Tải bản đầy đủ (.pdf) (67 trang)

Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động thực tiễn tại việt nam (luận văn thạc sỹ luật)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.19 MB, 67 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

PHẠM VĂN TUYẾN

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG
THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020


ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT

PHẠM VĂN TUYẾN

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG
THỰC TIỄN TẠI VIỆT NAM

Ngành: Luật dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380103

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN THỊ HỒNG NHUNG

TP. HỒ CHÍ MINH NĂM 2020



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đề tài “Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động. Thực tiễn
tại Việt Nam” là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi, được sự hướng dẫn tận tình
của giảng viên hướng dẫn PGS.TS.Nguyễn Thị Hồng Nhung, hồn tồn khơng sao
chép từ tác phẩm khác. Những phần sử dụng tài liệu tham khảo trong luận văn đã
được nêu rõ trong phần trích dẫn tài liệu tham khảo. Các bản án, thông tin được nêu
trong luận văn là trung thực và hồn tồn chính xác, đúng sự thật.

Tác giả

Phạm Văn Tuyến


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Từ viết tắt

Chữ được viết tắt

BHXH

Bảo hiểm xã hội

BLDS

Bộ luật dân sự

BLLĐ

Bộ luật lao động


BTTH

Bồi thường thiệt hại

HĐLĐ

Hợp đồng lao động

ILO

Tổ chức Lao động quốc tế
(International Labour Organization)

NLĐ

Người lao động

NSDLĐ

Người sử dụng lao động

QHLĐ

Quan hệ lao động

TAND

Tòa án nhân dân

TNLĐ


Tai nạn lao động


MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
MỤC LỤC

Trang

MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài ................................................................................. 3
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài ................................................................................... 5
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài ............................................................................. 6
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài .................................................................... 6
6. Kết cấu luận văn .................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN
LAO ĐỘNG ............................................................................................................... 8
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tai nạn lao động ................................................... 8
1.1.1. Khái niệm tai nạn lao động ............................................................................... 8
1.1.2. Đặc điểm của tai nạn lao động ........................................................................ 11
1.1.3. Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động ........... 16
1.1.3.1. Có thiệt hại xảy ra ........................................................................................ 17
1.1.3.2. Có hành vi trái pháp luật .............................................................................. 17
1.1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại ............... 19
1.1.3.4. Có lỗi của người gây ra thiệt hại .................................................................. 19
1.1.4. Nguyên tắc áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn lao
động ........................................................................................................................... 20



1.1.4.1. Nguyên tắc kịp thời, nhanh chóng ............................................................... 20
1.1.4.2. Nguyên tắc tách bạch ................................................................................... 21
1.1.4.3. Nguyên tắc nhân văn .................................................................................... 21
1.2. Tình hình tai nạn lao động từ năm 2016 đến năm 2019 ............................... 22
1.3. Nội dung về bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động ................................... 26
CHƯƠNG 2. MỨC BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG 30
2.1. Quy định của pháp luật về mức bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động . 30
2.2. Thực tiễn áp dụng về mức bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động .......... 32
2.2.1. Một số vụ việc thực tế ..................................................................................... 32
2.2.2. Bình luận ......................................................................................................... 37
2.2.3. Kiến nghị ......................................................................................................... 40
CHƯƠNG 3. QUY TRÌNH BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO
ĐỘNG ....................................................................................................................... 45
3.1. Quy định pháp luật .......................................................................................... 45
3.2. Thực tiễn áp dụng quy trình bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động ...... 47
3.2.1. Một số vụ việc thực tế ..................................................................................... 47
3.2.2. Bình luận ......................................................................................................... 50
3.2.3. Kiến nghị ......................................................................................................... 52
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 ........................................................................................ 55
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 57
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quan hệ pháp luật lao động thì hoạt động bồi thường cho người lao

động (NLĐ) bị chấn thương, thương tật và đau ốm do tai nạn lao động (TNLĐ) và
bệnh nghề nghiệp được quy định trong Luật bảo hiểm hoặc Luật về bồi thường
TNLĐ tại nhiều quốc gia. Tại Việt Nam, bồi thường TNLĐ và bệnh nghề nghiệp
được quy định tại Bộ luật Lao động (BLLĐ) năm 2012, nay là BLLĐ 2019, Luật
An toàn, vệ sinh lao động 2015 và Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014. Thực
trạng pháp luật và thực tiễn thực hiện luật pháp về bồi thường TNLĐ trong thời gian
qua cho thấy, pháp luật về bồi thường TNLĐ ở Việt Nam còn tồn tại những khiếm
khuyết, hạn chế trong nội dung các quy phạm pháp luật và cả trong cơ chế áp dụng
pháp luật thể hiện qua sự chồng chéo và thiếu đồng bộ, phân tán và thiếu cơ chế đầu
tư phòng ngừa để đảm bảo sự bền vững và phát triển. Việc hoàn thiện pháp luật về
bồi thường TNLĐ phải xuất phát từ yêu cầu cuộc sống và điều kiện kinh tế xã hội
của quốc gia. Chế định bồi thường thiệt hại do TNLĐ đặt ra nhằm xác định trách
nhiệm trong QHLĐ khi NLĐ xảy ra tai nạn trong q trình làm việc cho NSDLĐ.
Q trình hồn thiện pháp luật về bồi thường TNLĐ phải dựa trên cơ sở thực
tiễn phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. Ln sẵn có những mơ hình bồi
thường tai nạn đang được áp dụng ở các nước khác nhau. Sự thành công trong việc
thực hiện chế độ bồi thường TNLĐ và bệnh nghề nghiệp của các nước, đặc biệt là
các nước trong khu vực trong quá trình phòng ngừa TNLĐ , nâng cao quản lý nhà
nước về an tồn vệ sinh lao động ln ln được xem xét và nghiên cứu kỹ bối cảnh
và điều kiện để vận hành của nó trước khi đưa ra các giải pháp để Việt Nam có thể
tham khảo học tập và áp dụng theo lộ trình để phù hợp với hồn cảnh của Việt Nam.
Việc tham khảo mơ hình hoạt động của các nước khơng chỉ đơn thuần là q trình
nghiên cứu văn bản luật pháp mà phải là một quá trình tham vấn chuyên gia, nghiên
cứu thực tế, chia sẻ kinh nghiệm và xây dựng mối quan hệ đối tác. Mỗi một mơ
hình mới cần có sự thử nghiệm để thực hiện. Việc hoàn thiện pháp luật về bồi


2

thường phải gắn với việc xây dựng chiến lược về phịng ngừa và nâng cao nhận

thức lợi ích của phịng ngừa trong pháp luật về bồi thường TNLĐ. Hiện nay, cùng
với sự phát triển của nền kinh tế thì các QHLĐ nói chung và BTTH do TNLĐ nói
riêng lng được nhà nước quan tâm và hoàn thiện. Đối với NLĐ, với quan điểm
nhất quán trong việc bảo vệ đối tượng này, Nhà nước đã thúc đẩy việc hoàn thiện hệ
thống pháp luật bảo vệ quyền của người lao động, bên cạnh đó Pháp luật Việt Nam
cũng xác định rõ trách nhiệm của người NLĐ khi tham gia vào các quan hê ̣pháp
luật cụ thể, trong đó đã dành sự quan tâm đặc biệt cho đối tượng là những trường
hợp NLĐ xảy ra TNLĐ trong quá trình làm việc. Điều này càng thể hiện mối quan
tâm sâu sắc của Đảng và Nhà nước đối với người lao động. Chính vì thế, trong các
quy định của pháp luật về bồi thường thiệt hại theo quy định của BLLĐ cho người
NLĐ là nhằm giúp đỡ để đảm bảo quyền và lợi ích cho NLĐ và NSDLĐ. Đồng
thời, cũng nhằm tăng cường hoạt động QLNN đối với QHLĐ ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay.
Trong quá trình tổ chức thực hiện, đối với vấn đề BTTH do TNLĐ đã đạt
được nhiều kết quả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Tuy nhiên, chúng ta cần
nhận định rằng việc áp dụng quy định này cịn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc vì
quy định cịn có nhiều cách hiểu khác nhau nên việc áp dụng chưa thống nhất, gây
bức xúc trong quá trình giải quyết. Trên thực tế, đây là vấn đề khó khăn do chưa có
hướng dẫn cụ thể nên các cơ quan tiến hành tố tụng và cơ quan bảo vệ pháp luật gặp
nhiều vướng mắc khi giải quyết các trường hợp liên quan tới vấn đề này. Xuất phát
từ những lý do trên, tác giả chọn đề tài “Bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động.
Thực tiễn áp dụng tại Việt Nam” làm luận văn tốt nghiệp của mình. Tác giả lựa
chọn thực tiễn tại Việt Nam là nơi mà địa phương trong các năm từ năm gần đây
xảy ra nhiều vụ TNLĐ thương tâm. Và trên thực tế vẫn chưa có tác giả nào viết về
thực tiễn trong q trình áp dụng. Đồng thời, thơng qua q trình nghiên cứu tác giả
viết luận văn này với mong muốn nghiên cứu, tìm hiểu một cách khoa học, có hệ
thống giúp các nhà nghiên cứu, áp dụng pháp luật có một cách nhìn tồn diện về


3


vấn đề này khi giải quyết các vụ án cụ thể góp phần mang đến sự cơng bằng cho các
đương sự trong các vụ án.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong các giáo trình Luật Lao động của một số cơ sở đào tạo luật như
Trường đại học Luật Hà Nội, Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, Đại học Kinh tế Luật… vấn đề bồi thường thiệt hại do TNLĐ chỉ được đề cập một cách ngắn gọn
trên cơ sở các quy định của pháp luật.
Qua quá trình nghiên cứu, tác giả nhận thấy về vấn đề trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do TNLĐ có các cơng trình khoa học được công bố như sau:
- Luận văn thạc sĩ “Thực trạng áp dụng biện pháp bồi thường thiệt hại trong
việc bảo vệ người lao động và một số kiến nghị” của tác giả Phạm Thị Diệp Hạnh
công bố năm 2008. Luận văn này đã nghiên cứu về vấn đề BTTH nói chung trong
quan hệ lao động nhằm bảo vệ quyền lợi cho NLĐ. Trong đó, có vấn đề về BTTH
do TNLĐ. Theo đó, tác giả đã đề xuất việc thành lập “quỹ bồi thường TNLĐ và
bệnh nghề nghiệp” nhằm bảo vệ cho tính mạng, sức khỏe của NLĐ khi bị TNLĐ,
bệnh nghề nghiệp. Tuy nhiên, đề tài nghiên cứu trong phạm vi khá rộng không chỉ
về BTTH do TNLĐ mà còn bao gồm cả bồi thường tiền lương, thu nhập, tính mạng,
sức khỏe cho NLĐ trong quan hệ lao động. Hơn nữa, đề tài được thực hiện năm
2008 khi chưa có BLLĐ 2012 và Luật An tồn vệ sinh lao động 2015 nên luận văn
chỉ đánh giá chế độ BTTH do TNLĐ trên cơ sở quy định của BLLĐ năm 1994 sửa
đổi, bổ sung và các văn bản hướng dẫn thi hành. Vì thế đề tài chưa theo kịp với đời
sống xã hội mới.
- Luận văn thạc sĩ “Chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp – Từ thực
tiễn thi hành tại Bắc Giang” của tác giả Lục Thị Thi Hịe cơng bố năm 2015. Đề tài
đã nghiên cứu một cách tổng quát về chế độ tai nạn lao động bệnh nghề nghiệp theo
quy định của BLLĐ 2012 và Luật An toàn vệ sinh lao động năm 2015. Đề tài
nghiên cứu theo hướng phân tích chế độ bảo hiểm nhiều hơn là phân tích về chế độ
bồi thường thiệt hại do TNLĐ, bệnh nghề nghiệp. Đồng thời, đề tài lại giới hạn



4

phạm vi nghiên cứu ở tại khu vực tỉnh Bắc Giang để từ đó đưa ra những nhận xét và
kiến nghị.
- Luận văn thạc sĩ “Bồi thường thiệt hại theo pháp luật lao động Việt Nam”
của tác giả Nguyễn Thị Lan Phương công bố năm 2019. Trong đề tài này, tác giả đã
nghiên cứu được toàn diện những vấn đề về bồi thường thiệt hại theo quy định của
pháp luật lao động Việt Nam. Cụ thể bao gồm: BTTH về tài sản, BTTH do vi phạm
hợp đồng, BTTH về tính mạng sức khỏe, và BTTH về thu nhập. Cũng chính vì đề
tài đã nghiên cứu một cách tổng quát và toàn diện về các trường hợp BTTH theo
quy định của BLLĐ 2012 và các văn bản hướng dẫn hiện hành, cho nên, vấn đề về
BTTH do TNLĐ cho NLĐ chưa được tác giả đào sâu và phân tích kỹ để tìm ra
những bất cập và đề ra những giải pháp cụ thể cho vấn đề này.
Bên cạnh các cơng trình nghiên cứu về lý luận và thực trạng pháp luật của
chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp còn có những cơng trình nghiên cứu
khoa học trên các tạp chí về chế độ tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp cụ thể như:
- Lê Kim Dung (2011), “Tiêu chí của pháp luật bồi thường tai nạn lao động”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện nghiên cứu Nhà nước và pháp luật; Đỗ Ngân
Bình (2000), “Vấn đề bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động”, Tạp chí Luật học,
trường Đại học Luật Hà Nội;
- Lê Thị Hoài Thu (2002), “Xây dựng Luật Bảo hiểm xã hội”, Tạp chí nghiên
cứu lập pháp Văn phịng Quốc hội;
- Lê Thị Hồi Thu (2014), “Thực trạng pháp luật an sinh xã hội ở Việt Nam
và phương hướng hoàn thiện”, Nhà nước và pháp luật, Viện nhà nước và pháp luật;
- Lê Thị Hoài Thu (2012), “Bảo đảm an sinh xã hội trách nhiệm của Doanh
nghiệp”, Nghiên cứu lập pháp, Văn phòng Quốc hội.
Trên các trang báo cũng có rất nhiều bài viết nêu lên những cấp cập về tình
hình BTTH do TNLĐ tuy nhiên vẫn chưa có câu trả lời một cách thấu đáo cho các
đơn vị vận hành và áp dụng pháp luật. Chằng hạn bài viết “Bị tai nạn lao động, nạn



5

nhân chết vẫn chưa được bồi thường” của tác giả Sơn Vinh đăng trên báo Phụ nữ
ngày 23/12/2019. Bài viết “Tai nạn lao động, hai năm chưa được bồi thường, Tòa
trả lại hồ sơ” của tác giả Sơn Vinh đăng trên báo Phụ nữ ngày 01/3/2020. Bài viết
“Ai chịu trách nhiệm vụ taluy đè chết 4 người?” của tác giả Hải Nam đăng trên
Zingnews ngày 03/9/2020. Những bài viết này đều nói lên tình trạng thực tiễn về
vấn đề tai nạn lao động và trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động gây
ra. Từ đó, đặt ra những vấn đề pháp lý cần phải được nghiên cứu và giải đáp nhằm
bảo vệ tốt nhất quyền và lợi ích cho NLĐ khi bị TNLĐ.
Trên đây là những công trình nghiên cứu, bài viết tiêu biểu liên quan đến
trách nhiệm BTTH do TNLĐ theo quy định của pháp luật lao động Việt Nam. Dựa
trên cơ sở những tài liệu đã có tác giả nghiên cứu tập trung chuyên sâu về vấn đề
BTTH do tai nạn lao động kết hợp với những tình huống thực tiễn để xem xét vấn
đề được hồn thiện hơn. Trong q trình nghiên cứu, tác giả có tham khảo, trích dẫn
các kết quả nghiên cứu, số liệu và ý tưởng… từ các cơng trình trên và từ nhiều
nguồn khác để chứng minh cho vấn đề cần phân tích. Từ đó đưa ra những kiến nghị
cho phù hợp hơn với sự phát triển của đời sống thực tiễn. Đây là điểm mới so với
các cơng trình đã nghiên cứu mà tác giả sẽ đề cập đến trong luận văn của mình.
3. Mục tiêu nghiên cứu đề tài
Mục tiêu nghiên cứu của đề tài là phân tích, đánh giá thực trạng từ những vụ
án cụ thể, tìm ra những nguyên nhân, hạn chế của vấn đề xác định trách nhiệm
BTTH do TNLĐ khi áp dụng pháp luật hiện hành, để từ đó đưa ra những kiến nghị,
đề xuất nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả đánh giá thực tiễn áp dụng pháp luật của
một số vụ việc đã được giải quyết tại Tịa án, sau đó tác giả mạnh dạn đưa ra một số
kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật.
Để đạt được mục tiêu trên, luận văn tập trung vào các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Hệ thống hóa và hồn thiện cơ sở lý luận về chế độ tai nạn lao động, bệnh
nghề nghiệp.



6

- Nghiên cứu chế độ, chính sách và tình hình thực hiện chế độ tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp. Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật và tình
hình chế độ TNLĐ - BNN, từ đó chỉ ra những mặt tồn tại và nguyên nhân.
- Đưa ra những giải pháp hoàn thiện chế độ Bảo hiểm xã hội tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp trên cơ sở phân tích thực trạng chế độ TNLĐ, BNN nhằm
phát huy hơn nữa vai trò của Bảo hiểm xã hội.
4. Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Giới hạn đề tài: Vì đề tài theo định hướng ứng dụng nên chỉ tập trung nghiên
cứu thực trạng áp dụng pháp luật về mức bồi thường và quy trình bồi thường từ
thực tiễn ; từ đó đề xuất giải pháp hồn thiện về quy định pháp luật và BLLĐ 2012
Về nội dung nghiên cứu lý thuyết: Trách nhiệm BTTH do TNLĐ; các chủ
thể liên quan đến trách nhiệm bồi thường thiệt hại, những căn cứ phát sinh trách
nhiệm bồi thường. Từ đó đưa ra những kiến nghị, giải pháp hoàn thiện pháp luật để
từ đó áp dụng pháp luật một cách thống nhất.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu, tác giả sử dụng kết hợp nhiều
phương pháp nghiên cứu trong đó gồm các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: luận văn sử dụng phương pháp này để
thu thập thông tin khoa học trên cơ sở nghiên cứu cơng trình khoa học, tài liệu, văn
bản đã có và bằng các thao tác tư duy logic để rút ra các kết luận.
- Phương pháp phân tích: Áp dụng trong việc phân tích, làm rõ các khái niệm
về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ, biện pháp đảm bảo bồi thường. Phân
tích những thuận lợi, khó khăn trong thực tiễn áp dụng pháp luật.
- Phương pháp bình luận: Đưa ra ý kiến, quan điểm của mình về các quy
định của pháp luật về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do TNLĐ theo pháp luật hiện
hành thông qua các bản án trong thực tiễn khi áp dụng các quy định tại BLLĐ 2012

và nay là BLLĐ 2019.


7

Ngồi ra luận văn cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác:
Phương pháp phân tích, tổng hợp, phương pháp chứng minh, bình luận bản án trong
thực tiễn xét xử, để từ đó đưa ra định hướng nhằm hồn thiện và áp dụng thống nhất
pháp luật.
6. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Khái quát về bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động
Chương 2: Mức bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động
Chương 3: Quy trình bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động


8

CHƯƠNG 1.
KHÁI QUÁT VỀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO TAI NẠN LAO ĐỘNG
1.1. Khái niệm và đặc điểm của tai nạn lao động
1.1.1. Khái niệm tai nạn lao động
Tính mạng, sức khỏe là vốn quý nhất của bất kỳ mỗi cá nhân trong đời sống
xã hội, đặc biệt là đối với NLĐ. Trong quá trình làm việc, NLĐ thường là bên yếu
thế trong QHLĐ. Khi tiếp xúc với máy móc, cơng cụ lao động và mơi trường lao
động, NLĐ có thể gặp phải những tai nạn gây thiệt hại về sức khỏe, thậm chí mất đi
tính mạng ở bất cứ nơi đâu và bất cứ lúc nào. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến
quá trình thụ hưởng các quyền con người của NLĐ. Vì vậy, Hiến pháp 2013 của
Việt Nam đã ghi nhận rất nhiều quyền con người, quyền cơ bản, trong đó có quyền

sống, quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe. Chẳng hạn, Điều 19 Hiến pháp
2013 quy định: “tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Khơng ai bị tước đoạt
tính mạng trái luật” và khoản 1 Điều 20 của Hiến pháp cũng nhấn mạnh “mọi người
có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh
dự và nhân phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm”. Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp 2013 cũng quy định: “người làm công ăn
lương được bảo đảm các điều kiện làm việc cơng bằng, an tồn; được hưởng lương,
chế độ nghỉ ngơi”. Như vậy, bằng các quy định của mình Hiến pháp đã thừa nhận
trong trường hợp bị thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, NLĐ sẽ được BTTH theo quy
định pháp luật. Đây là cơ sở tiền đề rất quan trọng để NLĐ được bảo vệ bằng các
quy định của pháp luật lao động.
Để bảo vệ cho sức khoẻ và tính mạng của NLĐ, pháp luật hầu hết các quốc
gia đều quy định về các tiêu chuẩn trong quá trình lao động và về TNLĐ. Tuy
nhiên, TNLĐ là gì thì hiện nay vẫn cịn nhiều quan điểm khác nhau.
Ban đầu, TNLĐ chỉ được hiểu là “một sự việc khơng bình thường, khơng
mong muốn xảy ra” trong q trình sản xuất. Khi nền công nghiệp phát triển, nhất


9

là các ngành cơng nghiệp khai khống, hầm mỏ, TNLĐ xảy ra thường xuyên hơn và
chủ sử dụng lao động phải có trách nhiệm ràng buộc chặt chẽ hơn với những TNLĐ
của người cơng nhân, thì khái niệm TNLĐ được hoàn thiện hơn1.
Theo khuyến nghị của tổ chức lao động quốc tế (ILO) thì “TNLĐ là những
chấn thương phát sinh từ hoặc trong quá trình làm việc mà hậu quả có thể tử vong
hoặc khơng từ vong”2. Cách hiểu này đã thể hiện sự bao quát trong các trường hợp
bị coi là TNLĐ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ một cách tốt nhất.
Dựa vào định nghĩa của ILO, mỗi quốc gia căn cứ vào các điều kiện cụ thể về kinh
tế - xã hội mà sẽ có sự quy định cụ thể khái niệm về TNLĐ. Chẳng hạn như, luật

Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc có quy định “tai nạn trong khi làm việc” là những
thương tật, bệnh hoạn hay tử vong xảy ra do những lý do của công việc. Tai nạn
trong khi làm việc được chia ra làm hai loại: “sự cố trong khi làm việc” và “bệnh
tật trong khi làm việc”.3 Theo Liên minh Châu Âu (European Union - EU) trong ấn
phẩm “Thống kê Châu Âu về tai nạn lao động”4 thì “tai nạn lao động là những tai
nạn xảy ra trong quá trình làm việc, dẫn đến tổn hại về thể chất hoặc tinh thần”.
Theo Viện nghiên cứu quốc gia về bảo hộ an toàn lao động của Pháp (Institut
National de Recherche et de Sécurité – INRS) thì “tai nạn lao động là một sự kiện
bất ngờ xảy ra do công việc hoặc xảy ra trong khi làm việc tại một thời điểm, không
gian cụ thể, gây thương tật cho NLĐ”…5

1

Bùi Thị Lâm Hà, “Chế độ tai nạn ở Việt Nam – nhìn từ cơ sở lý luận”, Tạp chí Bảo hiểm xã hội, số

1A (2015).
2

Protocol of 2002 to the Occupational Safety and Health Convention.

3

Điều 80 luật Tiêu chuẩn lao động Hàn Quốc.

4

European Commission (2012), European Statistics on Accidents at Work (ESAW) – Summary

methodology – 2012 Edition, Publications Office of the European Union, Luxembourg, p.5-6.
5


(truy cập ngày 12/7/2020).


10

Ở Việt Nam, khái niệm về TNLĐ đã được đề cập đến ngay từ khi ban hành
BLLĐ đầu tiên vào năm 1994. Tiếp thu và kế thừa các quy định đó tại Điều 142
BLLĐ 2012 và khoản 8 Điều 3 Luật An tồn, vệ sinh lao động 2015 thì khái niệm
TNLĐ được hiểu như sau: “Tai nạn lao động là tai nạn gây tổn hại cho bất kỳ bộ
phận, chức năng nào của cơ thể hoặc gây tử vong cho NLĐ, xảy ra trong quá trình
lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động”. Như vậy, để
được xem là TNLĐ thì tai nạn này phải là những tai nạn rủi ro xảy ra trong quá
trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động. Đó là
những cơng việc mà NLĐ có nghĩa vụ thực hiện cho NSDLĐ theo sự thoả thuận
trong HĐLĐ. Ngoài ra, tại Điều 12 Nghị định 45/2013/NĐ-CP còn bổ sung thêm
trường hợp cũng được xem là TNLĐ, đó là tai nạn xảy ra “kể cả trong thời gian
nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho
con bú, đi vệ sinh, chuẩn bị và kết thúc công việc tại nơi làm việc”. Điều đó cho
thấy, pháp luật lao động Việt Nam đã tiếp thu và có chọn lọc quy định trong các
công ước của ILO và pháp luật của một số quốc gia trên thế giới.
Từ những vấn đề trên có thể thấy, TNLĐ là hậu quả của việc thực hiện chưa
tốt các quy định về an toàn lao động. Theo các quy định hiện hành, những tai nạn
được coi là TNLĐ có thể thuộc một trong các trường hợp sau đây:
(i) Bị tai nạn tại nơi làm việc và trong giờ làm việc, bao gồm: Tai nạn xảy ra
trong lao động gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ được phân công; tai
nạn trong thời gian ngừng việc giữa giờ do nhu cầu sinh hoạt đã được quy định
trong các văn bản về chế độ làm việc, nội quy lao động, chẳng hạn như, khoảng thời
gian NLĐ thực hiện các vấn đề về vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ
sinh...; tai nạn trong thời gian nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn bồi dưỡng hiện vật; trong

thời gian chuẩn bị và kết thúc cơng việc;
(ii) Bị tai nạn ngồi nơi làm việc hoặc ngồi giờ làm việc khi thực hiện cơng
việc theo u cầu của NSDLĐ mà các cơng việc đó gắn liền với việc thực hiện công
việc, nhiệm vụ lao động được phân công.


11

(iii) Bị tai nạn trên tuyến đường đi và về từ nơi ở đến nơi làm việc trong
khoảng thời gian và tuyến đường mà hằng ngày, NLĐ vẫn thường xuyên đi và về từ
nơi ở đến nơi làm việc và ngược lại.6
Bên cạnh đó, để làm rõ hơn trong việc xác định các quan hệ tai nạn nào được
coi là TNLĐ thì theo Điều 40 Luật An tồn, vệ sinh lao động 2015 những trường
hợp sau đây có thể khơng được xem là TNLĐ:
(i) Do mâu thuẫn của chính nạn nhân với người gây ra tai nạn mà không liên
quan đến việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao động;
(ii) Do NLĐ cố ý tự hủy hoại sức khỏe của bản thân;
(iii) Do sử dụng ma túy, chất gây nghiện khác trái với quy định của pháp
luật.
Từ những phân tích nêu trên, tác giả cho rằng “Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại do tai nạn lao động là một loại trách nhiệm pháp lý phát sinh khi xảy ra tai nạn
lao động nhằm bù đắp những tổn thất về vật chất, thể chất và tinh thần cho người
lao động hoặc thân nhân của họ”.
1.1.2. Đặc điểm của tai nạn lao động
Cũng giống như những tai nạn rủi ro khác xảy ra đối với con người trong xã
hội, TNLĐ là những sự kiện xảy ra ngồi ý chí của NLĐ. Do đó, ngoài những đặc
điểm chung của các tai nạn rủi ro thì TNLĐ cũng có những đặc điểm riêng. Việc
xác định cụ thể những đặc điểm riêng này sẽ giúp so sánh và phân biệt giữa TNLĐ
với tai nạn rủi ro khác trong đời sống.
Thứ nhất, TNLĐ là những tai nạn xảy ra bất ngờ, con người không thể lường

trước được. Cũng giống như những loại tai nạn khác, TNLĐ trước hết là phải
những rủi ro, những sự cố xảy ra ngoài ý muốn của NLĐ và cả NSDLĐ. Những sự

6

Mục III.1 Thông tư 03/2007/TT-BLĐTBXH.


12

cố này là những sự cố được xảy ra mà con người khơng thể biết được chính xác về
thời gian và khơng gian. Những sự cố này có thể được xuất phát từ những yếu tố
nguy hiểm độc hại trong chính QHLĐ như mơi trường làm việc, trang thiết bị, máy
móc, nguyên vật liệu.
Việc đưa vào sản xuất và sử dụng các máy, cơng nghệ, ngun vật liệu mới
ngồi những mặt tích cực, cịn tiềm ẩn những nguy cơ về an tồn vệ sinh lao, nếu
NLĐ khơng được huấn luyện thích ứng. Vì thế, khi tham gia vào các QHLĐ, NLĐ
cần được hướng dẫn cụ thể để đáp ứng những địi hỏi cụ thể của cơng việc và phải
có hướng dẫn kịp thời. Khi những sự cố này diễn ra sẽ làm thiệt hại đến bất kỳ bộ
phận, chức năng nào đó của cơ thể NLĐ hoặc có thể gây tử vong cho NLĐ. Cũng
bởi đặc điểm không thể lường trước này mà hiện nay con người chỉ có thể áp dụng
những biện pháp nhằm phòng ngừa để hạn chế TNLĐ cũng như giảm thiểu tối đa
hậu quả do TNLĐ gây ra, chứ khó có thể loại trừ hồn tồn TNLĐ trên thực tế.
Thứ hai, TNLĐ là tai nạn xảy ra gắn với quá trình làm việc của NLĐ, trong
một khoảng thời gian và không gian cụ thể. Đây là đặc điểm quan trọng để phân
biệt TNLĐ và các tai nạn rủi ro khác trong đời sống. Xét về bản chất, TNLĐ cũng
là những tai nạn rủi ro, tuy nhiên, tai nạn rủi ro lại có thể xảy ra với bất kỳ ai, trong
bất cứ hoạt động và điều kiện hồn cảnh nào. Trong khi đó, TNLĐ cũng là những
tai nạn rủi ro nhưng chỉ được xảy ra trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực
hiện cơng việc, nhiệm vụ lao động.7 Dấu hiệu thời điểm và địa điểm xảy ra tai nạn

“trong quá trình lao động, gắn liền với việc thực hiện công việc, nhiệm vụ lao
động” là dấu diệu quan trọng nhất.
Chỉ được coi là TNLĐ khi tai nạn đó xảy ra trong q trình NLĐ thực hiện
các nghĩa vụ lao động được pháp luật quy định và phù hợp với nội quy, quy chế của
đơn vị sử dụng lao động hoặc theo sự thỏa thuận của hai bên trong thỏa ước lao

7

Đồn Cơng n (2013), “An toàn lao động, vệ sinh lao động” trong Giáo trình Luật Lao động

(Trần Hồng Hải chủ biên), trường Đại học Luật Tp.Hồ Chí Minh, Nxb.Hồng Đức, tr.364.


13

động tập thể, HĐLĐ… Còn những trường hợp khác phải được coi là tai nạn rủi ro
và áp dụng chế độ bảo hiểm ốm đau để giải quyết quyền lợi cho NLĐ. Dấu hiệu
nhận biết này còn được mở rộng cả trong “thời gian nghỉ giải lao, ăn giữa ca, ăn
bồi dưỡng hiện vật, vệ sinh kinh nguyệt, tắm rửa, cho con bú, đi vệ sinh, chuẩn bị
và kết thúc công việc tại nơi làm việc”.8 Các loại tai nạn trên tuy khơng gắn liền với
q trình làm việc của NLĐ nhưng là những hoạt động cần thiết hỗ trợ về sức khỏe,
nghiệp vụ cho NLĐ, giúp họ hoàn thành tốt cơng việc của mình. Do đó, các tai nạn
này cũng được xem là một dạng đặc biệt của TNLĐ nhằm bảo vệ quyền lợi cho
NLĐ. Riêng tai nạn xảy ra trên đường đi về giữa nơi làm việc và nơi ở của NLĐ có
được xem là NLĐ hay khơng vẫn còn là vấn đề gây nhiều tranh cãi do khó khăn
trong việc xác định tuyến đường đi về cũng như mức độ liên quan đến quá trình lao
động.
Thứ ba, TNLĐ gây ra những ảnh hưởng về tính mạng, sức khoẻ và kinh tế
cho NLĐ. TNLĐ có thể gây ra những thiệt hại về người và tài sản. Trong đó, thiệt
hại về con người là hậu quả chủ yếu của TNLĐ. Nói cách khác, những tổn hại về

sức khỏe, tính mạng của NLĐ là dấu hiệu bắt buộc của một TNLĐ. Bởi lẽ, TNLĐ
sẽ trực tiếp làm tổn hại đến bất kỳ bộ phận, chức năng nào của cơ thể, chẳng hạn
như gãy tay, gãy chân, bại liệt, mù mắt, bỏng da, … hoặc thậm chí gây tử vong cho
NLĐ. Mức độ thiệt hại của TNLĐ sẽ được xác định thông qua tỷ lệ phần trăm
thương tật của NLĐ. Đồng thời, xét về hiện tại hay về lâu dài thì việc gây ảnh
hưởng đến sức khoẻ cho NLĐ cũng sẽ tác động đến nguồn kinh tế, nguồn thu nhập
của họ. Chính vì vậy, NLĐ được nhà nước ghi nhận và bảo vệ quyền được bồi
thường thiệt hại về tính mạng, sức khỏe phát sinh từ TNLĐ.
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn lao động
Khái niệm

8

Điều 12 Nghị định 45/2013/NĐ-CP.


14

Trong QHLĐ, khi tham gia vào việc giao kết HĐLĐ thì các bên chủ thể đã
xác lập những quyền và nghĩa vụ pháp lý ràng buộc nhau. Những nghĩa vụ này
được các bên xác lập trên cơ sở hoàn toàn tự do, tự nguyện. Do đó, trong q trình
thực hiện nếu có một bên vi phạm các nghĩa vụ (khơng thực hiện hoặc thực hiện
không đúng hay không đầy đủ các yêu cầu về an toàn, vệ sinh lao động) gây thiệt
hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản cho bên kia thì phải bồi thường. Như vậy, khi
xảy ra TNLĐ, tai nạn này đã gây nên những tổn thất về thân thể của NLĐ hoặc có
thể gây thiệt hại về tính mạng của họ, tức là đã có thiệt hại thực tế xảy ra. Đồng
thời, TNLĐ xảy ra cũng có thể làm tổn thất rất lớn về mặt tinh thần khi chức năng
của một hoặc một số bộ phận trên cơ thể bị mất. Do đó, về phương diện pháp lý
buộc NSDLĐ phải bồi thường, và đó cũng là quyền mà NLĐ sẽ được hưởng.
Ngoài ra, cần nhận thấy rằng, quyền được bảo đảm an toàn và sức khỏe trong

lao động từ lâu đã được xác định thuộc nội hàm của quyền con người và trực tiếp
gắn với phạm trù an ninh con người (human security) với hàm nghĩa đa dạng về an
ninh kinh tế (việc làm và thu nhập), an ninh sức khỏe, an ninh môi trường, an ninh
cá nhân, an ninh cộng đồng… Do đó, khi NLĐ được hưởng đầy đủ quyền được
BTTH sẽ giúp đảm bảo các quyền con người khác của NLĐ.
Theo cách hiểu của một số quốc gia trên thế giới, bồi thường lao động được
hiểu như sau:
Bồi thường lao động là một hình thức bảo hiểm cung cấp một khoản tiền mặt
và/hoặc chăm sóc y tế cho NLĐ bị thương hoặc bị bệnh do TNLĐ trực tiếp gây ra.9
Như vậy, chúng ta có thể hiểu, BTTH về tính mạng, sức khỏe phát sinh từ
TNLĐ như sau: “BTTH về tính mạng, sức khỏe phát sinh từ TNLĐ là sự ghi nhận
và bảo vệ của xã hội, của nhà nước đối với những yêu cầu hợp pháp, chính đáng
của NLĐ hoặc thân nhân của họ về những lợi ích vật chất, chăm sóc y tế từ phía

9

(truy cập ngày 12/7/2020).


15

NSDLĐ nhằm bù đắp, BTTH về tính mạng, sức khỏe do TNLĐ gây ra, ngay cả
trong trường hợp NSDLĐ không có lỗi”.
Theo quan điểm chung của pháp luật dân sự, trách nhiệm BTTH chỉ được đặt
ra khi thoả mãn các điều kiện nhất định đó là (i) có thiệt hại xảy ra; (ii) có hành vi
trái pháp luật; và (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hậu quả giữa thiệt hại và hành
vi trái pháp luật. Do đó, về nguyên tắc khi một chủ thể gây thiệt hại cho chủ thể
khác mà không phải là lý do bất khả kháng thì có nghĩa vụ khắc phục hậu quả đã
gây ra. Nghĩa vụ này xuất phát từ lẽ công bằng, từ sự chế ước quyền của một chủ
thể bởi những quyền và lợi ích của chủ thể khác.10

Tuy nhiên, khác với pháp luật dân sự, trong pháp luật lao động, trách nhiệm
BTTH cho NLĐ bị TNLĐ của NSDLĐ là một trách nhiệm bắt buộc cho dù NSDLĐ
có lỗi hay khơng. Nói cách khác, mặc dù NSDLĐ khơng có lỗi vẫn phải chịu trách
nhiệm bồi thường. Đây là điểm đặc thù của pháp luật lao động nhằm bảo vệ cho
NLĐ.
Theo quan điểm của một số người, trong quan hệ bồi thường lao động, không
bên nào được xem xét về lỗi của mình. Số tiền mà NLĐ nhận được khơng tăng hay
giảm theo lỗi của NSDLĐ. Tuy nhiên, NLĐ sẽ không được nhận tiền bồi thường
nếu người đó bị bệnh hoặc tai nạn liên quan đến việc sử dụng ma túy, rượu hoặc cố
ý hủy hoại sức khỏe của mình.11
Sở dĩ trong quan hệ pháp luật BTTH về tính mạng, sức khỏe phát sinh từ
TNLĐ, trách nhiệm của NSDLĐ được đặt ra ngay cả trường hợp người này khơng
có lỗi bởi vì

10

Nguyễn Hữu Chí (chủ biên) (2006), Chế độ bồi thường trong luật Lao động Việt Nam, Nxb.Tư

pháp, Hà Nội, tr.11-12.
11

(truy cập ngày 12/7/2020).


16

Thứ nhất, TNLĐ là một rủi ro và luôn tiềm ẩn ở mọi nơi, trong mọi thời
điểm. Không một ai có thể đảm bảo rằng mơi trường làm việc (bao gồm trang thiết
bị, máy móc, nguyên vật liệu...) đã loại bỏ hồn tồn các yếu tố nguy hiểm. NSDLĐ
chỉ có thể áp dụng mọi biện pháp để hạn chế, giảm thiểu TNLĐ xảy ra chứ không

thể tránh được tuyệt đối TNLĐ. Đặc biệt, đối với trường hợp tai nạn xảy ra trên
đường đi làm hay ở ngoài trời, chúng nằm ngồi sự kiểm sốt của NSDLĐ và khả
năng xảy ra tai nạn càng cao hơn.
Thứ hai, việc đòi hỏi NLĐ phải chứng minh NSDLĐ đã có lỗi là rất khó
khăn, thậm chí khơng thể thực hiện được. Bởi vì mơi trường, điều kiện làm việc là
do NSDLĐ thiết lập trên cơ sở các tiêu chuẩn lao động phức tạp của quốc gia,
ngành. NLĐ với kiến thức phổ thơng của mình, rất khó phát hiện được những hành
vi vi phạm của NSDLĐ. Bên cạnh đó, thực tiễn tại nhiều quốc gia như Việt Nam,
thẩm quyền điều tra TNLĐ lại được giao cho NSDLĐ phối hợp với tổ chức đại diện
NLĐ tiến hành.
Theo Điều 18 Công ước số 155, “mỗi khi cần thiết, NSDLĐ phải tiến hành
các biện pháp để ứng phó với các trường hợp khẩn cấp và các tai nạn, kể cả việc bố
trí các phương tiện cấp cứu thích hợp”. Điều 5(b) Cơng ước số 187 xác định, chính
sách quốc gia phải “đóng góp vào việc bảo vệ NLĐ thơng qua việc loại trừ hoặc
giảm thiểu tới mức có thể được các nguy cơ và rủi ro liên quan đến lao động, phù
hợp với luật và thực tiễn của quốc gia để ngăn chặn tổn thương lao động và bệnh
nghề nghiệp và chết do lao động và tăng cường an toàn và sức khoẻ tại nơi làm
việc”.
1.1.3. Căn cứ áp dụng trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tai nạn lao
động
Để làm phát sinh trách nhiệm BTTH do TNLĐ đòi hỏi phải đáp ứng đủ bốn
căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH, bao gồm: (i) có thiệt hại xảy ra; (ii) có
hành vi trái pháp luật; (iii) có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và
thiệt hại; và (iv) có lỗi của người gây ra thiệt hại.


17

1.1.3.1. Có thiệt hại xảy ra
Thiệt hại xảy ra là tiền đề của trách nhiệm BTTH bởi mục đích của việc áp

dụng trách nhiệm BTTH là khôi phục tài sản cho người bị thiệt hại. Do đó, nếu
khơng có thiệt hại thì khơng phát sinh trách nhiệm bồi thường dù có đầy đủ các điều
kiện khác. Thơng thường, thiệt hại được hiểu là sự suy giảm lợi ích vật chất hoặc
tinh thần của một người do có sự kiện gây thiệt hại của người khác gây ra và có thể
xác định bằng một khoảng tiền nhất định. Nếu không trị giá được thiệt hại bằng một
khoảng tiền nhất định thì không thể thực hiện được trách nhiệm bồi thường.
Trong QHLĐ, NSDLĐ khi bỏ tư liệu sản xuất ra đầu tư ngồi mong muốn
bảo tồn được tài sản họ cịn phải thu được lợi nhuận, tức là tạo ra giá trị thặng dư.
Cịn NLĐ bán sức lao động của mình khơng chủ mong muốn được bảo đảm thu
nhập để nuôi sống bản thân và gia đình mà cịn được bảo vệ tính mạng, sức khoẻ
cũng như khả năng tái tạo sức lao động. Do đó, thiệt hại do TNLĐ chính là sự suy
giảm hoặc mất khả năng lao động, thu nhập từ sức lao động. Thiệt hại do TNLĐ
khác biệt với thiệt hại trong trách nhiệm hình sự. Trách nhiệm hình sự chỉ được đặt
ra khi hành vi đó có tính nguy hiểm cho xã hội và được quy định là tội phạm trong
Bộ luật Hình sự. Một hành vi dù có xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của
người khác, lợi ích cơng cộng mà khơng được quy định trong Bộ luật Hình sự sẽ
khơng bị buộc phải chịu trách nhiệm hình sự. Cịn trách nhiệm BTTH do TNLĐ
trong nhiều trường hợp phát sinh ngay cả khi hậu quả khơng nghiêm trọng. Mặc dù
tính mạng, sức khoẻ con người không thể trị giá được thành tiền nhưng để được bồi
thường thì thiệt hại xảy ra phải là thiệt hại thực tế, được tính tốn bằng một con số
nhất định và phải nhấn mạnh rằng tiền BTTH do TNLĐ không phải là cái giá của
tính mạng, sức khoẻ NLĐ mà đó chỉ là khoản tiền được NSDLĐ chi trả để bù đắp
phần nào thiệt hại cho NLĐ bị TNLĐ và gia đình họ.
1.1.3.2. Có hành vi trái pháp luật
Hành vi trái pháp luật ở đây là những xử sự cụ thể của con người được thể
hiện thông qua hành động hoặc không hành động trái với các quy định của pháp


18


luật12. Thông thường, hành vi trái pháp luật dẫn đến TNLĐ là hành vi vi phạm các
quy định của pháp luật lao động, nội quy lao động hay các thoả thuận hợp pháp
khác giữa NLĐ và NSDLĐ về vấn đề an tồn lao động, vệ sinh lao động và phịng
ngừa TNLĐ. Một điểm đặc biệt nữa trong căn cứ làm phát sinh trách nhiệm BTTH
do TNLĐ đó là trong nhiều trường hợp dù NSDLĐ đã tuân thủ nghiêm ngặt các quy
định về an toàn lao động, bảo hộ lao động khơng có bất cứ hành vi trái pháp luật
nào nhưng khi có TNLĐ xảy ra họ vẫn phải chịu trách nhiệm bồi thường cho NLĐ.
Điều này có thể lý giải vì sức lao động là hàng hố đặc biệt, khơng thể “mua đứt,
bán đoạn” mà NSDLĐ khi mua sức lao động cũng đồng nghĩa với việc mua cả quá
trình sử dụng sức lao động của NLĐ, nên nếu có rủi ro xảy ra trong quá trình lao
động thì NSDLĐ phải chịu trách nhiệm.
Trong nền kinh tế thị trường, nhiều NSDLĐ chỉ lo chạy theo lợi nhuận, tìm
mọi cách để giảm chi phí đầu vào nhằm thu lợi nhuận cao nên khơng chú trọng đến
các yếu tố an tồn lao động, vệ sinh lao động. Chính những hành vi đó là nguyên
nhân chính dẫn đến TNLĐ. Nên khi TNLĐ xảy ra NSDLĐ phải có nghĩa vụ BTTH.
So với hành vi trái pháp luật trong trách nhiệm dân sự thì hành vi vi phạm
pháp luật trong luật lao động có những điểm đặc biệt. Cụ thể, hành vi trái pháp luật
trong trách nhiệm dân sự là hành vi xâm phạm đến lợi ích của nhà nước, lợi ích
công cộng hoặc quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác nói chung. Do đó, xâm
phạm đến những lợi ích này tức là xâm phạm đến những nội dung về quyền và lợi
ích được pháp luật bảo vệ. Vì thế, bất kể đến việc hành vi vi phạm đó xâm phạm
pháp luật nào thì cũng đều bị xem là trái pháp luật và phải bồi thường. Trong khi
đó, hành vi trái pháp luật dẫn đến TNLĐ thường là hành vi vi phạm các quy định
của pháp luật lao động, nội quy lao động, HĐLĐ về an toàn lao động, vệ sinh lao
động dẫn đến một mơi trường lao động khơng an tồn, chứa đựng nhiều nguy cơ

12

Nghị quyết 03/2006/NQ-HĐTP ngày 08/7/2006 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật


Dân sự năm 2005 về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng.


19

gây ra TNLĐ làm thiệt hại đến tính mạng, sức khoẻ của NLĐ. Hành vi này của
NSDLĐ không phải lúc nào cũng là hành vi trực tiếp gây ra thiệt hại mà trong nhiều
trường hợp đó chỉ là những hành vi có ý nghĩa quyết định để dẫn đến TNLĐ.
1.1.3.3. Có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi trái pháp luật và thiệt hại
Nguyên nhân – kết quả là một cặp phạm trù triết học để chỉ mối quan hệ
khách quan, bao hàm tính tất yếu: khơng có ngun nhân nào không dẫn đến một
kết quả nhất định và ngược lại khơng có kết quả nào khơng có ngun nhân13.
Nguyên nhân là cái sinh ra kết quả nên nguyên nhân bao giờ cũng xuất hiện trước
còn kết quả bao giờ cũng xuất hiện sau. Như vậy, để được BTTH thì thiệt hại xảy ra
phải là kết quả trực tiếp của hành vi trái pháp luật, là sự hiện thực hoá khả năng làm
phát sinh thiệt hại của hành vi vi phạm. Mối quan hệ nhân quả rất phức tạp, đa
dạng, có thể có nhiều nguyên nhân dẫn tới thiệt hại cho NLĐ nên cần phải đánh giá
nguyên nhân gây ra TNLĐ một cách thận trọng, khách quan và toàn diện để có thể
đưa ra kết luận phù hợp, đảm bảo quyền lợi hợp pháp của cả NLĐ và NSDLĐ. Trên
thực tế có nhiều trường hợp hành vi gây thiệt hại không phải là nguyên nhân trực
tiếp làm phát sinh thiệt hại nhưng trong điều kiện, hoàn cảnh nhất định lại là nguyên
nhân có ý nghĩa quyết định đối với thiệt hại thì cũng coi là có mối quan hệ nhân quả
đối với thiệt hại.
1.1.3.4. Có lỗi của người gây ra thiệt hại
Lỗi là trạng thái tâm lý phản ánh thái độ tiêu cực của chủ thể đối với hành vi
nguy hiểm cho xã hội mà mình đã thực hiện và hậu quả nguy hiểm hoặc nguy cơ
gây ra hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Lỗi được thể hiện dưới hai dạng là lỗi cố ý và
lỗi vô ý14. Một người thực hiện hành vi trái pháp luật bị coi là có lỗi khi họ thấy

13


Phạm Văn Sinh, Phạm Quang Phan (2009), Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa

Mác – Lênin, nxb.Chính trị quốc gia, tr.81.
14

Đại học luật Tp.Hồ Chí Minh (2016), Tập bài giảng Lý luận về pháp luật, nxb.Hồng Đức, tr.171.


×