân độ của mình vào năm 1988, gồm
những cải biên dựa trên phân độ của Marx và Tanzer [13]. Sau đó, hệ thống phân độ
của Nagata (1993) bao gồm năm typ được đánh giá là rất thuận lợi vì có mối tương
quan với phương pháp phẫu thuật [38]:
11
-
Loại Lobule: những người bệnh này vẫn có tai nhỏ, sai vị trí dái tai nhưng
khơng có xoăn tai, khơng có lỗ tai hoặc gờ bình.
-
Loại Concha: tai nhỏ, sai vị trí của dái tai, xoăn tai (có hoặc khơng có lỗ tai),
gờ bình và gờ đối bình, khuyết gian bình nhĩ.
-
Loại Concha nhỏ: tai nhỏ, sai vị trí dái tai, và lõm nhỏ thay vì hõm xoăn.
-
Loại Anotia (khơng tai): những người bệnh này khơng có tai hoặc chỉ có một
vết tích nhỏ.
-
Microtia khơng điển hình: những người bệnh này có biến dạng nhưng khơng
xếp được vào các loại trên.
Tỷ lệ mắc của dị tật tai nhỏ bẩm sinh có sự khác biệt giữa các quốc gia khác
nhau và các chủng tộc khác nhau, với tỷ lệ mắc trung bình vào khoảng 2,06/10.000
trẻ mới sinh. Tỷ lệ mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh cao hơn tại Trung và Nam Mỹ, châu
Á và Bắc Âu so với khu vực Bắc Mỹ và các vùng khác của châu Âu. Theo chủng tộc,
tỷ lệ mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh cao hơn ở các nhóm người Mỹ bản địa, người Mỹ
Latinh và người châu Á so với nhóm người da trắng [25].
Ở các bệnh nhân mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh, trên 70% là dị tật tai nhỏ bẩm
sinh đơn thuần (không mắc cùng các dị tật bẩm sinh khác hoặc nằm trong hội chứng
bẩm sinh), thường chỉ bị ở một tai, liên quan tới tai phải nhiều hơn tai trái và nam
mắc nhiều hơn nữ [11, 15].
1.4.2. Ảnh hưởng tâm lý của dị tật tai nhỏ bẩm sinh trên bệnh nhi
Dị tật tai nhỏ bẩm sinh không phải là một bệnh lý gây ra nguy hiểm đến tính
mạng người bệnh, nhưng lại là một biến dạng mà người khác có thể dễ dàng quan sát
thấy bởi tính mất cân đối giữa hai tai và vị trí xuất hiện của biến dạng này. Trong các
giao tiếp xã hội thường ngày, sự chú ý không mong muốn và những thắc mắc về ngoại
hình của mình về lâu dài sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực lên tâm lý của người
mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh.
Nếu không được điều trị phù hợp, dị tật tai nhỏ bẩm sinh có thể dẫn tới áp lực
tâm lý lên các bệnh nhân khơng chỉ trong thời thơ ấu mà cịn là những gánh nặng đi
theo họ đến tuổi trưởng thành. Theo Brent, những trẻ mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh bắt
đầu nhận ra sự khác biệt về tai của mình so với những người xung quanh ở độ tuổi 3
12
đến 4 [7]. Đây là thời điểm rất nhạy cảm trong quá trình hình thành và phát triển nhân
cách của trẻ, sự xa lánh, trêu chọc hay bắt nạt của những trẻ đồng trang lứa hay sự
xấu hổ, chối bỏ từ bố, mẹ là những cản trở lớn trong sự tham gia vào các giao tiếp xã
hội của trẻ và gây ảnh hưởng tiêu cực tới quá trình phát triển tâm lý của trẻ [23].
Những ảnh hưởng này có thể quan sát được trong những bức vẽ tự hoạ của trẻ mắc
dị tật tai nhỏ bẩm sinh: phía tai mắc dị tật bị bôi đen hoặc gương mặt được vẽ ở góc
nghiêng, chỉ thể hiện ra phía tai bình thường [21]. Khi người bệnh mắc dị tật tai nhỏ
bẩm sinh đạt độ tuổi trưởng thành, họ nhận thức được nhiều vấn đề khác mà dị tật
của mình mang lại: khó khăn trong những mối quan hệ chuyên nghiệp tại nơi làm
việc cũng như khó khăn trong những mối quan hệ cá nhân và việc tìm kiếm bạn đời.
Nhiều nghiên cứu về ảnh hưởng tâm lý của dị tật tai nhỏ bẩm sinh đến người
bệnh trước và sau khi trải qua phẫu thuật tạo hình tai đã được cơng bố: Horlock
(2005), Steffen (2008) và Li (2010) [19, 23, 39]. Các nghiên cứu này đều rút ra được
những kết quả tương đồng: các vấn đề tâm lý ở trẻ mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh không
được điều trị sẽ tăng dần theo tuổi và tăng mạnh nhất ở những thời kỳ trẻ trải qua
nhiều thay đổi về tâm sinh lý và môi trường xung quanh như khi trẻ bắt đầu đi học,
khi trẻ bước vào độ tuổi dậy thì và khi trẻ bước vào độ tuổi trưởng thành. Những vấn
đề tâm lý mà người bệnh mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh thường gặp phải bao gồm: cảm
giác khơng hồ nhập được với mơi trường xung quanh, giảm sự hồ đồng, vấn đề về
hành vi bạo lực và nổi loạn, rối loạn tâm trạng trầm cảm, rối loạn lo âu, sự tự thu
mình, xa lánh khỏi các mối quan hệ xã hội,…
Tình trạng tâm lý của người bệnh mắc dị tật tai nhỏ bẩm sinh được cải thiện
đáng kể sau khi trải qua phẫu thuật tạo hình tai: hầu hết bệnh nhân nhận được sự ủng
hộ và thái độ tích cực từ người thân và bạn bè, họ chấp nhận chiếc tai mới là một
phần của cơ thể mình, phần lớn những bệnh nhân trải qua phẫu thuật tạo hình tai bằng
sụn sườn tự thân cảm thấy sẹo lấy sụn trên ngực là chấp nhận được so với lợi ích
chiếc tai mới đem lại, nhiều bệnh nhân đánh giá kết quả sau phẫu thuật tốt hơn so với
kỳ vọng và họ có thể sống một cuộc sống bình thường, hài lịng với diện mạo mới
của mình và cảm thấy tự tin hơn trong các mối quan hệ xã hội [39].
13
1.5. Phẫu thuật tạo hình tai
1.5.1. Lịch sử phát triển của phẫu thuật tạo hình tai
Phẫu thuật tạo hình tai là một vấn đề quan trọng nhưng nhiều thách thức trong
lĩnh vực tạo hình qua nhiều thế kỷ cho tới nay. Cấu tạo ba chiều phức tạp và cấu trúc
xoắn tinh tế yêu cầu những phẫu thuật viên giàu kinh nghiệm và cách tiếp cận tỉ mỉ.
Chỉ khi đó mới đạt được kết quả đáp ứng tiêu chuẩn thẩm mỹ, ổn định về mặt cơ học
và đảm bảo về lâu dài. Năm 1944, tác giả Suraci đã đề ra bảy tiêu chuẩn cốt yếu trong
tạo hình tai: kích thước đúng, sự tương đồng về hình dạng, sự tương đồng về chiều
dài, góc tai – sọ đúng, khả năng duy trì hình dạng và kích thước, độ cứng của tai và
đồng đều màu da [42].
Những bằng chứng đầu tiên của tạo hình tai trong y văn phương Tây được tìm
thấy trong các ghi chép của các tác giả người Italia vào thế kỷ 16 mơ tả cơng việc của
gia đình Branca tại Sicily, đặc biệt là Antonio Branca, người đã tiếp cận tái tạo tai
bằng phần da lấy từ cánh tay. Gaspare Tagliacozzi (1545–1599), phẫu thuật viên và
nhà giải phẫu học người Italia, đã mơ tả q trình tái tạo tai một phần bằng vạt tại chỗ
và vạt tự do. Phải đến tận năm 1845 thì bác sĩ phẫu thuật tạo hình người Đức Johan
Friedrich Dieffenbach mới một lần nữa tiếp cận tái tạo tai một phần và mơ tả quy
trình tái tạo nửa trên và nửa dưới tai, tác giả này vẫn giữ quan điểm khơng khuyến
khích tái tạo tai tồn bộ bởi tỷ lệ thành cơng thấp. Vào năm 1870, von Szymanowski
đã mô tả việc sử dụng vạt hai thuỳ trong tái tạo nửa dưới tai. Bắt đầu từ đầu thế kỷ
20, các mô tả về việc sử dụng các vạt có cuống trong tái tạo tai tăng lên. Các vạt vùng
lân cận ở sau và trên tai được mô tả bởi Smith (1917) và Ombredanne (1925). Gillies
(1920) mô tả một vạt ở dưới tai trong tái tạo nửa dưới tai [3].
Cùng với sự hoàn thiện của kỹ thuật, nhu cầu tìm kiếm vật liệu đảm bảo tính
ổn định của tai mới cũng tăng lên. Bên cạnh vật liệu cổ điển là sụn sườn tự thân, nhiều
vật liệu nhân tạo cũng được ghi nhận như ngà, silicone, kim loại, cao su, Teflon và
gần đây nhất là polyethylene xốp (porous polyethylene – PPE) vào cuối thế kỷ 20 [8,
27]. Hiện tại, hai vật liệu chủ yếu được sử dụng trong phẫu thuật tạo hình tai là sụn
sườn tự thân và sụn nhân tạo làm bằng vật liệu PPE.
14
1.5.2. Phương pháp sử dụng sụn sườn tự thân
Vào năm 1908, Schmieden là người đầu tiên sử dụng sụn sườn tự thân và vạt
da ngực trong tái tạo tai nhưng kết quả không khả quan. Sau Thế chiến I, Gillies đã
mô tả kỹ thuật sử dụng sụn từ hai xương sườn VII và VIII, tạo hình sụn tai và chơn
dưới phần da khơng có tóc ở vùng chũm, sau đó ông thu hoạch cả sụn và da vùng này
và che phủ chúng bằng một vạt khác lấy từ vùng cổ [3].
Vào năm 1959, Tanzer đã tiên phong công bố một quy trình tái tạo tai bốn
bước [43, 44]. Trợ lý của Tanzer là Brent sau đó đã cải tiến phương pháp này thành
một quy trình ba hoặc bốn bước [5-7]:
-
Bước 1: tạo túi da phía trước tai dị tật, loại bỏ di tích sụn và chơn khung sụn
mới vào. Trong kỹ thuật của Brent, khung sụn cũng được tạo từ sụn sườn VI
– VIII nhưng mỏng hơn so với khung sụn của Tanzer. Ống dẫn lưu chân khơng
giúp tạo hình tai mới và giảm biến chứng nhiễm trùng, hoại tử da.
-
Bước 2: khác với Tanzer, trong bước 2 mới tiến hành đặt lại vị trí của dái tai.
-
Bước 3: nâng tai mới bằng việc đặt mẩu sụn hình chêm phía sau tai và che phủ
bằng mô ghép da độ dày tồn bộ, tạo bình tai.
Nagata đã tiếp tục phát triển kỹ thuật phức tạp hơn và cơng bố quy trình phẫu
thuật hai bước vào năm 1994 [33, 30-32].
Ưu điểm:
-
Sử dụng sụn sườn tự thân nên khơng có nguy cơ đào thải và tạo cảm giác an
tồn hơn cho gia đình.
-
Giảm nguy cơ nhiễm trùng, hoại tử da, hở khung sụn đặc biệt khi có sử dụng
ống dẫn lưu hút chân không [48].
-
Do thời điểm tối ưu để thực hiện tương đối muộn (từ 6 – 10 tuổi) nên tai bình
thường (nếu có) của bệnh nhi đã phát triển gần đạt kích thước trưởng thành,
tạo thuận lợi cho việc lựa chọn kích thước khung sụn [12, 22, 34, 49].
-
Ở độ tuổi 6 – 10, trẻ đã có thể chủ động tham gia vào quyết định thực hiện
phẫu thuật [20].
Nhược điểm:
15