Tải bản đầy đủ (.docx) (7 trang)

Tim hieu tho

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (66.08 KB, 7 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>TÌM HIỂU THƠ</b>


<b>Thơ có rất nhiều thể loại, thơ bẩy chữ, tám chữ, năm </b>
<b>chữ, lục bát, song thất lục bát, thất ngôn bát cú Đường</b>
<b>Luật, tứ tuyệt ..v..v ... </b>


<b>I. Vần trong thơ </b>


<b>Vần bằng : là những chữ khơng có dấu hoặc mang dấu </b>
<b>bằng </b>


<b>Vần trắc: là những chữ mang dấu sắc, hỏi, ngã, nặng </b>
<b>Đã làm thơ là phải gieo vần, khơng có vần thì dù hay </b>
<b>đến mấy cũng khơng thể gọi là thơ được . Những chữ </b>
<b>có cách viết và cách phát âm tương tự nhau thì gọi là </b>
<b>vần . Ví dụ như : hoa-hịa , mây-bầy , hương-thường , </b>
<b>đời - người v.v.v. </b>


<b>II. Cách gieo vần trong thơ bẩy chữ </b>


<b>1. Cách thứ nhất : Trong khổ thơ gồm 4 câu, gieo vần </b>
<b>ở cuối câu 1,2, 4 </b>


<b>Ví dụ : </b>


<b>Thu lạnh càng thêm nguyệt tỏ ngời </b>
<b>Đàn ghê như nước, lạnh trời ơi </b>


<b>Long lanh tiếng sỏi vang vang hận </b>


<b>Trăng nhớ Tầm Dương, nhạc nhớ người </b>



<b>Chú ý : theo cách gieo vần này, chữ cuối câu 1,2,4 là </b>
<b>vần bằng và chữ cuối câu 3 là vần trắc . </b>


<b>2. Cách thứ hai : Gieo vần ôm - Chữ cuối câu 1 vần với </b>
<b>câu 4, chữ cuối câu 2 vần với cuối câu 3 </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

<b>Tiếng đàn thầm dịu dẫn tơi đi </b>
<b>Qua những sân cung rộng hải hồ </b>
<b>Có phải A Phịng hay Cơ Tơ ? </b>
<b>Lá liễu dài như một nét mi </b>
<b>3. Cách thứ ba : Gieo vần chéo </b>


<b>Chữ cuối câu 1 vần với cuối câu 3, hoặc chữ cuối câu 2 </b>
<b>vần với cuối câu 4 </b>


<b>Ví dụ : </b>


<b>Trăng nhập vào dây cung nguyệt lạnh </b>
<b>Trăng thương, trăng nhớ, hỡi trăng ngần </b>
<b>Đàn buồn, đàn lặng, ôi đàn chậm </b>


<b>Mỗi giọt rơi tàn như lệ ngân </b>


<b>Chú ý : để câu thơ được nhịp nhàng, ở chữ 2,4,6 của </b>
<b>câu thơ, nên gieo vần bằng, trắc, bằng hoặc trắc, </b>
<b>bằng, trắc </b>


<b>Ví dụ </b>



<b>bốn bề ánh nhạc biển pha lê B-T-B </b>


<b>sương bạc làm thinh khuya nín thở T-B-T </b>
<b>Cách gieo vần trong một khổ thơ </b>


<b>Sau khi đã gieo vần bằng trắc nhịp nhàng ở mỗi câu </b>
<b>thơ, bạn cần chú ý đến kết hợp vần của 4 câu thơ </b>
<b>trong cả khổ thơ . </b>


<b>1.Cách thứ nhất : </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

<b>Câu 2 /T-B-T </b>
<b>Câu 3:/T-B-T </b>
<b>Câu 4 / B-T-B </b>
<b>Ví dụ : </b>


<b>Bốn bề ánh nhạc biển pha lê B-T-B </b>
<b>Chiếc đảo hồn tôi rộn bốn bề T-B-T </b>


<b>Sương bạc làm thinh, khuya nín thở T-B-T </b>
<b>Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê B-T-B </b>
<b>2. Cách thứ hai : </b>


<b>Gieo vần bằng, trắc ở các chữ 2,4,6 của mỗi câu </b>
<b>Câu 1 /T-B-T </b>


<b>Câu 2 /B-T-B </b>
<b>Câu 3 /B-T-B </b>
<b>Câu 4 /T-B-T </b>
<b>Ví dụ : </b>



<b>phơ phất ngồi hiên, dáng liễu hoa T-B-T </b>
<b>sương sa man mác gió xuân tà B-T-B </b>
<b>cảnh khuya gợi nỗi niềm xa xứ B-T-B </b>
<b>ánh nguyệt soi lầu chỉ bóng ta T-B-T </b>
<b>III. Cách gieo vần trong thơ lục bát </b>


<b>Khác với thơ bẩy chữ, thơ lục bát gieo vần ở cuối câu </b>
<b>lục và ở chữ thứ 6 của câu bát theo luật như sau : </b>


<b>-Chữ cuối câu lục vần với chữ thứ sáu của câu bát , chữ</b>
<b>cuối câu bát vần với chữ cuối câu lục tiếp theo, cứ như </b>
<b>thế tiếp tục . </b>


<b>ví dụ : </b>


<b>Khúc đâu Tư mã Phượng cầu, </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b>Kê Khang này khúc Quảng lăng, </b>


<b>Một rằng lưu thủy, hai rằng hành vân </b>


<b>- các chữ thứ 2,4,6 của câu lục phải là bằng, trắc, </b>
<b>bằng </b>


<b>Ví dụ : Trong như tiếng hạc bay qua B-T-B </b>


<b>-Các chữ thứ 2,4,6,8 của câu bát phải là bằng, trắc, </b>
<b>bằng, bằng </b>



<b>ví dụ : đục như tiếng suối mới sa nửa vời B-T-B-B </b>
<b>Cách Làm Thơ Tám Chữ </b>


<b>. Trong một câu, nên có sự cân bằng giữa số lượng các </b>
<b>vần bằng và vần trắc ví dụ Bằng /Trắc = 3/5 hay </b>


<b>ngược lại . Vần bằng trắc cũng nên xen kẽ đều đặn để </b>
<b>câu thơ uyển chuyển nhịp nhàng . Gieo vần thì có </b>


<b>nhiều cách, đệ có thể theo các cách tương tự như gieo </b>
<b>vần thơ 7 chữ như sau : </b>


<b>1. Gieo vần ôm : </b>


<b>- Chữ cuối câu 1 vần với chữ cuối câu 4, cuối câu 2 vần</b>
<b>với cuối câu 3 . </b>


<b>Ví dụ : </b>


<b>Ngươi ám ảnh hương thơm bằng ánh sáng </b>
<b>Ru màu êm, mà gọi thức lòng ngây </b>


<b>Trăng, nguồn sương làm ướt cả gió hây </b>


<b>Trăng, võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng </b>
<b>2. Gieo vần chéo : </b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

<b>Ví dụ </b>


<b>Tạo hóa hỡi ! Hãy trả tôi về Chiêm Quốc ! </b>


<b>Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian ! </b>


<b>Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt ! </b>
<b>Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn </b>


<b>Tôi không muốn đất trời xoay chuyển nữa </b>
<b>Với tháng ngày biền biệt đuổi nhau trôi </b>
<b>Xuân đừng về ! Hè đừng gieo ánh lửa </b>
<b>Thu thơi sang ! Đơng thơi lại não lịng tơi </b>


<b>3. Chữ cuối câu 1 vần với chữ 5 hay 6 câu 2 , chữ cuối </b>
<b>câu 2 vần với chữ cuối câu 3 và vần với chữ 5 hay 6 </b>
<b>câu 4 </b>


<b>Ví dụ : </b>


<b>cõi thiên tiên kiều diễm ngàn ảo ảnh </b>
<b>điện nguy nga tỏa muôn ánh pha lê </b>
<b>thuyền Từ Thức bồng bềnh tới bến mê </b>
<b>rồi ngơ ngẩn khi trở về hiện thực </b>


<b>Chú ý : bằng vần với bằng, trắc vần với trắc . Bằng </b>
<b>khơng bao giờ vần với trắc . Ví dụ :lồng không vần với </b>
<b>lộng </b>


<b>Nếu làm thơ nhiều đoạn, chữ cuối câu 4 của đoạn </b>
<b>trước luôn vần với chữ cuối câu 1 của đoạn sau </b>
<b>Ví dụ : </b>


<b>Làm thi sĩ , nghĩa là ru với gió </b>



</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

<b>Đây là quán tha hồ muôn khách đến </b>
<b>Đây là bình thu hợp trí mn hương; </b>
<b>Đây là vườn chim nhả hạt mười phương, </b>
<b>Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc </b>


<b>Ngồi ra cịn có thơ mới theo thể tự do 5 chữ, 8 chữ </b>
<b>v.v.. cũng rất hay, và được sáng tạo ra chủ yếu để làm </b>
<b>thơ trữ tình . (mục này mỗ khơng rành mấy) Mong sẽ </b>
<b>được thưởng thức vài bài thơ mới của các bạn - chúng </b>
<b>ta cùng góp sức cho vườn thơ thêm đặc sắc, phong </b>
<b>phú ....</b>


Ngày xuân đọc bài thơ “Ơng đồ” của Vũ đình Liên Tin đăng ngày:
9/12/2011 - 1579 lần xem


Ngày xuân đọc bài thơ “Ông đồ” của Vũ đình Liên


Cứ mỗi độ hoa đào nở , mùa xuân về phố phường bừng lên sắc xuân là ông
Đồ lại xuất hiện . Đồng hành cùng sắc màu hồng tươi phơi phới chào xuân
của hoa đào là hình ảnh“ơng Đồ già”. Hồ vào khơng khí sơi nổi, nhộn nhịp,
náo nức, tưng bừng đón xn của phố phường ông Đồ say mê, háo hức viết
chữ chia xẻ niềm vui với bao nhà, bao người :


“ Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu giấy đỏ
Bên phhó đơng người qua
Bao nhiêu người thuê viết



Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa rồng bay”


Giã từ với các lớp học chữ Nho, niềm vui của ông Đồ mỗi năm chỉ vẻn
vẹn ở mấy ngày Tết. Khi người ta nhộn nhịp với bao lo sắm cho một nghi lễ
đón xuân “thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ” Tấm lịng ơng lại rộng mở, niềm
vui lại rạo rực .Ông lại trở thành tâm điểm của phố phường mùa xuân . Dẫu
có ra đường bán chữ ơng vẫn cịn một vị trí quan trọng trong nếp sống văn
hoá của mọi nhà khi xuân về Tết đến.


</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

bao thế hệ trong các lớp học nhưng ông vẫn là người giữ lửa cho một nền
văn hoá đang trên đà đi vào quên lãng.Người đọc vẫn nhận ra trong cái
khuôn mặt cúi trên giấy đỏ viết câu đối của ơng một niềm kiêu hãnh. Nét
bút vẫn phóng túng, điêu luyện, vẫn tao nhã và cao sang.Thả chữ vào câu
đối ơng như thả cả hồn mình vào trong đó.


Mùa xuân đi qua rồi trở lại, thời gian vẫn vơ tình gõ đều đều và lặng lẽ kéo
theo điệu tàn luỵ của một cuộc đời, một số phận. Giữa cái du nhập mưa bão
của văn hố phương Tây, dấu tích của một nền văn hố Nho học dần dần bị
bị quên lãng ngay trong cả tâm thức của muôn người . Xuân lại về, Tết lại
đến theo đúng nhịp tuần hồn của nó chỉ có điều cái khơng khí tấp nập
chuẩn bị đón Tết với “ Thịt mỡ, dưa hành, câu đối đỏ”đâu còn nữa. Người
thuê viết câu đối thưa dần theo từng cái Tết và cuối cùng là khơng cịn nữa:


“Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu”


Dòng đời nghiệt ngã mài mòn rồi cuốn phăng tất cả. Trớ trêu thay là nhân


gian vơ tình và dòng đời nghiệt ngã. Người ta lạnh nhạt quay lưng lại với cả
những nếp quen văn hoá mua sắm câu đối đỏ trong ngày Tết.Bao người hơm
qua cịn tấm tắc ngợi khen trầm trồ thán phục quanh ông Đồ nay đã khơng
biết khơng hay cịn tồn tại một đồ bên góc phố giữa ngày xuân . Trung tâm
ngưỡng mộ của ngày hơm qua nay đã trở thành một bóng hình đơn độc, trơ
trơ giữa dòng đời tấp nập. Từ đồng hành cùng mùa xuân trở thành kẻ độc
hành, người lạc nẻo giữa ngày xuân. Từ chỗ là người gieo niềm vui, mang
đến cho muôn nhà một nét xuân sắc bỗng chốc trở thành “ di tích tiều tuỵ
đáng thương” giữa cõi đời “mưa Âu, gió Mỹ”.


Đáng thương thay là cái dáng hình trơ trơ bám trụ bên góc phố phường
của ơng bởi cái niềm tin vẫn cịn. :


“Ơng đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay”


Xuân lại về, chỉ cịn lại hoa đào bên góc phố. Cảnh vẫn cũ người xưa đà
vắng bóng. Khơng gian phố phường vẫn thế nhưng đà thiếu đi một bóng
hình, xn trở thành hiu hắt. Băn khoăn tìm kiếm ơng đồ xưa lòng tác giả
cuộn lên một nỗi đau nhân thế . Lời thơ bỗng nhiên trở thành lời ai điếu, gọi
hồn người quá vãng, gọi hồn một thế hệ . một thời đại :


“Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?”


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×