Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ tạm giam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.25 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

------------------

HUỲNH MAI XUÂN LỘC

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
TRONG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ TẠM GIAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

------------------

HUỲNH MAI XUÂN LỘC

TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA
TRONG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ TẠM GIAM

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố Tụng dân sự
Mã số:8380103

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN VĂN TIẾN

TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của bản thân, được thực hiện dưới
sự hướng dẫn khoa học của TS. Nguyễn Văn Tiến, các số liệu kết quả được nêu
trong luận văn là trung thực, chính xác, chưa từng được công bố ở bất cứ công trình
nào và có trích dẫn nguồn đầy đủ.
Tác giả

Huỳnh Mai Xuân Lộc


DANH MỤC THUẬT NGỮ VIẾT TẮT
STT

THUẬT NGỮ VIẾT TẮT

THUẬT NGỮ ĐẦY ĐỦ

1

BLDS

Bộ luật Dân sự

2


BLHS

Bộ luật Hình sự

3

BLTTHS

Bộ luật Tố tụng hình sự

4

BLTTDS

Bộ luật Tố tụng dân sự

5

LTNBTCNN

Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước
Nghị định 68/2018/NĐ-CP ngày 15.5.2018

6

NĐ 68/2018

quy định chi tiết một số Điều và biện pháp
thi hành Luật Trách nhiệm bồi thường của

Nhà nước

7

CQĐT

Cơ quan điều tra

8

NTHCV

Người thi hành công vụ

9

TNBTCNN

Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước

10

VKS

Viện kiểm sát

11

TTDS


Tố tụng dân sự

12

BTTH

Bồi thường thiệt hại


MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

TRANG

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
1. Tính cấp thiết của đề tài. ............................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................. 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu................................................................. 7
5. Phương pháp nghiên cứu............................................................................... 8
6. Kết cấu đề tài ................................................................................................. 8
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI
THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG HOẠT
ĐỘNG TẠM GIỮ, TẠM GIAM .................................................................... 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan
điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. ..................................................... 9
1.1.1. Khái niệm ................................................................................................ 9

1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CQĐT trong hoạt
động tạm giữ, tạm giam. ................................................................................. 14
1.2. Ý nghĩa của quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CQĐT
trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. ................................................................ 17
1.3. Nội dung của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CQĐT trong hoạt
động tạm giữ, tạm giam. ................................................................................. 20


1.4. Quy định của pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
CQĐT trong hoạt động tạm giữ, tạm giam từ năm 1945 đến nay .................. 33
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 .............................................................................. 38
CHƯƠNG 2: BẤT CẬP VÀ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI CỦA CƠ QUAN
ĐIỀU TRA TRONG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ, TẠM GIAM ................ 39
2.1. Về xác định các thiệt hại của người bị tạm giữ, tạm giam để bồi thường
và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. .................................................................. 39
2.2. Về xác định cơ quan bồi thường trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam và kiến nghị hoàn
thiện pháp luật. ................................................................................................ 50
2.3. Về chủ thể được hưởng tiền bồi thường thiệt hại tổn thất về tinh thần
trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động
tạm giữ, tạm giam và kiến nghị hoàn thiện pháp luật. .................................... 53
2.4. Về cơ sở pháp lý áp dụng bồi thường và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
......................................................................................................................... 56
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 .............................................................................. 60
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC



1

LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đất nước trong công cuộc đổi mới hiện nay mà vấn đề then chốt là xây dựng
Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân, ln đặt ra nhiệm vụ củng cố,
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Để xây dựng thành cơng nhà nước pháp
quyền thì một trong những đòi hỏi trước tiên là cải cách nền hành chính quốc gia
song song với cải cách tư pháp để hướng tới mục tiêu xây dựng hệ thống cơ quan tư
pháp thực sự sống, làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, vì cơng bằng xã hội.
Đi cùng với định hướng chiến lược này, việc cải cách tư pháp còn hướng tới
giải quyết những đòi hỏi mà thực tiễn đặt ra, trong đó có hoạt động giải quyết kịp
thời và có hiệu quả những vụ khiếu kiện yêu cầu bồi thường do oan, sai trong tố
tụng hình sự, kết hợp xây dựng cơ chế, chính sách để mang lại bước phát triển thực
sự đổi mới của hệ thống tư pháp.
Trong thực tế cịn có vụ việc lực lượng cơng an khi làm nhiệm vụ gây chết
người gần đây để lại những bức xúc trong dư luận như: bắt người khi chưa khởi tố
vụ án, chưa khởi tố bị can nhưng làm chết người và bồi thường tổn thất về tinh thần
không đúng theo yêu cầu của đại diện người bị thiệt hại (vụ Cơng an thành phố Tuy
Hịa, tỉnh Phú Yên gây chết người trong khi lấy lời khai mà chưa khởi tố vụ án,
chưa khởi tố bị can)1và ảnh hưởng xấu tới tâm lý của cán bộ công an khi thực thi
nhiệm vụ, trong khi đó các quy định pháp luật về việc xác định thiệt hại được bồi
thường lại chưa thống nhất (bồi thường tinh thần trong Bộ luật Dân sự năm 2015
quy định tối đa cho một người bị thiệt hại không quá một trăm lần mức lương cơ sở
do Nhà nước quy định; Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 quy
định là ba trăm sáu mươi tháng lương cơ sở) khiến công tác bồi thường không được
thỏa đáng, không đảm bảo quyền lợi của bên bị thiệt hại theo tinh thần bảo vệ
quyền con người, quyền công dân đã được Hiến pháp năm 2013 ghi nhận, bảo hộ.

1


Bản án số: 02/2015/HSST ngày 15/4/2015 của Toà án nhân dân tỉnh Phú Yên, về vụ án Nguyễn
Thân Thảo Thành và đồng bọn phạm tội "Dùng nhục hình".


2

Một trong những hoạt động hay vướng phải vi phạm về oan sai nhất chính là
hoạt động tạm giữ, tạm giam do cơ quan điều tra tiến hành. Trong thực tế, tình trạng
tạm giữ khơng đúng đối tượng cịn diễn ra, tạm giữ cả những trường hợp bị bắt khi
phạm tội quả tang những sự việc phạm tội nhỏ, tính chất ít nghiêm trọng hay tạm
giữ cả những người bị bắt có nơi cư trú rõ ràng và khơng có hành động, biểu hiện sẽ
cản trở quá trình điều tra.
Tạm giữ, tạm giam là quyền của cơ quan tiến hành tố tụng mà ở đây là cơ
quan điều tra. Lạm quyền hay thực thi tùy tiện, vi phạm các quy định của pháp luật
Tố tụng hình sự về việc bắt, giữ, giam người khơng tơn trọng trình tự, thủ tục hoặc
khơng có sự chứng kiến của chính quyền địa phương, không lập biên bản khi tiến
hành bắt. Tuy chưa phải là hiện tượng phổ biến, nhưng đã xảy ra ở nhiều địa
phương, gây nên sự bất bình trong dư luận xã hội, có trường hợp gây ra hậu quả
nghiêm trọng, gây ảnh hưởng “quyền lợi, sinh mệnh chính trị” khiến người dân mất
thời gian, đôi khi phải dành cả quãng đời để đi khiếu nại, minh oan.
Hiện nay, ngoài quy định của Hiến pháp thì Nhà nước ta đã ban hành nhiều
văn bản pháp luật để từng bước cụ thể hóa việc giải quyết trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. Tuy nhiên, thực tế
vẫn còn nhiều bất cập trong việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ
quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Từ đây cho thấy việc tìm hiểu, phân tích và đưa ra giải pháp hoàn thiện chế
định về “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động
tạm giữ, tạm giam” là việc làm cần thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với cơng cuộc
cải cách tư pháp của đất nước.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm
giữ, tạm giam là đề tài chưa được nhiều người nghiên cứu, khai thác cũng như đề
cập đến trong các cơng trình nghiên cứu khoa học luật của mình. Đề tài này chỉ


3

được đề cập gián tiếp qua các cơng trình nghiên cứu về vấn đề bồi thường nhà nước
như như một số cơng trình sau:
- Nguyễn Ngọc Điện (2019) “Giáo trình Luật dân sự”, tập 2, NXB Đại học
quốc gia TPHCM. Đây là cơng trình chun sâu về luật dân sự và là nguồn nhận
thức tốt cho tác giả khi triển khai đề tài, mà trong đó bồi thường thiệt hại là cơ sở
xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói chung, bồi thường thiệt hại của cơ
quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam nói riêng. Tuy nhiên, vì là giáo
trình nên cơng trình khơng đi sâu vào mảng bồi thường thiệt hại của cơ quan điều
tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam nên tác giả có nhiệm vụ làm sáng tỏ nội dung
nghiên cứu này trên nền tảng lý luận trong cơng trình.
- Nguyễn Tấn Hoàng Hải (2018), ”Chứng minh tổn thất về tinh thần khi tài
sản bị xâm phạm theo pháp luật Hoa Kỳ-Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp
chí Khoa học pháp lý số 05 (117). Bài viết đề cập đến vấn đề Toà án ở Hoa Kỳ áp
dụng xét xử bồi thường thiệt hại về tinh thần khi tài sản bị xâm phạm và kiến nghị
vấn đề tại Việt Nam chỉ nên chấp nhận cho phép bồi thường tổn thất về tinh thần
khi tài sản bị xâm phạm đối với tổn thất tinh thần nghiêm trọng. Bài viết rất có giá
trị, tác giả tiếp thu, vận dụng khi thực hiện công trình của mình.
- Lê Văn Sua (2016), Thực hiện Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước,
Đùn đẩy trách nhiệm hay "né luật", Luật sư Việt Nam, Liên đoàn Luật sư Việt
Nam, Số 4, tr. 20 – 25. Bài viết nêu các vụ án oan, sai được bồi thường và phân tích
trách nhiệm các cơ quan giải quyết bồi thường thiệt hại, trong đó làm rõ trách nhiệm
của cơ quan điều tra trong quá trình áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam, sau đó

đình chỉ điều tra. Đây là bài viết có ý nghĩa đối với tác giả trong việc nghiên cứu
cơng trình.
- Nguyễn Dỗn Phương (2015), “Bồi thường thiệt hại do cán bộ, cơng chức,
người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra theo Dự thảo Bộ luật
Dân sự sửa đổi”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 6/2015, tr. 17 - 18, 64. Bài viết
về cơ chế bồi thường thiệt hại áp dụng trong quy trình tố tụng khi cơ quan tiến hành


4

tố tụng gây thiệt hại trong quá trình thực hiện chức năng nhiệm vụ, tuy nhiên chưa
đề cập tới việc bồi thường thiệt hại khi người thi hành công vụ gây chết người.
- Nguyễn Minh Tuấn, Ngụy Thị Liễu (2013), "Luật trách nhiệm bồi thường
Nhà nước những bất cập và hướng sửa đổi", tạp chí Dân chủ và pháp luật (12).
Trên cơ sở nêu ra bất cập, các tác giả kiến nghị hoàn thiện các nội dung: Cần quy
định trách nhiệm bồi thường trực tiếp của Nhà nước theo nghĩa Nhà nước là chủ thể
duy nhất chịu trách nhiệm. Phạm vi bồi thường không nên chỉ giới hạn bồi thường
bằng tiền đối với thiệt hại vật chất mà còn quy định cả những khoản bồi thường cho
những thiệt hại phi vật chất như chi trả cho cơ hội làm ăn, cơ hội học tập bị mất. Bài
viết có giá trị tham khảo trong quá trình nghiên cứu.
- Đỗ Văn Đại và Nguyễn Trương Tín (2018), “Pháp luật Việt Nam về trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước”, Nxb Hồng Đức - Hội Luật gia Việt Nam. Trong
chuyên khảo này, tác giả đã đề cập đến vấn đề bồi thường thiệt hại trong các lĩnh
vực quản lý hành chính; tố tụng hình sự; tố tụng hành chính; thi hành án hình sự.
Tác giả đã phân tích các chủ thể bồi thường trong tố tụng hình sự và các bản án để
chứng minh cho các lý luận mình đưa ra, có so sánh với pháp luật nước ngoài. Đây
là một tác phẩm rất có giá trị để phục vụ nghiên cứu đề tài này.
- Lê Mai Anh (2004), “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra”, Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội. Trong quyển sách
chuyên khảo này, tác giả đã phân tích đặc điểm, bản chất của trách nhiệm nhà nước

trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra. Một số khái niệm, trình tự, thủ tục, cách thức giải quyết, thực trạng
pháp luật, thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra đã được nêu ra. Đồng thời, tác giả cũng đề xuất
phương hướng hoàn thiện pháp luật và các giải pháp nhằm nâng cao trách nhiệm
của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc khắc phục thiệt hại cho cơng dân. Tuy
nhiên, cuốn sách mới phân tích bồi thường thiệt hại với chủ thể gây ra là người có
thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố tụng và trong bối cảnh Việt Nam chưa ban


5

hành Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước. Đối với đề tài của mình, sau khi
nghiên cứu quyển sách chuyên khảo này, tác giả được bổ sung thêm nhiều kiến thức
về trình tự, thủ tục, cách thức giải quyết bồi thường của Nhà nước đối với lĩnh vực
tố tụng.
- Đinh Trung Tụng chủ biên (2009), “Những vấn đề cơ bản của Luật trách
nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009”, Nxb Tư pháp, Hà Nội. Cuốn sách
chuyên khảo đã đề cập các quy định pháp luật về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước nói chung và giới thiệu Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước nói riêng,
trong đó tập trung nêu ra sự cần thiết, mục tiêu ban hành và quan điểm chỉ đạo xây
dựng Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước dựa trên số liệu phân tích khái
qt tình hình thực hiện trách nhiệm bồi thường của các cơ quan nhà nước theo
Nghị quyết số 388/2003/NQ-UBTVQH. Đồng thời, cơng trình này đã giới thiệu
khái qt pháp luật một số nước trên thế giới về trách nhiệm bồi thường của nhà
nước như phạm vi, cách thức xác định, thủ tục, cơ quan giải quyết, trách nhiệm
hoàn trả. Cuốn sách đã cung cấp cho tác giả những kiến thức pháp lý cơ bản về Luật
trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009. Từ đó, làm nền tảng cho tác giả sử
dụng phương pháp so sánh Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2009 và
Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017 trong toàn luận văn.

- Đỗ Văn Đại (2013), “Quyền được bồi thường thiệt hại trong Hiến pháp”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Trong bài viết này, tác giả đề cập đến bồi thường
thiệt hại nói chung. Từ đó, giúp cho tác giả xác định quyền được bồi thường của
người tạm giữ, tạm giam trái pháp luật trong luận văn.
- Lê Mai Anh (2002), “Bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ
quan tiến hành tố tụng gây ra”, Luận án Tiến sĩ, Đại học Luật Hà Nội, năm 2002.
Luận án đi vào phân tích đặc điểm, nội dung, bản chất của trách nhiệm nhà nước
trong việc bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra khi tiến hành các hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Thực trạng pháp
luật và thực tiễn giải quyết bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền tiến hành tố


6

tụng gây ra phát sinh từ thực tiễn hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hiện
nay. Như vậy, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra đã được đề cập
gián tiếp ở đây nhưng không đi vào cụ thể trong bất cứ hoạt động nghiệp vụ nào của
hệ thống cơ quan này.
- Ngoài ra, cịn một số bài viết trong các tạp chí nghiên cứu lập pháp đề cập
đến đề tài này như: Trần Văn Hùng với bài viết “Bồi thường nhà nước trong Tố
tụng hình sự theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm
2017”, tạp chí Tịa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, 2017, số 21; Mai Hương
với bài viết “Tham khảo kinh nghiệm pháp luật nước ngoài về trách nhiệm bồi
thường của nhà nước”, tạp chí Kiểm sát, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, 2009, số
4. Đây là nguồn nhận thức mà tác giả sử dụng để làm sáng tỏ đề tài.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn
Thứ nhất, luận văn làm rõ những vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Thứ hai, luận văn đánh giá thực trạng pháp luật và thực trạng thực hiện trách

nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam
tại nước ta.
Thứ ba, trên cơ sở lý luận và thực tiễn đã được nghiên cứu, luận văn đưa ra
định hướng và một số kiến nghị hoàn trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan
điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam tại Việt Nam.
Nhiệm vụ của luận văn:
- Xác định nội dung và làm rõ một số vấn đề lý luận về khái niệm, đặc điểm
có liên quan đến vấn đề trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong
hoạt động tạm giữ, tạm giam; pháp luật áp dụng về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.


7

- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. Với nhiệm vụ này,
luận văn đi sâu phân tích nội dung các quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam theo các văn bản có liên
quan hiện hành; tìm hiểu về mục đích, cơ sở của việc quy định các điều luật điều
chỉnh trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm
giữ, tạm giam; phân tích tính kế thừa và phát triển, cũng như những điểm mới quy
định hiện hành để có cách hiểu đúng nhất, phù hợp với khoa học pháp lý và thực tiễn
đời sống xã hội. Đồng thời, qua việc phân tích pháp luật trách nhiệm bồi thường
thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam, luận văn cũng đưa
ra những điểm bất cập, chưa hợp lý của các quy định đó, để làm cơ sở cho các kiến
nghị nhằm hoàn thiện các quy định này.
- Trên cơ sở phân tích nội dung và thực tiễn áp dụng thực hiện pháp luật về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm
giam, luận văn nêu một số kiến nghị đề xuất hướng sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn
thiện chế định này.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng của luận văn là trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều
tra thuộc lực lượng Công an Nhân dân trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Phạm vi nội dung nghiên cứu: Luận văn không đi nghiên cứu mọi vấn đề liên
quan đến pháp luật trách nhiệm của cơ quan điều tra hay hoạt động tạm giữ, tạm
giam mà chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề cơ bản về : nội dung cơ bản pháp
luật trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ,
tạm giam; chủ thể thực hiện trách nhiệm này; nguyên tắc thực hiện; cơ chế bảo đảm
thực hiện.
Phạm vi thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu thực tiễn thực hiện trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam
trong khoảng thời gian từ khi có Luật TNBTCNN năm 2009 đến nay.


8

Phạm vi không gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu quy định của pháp
luật Việt Nam và thực tiễn thực hiện pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại
của cơ quan điều tra công an nhân dân trong hoạt động tạm giữ, tạm giam tại Việt
Nam.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, tác giả sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu:
+ Phương pháp phân tích, được sử dụng trong tồn bộ luận văn. Phương
pháp này áp dụng để làm rõ những vấn đề lý luận, quy định của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
+ Phương pháp tổng hợp cũng được sử dụng trong toàn bộ luận văn. Trên cơ
sở các tài liệu đã phân tích, tác giả sử dụng phương pháp này để tổng hợp những
vấn đề đã nêu ra, từ đó rút ra những nhận định, kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong

hoạt động tạm giữ, tạm giam tại nước ta.
+ Phương pháp so sánh được thực hiện khi phân tích thực tiễn hoạt áp dụng
pháp luật với quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ
quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam. Từ đó, đề xuất các giải pháp hoàn
thiện quy định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều
tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
6. Kết cấu đề tài
Luận văn ngoài Phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo còn lại được
kết cấu thành hai chương như sau:
Chương 1: Khái quát chung về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan
điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Chương 2: Bất cập và kiến nghị hoàn thiện pháp luật về trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.


9

CHƯƠNG 1:
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TRÁCH NHIỆM BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
CỦA CƠ QUAN ĐIỀU TRA TRONG HOẠT ĐỘNG TẠM GIỮ, TẠM GIAM
1.1. Khái niệm, đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ
quan điều tra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam
1.1.1. Khái niệm
Khái niệm thiệt hại phát sinh trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của cơ
quan điều tra
Cơ quan điều tra (CQĐT) là cơ quan tiến hành tố tụng, được giao nhiệm vụ
thực hiện chức năng quản lý nhà nước để duy trì an ninh trật tự của xã hội, vì vậy
việc bồi thường thiệt hại (BTTH) của CQĐT cũng có nghĩa là thuộc về Nhà nước.
Điều này xuất phát từ bản chất mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân, Nhà nước
với tư cách là tổ chức quyền lực công cộng đặc biệt, quản lý và điều hành xã hội

bằng pháp luật, đồng thời là công cụ bảo đảm và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp
của cơng dân. Cơng dân được Nhà nước bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy
tín, nhân phẩm, đây là "những quyền mà công dân hưởng không phải với tư cách do
Nhà nước ban tặng"2. Cơ quan điều tra thực hiện nhiệm vụ của mình thơng qua các
hoạt động tố tụng, áp dụng các biện pháp ngăn chặn đó là tạm giữ, tạm giam. Hiện
nay, khơng ít trường hợp CQĐT trong quá trình thực hiện nhiệm vụ đã gây thiệt hại
cho người dân.
Xét về mặt lý luận, Nhà nước thực hiện chức năng thông qua người thi hành
công vụ (NTHCV), hành vi của NTHCV là thực thi quyền lực nhà nước, vì lợi ích
của nhà nước nên NTHCV có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại thì Nhà nước chịu
trách nhiệm đứng ra bồi thường thay cho NTHCV, đây là loại trách nhiệm bồi

2 Lê Mai Anh (2002), "Nhà nước với việc thực hiện trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người có thẩm quyền
của cơ quan tiến hành tố tụng gây ra trong khi thi hành cơng vụ", tạp chí Nhà nước và pháp luật, (5), tr. 21 và Lê Mai
Anh (2002), "Cơ sở xác định trách nhiệm Nhà nước đối với tổn thất do người có thẩm quyền của cơ quan tiến hành tố
tụng gây ra", tạp chí Dân chủ và pháp luật, (6), tr. 4.


10

thường "do người khác gây ra"3, vì người gây thiệt hại là NTHCV nhưng người
chịu trách nhiệm bồi thường lại là Nhà nước. Do đó, có thể khẳng định "TNBTCNN
thực chất là trách nhiệm thay thế"4, hay trách nhiệm gián tiếp5, Nhà nước phải bồi
thường thay NTHCV.
Khoản 1, Điều 117 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “ Tạm giữ có thể áp
dụng đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt trong trường
hợp phạm tội quả tang, người phạm tội tự thú, đầu thú hoặc đối với người bị bắt
theo quyết định truy nã”.
Khoản 1, Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015 quy định “Tạm giam có thể áp
dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trong, tội rất nghiêm trọng”. Đối

với trường hợp phạm tội nghiêm trọng, ít nghiêm trọng thì việc áp dụng biện pháp
tạm giam sẽ căn cứ trường hợp cụ thể6.
Thiệt hại là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất hoặc tinh thần
được pháp luật bảo vệ. Thiệt hại trong trách nhiệm dân sự phải là sự thiệt hại thực tế
về tài sản hoặc tổn thất tinh thần dẫn đến thiệt hại về tài sản hoặc không dẫn đến
thiệt hại về tài sản. Thiệt hại là tổn thất thực tế tính được thành tiền và xảy ra do
việc xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, tài sản mà gây ra cho bên
bị thiệt hại7. Thiệt hại bao gồm thiệt hại về vật chất và thiệt hại do tổn thất về
tinh thần.

3
Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín (2013), "Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do người khác gây
ra", tạp chí Khoa học pháp lý, (5), tr. 69.

Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín (2015), Pháp luật Việt Nam về trách nhiệm bồi thường của Nhà
nước, nhà xuất bản Đại học quốc gia thành phố Hồ Chí Minh, tr. 27.
4

Xem thêm Đỗ Đình Lương (2001), "Giúp đỡ người bị hại và việc bồi thường nạn nhân trong hoạt
động tố tụng ở Australia và Thụy Điển", Thông tin khoa học pháp lý (2), tr. 113-114 và Nguyễn Như Phát,
Bùi Nguyên Khánh (2007), "Cơ sở pháp lý phát sinh và phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước", tạp
chí Khoa học pháp lý (5), tr. 38.
5

6

Khoản 2, Điều 119 Bộ luật TTHS năm 2015.

7


Giáo trình Luật Dân sự trường Đại học Luật Hà Nội năm 1993


11

Thứ nhất, thiệt hại về vật chất bao gồm: Thiệt hại do tài sản bị xâm phạm
quy định tại Điều 589 BLDS năm 2015; thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm quy
định tại khoản 1 Điều 590 BLDS; thiệt hại do tính mạng bị xâm phạm quy định tại
khoản 1 Điều 591 BLDS; thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm quy
định tại khoản 1 Điều 592 BLDS.
Thứ hai, thiệt hại do tổn thất về tinh thần của cá nhân được hiểu là do
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm mà người bị thiệt hại hoặc do
tính mạng bị xâm phạm mà người thân thích gần gũi nhất của nạn nhân phải
chịu đau thương, buồn phiền, mất mát về tình cảm, bị giảm sút hoặc mất uy tín, bị
bạn bè xa lánh do bị hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp
tổn thất mà họ phải chịu.
Thứ ba, thiệt hại do tổn thất về tinh thần của các chủ thể được hiểu là do
danh dự, uy tín bị xâm phạm, bị giảm sút hoặc mất đi sự tín nhiệm, lịng tin vì bị
hiểu nhầm và cần phải được bồi thường một khoản tiền bù đắp tổn thất mà cá nhân
phải chịu.
Như vậy, thiệt hại phát sinh trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của cơ quan
điều tra là sự mất mát hoặc giảm sút về một lợi ích vật chất hoặc tinh thần của
người bị thiệt hại do hoạt động tiến hành tạm giữ, tạm giam của người có thẩm
quyền của cơ quan điều tra gây nên trong tố tụng hình sự.
Bản chất của thiệt hại phát sinh trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của cơ
quan điều tra
Bản chất của thiệt hại phát sinh trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của
CQĐT có nội dung sau:
- Thiệt hại phát sinh trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của CQĐT là một
loại thiệt hại ngoài hợp đồng và chịu sự điều chỉnh của pháp luật dân sự. Bởi, thiệt

hại trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng được hiểu là một loại
thiệt hại dân sự mà khi người nào có hành vi vi phạm nghĩa vụ do pháp luật quy
định ngoài hợp đồng xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác từ đó


12

phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại do mình gây ra. Điều này phù hợp với
căn cứ phát sinh thiệt hại trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của CQĐT, đó là hành
vi tiến hành tạm giữ, tạm giam của CQĐT đã xâm phạm tới quyền và lợi ích hợp
pháp của người bị thiệt hại.
- Thiệt hại phát sinh trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của CQĐT là thiệt
hại chỉ phát sinh trong hoạt động tố tụng hình sự đó chính là hoạt động tạm giữ, tạm
giam. Trách nhiệm bồi thường của nhà nước được Luật TNBTCNN quy định phạm
vi bao gồm trong các hoạt động: Quản lý hành chính; tố tụng dân sự; tố tụng hình
sự; tố tụng hành chính; thi hành án dân sự và thi hành án hình sự. Như vậy, thiệt hại
do nhà nước gây ra có thể phát sinh trong bất kỳ lĩnh vực nào nêu trên. Tuy nhiên
thiệt hại phát sinh trong hoạt động tạm giữ, tạm giam của CQĐT đã chỉ ra rõ hoạt
động dẫn tới phát sinh thiệt hại đó chính là hoạt động tạm giữ, tạm giam, một trong
những hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ của cơ quan tiến hành tố tụng hình sự.
Khái niệm trách nhiệm bồi thường thiệt hại của cơ quan điều tra trong hoạt
động tạm giữ, tạm giam
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại là một loại trách nhiệm pháp lý, cụ thể là
một loại trách nhiệm dân sự. Theo nguyên tắc xác định trách nhiệm trong dân sự,
người có hành vi trái pháp luật xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của người
khác mà gây thiệt hại thì phải chịu trách nhiệm bồi thường. Trong mối quan hệ giữa
người gây thiệt hại và người bị thiệt hại, có những trường hợp người gây thiệt hại ở
một vị thế rất đặc biệt, họ là những cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước mà ở
đây là cơ quan điều tra , gây thiệt hại khi đang thực hiện nhiệm vụ nhân danh Nhà
nước. Nhà nước là “tổ chức đặc biệt của quyền lực chính trị” thực hiện các chức

năng quản lý nhằm duy trì trật tự xã hội thông qua những cán bộ, công chức trong
các cơ quan nhà nước trong đó có CQĐT. Trong q trình thực thi cơng vụ, CQĐT
có thể gây thiệt hại trái pháp luật cho bất kỳ cá nhân hay tổ chức nào. Mặc dù quan
hệ này có liên quan đến việc thực hiện những hoạt động thuộc chức năng quản lý,
điều hành mang tính quyền lực của Nhà nước, khơng thể nói rằng Nhà nước đứng


13

trên pháp luật và không phải chịu trách nhiệm khi gây thiệt hại trái pháp luật cho
chủ thể khác. Pháp luật dân sự ghi nhận nguyên tắc khi quyền, lợi ích hợp pháp của
cá nhân, tổ chức bị xâm phạm bởi cá nhân, tổ chức khác thì những chủ thể có hành
vi xâm phạm phải chịu trách nhiệm bồi thường theo quy định của pháp luật. Trong
quan hệ bồi thường thiệt hại vốn là quan hệ mang tính chất dân sự, cơ quan nhà
nước và công dân cần phải được đối xử bình đẳng với nhau. Tuy là chủ thể của
công quyền nhưng khi CQĐT gây ra thiệt hại cũng phải có trách nhiệm bồi thường
theo những nguyên tắc chung của luật dân sự như bất cứ chủ thể nào khác. Mục
đích cơ bản của việc xác lập trách nhiệm pháp lý này là nhằm bảo vệ quyền lợi của
bên bị thiệt hại.
Hơn nữa, Việt Nam đang trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền,
Nhà nước mà trong đó không chỉ mỗi cá nhân, tổ chức mà bản thân Nhà nước và
những người đứng đầu chính quyền đều phải tôn trọng pháp luật và bảo đảm các
quyền con người. Trách nhiệm bồi thường của CQĐT gây ra cho các cá nhân, tổ
chức trong xã hội được thiết lập trên cơ sở những tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
dân chủ, theo đó Nhà nước phải chịu trách nhiệm trước Nhân dân về tính hợp pháp
trong các hoạt động của mình8. Nội dung cơ bản nhất của trách nhiệm bồi thường
Nhà nước chính là cam kết của Nhà nước khi cán bộ, cơng chức trong đó có CQĐT
thực hiện hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức
trong xã hội và gây thiệt hại thì Nhà nước sẽ phải bồi thường các thiệt hại mà cá
nhân, tổ chức này đã gánh chịu.

Như vậy, trách nhiệm bồi thường của CQĐT trong hoạt động tạm giữ, tạm
giam là một loại trách nhiệm pháp lý, trong đó Nhà nước có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật của CQĐT gây ra trong quá trình thi
hành hoạt động tạm giữ, tạm giam.

8 Đinh Thị Mai (2018), “Định hướng nghiên cứu quyền con người trong luật thi hành tạm giữ, tạm giam 2015”
Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, tr 3.


14

1.1.2. Đặc điểm của trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CQĐT trong
hoạt động tạm giữ, tạm giam
Hoạt động tạm giữ, tạm giam của CQĐT là hoạt động có thể xâm phạm đến
quyền con người. Nguyên nhân của tình trạng này là do CQĐT nói chung và Điều
tra viên nói riêng, rất dễ có khả năng lạm dụng quyền lực trong khi tiến hành nhiệm
vụ. Để bảo đảm quyền con người, phát huy dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự,
tránh sự tùy tiện áp dụng biện pháp tạm giữ, tạm giam, pháp luật đã quy định các
biện pháp xử lý hành vi vi phạm pháp luật tố tụng hình sự xâm hại tới quyền và lợi
ích hợp pháp của cá nhân, cơ quan, tổ chức. Một trong các biện pháp này là quy
định trách nhiệm bồi thường của CQĐT đối với những thiệt hại gây ra trong hoạt
động tạm giữ, tạm giam và có những đặc trưng riêng biệt sau đây:
Thứ nhất, trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CQĐT trong hoạt động tạm
giữ, tạm giam là loại “trách nhiệm trực tiếp”.
Lý luận về trách nhiệm trực tiếp dựa trên lý do cơ bản: Hành vi CQĐT được
coi là hành vi của Nhà nước, vì vậy nếu CQĐT có hành vi gây thiệt hại thì được coi
là Nhà nước gây thiệt hại và đương nhiên Nhà nước có trách nhiệm bồi thường. Nếu
coi hành vi của CQĐT không phải là hành vi của Nhà nước thì trách nhiệm của Nhà
nước được xác định là trách nhiệm thay thế. Nhà nước gánh chịu trách nhiệm thay
cho CQĐT khi thi hành tạm giữ, tạm giam gây thiệt hại bởi vì CQĐT hành động vì

lợi ích của Nhà nước, vì vậy với tư cách là người được hưởng lợi ích, Nhà nước có
trách nhiệm bồi thường đối với thiệt hại do cán bộ của mình gây ra; Nếu xác định
trách nhiệm bồi thường của CQĐT là của cá nhân điều tra viên thì với khả năng tài
chính của mình, họ khơng thể bồi thường, và như vậy thì người bị thiệt hại khơng
được bảo đảm quyền lợi. Và vì Nhà nước có trách nhiệm bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của công dân nên Nhà nước sẽ thực hiện trách nhiệm bồi thường thay, sau
đó điều tra viên CQĐT có trách nhiệm hoàn trả cho Nhà nước9.

9 Lê thị Thoa (2017), “Một số kiến nghị sửa đổi, bổ sung Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước” Tạp chí
quản lý nhà nước, số 254, tr 33.


15

Nếu như đối với trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong dân sự, năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường phụ thuộc vào năng lực hành vi và khả năng về tài sản của
người gây ra thiệt hại. Trong trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, năng lực chịu
trách nhiệm bồi thường của người gây thiệt hại không được xem xét vì Nhà nước
đương nhiên thừa nhận trách nhiệm bồi thường và gánh vác kinh phí chi trả việc bồi
thường. Năng lực chịu trách nhiệm bồi thường nếu có, thì chỉ đặt ra trong trường
hợp xác định mức hoàn trả của người thi hành cơng vụ có lỗi gây ra thiệt hại.
Thứ hai, phạm vi trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CQĐT trong hoạt
động tạm giữ, tạm giam giới hạn trong một hoạt động cụ thể.
Phạm vi bồi thường trong dân sự rất rộng, theo đó, người gây thiệt hại đến tài
sản, tính mạng, sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp
của cá nhân phải bồi thường theo nguyên tắc thiệt hại bao nhiêu phải bồi thường
bấy nhiêu. Tuy nhiên trong trường hợp này Nhà nước chỉ thừa nhận trách nhiệm bồi
thường giới hạn trong phạm vi một số lĩnh vực hoạt động, trong đó có hoạt động
tạm giữ, tạm giam của CQĐT. Nhà nước không phải bồi thường đối với tất cả thiệt
hại do hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ gây ra mà chỉ phải bồi

thường đối với những hành vi gây thiệt hại nhất định, cụ thể là trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của CQĐT trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Thứ ba, hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
CQĐT trong hoạt động tạm giữ, tạm giam chỉ phát sinh khi được xác định trong
văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
Một trong những điều kiện tiên quyết làm phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại là hành vi gây thiệt hại phải là hành vi trái pháp luật. Trong trách nhiệm bồi
thường của Nhà nước kể cả đối với CQĐT. Tính trái pháp luật của hành vi gây thiệt
hại phải được xác định bằng một văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm quyền chứ
khơng thể chỉ dựa trên suy đoán chủ quan của người bị thiệt hại. Người bị thiệt hại
chỉ có quyền yêu cầu bồi thường khi có văn bản của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền xác định hành vi của CQĐT là trái pháp luật hoặc có văn bản của cơ quan có


16

thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định người bị thiệt hại thuộc trường
hợp được bồi thường10.
CQĐT khi tham gia vào các quan hệ pháp luật mang tư cách chủ thể của
quyền lực công đối với các quan hệ phát sinh trong hoạt động tạm giữ, tạm giam.
Trong quá trình thực hiện hoạt động tạm giữ, tạm giam gây thiệt hại cho cá nhân thì
giữa CQĐT và bên bị thiệt hại phát sinh một quan hệ pháp luật, theo đó CQĐT có
trách nhiệm bồi thường thiệt hại đã gây ra.
Vì là một dạng của TNBTCNN nên trách nhiệm bồi thường của CQĐT gây
ra trong hoạt động tạm giữ, tạm giam mang những đặc điểm của TNBTCNN. Trong
trách nhiệm này, khơng cần xác định NTHCV có lỗi hay có hành vi trái pháp luật
hay khơng11, nên có quan điểm cho rằng "TNBTCNN cũng không nhất thiết phải do
vi phạm pháp luật, không được xây dựng trên cơ sở của yếu tố chủ quan (lỗi) của cơ
quan nhà nước, nói khác đi, bốn yếu tố cấu thành chế độ trách nhiệm pháp lý, trách
nhiệm vật chất thông thường không được xem xét đầy đủ" 12. Xuất phát từ mục tiêu

của hoạt động TTHS là phòng ngừa và trấn áp tội phạm để bảo vệ trật tự, an toàn xã
hội nên trong q trình thực thi cơng vụ, NTHCV có thể gây thiệt hại cho cá nhân
công dân, nhưng họ khơng có lỗi và hành vi đó khơng bị coi là trái pháp luật13. Hơn
nữa, trong hoạt động TTHS Nhà nước không phải BTTH do hành vi trái pháp luật
gây ra nhằm tạo tâm lý an tâm công tác cho người tiến hành TTHS để đảm bảo hiệu
quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm14.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của CQĐT trong hoạt động tạm giữ, tạm
giam có điểm khác biệt so với trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng đó là hành vi
làm phát sinh trách nhiệm bồi thường phải là hành vi của người thi hành cơng vụ
10

Điều 7, Luật TNBTCNN năm 2017

Xem thêm Đồn Thị Quỳnh Chi (2009), "Bàn về trách nhiệm bồi thường Nhà nước trong hoạt động tố tụng
dân sự, tố tụng hành chính theo dự thảo luật bồi thường Nhà nước", tạp chí Kiểm sát (08), tr. 40.
11

12 Nguyễn Như Phát (2007), "Một số vấn đề lý luận về trách nhiệm bồi thường Nhà nước", tạp chí Nhà nước và
pháp luật (4), tr. 28.
13 Trường Đại học Luật Hà Nội (2011), Tập bài giảng Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước, nhà xuất
bản Công an nhân dân, tr. 17.
14

Đỗ Văn Đại, Nguyễn Trương Tín, tlđd 3, tr. 431-432.


17

trong khi thực hiện nhiệm vụ được Nhà nước giao, cịn hành vi làm phát sinh trách
nhiệm bồi thường ngồi hợp đồng có thể xảy ra đối với bất kỳ chủ thể pháp luật

nào.
Sở dĩ có sự khác nhau như vậy là bởi trong hoạt động tố tụng hình sự, để
ngăn chặn các hành vi phạm tội, phát hiện nhanh chóng, chính xác và xử lý nghiêm
minh, kịp thời mọi hành vi phạm tội, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vơ tội thì CQĐT có quyền áp dụng các biện pháp của tố tụng hình sự để giải quyết
vụ án. Tuy nhiên, việc áp dụng các biện pháp này rất dễ xâm phạm đến quyền con
người, công dân và hậu quả để lại vô cùng nghiêm trọng khi xâm phạm quyền được
sống, quyền tự do và sinh mệnh chính trị của cơng dân.
Tố tụng hình sự với tư cách là thủ tục xử lý một người được xem là tội phạm,
vì vậy ln thể hiện tính quyền lực nhà nước với sức mạnh cưỡng chế. Do đó, Nhà
nước sẽ bồi thường đối với những thiệt hại do CQĐT trong tạm giữ, tạm giam gây
ra nếu những thiệt hại đó thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước mà
khơng cần biết thiệt hại đó có phải do hành vi trái pháp luật và có lỗi của người tiến
hành tố tụng hình sự gây ra hay khơng. Đây là một quy định đặc thù về trách nhiệm
bồi thường của CQĐT trong tạm giữ, tạm giam thể hiện sự quan tâm của Nhà nước
trong việc bảo vệ quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân15.
1.2. Ý nghĩa của quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
CQĐT trong hoạt động tạm giữ, tạm giam
Trước tiên phải hiểu và xác định bồi thường thiệt hại là một nguyên tắc sống
công bằng và trật tự trong cộng đồng dân cư và nhà nước pháp quyền. Mỗi người
đều có quyền về tài sản và nhân thân được tôn trọng, đồng thời phải tôn trọng quy
tắc chung, không thể vì lợi ích của mình mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp
pháp của người khác. Khi một người, một tổ chức có hành vi trái pháp luật gây thiệt
hại cho người khác thì người đó phải chịu trách nhiệm pháp lý bằng việc bù đắp

15

Điều 34 Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.



18

tổn thất về vật chất và tinh thần, danh dự cho người bị thiệt hại. Bồi thường thiệt hại
thể hiện trách nhiệm của người gây ra thiệt hại đồng thời cũng là quyền của người
bị thiệt hại.
Thứ nhất, là phương thức bù đắp tổn thất cho người bị thiệt hại trong hoạt
động tạm giữ, tạm giam trái pháp luật.
Ý nghĩa đầu tiên của quy định về trách nhiệm bồi thường thiệt hại của
CQĐT trong hoạt động tạm giữ, tạm giam là phương thức bù đắp tổn thất: “Thiệt
hại phải được bồi thường toàn bộ và kịp thời”16. Bồi thường “toàn bộ” và “kịp thời”
là nguyên tắc được thể hiện đầu tiên trong các nguyên tắc bồi thường thiệt hại ngoài
hợp đồng. Nguyên tắc này đảm bảo người có hành vi gây thiệt hại phải bồi thường
tương xứng với toàn bộ thiệt hại đã gây ra và bồi thường kịp thời, càng nhanh càng
tốt để khắc phục hậu quả. Pháp luật khuyến khích các bên đương sự tự thỏa thuận
về mức bồi thường, hình thức bồi thường, phương thức bồi thường. Tuy nhiên sự
thỏa thuận không trái pháp luật và đạo đức xã hội.
Bồi thường tồn bộ có nghĩa là thiệt hại đến đâu thì bồi thường đến đó. Khi
người bị thiệt hại do hoạt động tạm giữ, tạm giam trái pháp luật của CQĐT có yêu
cầu giải quyết bồi thường thiệt hại do tài sản, sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm thì Luật TNBTCNN năm 2017 quy định trong từng
trường hợp cụ thể, CQĐT bồi thường các khoản thiệt hại tương xứng đó.
Bồi thường kịp thời có nghĩa là cơ quan giải quyết bồi thường (CQĐT) hoặc
Tồ án phải giải quyết nhanh chóng u cầu bồi thường thiệt hại trong thời hạn luật
định. Quy định việc tạm ứng bồi thường cho người bị thiệt hại17 là một đột phá và
có tính nhân văn trong Luật TNBTCNN năm 2017. Người bị thiệt hại bởi án oan sai
là những đối tượng không chỉ chịu tổn thất về mặt vật chất mà cịn có thể cả về mặt
tinh thần và danh dự. Việc nhanh chóng bồi thường cho các cá nhân này không chỉ
giúp họ khắc phục các khó khăn trong đời sống sinh hoạt, bù đắp tổn thất về tinh
16


/>
17

Điều 44, Luật TNBTCNN năm 2017.


19

thần nhằm an ủi, động viên làm dịu đi nỗi đau cho người bị thiệt hại mà nó cịn
phần nào xoa dịu các tổn thương tinh thần, giúp người dân tin tưởng vào pháp luật
và Nhà nước.
Thứ hai, là căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường trong hoạt động tạm
giữ, tạm giam trái pháp luật.
Luật TNBTCNN năm 2017 là cơ sở pháp lý để thực hiện việc bồi thường do
hoạt động tạm giữ, tạm giam trái pháp luật của CQĐT. Luật này là cơ sở để xác
định trách nhiệm bồi thường, mức độ bồi thường, thiệt hại được bồi thường đối với
các oan sai do hoạt động tạm giữ, tạm giam của CQĐT. Với toàn bộ quy định về bồi
thường thiệt hại của CQĐT do hoạt động tạm giữ, tạm giam trái pháp luật của
CQĐT gây ra thì cơ quan có thẩm quyền căn cứ vào quy định này để thực hiện việc
bồi thường.
Luật TNBTCNN là cơ sở xác định đầy đủ, chính xác oan sai do hoạt động
tạm giữ, tạm giam trái pháp luật của CQĐT gây ra và đảm bảo sự khách quan, toàn
diện về trách nhiệm bồi thường. Luật TNBTCNN năm 2017 quy định về nghĩa vụ
hồn trả và xin lỗi, cải chính18 đối với người bị thiệt hại, đây là cơ sở pháp lý quan
trọng đảm bảo cho việc bồi thường áp dụng thống nhất, đồng bộ và hiệu quả.
Thứ ba, là căn cứ để xử lý các chủ thể thực hiện hoạt động tạm giữ, tạm
giam trái pháp luật.
Chủ thể trong hoạt động tạm giữ, tạm giam là Điều tra viên, Phó thủ trưởng
CQĐT, Thủ trưởng CQĐT. Căn cứ vào mức độ lỗi và thiệt hại xảy ra để xử lý các
chủ thể này khi thực hiện hoạt động trái pháp luật. Trong trường hợp chủ thể thực

hiện với lỗi cố ý, gây hậu quả nghiêm trọng và có dấu hiệu của tội phạm quy định
trong BLHS thì sẽ bị tước quân tịch, loại khỏi ngành cơng an, sau đó khởi tố, truy
cứu trách nhiệm hình sự và xét xử như một người dân bình thường. Trong trường
hợp mức độ ít nghiêm trọng thì sẽ xem xét áp dụng các biện pháp pháp xử lý kỷ luật

18

Mục 3, Chương V, Luật TNBTCNN năm 2017.


×