Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo luật thương mại việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (892.18 KB, 84 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ NGỌC THIỆN

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THEO
LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

NGUYỄN THỊ NGỌC THIỆN

BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO VI PHẠM HỢP ĐỒNG THEO
LUẬT THƢƠNG MẠI VIỆT NAM

Ngành: LUẬT KINH TẾ
Mã số: 60 38 01 07

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT

NGƢỜI HƢỚNG D N KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HẢI AN

TP. HỒ CHÍ MINH – 2019



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc
rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả

Nguyễn Thị Ngọc Thiện


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ ĐƢỢC VIẾT TẮT

BLDS

Bộ luật Dân sự

BTTH

Bồi thường thiệt hại

LTM

Luật Thương mại


1


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Pháp luật về chế định hợp đồng ở nước ta có q trình phát triển qua từng giai
đoạn lịch sử, phù hợp với hồn cảnh kinh tế, chính trị, xã hội. Nền kinh tế kế hoạch
hóa, tập trung quan liêu bao cấp tồn tại và phát triển trong một thời gian dài của giai
đoạn quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Mọi hoạt động của các tổ chức kinh
tế trong giai đoạn này phải tuân theo kế hoạch, chỉ tiêu mà Nhà nước ấn định. Nhận
thấy sự bất cập, hạn chế của nền kinh tế kế hoạch hóa, quan liêu bao cấp, Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng năm 1986 đã thổi một làn gió mới vào tư
duy kinh tế, Đảng chủ trương xóa bỏ cơ chế quản lý kinh tế quan liêu bao cấp cũ,
xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường
với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Dưới sức ép của
nền kinh tế thị trường, đặc biệt là sau khi gia nhập WTO thì các quan hệ kinh tế
ngày một phát triển mạnh mẽ, buộc các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế phải thích
nghi với điều kiện mới, đẩy mạnh các hoạt động giao kết hợp đồng đảm bảo sức
cạnh tranh, tạo được chỗ đứng, vị trí vững chắc trên thị trường. Mỗi ngày các doanh
nghiệp phải giao kết rất nhiều loại hợp đồng với nhiều nội dung và ràng buộc trách
nhiệm pháp lý khác nhau, được tự do thỏa thuận, thống nhất ý chí một cách tự
nguyện, bình đẳng để cùng nhau tìm kiếm lợi nhuận và đạt được các mục tiêu kinh
doanh. Đáp ứng nhu cầu thực tiễn, Nhà nước đã ban hành các quy định pháp luật cụ
thể để điều chỉnh các quan hệ hợp đồng, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Tuy
nhiên, xã hội ngày càng phát triển, các nội dung trong hợp đồng được ký kết giữa
các bên ngày một đa dạng, phong phú, phức tạp trong khi các quy định pháp luật
cịn nhiều hạn chế, bất cập, khơng kịp sửa đổi, bổ sung để phù hợp với thực tiễn,
dẫn đến việc giải quyết các tranh chấp hợp đồng, đặc biệt là bồi thường thiệt hại cịn
khó khăn khi thực hiện. Về mặt kinh tế xã hội, BTTH được xem là một trách nhiệm
pháp lý ràng buộc bên vi phạm và bù đắp thiệt hại một phần hoặc toàn bộ cho bên
bị vi phạm. Do vậy, việc nghiên cứu những vấn đề xung quanh chế định BTTH như



2

căn cứ áp dụng, thỏa thuận mức BTTH, sự khác nhau giữa BTTH và phạt vi phạm
vẫn tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện về cơ sở pháp lý để áp dụng trên thực tế.
Xét về khung pháp lý, hiện nay những quy định về BTTH, phạt vi phạm cũng
như các căn cứ để yêu cầu miễn trách nhiệm BTTH trong hợp đồng có sự khác
nhau, chưa thống nhất giữa Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại.
Bên cạnh đó, thực tiễn xét xử có liên quan đến vấn đề BTTH trong hợp đồng
cũng tồn tại nhiều bất cập, gây lúng túng cho các cơ quan tiến hành tố tụng như quy
định về thỏa thuận, ấn định mức BTTH, xác định các loại thiệt hại được bồi thường,
các căn cứ áp dụng có sự khác nhau giữa BLDS 2015, LTM và Cơng ước Viên
1980, có nên xem xét cho phép các bên được ấn định một mức BTTH trước khi ký
kết hợp đồng hay không và khi xảy ra tranh chấp thỏa thuận như thế nào sẽ có hiệu
lực là một vấn đề cần lưu tâm. Ngoài ra, việc xác định khoản tiền phạt là BTTH hay
phạt vi phạm cũng là một nội dung cần phải xác định rõ khi áp dụng. Các nội dung
về điều kiện áp dụng và căn cứ để yêu cầu miễn trách nhiệm BTTH giữa BLDS và
LTM hiện nay cũng chưa có sự thống nhất, còn hạn chế về cơ sở áp dụng. Cụ thể về
căn cứ miễn trách nhiệm do xảy ra sự kiện bất khả kháng, như thế nào để công nhận
một sự kiện là sự kiện bất khả kháng hay xác định ra sao đối với việc áp dụng căn
cứ miễn trách nhiệm BTTH do lỗi của bên có quyền. Do vậy trong một số trường
hợp tranh chấp xảy ra kéo dài, giải quyết qua nhiều cấp nhưng không thành bởi do
có nhiều nhận thức khác nhau về vấn đề này. Đây cũng là một trong những vấn đề
cần phải nghiên cứu để hoàn thiện khung pháp lý khi áp dụng trên thực tế.
Từ các bất cập liên quan đến chế định này về lý luận cũng như thực tiễn áp
dụng, nhu cầu nghiên cứu, tìm hiểu về chế định BTTH trong hợp đồng thương mại
ngày càng trở nên bức thiết nhằm ổn định các quan hệ hợp đồng, đảm bảo hoạt
động có hiệu quả và để thuận tiện, dễ dàng hơn trong việc giải quyết các tranh chấp
xảy ra giữa các bên trong hợp đồng, hoàn thiện pháp luật Việt Nam về BTTH, tác
giả quyết định chọn nghiên cứu đề tài “Bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng

theo Luật Thƣơng mại Việt Nam” làm đề tài tốt nghiệp luận văn của mình.


3

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Chế tài BTTH là một chế tài thông dụng, áp dụng phổ biến trong quan hệ hợp
đồng. Tuy nhiên, các quy định pháp luật có liên quan đến BTTH để tạo hành lang
pháp lý vững chắc cho cơ quan xét xử áp dụng thì lại tồn tại nhiều hạn chế, thiếu
sót. Do vậy, việc nghiên cứu về các quy định pháp luật liên quan đến hợp đồng nói
chung và chế định về BTTH do vi phạm hợp đồng theo LTM Việt Nam nói riêng đã
được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu ở các giai đoạn với các nội dung, khía cạnh
khác nhau. Qua việc tìm tịi và chọn lọc các tài liệu có liên quan đến đề tài, tác giả
nhận thấy hầu hết các cơng trình nghiên cứu theo hướng giới thiệu những quy định
chung về hợp đồng, vấn đề lý luận, cơ sở pháp lý giữa các văn bản pháp luật và
thực tiễn áp dụng hay bình luận dựa trên những bản án đã xảy ra trên thực tế, từ đó
nêu lên các bất cập và đề xuất hướng hồn thiện, có thể kể đến một số cơng trình
nghiên cứu sau:
Cơng trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh với tên gọi: “Chế định
hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam”, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2007. Đây là
một tác phẩm giúp cho người đọc có thêm kiến thức, có cái nhìn tổng qt về hợp
đồng theo pháp luật Việt Nam. Nội dung sách đề cập đến các nội dung như khái
niệm, đặc điểm, phân loại hợp đồng, thời điểm giao kết, có hiệu lực của hợp đồng,
điều kiện về giao kết, căn cứ phát sinh hiệu lực, các trách nhiệm pháp lý phát sinh
khi có tranh chấp xảy ra, phân tích các loại trách nhiệm nêu lên bất cập, hạn chế và
đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu tập trung vào
hợp đồng chung chứ chưa tập trung nhiều đến chế định BTTH.
Nói đến cơng trình nghiên cứu về hợp đồng nói chung thì cịn một cơng trình
nghiên cứu khác của tác giả Ngơ Huy Cương với nội dung: “Giáo trình luật hợp
đồng Việt Nam – Phần chung”, nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2013.

Hợp đồng là một phương tiện quan trọng để tạo lập nên đời sống của con người,
giúp con người đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của mình thơng qua việc trao
đổi các sản phẩm, dịch vụ và các lợi ích khác. Pháp luật hợp đồng của Việt Nam
thiếu nhiều quy định cụ thể gây khó khăn khơng nhỏ cho thực tiễn. Do vậy, tác


4

phẩm đã hướng tới xây dựng một tư duy pháp lý có tính cách nền tảng cho người
học để trên cơ sở đó góp phần xây dựng và hồn thiện pháp luật về hợp đồng và cải
cách tư pháp ở Việt Nam. Giáo trình bao gồm 9 chương (nghiên cứu về các nội
dung như Khái niệm hợp đồng; Tự do ý chí – cơ sở triết học của hợp đồng; Nghĩa
vụ; Chức năng, đặc điểm của hợp đồng; các nguyên tắc cơ bản; Phân loại; Giao kết;
Hợp đồng vô hiệu và Hiệu lực của hợp đồng), cung cấp các kiến thức chun sâu,
giúp người đọc có cái nhìn đa chiều và thấy được bức tranh toàn cảnh của luật hợp
đồng nói chung từ quá khứ cho tới hiện tại và phần nào mường tượng được bức
tranh đó trong tương lai. Tuy nhiên, nội dung nghiên cứu cũng chỉ tập trung về hợp
đồng chứ chưa đề cập nhiều đến trách nhiệm pháp lý, mà cụ thể là BTTH.
Một cơng trình nghiên cứu khác có liên quan phải kể đến là tác phẩm “Luật
Hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 1 (2013) và tập 2 (2014),
của tác giả Đỗ Văn Đại, nhà xuất bản Chính trị. Trong hai tác phẩm này, tác giả đã
tuyển chọn, trích dẫn những bản án có tính điển hình, tập trung phân tích, bình luận
về các vấn đề pháp lý cơ bản của pháp luật hợp đồng Việt Nam, có so sánh, tham
chiếu với những nội dung tương ứng của pháp luật quốc tế và pháp luật nhiều quốc
gia khác, đặc biệt là Bộ nguyên tắc Châu Âu về BTTH. Từ cơ sở lý luận và thực
tiễn, tác giả đã đưa đánh giá, kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật BTTH ở Việt
Nam trên một số nội dung.
Liên quan đến hợp đồng mang tính chất quốc tế, tác giả Nguyễn Văn Luyện,
Lê Thị Bích Thọ và Dương Anh Sơn trong tác phẩm “Giáo trình Luật Hợp đồng
Thương mại quốc tế”, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh năm

2016 là một cơng trình nghiên cứu điển hình. Tác phẩm bao gồm 10 chương được
chia thành hai phần: Phần thứ nhất (từ chương 1 đến chương 5) đề cập đến những
vấn đề chung của hợp đồng thương mại quốc tế như vấn đề khái niệm, đặc điểm, ký
kết, thực hiện, giải quyết tranh chấp hợp đồng và phần thứ hai (từ chương 6 đến
chương 10) phân tích, so sánh các quy định pháp luật của các nước khác nhau về
một số hợp đồng được sử dụng phổ biến trong thương mại quốc tế. Tác phẩm phục
vụ cho việc tìm hiểu quy định pháp luật cơ bản (như khái niệm, nội dung, thời điểm


5

có hiệu lực, thời điểm chuyển rủi ro, quyền và nghĩa vụ của các bên, trách nhiệm
dân sự phát sinh…) về một số hợp đồng thông dụng trong thương mại quốc tế.
Nhìn chung, việc nghiên cứu về chế định hợp đồng theo pháp luật Việt Nam là
một nội dung quan trọng và cần thiết, được nhiều tác giả lựa chọn nghiên cứu. Tuy
nhiên, xuất phát là một chế tài phổ biến, được sử dụng rộng rãi trong giao kết hợp
đồng thì BTTH cũng là một nội dung rất đặc trưng, tồn tại nhiều bất cập, hạn chế và
cũng được nhiều tác giả nghiên cứu, bình luận. Bên cạnh những cơng trình nghiên
cứu đồ sộ trên, thì cịn khá nhiều bài viết có liên quan đề cập đến BTTH, cụ thể như
sau:
Tác giả Phạm Thanh Bình với bài viết: “Về chế định miễn trừ trách nhiệm
trong hợp đồng”, đăng trên tạp chí Nghiên cứu luật pháp số 02 năm 2009 bàn về sự
khác nhau giữa BLDS năm 2005 và LTM 2005 về các trường hợp miễn trách nhiệm
BTTH, tác giả cũng phân tích một số trường hợp miễn trách nhiệm và đưa ra một số
thiếu sót, hạn chế của pháp luật Việt Nam khi áp dụng trên thực tế. Chẳng hạn như
miễn trách nhiệm do xảy ra sự kiện bất khả kháng, do các bên thỏa thuận hay do hai
bên cùng có lỗi. Bài viết cũng đã cung cấp thơng tin mang tính chất tham khảo về
hạn chế của một số căn cứ miễn trách nhiệm BTTH.
Bài viết “Một số quy định về vi phạm nghĩa vụ trong hợp đồng theo pháp luật
Việt Nam – so sánh với pháp luật Nhật Bản” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Nhung

đăng trên tạp chí Cơng thương năm 2017, bàn về khái niệm vi phạm hợp đồng cơ
bản, một số biện pháp chế tài chủ yếu cho việc vi phạm hợp đồng, từ đó có sự so
sánh, đối chiếu với pháp luật Nhật Bản. Chẳng hạn bàn về khái niệm BTTH theo
pháp luật Việt Nam và pháp luật Nhật Bản là giống nhau đều xuất phát từ vi phạm
nghĩa vụ hợp đồng của một bên làm phát sinh thiệt hại cho bên kia thì bên gây thiệt
hại phải có trách nhiệm bồi thường. Hay theo Điều 302 LTM 2005 quy định giá trị
BTTH bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp và các khoản lợi đáng lẽ được
hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm, cịn theo pháp luật Nhật Bản thì việc yêu cầu
bồi thường được căn cứ trên thiệt hại phát sinh một cách bình thường từ việc vi
phạm hợp đồng hoặc có thể yêu cầu bồi thường trong bất kỳ trường hợp tổn thất đặc


6

biệt nào nếu bên có nghĩa vụ thấy trước được hoặc có thể thấy trước được. Như vậy,
pháp luật Nhật Bản không kể ra các loại thiệt hại được quyền yêu cầu bồi thường
theo pháp luật Việt Nam mà phụ thuộc vào cách chứng minh thiệt hại của người yêu
cầu. Bài viết cũng cho thấy điểm khác biệt về chế định BTTH giữa pháp luật Việt
Nam và pháp luật Nhật Bản.
Nghiên cứu về trách nhiệm dân sự BTTH trong hợp đồng đã được nhiều quốc
gia nghiên cứu. Ở Việt Nam cũng có nhiều cơng trình nghiên cứu, nhiều bài viết
bình luận về chế định BTTH theo pháp luật Việt Nam, tuy nhiên chưa có cơng trình
cụ thể nào nghiên cứu về BTTH do vi phạm hợp đồng theo LTM Việt Nam và cũng
cần làm sáng tỏ sự khác nhau giữa BLDS và LTM để áp dụng chế tài BTTH cho
phù hợp với thông lệ quốc tế. Do vậy việc nghiên cứu đề tài mang ý nghĩa thiết
thực, đáp ứng nhu cầu thực tiễn.
3. Mục tiêu và phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở các cơng trình nghiên cứu, các bài viết đã bình luận và cơng bố
trước đây, mục tiêu của đề tài là tập trung nghiên cứu những vấn đề lý luận chung,
phân tích, đánh giá các quy định và việc thực thi pháp luật về chế định BTTH do vi

phạm hợp đồng theo LTM Việt Nam, một số hạn chế, bất cập áp dụng trên thực tế
trong quá trình triển khai, thực hiện.
Luận văn chủ yếu tập trung nghiên cứu các quy định về BTTH do vi phạm
hợp đồng trong BLDS 2005, LTM 2005 và có sự so sánh với BLDS 2015, đề tài tập
trung nghiên cứu các vấn đề sau: Thứ nhất, phân tích các vấn đề lý luận về trách
nhiệm BTTH trong hợp đồng thương mại góp phần cho việc nghiên cứu pháp luật
và áp dụng trên thực tiễn. Thứ hai, nghiên cứu, đánh giá các quy định pháp luật hiện
hành về chế tài BTTH, sự khác nhau giữa các văn bản pháp luật hiện hành như
BLDS và LTM, so sánh với quy định pháp luật của một số nước tiên tiến trên thế
giới nhằm mục đích làm cơ sở đánh giá những điểm bất cập, hạn chế và khai thác
thêm một số quan điểm thực tiễn thông qua các bản án, quyết định xét xử của cơ
quan tiến hành tố tụng. Qua đó, luận văn đề ra một số giải pháp hoàn thiện quy định
pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại nhằm nâng cao hiệu quả giao


7

kết hợp đồng giữa các doanh nghiệp, trách nhiệm và nghĩa vụ thực hiện các điều
khoản trong hợp đồng, hạn chế thấp nhất các tranh chấp, khiếu kiện xảy ra và đảm
bảo lợi ích chung cho các bên, cho tồn xã hội cũng như đạt mục tiêu về nâng cao
khả năng cạnh tranh trên thị trường, phát triển kinh tế xã hội, phù hợp với pháp luật
quốc tế.
4. Đối tƣợng và phƣơng pháp nghiên cứu
Hợp đồng là văn bản pháp lý thiết yếu cho các hoạt động trong đời sống và
đặc biệt trong hoạt động thương mại của mỗi doanh nghiệp. Đó là các hoạt động
nhằm mục đích sinh lợi bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc
tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác do thương nhân thực
hiện và được điều chỉnh bởi LTM 2005. Các vấn đề liên quan đến chế định hợp
đồng có thể bao gồm căn cứ phát sinh, giao kết, thực hiện hợp đồng, thời điểm
chuyển rủi ro, quyền và nghĩa vụ của các bên, giải quyết tranh chấp… Với rất nhiều

nội dung liên quan đến hợp đồng, trong phạm vi nghiên cứu của Luận văn Thạc sỹ,
tác giả chỉ tập trung nghiên cứu đến chế tài BTTH trong hợp đồng thương mại.
Phạm vi đề tài khai thác những đặc trưng cơ bản của BTTH, những hạn chế, thiếu
sót và bất cập khi áp dụng chế tài này giải quyết các tranh chấp phát sinh trên thực
tế, từ đó đưa ra những góp ý góp phần hoàn thiện pháp luật. Tác giả nghiên cứu các
văn bản pháp luật có liên quan như BLDS năm 2005, BLDS năm 2015, LTM năm
1997, LTM năm 2005, Công ước Viên 1980 và các văn bản pháp lý khác có sự so
sánh với hệ thống luật các nước tiên tiến trên thế giới, đồng thời nghiên cứu, tham
khảo thêm các bản án, quyết định của Tòa án từ thực tiễn xét xử nhằm làm sáng tỏ
vấn đề cần nghiên cứu.
Để thực hiện bài luận văn này, tác giả dựa trên các phương pháp phổ biến:
- Phương pháp lý luận chủ nghĩa duy vật biện chứng, các quan điểm, chủ
trương của Đảng về chính sách đối mới, xây dựng nền kinh tế hàng hòa nhiều thành
phần với sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các chính
sách, quy định pháp luật về BTTH do vi phạm hợp đồng trong những năm qua.
Ngồi ra tác giả cịn sử dụng phương pháp lịch sử góp phần làm rõ những thay đổi


8

trong quy định pháp luật và quan điểm lập pháp trong từng thời kỳ, giai đoạn lịch sử
cụ thể để nghiên cứu kỹ hơn đối với tiến trình phát triển của chế định BTTH.
- Trong quá trình nghiên cứu, tác giả cũng kết hợp sử dụng các phương pháp
nghiên cứu lý thuyết, tổng hợp từ các cơng trình nghiên cứu, các bài viết và tài liệu
có liên quan đến pháp luật về chế định BTTH do vi phạm hợp đồng.
- Phương pháp so sánh - đối chiếu giữa quy định pháp luật và việc thực thi các
quy định về BTTH do vi phạm hợp đồng để giải quyết các tranh chấp do vi phạm
hợp đồng thương mại, so sánh những quy định của BLDS năm 2005, BLDS năm
2015 và LTM năm 2005 trong bối cảnh Việt Nam đang trên con đường hội nhập
phát triển kinh tế, góp phần cụ thể hóa, làm rõ hơn nội dung BTTH do vi phạm hợp

đồng theo LTM Việt Nam.
5. Kết quả nghiên cứu dự kiến
- Luận văn góp phần làm rõ hơn những hạn chế, bất cập, khó khăn trong việc
áp dụng pháp luật để giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp có liên quan đến BTTH
do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại.
- Luận văn kiến nghị một số giải pháp để hồn thiện văn bản pháp luật có liên
quan nhằm nâng cao hiệu quả giao kết, hợp tác của các doanh nghiệp, một số
phương án để giải quyết các tranh chấp về BTTH do vi phạm hợp đồng, đảm bảo
bảo vệ quyền và lợi ích chung của các bên tham gia giao kết, nâng cao khả năng
cạnh tranh, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, phát triển bền vững nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
6. Bố cục của luận văn
Luận văn gồm có 03 chương:
- Chương 1: Lý luận về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng.
- Chương 2: Thực trạng pháp luật về bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo
Luật Thương mại.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật về bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo Luật Thương mại năm 2005.


9

CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN VỀ BỒI THƢỜNG THIỆT HẠI DO
VI PHẠM HỢP ĐỒNG
1.1 Khái niệm, đặc điểm, vai trò của chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi
phạm hợp đồng
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp
đồng
Khái niệm của chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng

Trách nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là một hình thức chế tài do Nhà
nước quy định để áp dụng đối với các hành vi không thực hiện các nghĩa vụ đã thỏa
thuận trong hợp đồng, vi phạm các quyền, lợi ích và nghĩa vụ của các bên. Trách
nhiệm dân sự do vi phạm hợp đồng là trách nhiệm của chủ thể trong hợp đồng
không thực hiện, thực hiện không đúng, không đầy đủ các quyền và nghĩa vụ phát
sinh trong hợp đồng mà gây thiệt hại cho bên kia thì phải tiếp tục thực hiện hợp
đồng, BTTH hoặc phải chịu phạt vi phạm và những bất lợi khác, bên bị xâm phạm
có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng hoặc hủy bỏ hợp đồng và được
yêu cầu BTTH.
Hầu hết các nước trên thế giới quy định các hình thức trách nhiệm trong hợp
đồng bao gồm BTTH và phạt vi phạm. Hiện nay, pháp luật Việt Nam có sự khác
biệt giữa quy định của BLDS 2015 và LTM 2005. Theo BLDS quy định hai hình
thức trách nhiệm trong hợp đồng là BTTH và phạt vi phạm, còn theo Điều 292
LTM 2005 quy định các hình thức chế tài trong thương mại bao gồm: Buộc thực
hiện đúng hợp đồng; Phạt vi phạm; Buộc bồi thường thiệt hại; Tạm ngừng thực
hiện hợp đồng; Đình chỉ thực hiện hợp đồng; Hủy bỏ hợp đồng và các biện pháp
khác do các bên thỏa thuận không trái với nguyên tắc cơ bản của pháp luật Việt
Nam, điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên và
tập quán thương mại quốc tế 1.

1

Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.


10

Trong các hình thức kể trên thì hình thức BTTH được áp dụng rộng rãi, phổ
biến nhưng cũng là một chế tài phức tạp nhất khi áp dụng trên thực tế2. Trách nhiệm
BTTH là một dạng trách nhiệm pháp lý, buộc chủ thể vi phạm pháp luật phải gánh

chịu những hậu quả bất lợi, bị áp dụng những biện pháp cưỡng chế được pháp luật
quy định3, dựa trên các căn cứ và cơ sở nhất định.
Chế tài là bộ phận xác định các hình thức trách nhiệm pháp lý khi có hành vi
vi phạm với những quy tắc xử sự chung được ghi trong phần quy định và giả định
của quy phạm pháp luật. Trong một quan hệ hợp đồng, chế tài được xem là các
quyền được pháp luật trao cho một bên hoặc bị ràng buộc bởi hợp đồng mà bên
được trao quyền có thể thi hành đối với bên đối tác khi có hành vi vi phạm hợp
đồng4. Khi một bên vi phạm nghĩa vụ sẽ gây thiệt hại và ảnh hưởng trực tiếp đến
quyền và lợi ích của bên kia, bên vi phạm phải có trách nhiệm bồi thường, bù đắp
những thiệt hại vật chất đủ để khơi phục lại tình trạng ban đầu trước khi xảy ra thiệt
hại và thỏa mãn những quyền lợi chính đáng mà bên kia đáng lẽ được hưởng khi
hợp đồng được thực hiện thành cơng. Hình thức BTTH được coi là phương pháp tối
ưu, áp dụng rộng rãi ở hầu hết các nước trên thế giới. Đơn cử theo Điều 1147 BLDS
Pháp quy định: “Người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại do không thực hiện hoặc
thực hiện chậm nghĩa vụ”; tại Điều 415 BLDS Nhật Bản quy định: “Người có
quyền có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu người có nghĩa vụ khơng thực hiện
nghĩa vụ phù hợp với tinh thần và mục đích của nó”; theo Cơng ước Viên 1980 và
Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế năm 2004 tại Điều 74 và
Điều 7.4.1 quy định: “Quyền bồi thường thiệt hại phát sinh ngay cả khi xảy ra vi
phạm bất kỳ một nghĩa vụ nào của hợp đồng”; trong hệ thống pháp luật Common
Law quy định: “Mọi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng đều là căn cứ phát sinh trách

2

Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình Luật Hợp đồng – Phần chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội
tr.398.
3
Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), Giáo trình lý luận nhà nước và pháp luật, Chủ biên: Lê Minh Tâm và
Nguyễn Minh Đoan, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, tr. 216.
4

Ngô Huy Cương (2013), tlđd (2), tr. 391.


11

nhiệm bồi thường thiệt hại”5. Và cuối cùng theo BLDS Việt Nam, trách nhiệm
BTTH là hình thức trách nhiệm chung và áp dụng phổ biến trong mọi trường hợp
không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nội dung trong hợp đồng mà gây thiệt
hại, ngay cả trong trường hợp bên có quyền bị vi phạm đã áp dụng các hình thức
khác để cứu vãn mức thiệt hại nhưng họ cũng không đương nhiên mất quyền yêu
cầu BTTH.
Căn cứ Khoản 1 Điều 229 LTM 2005 định nghĩa: “Bồi thường thiệt hại là
việc bên có quyền lợi bị vi phạm yêu cầu bên vi phạm trả tiền bồi thường thiệt hại
do vi phạm hợp đồng gây ra”6. Từ định nghĩa trên có thể hiểu BTTH do vi phạm
hợp đồng là một trách nhiệm pháp lý dân sự, được áp dụng với mục đích bù đắp
những tổn thất, thiệt hại thực tế mà bên vi phạm gây ra cho bên bị vi phạm, bên bị
vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm phải thanh tốn một khoản tiền do có sự vi
phạm hợp đồng xảy ra.
Đặc điểm của chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng
Là một hình thức chế tài thể hiện sự gánh chịu hậu quả bất lợi của bên có
hành vi vi phạm hợp đồng. Chế tài BTTH chứa đựng những đặc điểm nhất định:
Thứ nhất, cơ sở phát sinh chế tài BTTH phát sinh từ hành vi vi phạm hợp
đồng thương mại.
Trách nhiệm BTTH trong hợp đồng phát sinh do hành vi vi phạm hợp đồng
của một bên, bên có hành vi vi phạm mà gây thiệt hại thì phải BTTH cho phía bên
kia tương ứng với mức độ lỗi của mình. Đặc điểm của loại trách nhiệm này là giữa
hai bên (bên chịu trách nhiệm bồi thường và bên bị thiệt hại) tồn tại quan hệ hợp
đồng và thiệt hại phát sinh từ hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ hợp đồng7.


5

Nguyễn Ngọc Khánh (2007), Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam, Nxb Tư pháp, Hà Nội, tr.

298.
6

Luật Thương mại số 36/2005/QH11 ngày 14 tháng 6 năm 2005.
Đỗ Văn Đại (2016), Luật BTTH ngoài hợp đồng Việt Nam – Bản án và bình luận bản án, Tập 1, Nxb.
Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minhh tr. 29.
7


12

Pháp luật thương mại Việt Nam tôn trọng quyền tự do giao kết, quyết định
những vấn đề trong hợp đồng phù hợp với mục đích, khả năng kinh doanh của các
bên. Do vậy, khi hợp đồng bị vi phạm, trách nhiệm BTTH phát sinh và các bên bị
ràng buộc với nhau về quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm pháp lý. Tuy nhiên, hợp
đồng có hiệu lực pháp luật và vi phạm hợp đồng là điều kiện pháp lý để một bên có
quyền yêu cầu bên kia BTTH.
Thứ hai, chế tài BTTH do vi phạm hợp đồng thương mại là loại trách nhiệm
pháp lý mang tính tài sản.
Trách nhiệm pháp lý là nghĩa vụ phải gánh chịu những tước đoạt mang tính
chất nhân thân hay tài sản tương ứng với hành vi vi phạm gây ra, phù hợp với chế
tài của pháp luật. Theo S.S. ALÊCSEEV cho rằng: “Trách nhiệm pháp lý gắn liền
với vi phạm pháp luật, dẫn đến việc áp dụng những nghĩa vụ mới đối với vi phạm –
trừng phạt tước đoạt một số quyền khác, bắt thực hiện những nghĩa vụ bổ sung”8.
Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại được áp dụng khi có
hành vi vi phạm, buộc bên vi phạm phải gánh chịu những hậu quả bất lợi về tài sản.

Bên vi phạm phải dùng tiền (tài sản) thuộc quyền sở hữu của mình hoặc quyền sở
hữu của doanh nghiệp (tổ chức) để thực hiện các nghĩa vụ nộp phạt, BTTH và các
chi phí khác do vi phạm các giao kết trong hợp đồng. Trong khuôn khổ quy định
pháp luật, bên bị vi phạm được toàn quyền quyết định việc yêu cầu bên vi phạm
thực hiện một phần hay toàn bộ trách nhiệm tài sản đối với mình.
Thứ ba, chế tài BTTH áp dụng trực tiếp đối với bên vi phạm.
Khi có hành vi vi phạm hợp đồng, bên vi phạm phải trực tiếp chịu trách
nhiệm đối với bên bị vi phạm không phụ thuộc vào nguyên nhân vi phạm là do tổ
chức hay cá nhân nào gây ra. Trong đồng thương mại, các chủ thể thường có mối
liên hệ sâu chuỗi với nhau, ví dụ: X ký hợp đồng bán hàng hóa với Y, tuy nhiên Y
lại tiếp tục ký hợp đồng bán hàng hóa cho M, M lại bán cho N… Khi X vi phạm
hợp đồng sẽ kéo theo Y vi phạm hợp đồng với M, tiếp đó M sẽ lại tiếp tục vi phạm
hợp đồng với N…Tuy nhiên xảy ra vi phạm hợp đồng, chế tài thương mại được áp
8

S.S.ALÊCSEEV, Lý luận chung về chủ nghĩa xã hội, xuất bản lần thứ II – SVEDLOSK 1964


13

dụng trực tiếp với bên vi phạm. Đối chiếu ví dụ trên thì M sẽ phải chịu trách nhiệm
trực tiếp đối với N do có hành vi vi phạm hợp đồng mà không phải xét đến nguyên
nhân của vi phạm đó do X hay Y gây ra. Bên vi phạm phải dùng chính tài sản thuộc
quyền sở hữu của mình để nộp tiền phạt hoặc BTTH. Do vậy, khi truy cứu trách
nhiệm dân sự, bên bị vi phạm là chủ thể thụ hưởng sự bù đắp các thiệt hại mà bên vi
phạm đã gây ra.
Thứ tư, chủ thể có quyền lựa chọn và quyết định áp dụng chế tài do vi phạm
hợp đồng thương mại là bên bị vi phạm trong quan hệ hợp đồng.
Khi có vi phạm xảy ra, bên bị vi phạm có quyền yêu cầu bên vi phạm thực
hiện một hay nhiều hình thức chế tài theo sự thỏa thuận hay theo quy định của pháp

luật. Trường hợp yêu cầu không được đáp ứng, bên bị vi phạm có quyền u cầu
Tịa án hay Trọng tài bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Trong khn khổ
pháp luật, thương nhân bị vi phạm có thể yêu cầu thương nhân có hành vi vi phạm
thực hiện một phần nghĩa vụ tài sản. Tòa án hay Trọng tài khi được yêu cầu giải
quyết tranh chấp phải tôn trọng quyền tự định đoạt của nguyên đơn và yêu cầu phản
tố của bị đơn. Việc Tòa án hay Trọng tài ban hành phán quyết buộc bị đơn phải nộp
tiền phạt hay BTTH thể hiện việc các cơ quan này đã chấp nhận một phần hay toàn
bộ yêu cầu của ngun đơn, khơng trực tiếp quyết định áp dụng hình thức chế tài
nào hay có áp dụng chế tài hay không đối với bên vi phạm mà quyền quyết định
thuộc về bên bị vi phạm.
Mục đích của việc áp dụng chế tài BTTH do vi phạm hợp đồng
Việc quy định trách nhiệm BTTH hướng đến hai mục tiêu, trước hết là buộc
người gây thiệt hại chịu trách nhiệm đối với hậu quả do mình gây ra, đồng thời
người bị thiệt hại được bồi thường, bù đắp những tổn thất mà họ phải gánh chịu 9.
Qua đó nhằm giáo dục các chủ thể phải tuân thủ pháp luật và nghĩa vụ phải thực
hiện theo thỏa thuận, đảm bảo hợp tác bình đẳng, cùng có lợi. Luật Thương mại
năm 2005 quy định nhiều loại chế tài khác nhau nhằm đạt được các hiệu quả khác

9

Trần Ngọc Thành (2013), “Một số vấn đề về thực hiện nguyên tắc bồi thường trong chế định BTTH ngồi
hợp đồng”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 22, tr. 13.


14

nhau nhưng khơng ngồi mục đích là tạo ra mơi trường pháp lý công bằng, thuận lợi
để các thương nhân tham gia hoạt động kinh doanh hiệu quả, thuận lợi vì mục tiêu
phát triển xã hội.
Chế tài BTTH là một trong những chế tài phức tạp nhất về điều kiện áp

dụng10. Theo quy định, việc áp dụng chế tài này cần phải có các yếu tố sau: có hành
vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, có hậu quả do hành vi đó gây ra, có mối quan hệ
nhân quả giữa hành vi gây thiệt hại và hậu quả do hành vi đó gây ra và cuối cùng là
có lỗi của chủ thể vi phạm nghĩa vụ. Khi có các yếu tố trên thì chế tài buộc bồi
thường mới áp dụng mặc dù khơng có sự thỏa thuận trước trong hợp đồng như
trường hợp phạt vi phạm hợp đồng.
1.1.2 Vị trí, vai trò của chế tài bồi thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng
Bồi thường thiệt hại được xem là một chế tài cơ bản, phổ biến, được các bên
ưu tiên áp dụng khi tranh chấp xảy ra, là điều kiện cần thiết đảm bảo cho những
cam kết của các bên được triển khai trên thực tế, đặc biệt trong nền kinh tế thị
trường nơi mà các yếu tố cạnh tranh luôn là động lực, thúc đẩy sự phát triển của các
thương nhân. Hợp đồng được giao kết hợp pháp được xem là công cụ, phương tiện
để các thương nhân tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh và tạo cơ sở pháp
lý áp dụng chế tài BTTH đối với bên có hành vi vi phạm.
Chế tài này có vai trò đảm bảo quyền tự do giao kết hợp đồng của các bên,
góp phần nâng cao ý thức kỷ luật, hình thành và củng cố thái độ tích cực của các
bên khi thực hiện các thỏa thuận, đòi hỏi các bên phải nghiêm chỉnh chấp hành đầy
đủ các quy định của pháp luật cũng như tự nguyện thi hành các nội dung đã cam kết
trong hợp đồng trên cơ sở luật định.
Bện cạnh đó, BTTH cịn có vai trị bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm, buộc
bên vi phạm phải chịu các trách nhiệm pháp lý cụ thể để bù đắp những thiệt hại cho
bên bị thiệt hại và bên thứ ba. Ngồi ra, BTTH cịn bảo vệ quyền lợi của bên vi
phạm thông qua quy định các trường hợp miễn trách nhiệm … đảm bảo bên vi

10

Ngô Huy Cương (2013), tlđd (2), tr. 398.


15


phạm chỉ phải chịu trách nhiệm về hành vi của mình theo mức độ vi phạm, bảo vệ
bên vi phạm trong các hiện tượng tiêu cực khi xử lý, điều đó giúp các bên giao kết
hợp đồng được yên tâm và đảm bảo hơn.
Chế tài này còn giúp cơ quan nhà nước phòng ngừa các hành vi vi phạm
pháp luật. Khi một bên gây thiệt hại do vi phạm hợp đồng thì họ phải gánh chịu
những hậu quả bất lợi để bù đắp những tổn thất cho bên bị thiệt hại. Trường hợp
chưa xảy ra thiệt hại, chưa có hành vi vi phạm thì việc dự liệu về BTTH mang tính
phịng ngừa các biểu hiện vi phạm hợp đồng, nâng cao ý thức, trách nhiệm và thái
độ tích cực hợp tác của các bên trong quá trình thực hiện các điều khoản hợp đồng
mà các bên đã thiết lập.
BTTH là một chế tài phổ biến, được ưu tiên áp dụng trên thực tế nên việc
quy định các điều kiện áp dụng của chế tài này trong hợp đồng thương mại là một
yếu tố quan trọng, giúp các bên có thể dự liệu các tình huống xảy ra và ấn định cụ
thể trong hợp đồng để bảo vệ lợi ích của mình, các cơ quan có thẩm quyền sẽ có đủ
căn cứ để áp dụng, ràng buộc trách nhiệm pháp lý giữa các bên giao kết.
1.2 Điều kiện áp dụng chế tài bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm hợp đồng
1.2.1 Các điều kiện tổng quát về việc áp dụng chế tài bồi thường thiệt hại do
vi phạm hợp đồng
Hiện nay, nghiên cứu về các điều kiện BTTH do vi phạm hợp đồng nhiều
luật gia cũng đưa ra những điều kiện khác nhau về chế định này. Có quan điểm cho
rằng xem xét trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng dựa trên ba điều kiện: Thứ
nhất, sự vi phạm nghĩa vụ hợp đồng; thứ hai, lỗi của người vi phạm nghĩa vụ; thứ
ba, mối quan hệ nhân quả giữa vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và thiệt hại xảy ra 11.
Theo Điều 303 LTM 2005 lại quy định căn cứ phát sinh trách nhiệm BTTH bao
gồm sau: Có hành vi vi phạm hợp đồng; Có thiệt hại thực tế; Hành vi vi phạm hợp
đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại. Nếu thiếu một trong các yếu tố nói
trên thì khơng thể u cầu bên vi phạm bồi thường thiệt hại.

11


Nguyễn Ngọc Khánh (2007), tlđd (5), tr.355.


16

Ngoài ra, một căn cứ nữa để áp dụng chế tài BTTH là yếu tố lỗi của bên vi
phạm. Về vấn đề lỗi, pháp luật nhiều nước không cho rằng yếu tố “lỗi” là căn cứ để
xác định trách nhiệm bồi thường. Theo LTM không coi yếu tố lỗi để quy kết trách
nhiệm BTTH12, trong khi đó theo Điều 363 BLDS 2015 thì: “Trường hợp vi phạm
nghĩa vụ và có thiệt hại là do một phần lỗi của bên bị vi phạm thì bên vi phạm chỉ
phải bồi thường thiệt hại tương ứng với mức độ lỗi của mình”13. Như vậy, pháp luật
Việt Nam vẫn xem xét yếu tố lỗi để xác định bên vi phạm và mức độ BTTH. Yếu tố
lỗi được xác định theo nguyên tắc suy đoán lỗi, tức là cứ có vi phạm thì có thể suy
đoán được bên vi phạm hợp đồng. Nếu cho rằng mình khơng vi phạm, khơng phải
BTTH thì bên vi phạm phải có nghĩa vụ chứng minh mình khơng có lỗi trong thực
hiện hợp đồng.
Giá trị BTTH bao gồm giá trị tổn thất thực tế, trực tiếp mà bên bị vi phạm
phải chịu do bên vi phạm gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ
được hưởng nếu khơng có hành vi vi phạm14. Theo đó, số tiền yêu cầu BTTH sẽ bao
gồm hai khoản: Thứ nhất là giá trị tổn thất thực tế trực tiếp và thứ hai là khoản lợi
đáng lẽ được hưởng mà bên có quyền lợi bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm hợp
đồng gây ra. Bên yêu cầu bồi thường phài có nghĩa vụ chứng minh tổn thất và mức
độ tổn thất và phải áp dụng các biện pháp hợp lý để hạn chế tổn thất kể cả tổn thất
đối với khoản lợi trực tiếp đáng lẽ được hưởng do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra;
nếu bên u cầu khơng áp dụng các biện pháp đó, bên vi phạm hợp đồng có quyền
yêu cầu giảm bớt giá trị BTTH bằng mức tổn thất đáng lẽ có thể hạn chế được15.
1.2.2 Yếu tố hành vi vi phạm hợp đồng
Hành vi vi phạm hợp đồng là căn cứ pháp lý để áp dụng đối với tất cả các
hình thức chế tài. Là một dạng trách nhiệm pháp lý nói chung nên trách nhiệm

BTTH theo hợp đồng chỉ phát sinh sau khi có hành vi vi phạm hợp đồng, đó là hành
vi trái pháp luật và trái với các thỏa thuận trong hợp đồng. Theo đó, hành vi trái
12

Điều 303, Luật Thương mại năm 2005.
Bộ luật Dân sự số 91/2015/QH13 ngày 24 tháng 11 năm 2015.
14
Điều 302, Luật Thương mại năm 2005.
15
Điều 305, Luật Thương mại năm 2005.
13


17

pháp luật là hành vi thực hiện không đúng quy định của pháp luật như không làm
việc mà pháp luật yêu cầu, làm việc mà pháp luật cấm hoặc tiến hành hoạt động
vượt quá giới hạn, phạm vi cho phép của pháp luật16.
Vi phạm nghĩa vụ là việc bên có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ đúng
thời hạn, thực hiện không đầy đủ nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng nội dung của
nghĩa vụ17. Về nguyên tắc, BLDS buộc các bên phải thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa
vụ của mình, việc thực hiện không đúng, không đầy đủ, chậm trễ hoặc không thực
hiện đều bị xem là vi phạm. Vậy nên các bên không chỉ thực hiện các nghĩa vụ đã
thỏa thuận trong hợp đồng mà còn phải thực hiện cả những nghĩa vụ theo quy định
của pháp luật (nội dung thường lệ của hợp đồng). Quan điểm này xuất phát từ
nguyên tắc nền tảng của luật hợp đồng - sự tự do ý chí. Tuy nhiên, sự khắt khe đó
khơng thể là một giải pháp hồn tồn tốt cho mối quan hệ giữa các bên trong giao
kết hợp đồng18. Như vậy, khi xem xét một hành vi có được xem xét là hành vi vi
phạm hợp đồng hay không phải căn cứ vào các điều khoản đã thỏa thuận trong hợp
đồng và cả quy định pháp luật có liên quan.

1.2.3 Yếu tố thiệt hại thực tế
Thiệt hại là một trong những yêu cầu trong trách nhiệm BTTH do vi phạm
hợp đồng, là sự biến đổi theo chiều hướng xấu đi trong tài sản của một người thể
hiện thông qua những tổn thất thực tế tính được thành tiền mà người đó phải gánh
chịu.
Căn cứ bắt buộc phải có khi áp dụng chế tài buộc BTTH là thiệt hại thực tế
trực tiếp do vi phạm hợp đồng gây ra, còn đối với các hình thức chế tài khác, thiệt
hại thực tế khơng bắt buộc, có thể được coi là tình tiết xác định mức độ nặng, nhẹ
của chế tài được áp dụng. Bởi bản chất của BTTH là việc người có nghĩa vụ phải bù
đắp cho đối phương những tổn thất vật chất mà mình đã gây ra do việc vi phạm
nghĩa vụ. Mức bồi thường phụ thuộc vào thiệt hại thực tế của bên bị vi phạm. Vì

Trường Đại học Luật Hà Nội, tlđd (3), tr. 206.
Khoản 1, Điều 351, Bộ luật Dân sự năm 2015.
18
Ngô Huy Cương (2013), tlđd (2), tr. 406.
16

17


18

vậy, muốn yêu cầu bên vi phạm hợp đồng phải chịu trách nhiệm bồi thường thì
trước hết phải có thiệt hại xảy ra và bên bị vi phạm phải chứng minh được mình bị
thiệt hại, mức độ thiệt hại và thiệt hại đó phải tính tốn được, xác định bằng các
phương pháp nhất định.
Về mặt lý luận, người ta chia thiệt hại thực tế thành hai loại, đó là thiệt hại
trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.Thiệt hại trực tiếp là những thiệt hại đã xảy ra khách
quan trong thực tế mà mức thiệt hại có thể tính tốn một cách dễ dàng và chính xác.

Biểu hiện cụ thể của thiệt hại trực tiếp là giá trị tài sản bị mất mát, hư hỏng hoặc sự
thiếu hụt tài sản do người có nghĩa vụ gây ra. Chi phí thực tế hợp lý những khoản
tiền mặt hoặc những lợi ích vật chất khác mà người bị thiệt hại phải bỏ ra ngồi ý
muốn chủ quan của mình để khắc phục những tình trạng xấu do bên vi phạm gây ra
bởi hành vi vi phạm, chi phí hợp lý để ngăn chặn và hạn chế tổn thất, lợi nhuận bị
bỏ lỡ thể hiện ở phần chênh lệch giá bán (mua) hàng hóa, dịch vụ trên thực tế so với
giá bán (mua) hàng hóa, dịch vụ theo hợp đồng đã ký kết. Việc chậm thanh tốn
tiền hàng, phí dịch vụ và các chi phí khác đều làm phát sinh quyền địi tiền lãi chậm
trả của bên bị vi phạm, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định khác. Những thiệt hại được bồi thường chỉ có thể là quyền, lợi ích hợp pháp bị
xâm hại. Thiệt hại xảy ra đối với tài sản phi pháp bị loại trừ. Thiệt hại phải thỏa
mãn tính có thể xác định được và tính có thể biết trước được19.
Bên bị vi phạm chỉ được bồi thường và bên vi phạm chỉ có nghĩa vụ bồi
thường những khoản thiệt hại trong phạm vi pháp luật quy định, bao gồm: “giá trị
tổn thất thực tế, trực tiếp, mà bên bị vi phạm phải chịu do bên vi phạm gây ra và
khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu khơng có hành vi vi
phạm”20.
1.2.4 Yếu tố mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm hợp đồng và thiệt
hại do hành vi đó gây ra
Trên thực tế, khơng phải mọi hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng nào cũng
đều gây ra thiệt hại, nhưng cũng có thể một hành vi vi phạm sẽ gây ra nhiều khoản
19

20

Ngô Huy Cương (2013), tlđd (2), tr. 404.
Điều 302, Luật Thương mại năm 2005.


19


thiệt hại khác nhau, cũng như một khoản thiệt hại cũng thể được sinh ra do nhiều
nguyên nhân, hành vi khác nhau. Điều đó có nghĩa là khơng phải tất cả sự vi phạm
nghĩa vụ nào cũng đều là cơ sở của trách nhiệm hợp đồng và không phải bất cứ thiệt
hại nào xảy ra cũng đều do bên vi phạm nghĩa vụ gánh chịu. Trong khoa học pháp
lý, các cặp phạm trù “nguyên nhân – kết quả”; “tất nhiên – ngẫu nhiên” được vận
dụng để xác định mối tương quan giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại. Thiệt hại
là kết quả tất yếu của hành vi nếu trong bản thân hành vi với những điều kiện cụ thể
chứa đựng khả năng hiện thực khách quan làm phát sinh nó 21. Bên có hành vi vi
phạm hợp đồng chỉ phải BTTH khi thiệt hại xảy ra là kết quả tất yếu của hành vi vi
phạm hợp đồng. Pháp luật Thương mại cũng đã quy định một trong những căn cứ
phát sinh trách nhiệm BTTH là hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp
gây ra thiệt hại22.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại thực tế xảy ra có
mối liên hệ nội tại, tất yếu. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp, còn
thiệt hại là kết quả khách quan, tất yếu của hành vi vi phạm. Nguyên nhân và kết
quả có mối liên hệ nối tiếp nhau, hành vi vi phạm hợp đồng phải có trước khi có
thiệt hại xảy ra. Nếu thiệt hại đã xảy ra trước khi có hành vi vi phạm thì thiệt hại đó
khơng được xem là kết quả của hành vi vi phạm hợp đồng, giữa chúng khơng có
mối quan hệ nhân quả. Do khơng có quan hệ nhân quả nên đối với trường hợp này
bên có quyền khơng thể căn cứ vào thiệt hại xảy ra trước đó để yêu cầu bên vi phạm
phải BTTH.
Thực tế, quan hệ nhân quả là một khái niệm khó mà khơng ít trường hợp nhà
lập pháp không muốn đưa khái niệm này vào trong luật23. Có những trường hợp mối
quan hệ nhân quả giữa hành vi vi phạm và thiệt hại xảy ra được biểu hiện một cách
rõ ràng, dễ xác định. Nhưng cũng có trường hợp thiệt hại xảy ra không phải chỉ do
một hành vi mà có thể do nhiều hành vi vi phạm, của nhiều chủ thể khác nhau gây

21


Trường Đại học Luật Tp. HCM (2013), Giáo trình Pháp luật về hợp đồng và BTTH ngoài hợp đồng, Chủ
biên Đỗ Văn Đại, Nxb. Hồng Đức, Thành phố Hồ Chí Minh, tr.456.
22
Điều 303, Luật Thương mại năm 2005.
23
Đỗ Văn Đại, tlđd (7), tr. 103.


20

ra thì việc làm rõ hành vi nào đã phát sinh thiệt hại và việc xác định những chủ thể
nào phải chịu trách nhiệm bồi thường là vấn đề nan giải, khó khăn và phức tạp.
Trong trường hợp này các chủ thể có hành vi vi phạm đều phải chịu trách nhiệm
liên đới về thiệt hại chung. Ngược lại, một hành vi vi phạm hợp đồng có thể gây ra
nhiều khoản thiệt hại khác nhau và chủ thể vi phạm phải bồi thường toàn bộ và đầy
đủ tất cả các khoản thiệt hại.
1.2.5 Yếu tố lỗi của người vi phạm nghĩa vụ
Hợp đồng trong hệ thống luật Anh – Mỹ về mặt nguyên tắc được xem như là
một nghĩa vụ bảo đảm. Nếu người có nghĩa vụ khơng thực hiện hoặc thực hiện
khơng đúng nghĩa vụ hợp đồng thì họ phải chịu trách nhiệm BTTH do vi phạm hợp
đồng, không phụ thuộc vào việc mình hoặc người thứ ba hay người được th thực
hiện hợp đồng có lỗi hay khơng. Tương tự như hệ thống luật Anh – Mỹ, Công ước
Viên 1980 cũng không xem yếu tố lỗi để xác định trách nhiệm hợp đồng.
Ở các nước theo hệ thống luật Civil Law điển hình như Pháp, Đức, Nga và
cả Việt Nam, trách nhiệm hợp đồng nói chung được xây dựng trên nguyên tắc phạm
lỗi. Yếu tố lỗi được coi là căn cứ để truy cứu trách nhiệm hợp đồng.
Theo pháp luật Việt Nam thì: “Người khơng thực hiện hoặc thực hiện khơng
đúng nghĩa vụ dân sự thì phải chịu trách nhiệm dân sự khi có lỗi cố ý hoặc lỗi vơ ý,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác” 24, BLDS 2015
có quy định về lỗi trong phần trách nhiệm dân sự nhưng cũng không trực tiếp định

nghĩa khái niệm lỗi mà đi vào giải thích cụ thể “lỗi cố ý” và “lỗi vơ ý”(Điều 364).
Dưới góc độ khoa học pháp lý, “lỗi” là một yếu tố chủ quan nói lên thái độ tâm lý
của con người đối với hành vi của mình và hậu quả của hành vi ấy25. Tại Điều 303
LTM 2005 không quy định trực tiếp lỗi là căn cứ áp dụng các chế tài thương mại
mà thông qua quy định miễn trách nhiệm. Tại Điều 364 BLDS năm 2015 có sự thay
đổi so với BLDS 2005, pháp luật dân sự hiện hành không xem yếu tố lỗi là căn cứ
xác định trách nhiệm dân sự trong hợp đồng, mà chỉ quy định lỗi cố ý và lỗi vô ý.

24
25

Điều 308, Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trường Đại học Luật Tp. HCM, tlđd (23), tr. 458.


21

Theo quan điểm tác giả, quy định như trong BLDS 2015 không coi yếu tố lỗi của
người xâm phạm là bắt buộc để xác định có hay khơng có trách nhiệm BTTH là hợp
lý, phù hợp với hệ thống luật pháp quốc tế.
1.3 Hợp đồng thƣơng mại và chế định bồi thƣờng thiệt hại do vi phạm
hợp đồng
1.3.1 Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng thương mại
Hợp đồng là thuật ngữ pháp lý được sử dụng để chỉ các giao dịch dân sự
thông qua việc thỏa thuận để chuyển giao các lợi ích giữa các cá nhân, tổ chức với
nhau trong lĩnh vực luật tư, là căn cứ pháp lý phổ biến làm phát sinh quyền và nghĩa
vụ giữa các bên. Trong cổ luật và trong pháp luật của các chế độ trước, loại giao
dịch này được các nhà làm luật định danh là “văn tự”, “văn khế”.
Hợp đồng đóng vai trị quan trọng trong vận hành nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Chức năng cơ bản của hợp đồng quyết định bản chất và giá

trị xã hội của nó trong điều kiện kinh tế xã hội của một quốc gia. Ở Việt Nam, pháp
luật hiện hành không đưa ra khái niệm về hợp đồng thương mại mà chỉ định nghĩa
chung về hợp đồng. Theo BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng là sự thỏa thuận
giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự”.
Quyền và nghĩa vụ dân sự theo hợp đồng được hiểu bao gồm cả các quyền và nghĩa
vụ phát sinh từ các quan hệ thương mại. Về mặt lý luận, hợp đồng thương mại là
một dạng cụ thể trong hợp đồng dân sự, tuy nhiên hợp đồng thương mại lại có
những đặc điểm riêng nhất định, khác với những hợp đồng dân sự thông thường. Có
thể hiểu mối quan hệ giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại là mối quan hệ
giữa cái chung và cái riêng. Từ cách hiểu này, những vấn đề cơ bản trong hợp đồng
thương mại như: giao kết hợp đồng, nguyên tắc và các biện pháp bảo đảm thực hiện
hợp đồng, vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu… được điều chỉnh bằng pháp luật và
không có sự khác biệt với các hợp đồng dân sự thông thường, một số vấn đề cụ thể
khác như chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ các bên, việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng được quy định trong các lĩnh vực cụ thể, có tính chất từ sự phát triển của
những quy định truyền thống về hợp đồng.


×