Tải bản đầy đủ (.pdf) (68 trang)

Thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án tại tỉnh bến tre (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.86 MB, 68 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ XUÂN LAN

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN TẠI TỈNH BẾN TRE

LUẬN V N THẠC S LUẬT HỌC

TP H

CH MINH N M 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

TRẦN THỊ XUÂN LAN

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN TẠI TỈNH BẾN TRE

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60380107

LUẬN V N THẠC S LUẬT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐOÀN THỊ PHƢƠNG DIỆP

TP H



CH MINH N M


i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Trường đại học Kinh tế - Luật. Vậy tôi xin
viết Lời cam đoan này đề nghị Trường đại học Kinh tế - Luật xem xét để tơi có
thể bảo vệ Luận văn. Tơi xin chân thành cảm ơn!

NGƢỜI CAM ĐOAN

Trần Thị Xuân Lan


ii

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BA

: Bản án

CHV

: Chấp hành viên




: Quyết định

QĐTHA

: Quyết định thi hành án

QSDĐ

: Quyền sử dụng đất

THA

: Thi hành án

THADS

: Thi hành án dân sự


iii

MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ................................................................................................... 1
CHƢƠNG

NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN ĐỂ ĐẢM


BẢO THI HÀNH ÁN ........................................................................................... 5
Khái niệm về kê biên tài sản để thi hành án dân sự ............................... 5
Khái niệm ............................................................................................. 5
Đặc điểm của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự................... 7
3 Ý nghĩa của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự ..................... 9
Nội dung biện pháp kê biên biên tài sản để thi hành án theo quy định
của pháp luật Việt Nam.................................................................................. 11
Những tài sản không đƣợc kê biên .................................................. 11
Trình tự, thủ tục kê biên tài sản ...................................................... 14
1.2.2.1. Ra quyết định kê biên tài sản và thông báo việc kê biên tài sản 14
1.2.2.2. Xây dựng kế hoạch kê biên tài sản ............................................... 16
1.2.2.3. Thực hiện việc kê biên ................................................................... 17
3 Định giá tài sản kê biên ..................................................................... 18
KẾT LUẬN CHƢƠNG I ................................................................................... 21
CHƢƠNG

THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN

ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN TẠI TỈNH BẾN TRE - ĐỀ XUẤT, KIẾN
NGHỊ ................................................................................................................... 23
Thực tiễn áp dụng pháp luật về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành
án tại tỉnh Bến Tre .......................................................................................... 23
Những kết quả đạt đƣợc ................................................................... 23


iv

Khó khăn, vƣớng mắc trong việc áp dụng biện pháp kê biên tài
sản ................................................................................................................. 25
Đối với tài sản kê biên là quyền sử dụng đất ............................... 25

Đối với tài sản kê biên là nhà ở ..................................................... 35
Đề xuất, kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp kê
biên tài sản từ thực tiễn tại tỉnh Bến Tre ..................................................... 38
Về hoàn thiện quy định pháp luật ................................................... 38
Về thực hiện pháp luật ...................................................................... 41
Tăng cƣờng công tác phổ biến, giáo dục pháp luật, công tác
động viên, thuyết phục trong quá trình THA; nâng cao ý thức pháp luật
của ngƣời dân............................................................................................... 41
Nâng cao chất lƣợng và trách nhiệm của đội ngũ CHV trong
công tác THADS .......................................................................................... 42
3 Tăng cƣờng công tác quản lý đất đai ........................................... 43
4 Tăng cƣờng mối quan hệ phối hợp liên ngành trong công tác
THA .............................................................................................................. 44
KẾT LUẬN CHƢƠNG II.................................................................................. 46


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thi hành án dân sự là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà
nước trong việc đưa các bản án, quyết định của cơ quan có thẩm quyền ra thi
hành trên thực tế. Hoạt động thi hành án một mặt đảm bảo cho quyền lực tư pháp
được thực thi trên thực tế. Mặc khác nó cịn là cơng cụ hữu hiệu để khơi phục lại
quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân bị xâm hại. Thi hành án dân sự là cơng
việc có nhiều khó khăn, phức tạp nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo
vệ pháp chế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, duy trì kỷ cương
phép nước. Việc thi hành án tác động trực tiếp đến các lợi ích vật chất và tinh
thần của người phải thi hành án và người được thi hành án, đến danh dự, uy tín
của người này và gia đình họ. Hiệu quả của hoạt động thi hành án có tác động

trực tiếp đến lịng tin của nhân dân đối với pháp luật. Tuy nhiên, trong điều kiện
kinh tế-xã hội của nước ta hiện nay, không phải bản án, quyết định có hiệu lực
nào của cơ quan có thẩm quyền cũng có thể được tổ chức thi hành một cách
thuận lợi. Do đó, các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được sử dụng,
trong đó có biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án. Tuy
nhiên, bên cạnh các kết quả đạt được việc áp dụng biện pháp cưỡng chế nói
chung và biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản nói riêng từ thực tiễn tỉnh Bến Tre
cịn có khơng ít những khó khăn, vướng mắc, bất cập nhất định, việc kê biên tài
sản đê đảm bảo thi hành án nhiều khi không đạt hiệu quả, ảnh hưởng trực tiếp
đến chất lượng thi hành án dân sự hiện nay. Việc nghiên cứu các quy định pháp
luật về kê biên tài sản và quá trình áp dụng trong thực tế là cơ sở quan trọng cho
việc tìm ra những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp kê biên
tài sản trong thi hành án, đẩy mạnh công tác thi hành án dân sự là điều cần thiết.


2

Do đó, học viên đã lựa chọn đề tài “Thực trạng áp dụng pháp luật về kê biên tài
sản để đảm bảo thi hành án tại tỉnh Bến Tre” để làm đề tài cho luận văn cao học
của mình.
2. Tình hình nghiên cứu
Có rất nhiều bài viết, cơng trình nghiên cứu khoa học pháp lý về thi hành
án dân sự đối với biện pháp cưỡng chế thi hàn án trong đó có biện pháp kê biên
tài sản như: Phan Huy Hiếu (2011): “Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân
sự”; Trần Công Thịnh (2007): “Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành
án dân sự; Lê Anh Tuấn (2010): “Cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản của người
phải thi hành án”; Đinh Thị Thanh Mai (2011): “Áp dụng pháp luật thi hành án
về kê biên tài sản chung”; Bùi Văn Yên (2012): “Vấn đề cưỡng chế đối với
người thứ ba”; Lê Anh Tuấn (2015): “ Những điểm mới về cưỡng chế thi hành
án dân sự”. Tuy nhiên, chưa có cơng trình nào nghiên cứu về thực trạng áp dụng

pháp luật về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành án tại tỉnh Bến Tre. Chính vì
vậy luận văn là một đề tài nghiên cứu mang tính cấp thiết nhằm góp phần vào
việc nghiên cứu, hồn thiện pháp luật về việc kê biên tài sản phù hợp hơn với
thực tiễn và nâng cao hiệu quả thi hành án dân sự tại địa phương.
3. Mục tiêu
3.1. Mục tiêu chung
Đề tài làm rõ một số vấn đề lý luận về kê biên tài sản và thực tiễn thực
hiện biện pháp này tại tỉnh Bến Tre. Qua đó, phát hiện những hạn chế, bất cập
trong các quy định của pháp luật hiện hành về kê biên tại sản và thực tiễn thực
hiện trên địa bàn tỉnh Bến Tre để từ đó tìm ra ngun nhân và giải pháp khắc
phục cụ thể góp phần nâng cao hiệu quả kê biên tài sản đảm bảo cho việc thi
hành án.


3

3.2. Mục tiêu cụ thể
Đề tài đặt ra những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau:
Nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và quy định của pháp luật về kê
biên tài sản trong thi hành án dân sự.
Tìm hiểu thực trạng áp dụng quy định pháp luật về kê biên tài sản trên
địa bàn tỉnh Bến Tre.
Đưa ra các đề xuất, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao
hiệu quả kê biên tài sản đảm bảo thi hành án tại tỉnh Bến Tre.
4 Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4

Đối tƣợng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận về kê biên tài

sản, các quy định của pháp luật Việt Nam về kê biên tài sản và thực tiễn thực
hiện các quy định này tại tỉnh Bến Tre.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu dựa trên những vấn đề lý luận, quy định của pháp
luật về cưỡng chế kê biên tài sản trong thi hành án dân sự, thực trạng áp dụng
các quy định đó trên địa bàn tỉnh Bến Tre đối với quyền sử dụng đất và nhà ở
trong những năm gần đây để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp
luật, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án trong thực tiễn.
5 Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích và hồn thiện nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử
dụng một số phương pháp khoa học như: Phương pháp phân tích luật viết;
phương pháp nghiên cứu lý luận trên tài liệu, sách vở; phương pháp tổng hợp,
phương pháp phân tích, phương pháp bình luận, phương pháp phân tích tổng


4

quát, phương pháp so sánh, thống kê … để làm rõ mục tiêu và nội dung của đề
tài.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
luận văn gồm 2 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về kê biên tài sản để đảm bảo thi hành
án.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về kê biên tài sản để đảm bảo thi
hành án tại tỉnh Bến Tre – đề xuất, kiến nghị.


5


CHƢƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ KÊ BIÊN TÀI SẢN
ĐỂ ĐẢM BẢO THI HÀNH ÁN
Khái niệm về kê biên tài sản để thi hành án dân sự
Khái niệm
Có nhiều khái niệm khác nhau về kê biên, theo Từ điển từ và ngữ Việt
Nam của Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh năm 1998 thì “kê nghĩa là tính
tốn” cịn “biên có nghĩa là ghi chép lại theo một trật tự nhất định”, kê biên có
nghĩa là tính tốn và ghi chép theo một trật tự nhất định, theo đó kê biên tài sản
là việc tính tốn ghi chép lại tài sản theo một trật tự nhất định nhằm mục đích cụ
thể1. Cịn theo từ điển Tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Nhà xuất bản giáo
dục xuất bản năm 1994 viết: “Kê là viết ra theo thứ tự từng tên, từng nhóm để
ghi nhớ hoặc thơng báo”; “biên là viết lên trang giấy”. Kê biên được hiểu là tạm
thời cấm vận chuyển, chuyển đổi, định đoạt hoặc chuyển dịch tài sản của người
vi phạm pháp luật2. Điều này có nghĩa khi kê biên tài sản của một người nào đó
thì quyền sở hữu tài sản của họ bị hạn chế, họ không được chuyển đổi, chuyển
dịch, định đoạt tài sản bị kê biên đó. Mặt khác tài sản bị kê biên đó phải là của
người vi phạm pháp luật, nếu một người không vi phạm pháp luật sẽ không bị kê
biên.
Theo Từ điển Luật học: “Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế
nhằm bảo đảm việc THA hình sự, chỉ áp dụng với bị can, bị cáo về tội mà Bộ
luật hình sự quy định3. Với nội dung định nghĩa này khái niệm kê biên chỉ ở
nghĩa hẹp trong lĩnh vực điều tra hình sự. Trên thực tế trong hoạt động quản lý
1

Trần Công Thịnh (2007), „Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành án dân sự’, luận văn thạc sĩ, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
2
Nguyễn Văn Tiến (2015), „Kê biên quyền sử dụng đất trong thi hành án dân sự qua thực tiễn thực hiện trên địa
bàn tỉnh Thái Nguyên’, luận văn thạc sĩ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
3

Viện khoa học pháp lý-Bộ tư pháp (1999), „Từ điển Luật học’, Nhà xuất bản từ điển bách khoa Hà Nội, Hà Nội.


6

nhà nước có một số cơ quan Nhà nước được trao quyền thực hiện việc kê biên tài
sản đó là Cơ quan điều tra của Cơng an, Tịa án nhân dân các cấp, Cơ quan quản
lý hành chính và Cơ quan THADS thì khái niệm đó chưa đầy đủ.
Ở góc độ luật học thì “kê biên, xử lý tài sản của người phải THA là một
biện pháp cưỡng chế THA do cơ quan THA áp dụng khi người phải THA có
nghĩa vụ thanh tốn tiền theo BA, QĐ của Tịa án được áp dụng trong trường
hợp người phải THA có điều kiện THA mà không tự nguyện THA trong thời hạn
do CHV ấn định hoặc trong trường hợp cần ngăn chặn người phải THA chuyển
dịch tài sản cho người khác tẩu tán, hủy hoại tài sản.”4
Trong lĩnh vực THADS, theo khoản 3 Điều 71 Luật THADS năm 2008
được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì kê biên được hiểu là một trong những biện
pháp cưỡng chế THADS, được áp dụng trong trường hợp người phải THA
không tự nguyện THA để đảm bảo việc thực hiện trách nhiệm dân sự hay nghĩa
vụ dân sự của người phải THA theo BA, QĐ của Tòa án. Theo từ điển Luật học
“Cưỡng chế là buộc cá nhân hay tổ chức phải phục tùng một mệnh lệnh, một
nghĩa vụ trách nhiệm theo quy định đã có hiệu lực của cơ quan Nhà nước có
thẩm quyền”. Trong công tác THADS, biện pháp cưỡng chế được xem là giải
pháp cuối cùng được áp dụng để BA, QĐ được thi hành nghiêm chỉnh. Cưỡng
chế đóng một vai trị quan trọng trong việc đảm bảo cho công tác THADS đạt
hiệu quả, tạo niềm tin cho nhân dân vào pháp luật Nhà nước, đồng thời đảm bảo
thực hiện nguyên tắc Hiến định: “BA, QĐ của Tồ án nhân dân có hiệu lực pháp
luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân
hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành"5. Luật THADS năm 2008 được sửa đổi,

4

5

Trương Thanh Hùng (2006), „Tập bài giảng Luật Tố tụng dân sự’, Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.
Điều 106, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013.


7

bổ sung năm 2014 không định nghĩa biện pháp cưỡng chế THADS nhưng khoản
2 Điều 9 có quy định “Người phải THA có điều kiện THA mà khơng tự nguyện
thi hành thì bị cưỡng chế THA theo quy định của Luật này”. Theo đó, người phải
THA sẽ phải tự nguyện THA khi có điều kiện, nếu khơng thực hiện thì người có
thẩm quyền THA sẽ tiến hành cưỡng chế.
Điều 71 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy
định 06 biện pháp cưỡng chế THA và kê biên tài sản của người phải THA kể cả
tài sản do người thứ ba giữ là một trong 06 biện pháp đó. Cơng tác THADS là
một trong những hoạt động quan trọng nhằm khôi phục và bảo vệ các quan hệ xã
hội bị xâm hại. Việc cưỡng chế chỉ đặt ra khi người phải THA có điều kiện THA
và đã hết thời gian tự nguyện THA thì CHV áp dụng các biện pháp cưỡng chế
THA để buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ của mình. Khái niệm kê
biên luôn đi cùng với khái niệm các biện pháp cưỡng chế. Kê biên tài sản là một
biện pháp cưỡng chế hữu hiệu để Nhà nước thực hiện quyền lực nhà nước của
mình. Mục đích của việc kê biên tài sản là nhằm bảo đảm việc THA, tránh việc
tẩu tán, hủy hoại tài sản, để thi hành nghĩa vụ về tiền.
Tóm lại, kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế THADS, do CHV
thực hiện quyền lực nhà nước để kê biên tài sản của người phải THA buộc người
phải THA thực hiện nghĩa vụ về tiền theo BA, QĐ của Tòa án trong trường hợp
người phải THA có điều kiện THA nhưng khơng tự nguyện THA.
1.1.2 Đặc điểm của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
Đối với mỗi một biện pháp cưỡng chế sẽ có một đặc điểm riêng để nhận

biết cũng như để cho các CHV dễ dàng áp dụng đối với từng vụ việc cụ thể. Đối
với biện pháp kê biên tài sản có một số đặc điểm cơ bản:


8

- Kê biên tài sản là một trong sáu biện pháp cưỡng chế THADS. Với mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người được THA là cá nhân, tổ chức,
cơ quan và lợi ích của Nhà nước thì CHV sẽ quyết định áp dụng biện pháp
cưỡng chế phù hợp với từng điều kiện của người phải THA, trong đó có biện
pháp cưỡng chế kê biên và xử lý tài sản. Theo Luật THADS năm 2008 được sửa
đổi, bổ sung năm 2014, khi người phải THA không tự nguyện THA trong
khoảng thời gian do luật định thì sẽ bị áp dụng biện pháp cưỡng chế là kê biên và
xử lý tài sản để THA. Việc người phải THA tự nguyện thi hành án trước khi người
được THA có đơn yêu cầu cơ quan THADS tổ chức thi hành án là thể hiện tinh thần
thượng tôn pháp luật và là một cách hành xử văn minh. Tuy vậy, thực tế THADS cho
thấy không phải tất cả các BA, QĐ của Tịa án sau khi có hiệu lực pháp luật đều được
người phải THA tự nguyện thi hành. Trong những trường hợp này, việc áp dụng biện
pháp cưỡng chế THADS được xem là biện pháp cuối cùng và cần thiết nhằm buộc
người phải THA phải thực hiện nghĩa vụ THA của họ, bảo đảm quyền lợi chính đáng
của người được THA và thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật trước thái độ không
chấp hành án của người phải THA.

- Khi áp dụng biện pháp kê biên tài sản sẽ làm ảnh hưởng lớn đến quyền
sở hữu, sử dụng tài sản của người phải THA, người đang nhận tài sản đảm bảo
của người phải THA,… nên việc áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản
phải theo một trình tự, thủ tục chặt chẽ theo những quy định của pháp luật
THADS và các văn bản pháp luật có liên quan.
- Mang tính quyền lực Nhà nước, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên tài
sản trong hoạt động THADS là chủ thể được Nhà nước trao quyền lực của Nhà

nước, giao trách nhiệm thi hành các BA, QĐ của Tòa án là cơ quan THADS, khi
thi hành nhiệm vụ, chỉ tuân theo pháp luật và được pháp luật bảo luật bảo vệ. Vì
vậy, chủ thể áp dụng biện pháp kê biên tà sản là CHV cơ quan THADS. Quyền


9

kê biên tài sản của người phải THA thuộc về CHV phụ trách hồ sơ khi xác định
được có căn cứ cho rằng tài sản đó là của người phải THA. Như vậy, chỉ có
CHV mới có quyền trực tiếp áp dụng biện pháp kê biên tài sản đối với người
phải THA.
- Người bị áp dụng biện pháp kê biên tài sản ngoài việc phải thực hiện
các nghĩa vụ trong BA, QĐ do Tòa án tuyên họ còn phải chịu mọi chi phí cưỡng
chế THADS. Người phải THA có bổn phận phải thi hành các nghĩa vụ của họ đã được
xác định trong BA, QĐ. Việc người phải THA không tự nguyện thi hành nghĩa vụ
THA của họ dẫn tới việc CHV phải áp dụng biện pháp cưỡng chế THA là do lỗi của
họ. Do vậy, họ phải có trách nhiệm gánh chịu các tổn phí phát sinh từ việc tổ chức
cưỡng chế THA.

1.1.3 Ý nghĩa của kê biên tài sản trong thi hành án dân sự
- Kê biên tài sản thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, đem lại niềm
tin cho nhân dân. Vị trí thượng tơn của pháp luật chỉ có thể đạt được khi pháp
luật được thực thi một cách nghiêm minh và được các tổ chức, cá nhân tuân thủ
một cách nghiêm túc, triệt để. Pháp luật nghiêm minh là điều kiện tiên quyết để
nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ
cương, ổn định, qua đó góp phần cũng cố niềm tin của nhân dân vào lẽ phải, lẽ
cơng bằng, sự tiến bộ và tính ưu việt của chế độ. Thi hành BA, QĐ dân sự là
khâu cuối của quá trình tố tụng, nhằm hiện thực hóa những phán quyết của Tịa
án vào thực tiễn cuộc sống, có vị trí, ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ tính
nghiêm minh của pháp luật, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân, thực

thi công lý, xây dựng một xã hội trật tự, kỷ cương và ổn định. Công tác THADS
không được các bên quan tâm và khơng có hiệu quả thì có nhiều khả năng ảnh
hưởng tiêu cực lớn, tác động đến toàn bộ hoạt động của Cơ quan điều tra, Viện


10

kiểm sát, Tòa án, trật tự kỷ cương xã hội bị vi phạm, quyền lực nhà nước bị suy
giảm không được coi trọng, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, các đương
sự bị xâm hại. Kê biên tài sản trong THADS góp phần làm cho cơng tác THADS
đạt hiệu quả cao, cũng cố và đem lại niềm tin cho nhân dân đối với tính nghiêm
minh của pháp luật trong cuộc sống.
- Góp phần nâng cao nhận thức về pháp luật cho nhân dân. Đặc thù của
THADS là sự kết hợp chặt chẽ giữa vai trò chủ động, phát huy trách nhiệm của
cán bộ công chức, CHV cơ quan THADS, quan tâm chỉ đạo của chính quyền địa
phương, sự phối hợp các cơ quan, tổ chức có liên quan và sự nhất trí cao đồng
tình của quần chúng, tạo ra sức mạnh tổng hợp, nâng cao ý thức trách nhiệm của
cộng đồng dân tộc. Do đó, trong hoạt động kê biên tài sản trong THADS không
chỉ là hoạt động nghiệp vụ riêng của cơ quan THADS, CHV mà còn là trách
nhiệm của các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương và đoàn thể xã hội, mọi
thành viên trong cộng đồng dân tộc. Thông qua công tác biên tài sản kê trong
THADS, ý thức pháp luật được tuyên truyền rộng ra nhân dân và đồng thời nâng
cao nhận thức của mọi người dân và xã hội đối với pháp luật.
- Là thước đo hiệu quả của quá trình xét xử nhân danh Tịa án. Thơng qua
cơng tác THA, kết quả của công tác xét xử được củng cố, hiệu lực các BA, QĐ
của Tòa án được đảm bảo thi hành trong thực tế. Kê biên tài sản trong THADS là
hoạt động thực thi phán quyết của Tòa án liên quan đến các vấn đề về tài sản và
nhân thân, trong các bản án hình sự, kinh tế, lao động, dân sự, hành chính, tín
dụng ngân hàng, hơn nhân và gia đình... và cịn là giai đoạn kiểm nghiệm qua
thực tiễn những phán quyết của Tòa án, phản ánh trung thực chất lượng chính

xác và hiệu quả của hoạt động xét xử. Để BA, QĐ của Tòa án được thực thi trên
thực tế, được nghiêm túc đi vào đời sống dân sự một cách hiệu quả nhất thì cơng


11

tác THADS nói chung và kê biên tài sản nói riêng đóng vai trị vơ cùng quan
trọng.
Nội dung biện pháp kê biên biên tài sản để thi hành án theo quy
định của pháp luật Việt Nam
1.2.1. Những tài sản không đƣợc kê biên
Điều 87 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy
định một số tài sản của người phải THA không được kê biên. Với việc quy định
chi tiết những tài sản của người phải THA không được kê biên so với quy định
này tại Điều 42 Pháp lệnh THADS năm 2004 đã giúp cho q trình THA được
diễn ra chính xác, nhanh gọn hơn rất nhiều.
Theo Khoản 1 Điều 87 quy định nhóm tài sản thứ nhất không được kê
biên gồm “Tài sản bị cấm lưu thông theo quy định của pháp luật; tài sản phục vụ
quốc phịng, an ninh, lợi ích cơng cộng; tài sản do ngân sách nhà nước cấp cho
cơ quan, tổ chức”. Như vậy, những tài sản CHV không được kê biên để THA là
những tài sản mà pháp luật cấm lưu thông như hàng lậu, thuốc phiện, heroin,
thuốc nổ…, những tài sản phục vụ quốc phòng an ninh như súng, đạn,…và
những tài sản ngân sách nhà nước cấp cho cơ quan, tổ chức như các phương tiện
giao thông, tiền lương của cán bộ, công chức trong đơn vị, cơ quan…Quy định
bổ sung này hồn tồn hợp lý vì chấp nhận cho kê biên những tài sản khơng hợp
pháp thì vơ tình pháp luật thừa nhận cho những tài sản đó là hợp pháp, khi đó kê
biên, bán đấu giá tài sản sẽ trở thành giai đoạn hợp pháp hóa tài sản phi pháp. Và
với mục tiêu lợi ích quốc gia là hàng đầu, Luật THADS không cho phép kê biên
đối với những tài sản phục vụ quốc phòng, an ninh, lợi ích cơng cộng. Bởi những
tài sản này tuy thuộc sở hữu của người phải THA nhưng nó có tác dụng rất lớn

đối với an ninh quốc gia và lợi ích cơng cộng. Do đó, khi kê biên những tài sản


12

này không chỉ tác động đến bản thân người phải THA mà còn ảnh hưởng lớn đến
những người xung quanh, đến đất nước. Bởi thế, trong mọi trường hợp không
được tiến hành kê biên những loại tài sản này mặc dù nó thuộc sở hữu của người
phải THA. Mặc khác, cũng không thể tiến hành kê biên tài sản do ngân sách nhà
nước cấp cho cơ quan, tổ chức vì cơ bản những tài sản này không thuộc sở hữu
của cơ quan, tổ chức, đồng thời việc cấp những tài sản này là nhằm mục đích
phục vụ lợi ích chung nên luật không cho phép kê biên đối với những tài sản
này.
Đối với người phải thi hành án là cá nhân. Với mục đích nhân đạo và
đảm bảo cuộc sống sinh hoạt bình thường của cơng dân, pháp luật khơng cho
phép kê biên toàn bộ tài sản của người phải THA mà có sự hạn chế nhất định để
cho người phải THA và gia đình họ có thể tiếp tục sinh sống theo nghề nghiệp
của họ. Tại Khoản 2 Điều 87 đã quy định cụ thể những tài sản của người phải
THA là cá nhân không được kê biên. Về cơ bản, quy định này vẫn giữ nguyên
tinh thần Pháp lệnh THADS năm 2004 nhưng được quy định cụ thể hơn. Tùy
theo mức sống chung và loại phương tiện lao động ở địa phương mà CHV đánh
giá đúng mức độ thế nào là cần thiết tối thiểu. Trước hết không được kê biên
những tài sản liên quan mật thiết với cuộc sống đó là lương thực đáp ứng nhu
cầu thiết yếu và thuốc cần dùng để phòng chữa bệnh của người phải THA. Pháp
luật đặt ra là để răn đe, giáo dục, bù đắp những thiệt hại, mất mát đã xảy ra chứ
không phải đặt ra để dồn con người đến bước đường cùng, do đó việc quy định
khơng kê biên đối với những loại tài sản này là cần thiết và hợp lý, giúp người
dân tin tưởng hơn vào pháp luật. Luật còn quy định thêm một số trường hợp
không được kê biên tài sản như: “Vật dụng cần thiết của người tàn tật, vật dụng
dùng để chăm sóc người ốm”, đây là quy định mới so với Pháp lệnh THADS



13

năm 2004, bởi thực tế cho thấy những tài sản này thường có giá trị khơng cao
hoặc nếu có giá trị lớn thì cũng chỉ cần thiết cho một số người như luật đã quy
định, mặt khác trong hoàn cảnh xã hội đều ra sức giúp đỡ những người tàn tật,
đau bệnh thì khơng lý do gì những loại tài sản này phải bị kê biên để thực hiện
một nghĩa vụ nào đó. Về mặt pháp luật, bản án có hiệu lực pháp luật phải được
thi hành nhưng thi hành như thế nào để có kỷ cương, phép nước được thực hiện
nghiêm minh và đạo lý xã hội trong mỗi người dân ln được duy trì và tơn tạo.
Bên cạnh đó, nhằm tơn trọng tự do tín ngưỡng cũng như truyền thống uống nước
nhớ nguồn, thờ cúng tổ tiên của nhân dân ta, Luật THADS không cho phép kê
biên đối với “đồ dùng thờ cúng thông thường theo tập quán ở địa phương”. Như
vậy, có thể hiểu đồ dùng thờ cúng này phải theo tập qn địa phương thì mới
khơng bị kê biên, cịn nếu như đồ thờ cúng có giá trị lớn do gia đình tự tín
ngưỡng thì vẫn bị kê biên để THA. Đồng thời, nhằm để duy trì cuộc sống hiện
tại và tương lai của người phải THA, CHV cũng không được kê biên “công cụ
lao động cần thiết, có giá trị khơng lớn được dùng làm phương tiện sinh sống
chủ yếu hoặc duy nhất của người phải THA và gia đình; Đồ dùng sinh hoạt cần
thiết cho người phải THA và gia đình”. Cơng cụ lao động cần thiết không được
kê biên ở đây cần được hiểu là công cụ lao động thông thường cần thiết được
dùng làm phương tiện sinh sống chủ yếu hoặc duy nhất của người phải THA và
gia đình, có giá trị nhỏ như cày, bừa, xe đạp,…; những công cụ lao động có giá
trị lớn như xe ơ tơ, xe máy thì vẫn được kê biên, bán đấu giá để THA.
Đối với người phải THA là doanh nghiệp, hợp tác xã, cơ sở sản xuất,
kinh doanh, dịch vụ, luật cũng quy định một số tài sản không được kê biên theo
quy định tại Khoản 3 Điều 87 nhằm đảm bảo cho hoạt động sản xuất, kinh doanh



14

được diễn ra bình thường, bảo vệ quyền lợi của cán bộ, cơng nhân làm việc trong
doanh nghiệp có cuộc sống ổn định.
Trình tự, thủ tục kê biên tài sản
Kê biên tài sản là một biện pháp cưỡng chế THA, được áp dụng trong
trường hợp người được THA không tự nguyện THA mặc dù họ có điều kiện để
THA. Tuy nhiên, do ảnh hưởng lớn đến quan hệ xã hội của người phải THA nên
việc áp dụng biện pháp này phải theo một trình tự thủ tục chặt chẽ. Trước khi áp
dụng phải trải qua các thủ tục chung của cơng tác THA. CHV chỉ có thể ra QĐ
kê biên tài sản sau khi có kết quả xác minh về tài sản của người phải THA.
1.2.2.1. Ra quyết định kê biên tài sản và thông báo việc kê biên tài
sản
Thẩm quyền ra QĐ kê biên tài sản thuộc vào CHV được phân công tổ
chức vụ việc theo quy định tại Khoản 5 Điều 20 Luật THADS năm 2008 được
sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Thời điểm ra quyết định kê biên tài sản theo Điều 46 Luật THADS năm
2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 thì “hết thời hạn quy định tại khoản 1
Điều 45 của Luật này, người phải THA có điều kiện THA mà khơng tự nguyện
THA thì bị cưỡng chế”, Khoản 1 Điều 45 luật này quy định “thời hạn tự nguyện
THA là 10 ngày, kể từ ngày người phải THA nhận được QĐTHA hoặc được
thông báo hợp lệ QĐTHA”, cũng theo Khoản 6, Điều 3 thì “có điều kiện THA là
trường hợp người phải THA có tài sản, thu nhập để thi hành nghĩa vụ về tài sản;
tự mình hoặc thơng qua người khác thực hiện nghĩa vụ THA”. Như vậy, sau khi
hết thời hạn tự nguyện THA mà người phải THA không thực hiện nghĩa vụ của
mình thì người có thẩm quyền THA mới ra QĐ cưỡng chế THA và điều kiện để
ra QĐ cưỡng chế kê biên tài sản là khi người phải THA được xác định có tài sản


15


để THA. Đối với trường hợp mà BA, QĐ tuyên kê biên để bảo đảm THA thì
CHV xử lý tài sản đó theo quy định tại Điều 98, 99, 100, 101 Luật THADS mà
không cần ra quyết định kê biên tài sản đó6.
Về nguyên tắc khi một người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế kê biên tài
sản thì CHV phải kê biên tài sản thuộc sở hữu riêng của người này trước, khi
không đủ mới tiến hành kê biên tài sản thuộc sở hữu của người này trong khối tài
sản chung của người khác. Nhằm cụ thể hóa quy định của Bộ luật dân sự về tài
sản chung và để giải quyết vướng mắc trong các trường hợp xác định đương sự
có tài sản chung nhưng tài sản chung không xác định được hoặc các bên không
thỏa thuận được về phần sở hữu của người phải thi hành án, tại Điều 74 Luật
THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định các trường hợp xác
định, phân chia, xử lý tài sản chung để THA và được hướng dẫn thực hiện cụ thể
tại Khoản 2, Điều 24 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18/7/2015 của Chính
phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án
dân sự (gọi tắt là Nghị định số 62/2015/NĐ-CP).
Đối với việc kê biên nhà ở là nơi ở duy nhất của người phải THA và gia
đình chỉ được thực hiện sau khi xác định người đó khơng cịn tài sản khác hoặc
có nhưng khơng đủ để THA, trừ trường hợp người phải THA đồng ý kê biên nhà
ở để THA. Đối với tài sản kê biên là quyền sử dụng đất, tài sản phải đăng ký
quyền sở hữu hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định của pháp luật thì
trước khi kê biên CHV phải yêu cầu cơ quan đăng ký cung cấp thông tin về tài
sản, giao dịch đã đăng ký7.

6

7

Khoản 3, Điều 70 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014
Điều 89, 95 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.



16

CHV có nhiệm vụ thơng báo cho những chủ thể liên quan biết về việc ra
QĐ kê biên trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày ra QĐ trừ trường hợp cần
ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy hoại, trốn tránh việc THA. Đồng thời, QĐ kê
biên này phải được gửi cho các cơ quan có liên quan như Viện kiểm sát, Ủy ban
nhân dân xã, phường, thị trấn,... để thực hiện chức năng do Nhà nước quy định.
Việc gửi QĐ và thông báo về việc kê biên được thực hiện theo Điều 38, 39 Luật
THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Đồng thời, để tiến hành kê
biên tài sản là bất động sản của người phải THA, CHV phải ra thông báo cưỡng
chế trước ngày ấn định kê biên ít nhất 03 ngày làm việc theo quy định tại Điều
88 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.
1.2.2.2. Xây dựng kế hoạch kê biên tài sản
Sau khi ban hành QĐ cưỡng chế kê biên tài sản, CHV phải xây dựng kế
hoạch cưỡng chế theo quy định tại Điều 72, 73 Luật THADS năm 2008 được sửa
đổi, bổ sung năm 2014; Thông tư liên tịch số 03/2012/TTLT-BTP-BCA ngày
30/3/2012 của Bộ Tư pháp, Bộ Công an quy định cụ thể việc phối hợp bảo vệ
cưỡng chế trong THADS; Thông tư số 200/2016/TT-BTC ngày 09 tháng 11 năm
2016 của Bộ Tài chính quy định việc lập, quản lý, sử dụng và quyết tốn kinh
phí bảo đảm hoạt động của cơ quan THADS, kinh phí cưỡng chế THA; Thông tư
số 01/2016/TT-BTP ngày 01 tháng 02 năm 2016 của Bộ tư pháp hướng dẫn thực
hiện một số thủ tục về quản lý hành chính và biểu mẫu nghiệp vụ trong THADS.
Theo đó, việc xây dựng kế hoạch cưỡng chế được thực hiện như sau:
Trước thời điểm ban hành kế hoạch cưỡng chế ít nhất 10 ngày, Thủ
trưởng cơ quan THADS phải cung cấp thông tin, trao đổi với cơ quan Công an
cùng cấp và các cơ quan, tổ chức có liên quan về các nội dung, yêu cầu cụ thể
của vụ việc cưỡng chế có huy động lực lượng tham gia bảo vệ. Trong thời hạn



17

03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được thông tin trao đổi ý kiến, Thủ trưởng cơ
quan Công an phải trả lời về các nội dung đề nghị phối hợp bảo vệ cưỡng chế
của cơ quan THADS cùng cấp. Trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày tổ
chức cuộc họp thống nhất ý kiến vào dự thảo kế hoạch cưỡng chế, CHV phải
hoàn chỉnh kế hoạch cưỡng chế bao gồm các nội dung quy định tại Khoản 2
Điều 72 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Kế hoạch
cưỡng chế phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát, cơ quan Công an cùng cấp, Uỷ
ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế và cơ quan, tổ chức có liên quan đến
việc cưỡng chế THA.
1.2.2.3. Thực hiện việc kê biên
Trước khi kê biên tài sản là bất động sản ít nhất là 03 ngày làm việc,
CHV thơng báo cho đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ
chức cưỡng chế, đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan về thời gian,
địa điểm, tài sản kê biên, trừ trường hợp cần ngăn chặn đương sự tẩu tán, hủy
hoại tài sản, trốn tránh việc thi hành án8.
CHV không được tổ chức cưỡng chế kê biên tài sản trong thời gian mà
pháp luật quy định không được cưỡng chế THA, cụ thể khơng tổ chức cưỡng chế
THA có huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên
Đán; các ngày truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người
phải THA; các trường hợp đặc biệt khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh,
chính trị, trật tự an tồn xã hội, phong tục, tập quán tại địa phương9.
Trường hợp đương sự vắng mặt thì có thể ủy quyền cho người khác thực
hiện các quyền, nghĩa vụ của mình. Trường hợp đã được thông báo hợp lệ mà
8

Khoản 1, Điều 88 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.


9

Khoản 2 Điều 13 Nghị định 62/2015/NĐ-CP


18

đương sự hoặc người được ủy quyền vắng mặt thì CHV vẫn tiến hành việc kê
biên, nhưng phải mời người làm chứng và ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên.
Trường hợp khơng mời được người làm chứng thì CHV vẫn tiến hành việc kê
biên nhưng phải ghi rõ vào nội dung biên bản kê biên. Khi kê biên đồ vật, nhà ở,
cơng trình kiến trúc nếu vắng mặt người phải THA hoặc người đang quản lý, sử
dụng tài sản đó mà phải mở khóa, phá khóa, mở gói thì CHV thực hiện theo quy
định tại Điều 93 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Việc
kê biên tài sản phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ giờ, ngày, tháng, năm kê
biên, họ, tên Chấp hành viên, đương sự hoặc người được ủy quyền, người lập
biên bản, người làm chứng và người có liên quan đến tài sản; diễn biến của việc
kê biên; mô tả tình trạng từng tài sản, yêu cầu của đương sự và ý kiến của người
làm chứng. Biên bản kê biên có chữ ký của đương sự hoặc người được ủy quyền,
người làm chứng, đại diện chính quyền cấp xã hoặc đại diện tổ dân phố nơi tổ
chức cưỡng chế, CHV và người lập biên bản10.
3 Định giá tài sản kê biên
Theo quy định tại khoản 5, Điều 4 Luật giá năm 2012 thì: “Định giá là
việc cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh
doanh quy định giá cho hàng hóa, dịch vụ”. Trong THADS định giá tài sản là
một khâu quan trọng trong quy trình cưỡng chế kê biên, xử lý tài sản để THA.
Việc định giá tài sản kê biên nhằm mục đích xác định giá khởi điểm để bán đấu
giá, thi hành nghĩa vụ trả tiền của người phải THA. Định giá tài sản kê biên, bán
đấu giá để giải quyết việc thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 98
Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014. Theo quy định này, có

ba hình thức để xác định giá khởi điểm của tài sản kê biên, gồm: Các bên đương
10

Điều 88 Luật THADS năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014.


19

sự thỏa thuận với nhau ngay khi kê biên tài sản; Thông qua tổ chức thẩm định
giá do các bên đương sự thỏa thuận lựa chọn hoặc do CHV chọn; CHV xác định
giá khởi điểm.
Tuân thủ nguyên tắc tự định đoạt và có quyền tự thỏa thuận của các
đương sự luật đã quy định về quyền được thỏa thuận về giá khởi điểm tài sản
ngay khi kê biên tài sản. Đây là hình thức đầu tiên để xác định giá tài sản kê biên
và cũng là hình thức hữu hiệu nhất cho việc xử lý tài sản để THA, không tốn chi
phí và thời gian thẩm định giá, tránh được khiếu nại về giá tài sản cũng như sẽ
thuận lợi hơn khi giao tài sản cho người trúng đấu giá. CHV phải ghi nhận sự
thỏa thuận của các đương sự về giá trị tài sản đã kê biên và lấy làm giá khởi
điểm để bán đấu giá.
Trường hợp các đương sự khơng tự thỏa thuận được về giá thì việc định
giá tài sản kê biên sẽ được thực hiện thông qua tổ chức thẩm định giá . Việc định
giá tài sản kê biên thông qua tổ chức thẩm định giá là điểm mới so với Pháp lệnh
THADS năm 2004, tổ chức thẩm định giá là sự thay thế cho Hội đồng định giá
trước đây. Theo quy định tại Khoản 15 Điều 4 Luật Giá năm 2012 thì: “Thẩm
định giá là việc cơ quan, tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá trị
bằng tiền của các loại tài sản theo quy định của Bộ luật dân sự phù hợp với giá
thị trường tại một địa điểm, thời điểm nhất định, phục vụ cho mục đích nhất định
theo tiêu chuẩn thẩm định giá”. Theo đó, tổ chức thẩm định giá là các doanh
nghiệp có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật về giá để thực hiện chức
năng thẩm định giá. Như vậy, việc định giá tài sản kê biên được thực hiện thông

qua tổ chức thẩm định giá thể hiện được tính chuyên nghiệp, độc lập và đảm bảo
tính khách quan hơn so với Hội đồng định giá trước đây trong việc định giá tài
sản. Các đương sự được quyền thỏa thuận lựa chọn tổ chức thẩm định giá trong


×