ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
NGUYỄN THỊ KIM CHI
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA TRÊN ĐỊA BÀN
•7•
TỈNH BẾN TRE
LUẬN V N THẠC S LUẬT HỌC
TP . HỒ CHÍ MINH - 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - LUẬT
NGUYỄN THỊ KIM CHI
THỰC THI PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ CHẤT
LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HĨA TRÊN ĐỊA BÀN
•7•
TỈNH BẾN TRE
Chun ngành: Luật Kinh tế
Mã số:60 38 01 07
LUẬN V N THẠC S LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS NGÔ HỮU PHƯỚC
TP . HỒ CHÍ MINH - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Qua quá trình làm việc và nghiên cứu, tác giả xin cam đoan Luận văn
là cơng trình nghiên cứu của cá nhân. Luận văn được viết theo hướng ứng
dụng, các số liệu được sử dụng hồn tồn trung thực và có cơ sở.
Để hồn thành luận văn, tác giả có tham khảo các văn bản luật, các
nguồn tài liệu khác (được trích dẫn và nêu trong danh mục tài liệu tham khảo).
Kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ cơng trình
nàokhác. Nếu có điều gì khơng đúng quy định, tác giả hoàn toàn chịu trách
nhiệm. Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
Nguyễn Thị Kim Chi
MỤC LỤC
CHƯƠNG 2 THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT VỀ QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM, HÀNG HÓA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH BẾN
TRE - MỘT SỐ KHÓ KHĂN, VƯỚNG MẮC VÀ GIẢI PHÁP HOÀN
5
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được xem là một trong những yếu tố
quan trọng thúc đẩy sự phát triển bền vững của nền kinh tế - xã hội. Trong tiến
trình hội nhập kinh tế quốc tế, sản phẩm, hàng hóa ngày càng được quản lý
chặt chẽ về chất lượng dựa trên tiêu chuẩn công bố áp dụng và quy chuẩn kỹ
thuật tương ứng. Ngày nay, chất lượng sản phẩm, hàng hố khơng những là
thước đo quan trọng khẳng định sự phát triển bền vững của doanh nghiệp mà
còn là chuẩn mực trong các quan hệ kinh tế, thương mại và sức cạnh tranh của
nền kinh tế.
Năm 2007 Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức
Thương mại Thế giới (WTO). Chính sách mở cửa của Đảng và Nhà nước ta đã
mang lại những cơ hội cho việc trao đổi, thông thương hàng hóa giữa Việt
Nam và các nước. Trong bối cảnh hội nhập và tồn cầu hố, Việt Nam có được
điều kiện thuận lợi, đó là hàng hóa trong nước có nhiều cơ hội xuất khẩu sang
các nước, bên cạnh đó cũng có nhiều thách thức cho các doanh nghiệp Việt
Nam. Để xuất khẩu hàng hóa ra nước ngồi, Việt Nam phải đáp ứng các biện
pháp phòng vệ thương mại của nước nhập khẩu, trong đó bao gồm các rào cản
kỹ thuật. Những rào cản kỹ thuật này được đặt ra nhằm nâng cao chất lượng,
độ an toàn của sản phẩm, hàng hóa, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người
tiêu dùng.Với những thách thức được đặt ra như vậy, các doanh nghiệp ngày
càng phải nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa nhằm tăng sức cạnh tranh,
tạo vị thế của mình trên thị trường trong nước và cả thị trường quốc tế, góp
phần vào q trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa là trách nhiệm của doanh
nghiệp nhưng để kiểm soát được chất lượng sao cho đáp ứng được yêu cầu của
thị trường, của những quy định được đưa ra bởi các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ
6
thuật, đồng thời duy trì được mức chất lượng ổn định của sản phẩm thì cần
phải được thực hiện từ cả hai phía: doanh nghiệp (nhà sản xuất, nhà nhập khẩu,
người bán hàng) và từ phía cơ quan quản lý nhà nước. Về phía Nhà nước dựa
trên mối quan hệ lợi ích hài hịa giữa các bên mà đưa ra quy định nhằm hạn
chế lưu thông hàng kém chất lượng và những hành vi gian lận trong thương
mại. Về phía doanh nghiệp, yêu cầu phải tuân thủ các điều kiện về mặt kỹ
thuật, chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đảm bảo thực hiện đúng theo quy định
về tiêu chuẩn áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật và các quy định có liên quan. Tuy
nhiên, trên thực tế vẫn còn những doanh nghiệp chạy theo lợi nhuận, không
thực hiện đúng quy định về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, tạo sự nhầm lẫn,
gây ảnh hưởng đến lợi ích của người tiêu dùng (như vụ sản xuất, pha chế xăng
giả của công ty TNHH Mỹ Hưng Sóc Trăng, hay vụ ASANZO cố tình khai báo
sai xuất xứ hàng hóa nhằm đánh lừa người tiêu dùng...)
Trong phạm vi đề tài, tác giả đi sâu phân tích những quy định của pháp
luật liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng
hóa.Thời gian qua, hệ thống các quy định của pháp luật về quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hóa đã được ban hành gần như đầy đủ các quy tắc xử sự chung
đối với các hoạt động có liên quan, nhưng trong q trình áp dụng khơng tránh
khỏi những vướng mắc. Một số điều khoản quy định không khả thi, chưa thống
nhất giữa các văn bản gây khó khăn cho hoạt động quản lý nhà nước về tiêu
chuẩn, chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Với lý do đó, tác giả chọn vấn đề “Thực thi pháp luật về quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn tỉnh Bến Tre” làm đề tài luận văn
thạc sĩ của mình nhằm đánh giá những bất cập, hạn chế của các quy định trong
quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan chức năng, đồng thời đề xuất các
giải pháp để hồn thiện pháp luật.
2. Tình hình nghiên cứu
7
Đối với lĩnh vực quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa đã có nhiều tác
giả nghiên cứu, tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể kể đến các kết
quả nghiên cứu như:
- Chu Đức Nhuận (2008), “Vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hóa theo
quy định của pháp luật”,Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 124/2008. Bài viết
nêu lên các yêu cầu về đảm bảo độ an tồn của sản phẩm, hàng hóa; trách
nhiệm bảo đảm chất lượng của sản phẩm, hàng hóa và trách nhiệm dân sự do
vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
- Nguyễn Quang Anh (2014), “Thực trạng và giải pháp đẩy mạnh công
tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa của Ủy ban nhân dân các huyện,
thành phố”, Báo cáo chuyên đề, Chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tỉnh
Bắc Giang. Chuyên đề đã đưa ra các giải pháp đẩy mạnh công tác quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của UBND các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh
Bắc Giang, nhằm giúp cho công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa,
tránh chồng chéo giữa các cơ quan quản lý.
- Trần Thị Thúy Nga (2014), “Trách nhiệm sản phẩm theo pháp luật
bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, luận văn thạc sỹ luật học, Đại học Luật
Thành phố Hồ Chí Minh. Luận văn nghiên cứu các quy định về trách nhiệm
sản phẩm của tổ chức, cá nhân kinh doanh theo pháp luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, đưa ra phương hướng hoàn thiện chế định trách nhiệm sản
phẩm một cách đầy đủ và toàn diện hơn nhằm nâng cao tính khả thi của pháp
luật, tạo điều kiện thuận lợi cho cơ quan nhà nước quản lý tốt hoạt động kinh
doanh, nâng cao ý thức trách nhiệm của doanh nghiệp trong việc sản xuất và
cung ứng sản phẩm, bảo vệ tốt hơn quyền lợi người tiêu dùng.
- Nguyễn Hương (2015), “Khắc phục những bất cập trong quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa”, Báo Nam Định. Bài viết nêu hiện trạng hoạt động
quản lý nhà nước về chất lượng của hàng hóa trên địa bàn tỉnh Nam Định, một
8
số khó khăn trong cơng tác quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa và đề xuất
một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chất lượng sản phẩm hàng
hóa.
- Trần Quốc Tuấn (2015), “Tháo gỡ khó khăn trong kiểm tra chất lượng
hàng hóa”, Cục Quản lý Chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Bài viết nêu lên một
số hạn chế trong công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đề xuất một
số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về chất lượng.
- Huyền Trang (2016), “Quản lý nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất
lượng với yêu cầu phát triển kinh tế xã hội”, Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ
Nghệ An, số 5/2016. Bài viết nhằm chia sẻ kinh nghiệm của Chi cục trưởng
chi cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng tỉnh Nghệ An trong công tác quản lý
nhà nước về tiêu chuẩn đo lường chất lượng.
- Nguyễn Mạnh Hà (2017), Khi văn bản pháp luật “làm khó” lực lượng
thực thi, Tạp chí Khoa học và Cơng nghệ Nghệ An, Số 11/2017. Nêu lên một
số bất cập, không khả thi của quy định xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực tiêu chuẩn đo lường chất lượng.
- Phương Uyên (2018), “Loạn dấu hợp quy”, Báo Sài Gịn giải phóng
điện tử; Thanh Hoa (2018), “Khi tem hợp quy có cũng như không”, Báo Phụ
nữ điện tử. Các bài viết nêu lên thực trạng dấu hợp quy được in ấn tràn lan và
được dán tùy tiện lên các hàng hóa bao gồm những hàng hóa chưa được chứng
nhận và cơng bố hợp quy.
Phần lớn các bài nghiên cứu, bài viết nêu trên nhằm đề cập đến vai trò
quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa, các yếu tố ảnh hưởng đến
quá trình quản lý và đề xuất một số giải pháp thực hiện nhằm đảm bảo chất
lượng sản phẩm, hàng hóa. Qua đó nhằm tạo sự cơng bằng xã hội, thúc đẩy
phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tăng sức cạnh tranh của sản phẩm,
hàng hóa, đảm bảo quyền lợi người tiêu dùng. Tuy nhiên, chưa có cơng trình
9
nghiên cứu về thực trạng quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
trên địa bàn tỉnh Bến Tre, chính vì vậy luận văn có thể xem là một đề tài mang
tính cấp thiết góp phần vào việc nghiên cứu, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Chọn nghiên cứu đề tài, tác giả mong muốn xây dựng một số giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực quản lý nhà nước về chất lượng sản
phẩm, hàng hóa.
Với mục đích trên, tác giả xác định nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài là:
- Tìm hiểu những quy định liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng
hóa.
- Nghiên cứu, phân tích và đánh giá quy định pháp luật đối với thực tiễn
hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa trên địa bàn
tỉnh Bến Tre. Từ đó nêu lên những bất cập, hạn chế của các văn bản quy phạm
pháp luật trong quá trình áp dụng.
- Đề xuất, kiến nghị các giải pháp nhằm góp phần hồn thiện pháp luật,
hạn chế các khiếu nại, phản ánh của của tổ chức, cá nhân đối với các quyết
định hành chính của cơ quan nhà nước; nâng cao hiệu quả trong hoạt động
quản lý nhà nước về lĩnh vực chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
4. Phạm vi nghiên cứu
Với mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đã xác định, đề tài có phạm vi
nghiên cứu về không gian là trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Thực tiễn nghiên cứu
được tác giả chọn trong khoảng thời gian từ năm 2017 đến lúc hoàn thiện đề
tài. Cơ sở pháp luật là các quy định của pháp luật đối với hoạt động quản lý
nhà nước về chất lượng sản phẩm hàng hóa, cụ thể là Luật Tiêu chuẩn và Quy
chuẩn kỹ thuật năm 2006, Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007,
Luật Thanh tra năm 2010, Luật Khiếu nại năm 2011 và các văn bản quy phạm
10
pháp luật có liên quan khác như: Nghị định số 132/2008/NĐ-CP ngày 31 tháng
12 năm 2018 của Chính Phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Nghị định số 119/2017/NĐ-CP ngày 01 tháng
11 năm 2017 của Chính phủ quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong
lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa; Nghị định số
127/2007/NĐ-CP ngày 01 tháng 8 năm 2007 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật...
5 Phương pháp nghiên cứu
Tác giả vận dụng tổng thể các phương pháp nghiên cứu sau đây để
nghiên cứu đề tài này:
- Phương pháp so sánh: Để chỉ ra những quy định chưa được thống nhất
giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong hệ thống pháp luật chất
lượng sản phẩm, hàng hóa (được sử dụng tại Mục 1.2.1. Bất cập về quy
định dấu hợp quy và quyền sử dụng dấu hợp quy; Mục 1.2.2. Bất cập về
quy định thử nghiệm lại mẫu lưu; Mục 2.1.2. Thực tiễn thi hành pháp
luật về quy định thử nghiệm lại mẫu lưu - khó khăn, vướng mắc).
- Phương pháp phân tích: nhằm phân tích những bất cập; đánh giá thực
trạng pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa trên địa bàn tỉnh Bến Tre (được nêu tại Mục 2.1.3. Thực tiễn
thi hành pháp luật về xử lý vi phạm hành chính đối với hành vi vi phạm
chất lượng hàng hóa lưu thơng trên thị trường - khó khăn, vướng mắc).
- Phương pháp tổng hợp: Nhằm khái quát hóa thực trạng áp dụng pháp
luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa; đưa ra các giải pháp đề xuất hoàn
thiện pháp luật (Mục 2.2.Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của
hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
6 Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Luận văn nhằm làm rõ một số vấn đề lý luận của pháp luật Việt Nam về
11
chất lượng sản phẩm, hàng hóa và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Bến Tre. Qua đó
phát hiện những hạn chế, bất cập của pháp luật đối với hoạt động quản lý nhà
nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa, đưa ra những giải pháp nhằm hoàn
thiện pháp luật, khắc phục những khó khăn, vướng mắc qua các hoạt động thực
tiễn. Với những nghiên cứu đã đạt được, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho cơ quan chuyên môn trong hoạt động quản lý nhà nước về chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, cũng như trong cơng tác nghiên cứu, học tập sau
này.
7 Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm hai chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Thực trạng pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa của
Việt Nam.
Chương
sản
phẩm,
2: hàng
Thực
tiễn
trên
thi pháp
địa
hànhbàn
pháp
tỉnh
luật
Bến
vềTre
quản
- một
lý chất
số khó
lượng
khăn,
vướng
mắchóa
và giải
hồn
thiện.
CHƯƠNG 1
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CHẤT LƯỢNG SẢN PHẨM,
HÀNG HĨA CỦA VIỆT NAM
1.1.
1.1.1.
Khái niệm, vai trị của chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Khái niệm, vai trị của chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong
đời sống xã hội; cơ sở pháp lý điều chỉnh về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa
1.1.1.1.
Khái niệm về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Theo Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa thì chất lượng sản phẩm,
hàng hóa là mức độ của các đặc tính của sản phẩm, hàng hóa đáp ứng u cầu
trong tiêu chuẩn cơng bố áp dụng, quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Trong đó,
sản phẩm là kết quả của q trình sản xuất hoặc cung ứng dịch vụ nhằm mục
đích kinh doanh hoặc tiêu dùng; hàng hóa là sản phẩm được đưa vào thị
trường, tiêu dùng thông qua trao đổi, mua bán, tiếp thị.1
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được quản lý trên cơ sở tiêu chuẩn công
bố áp dụng và quy chuẩn kỹ thuật tương ứng. Sản phẩm, hàng hóa được quản
lý theo 02 nhóm:
Nhóm sản phẩm, hàng hóa khơng có khả năng gây mất an tồn (hay cịn
gọi là sản phẩm, hàng hóa nhóm 1) là sản phẩm, hàng hóa trong điều kiện vận
chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, khơng gây hại
cho người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường 2. Sản phẩm, hàng hóa nhóm
1 được quản lý chất lượng trên cơ sở tiêu chuẩn do người sản xuất công bố áp
dụng. Nhà sản xuất, nhà nhập khẩu và người bán tổ chức quản lý chất lượng
sản phẩm theo tiêu chuẩn do mình cơng bố hoặc ký hợp đồng với đối tác
thương mại. Đối với những sản phẩm khơng có u cầu về an toàn, việc đảm
bảo và nâng cao chất lượng hoàn toàn thuộc quyền tự chủ và tự chịu trách
1Khoản 5 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007
2 Khoản 3 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007
nhiệm của nhà sản xuất. Trong trường hợp này các chính sách, biện pháp của
Nhà nước có tính chất khuyến khích, thúc đẩy, tạo mơi trường sản xuất kinh
doanh thuận lợi, phù hợp với các quy luật kinh tế - xã hội để nhà sản xuất có
cơ hội phát triển sản xuất, đảm bảo hài hịa lợi ích của tất cả các bên có liên
quan.
Nhóm sản phẩm, hàng hóa có khả năng gây mất an tồn (hay cịn gọi là
sản phẩm, hàng hóa nhóm 2) là sản phẩm, hàng hóa trong điều kiện vận
chuyển, lưu giữ, bảo quản, sử dụng hợp lý và đúng mục đích, vẫn tiềm ẩn khả
năng gây hại cho người, động vật, thực vật, tài sản, mơi trường 3. Sản phẩm,
hàng hóa nhóm 2 được quản lý chất lượng trên cơ sở quy chuẩn kỹ thuật tương
ứng do cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền ban hành và tiêu chuẩn do
người sản xuất công bố áp dụng.
1.1.1.2.
Vai trò của chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong đời sống xã
hội
Chất lượng sản phẩm, hàng hóa được thể hiện thông qua mức độ đáp
ứng của sản phẩm, hàng hóa đối với nhu cầu của người tiêu dùng và bảo đảm
cho con người, động vật, thực vật, tài sản, môi trường... Việc bảo đảm chất
lượng sản phẩm, hàng hóa có ý nghĩa rất quan trọng với người tiêu dùng,
người sản xuất và nhà nước trong việc duy trì an ninh, trật tự xã hội và lợi ích
quốc gia. Chất lượng được đảm bảo góp phần tiết kiệm nguyên vật liệu, tài
nguyên và giảm thiểu ô nhiễm môi trường.
Với vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, khi chất lượng sản phẩm,
hàng hóa được nâng cao sẽ góp phần nâng cao uy tín của quốc gia, khẳng định
thương hiệu Việt Nam trên trường quốc tế. Sản phẩm, hàng hóa có chất lượng
tốt khơng những mang lại lợi ích về kinh tế, thể hiện nét văn hóa mà nó cịn
thúc đẩy nhanh tiến trình hội nhập, rút ngắn khoảng cách chênh lệch về phát
3Khoản 4 Điều 3 Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007
triển kinh tế; đáp ứng các yêu cầu ngày càng cao cho người tiêu dùng, tạo niềm
tin, thoả mãn ngày càng tốt hơn yêu cầu của khách hàng.
Đối với các doanh nghiệp, khi sản phẩm, hàng hóa được sản xuất đạt
chất lượng cao sẽ góp phần mở rộng thị trường trong nước, gia nhập thị trường
thế giới, tăng thu nhập và tạo tích lũy đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh,
nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho người lao động.
1.1.2.
Lý luận về quản lý nhà nước đối với chất lượng sản phẩm,
hàng hóa
Quản lý nhà nước là một dạng quản lý xã hội đặc biệt, mang tính quyền
lực nhà nước và sử dụng pháp luật nhà nước để điều chỉnh các hành vi của con
người trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội do các cơ quan trong bộ máy
nhà nước thực hiện, nhằm thỏa mãn nhu cầu hợp pháp của con người, duy trì
sự ổn định và phát triển của xã hội.
Trên cơ sở khái niệm về quản lý nhà nước, có thể hiểu được quản lý
nhà nước đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa như sau:
Quản lý nhà nước đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa là đảm bảo
sự kiểm soát cần thiết của nhà nước đối với chất lượng hàng hóa trong hoạt
động sản xuất, kinh doanh; kịp thời uốn nắn các sai sót và ngăn chặn hậu quả
gây thiệt hại tài sản nhà nước, quyền lợi và uy tín quốc gia, quyền lợi và sức
khỏe của người tiêu dùng do hàng hóa khơng đảm bảo chất lượng gây ra.
Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa được xem là hoạt
động của các cơ quan quản lý nhà nước nhằm định hướng phát triển, nâng cao
và kiểm sốt chất lượng sản phẩm, hàng hóa đáp ứng các mục tiêu kinh tế - xã
hội. Quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa là một quá trình đi từ
việc xây dựng, ban hành các văn bản quy phạm pháp luật; tuyên truyền, phổ
biến chế độ, chính sách, pháp luật về chất lượng sản phẩm hàng hóa đến việc
tổ chức bộ máy thực hiện cũng như thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp
luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Hoạt động quản lý nhà nước đối với chất lượng sản phẩm, hàng hóa
nhằm đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, hàng hóa, từ đó nâng cao hiệu
quả sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp
của các tổ chức, cá nhân sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng; sử dụng hợp
lý nguồn tài nguyên thiên nhiên và lao động, bảo vệ môi trường; thúc đẩy tiến
bộ khoa học và công nghệ; tăng cường năng lực quản lý nhà nước, tạo điều
kiện cho việc hợp tác thương mại quốc tế; ổn định trật tự, an toàn xã hội.
1.1.3.
1.1.3.1.
Cơ sở pháp lý điều chỉnh về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa năm 2007
Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa áp dụng đối với mọi tổ chức, cá
nhân sản xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa và tổ chức, cá nhân có hoạt
động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa tại Việt Nam.
Hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa phải bảo
đảm minh bạch, khách quan, không phân biệt đối xử về xuất xứ hàng hóa và tổ
chức, cá nhân có hoạt động liên quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa, phù
hợp với thơng lệ quốc tế, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
sản xuất kinh doanh và người tiêu dùng.
Để quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Chất lượng sản phẩm,
hàng hóa đã đưa ra các nguyên tắc và chính sách như sau:
Thứ nhất, chính sách về các hoạt động liên quan đến chất lượng sản
phẩm, hàng hóa. Nhà nước khuyến khích tổ chức, cá nhân xây dựng và áp
dụng các hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến, công cụ nâng cao năng suất
chất lượng thơng qua các chương trình, dự án như Chương trình quốc gia
“Nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa của doanh nghiệp Việt
Nam đến năm 2020”Tại tỉnh Bến Tre, được cụ thể hóa thành Dự án “Nâng cao
năng suất và chất lượng sản phẩm, hàng hóa cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa
tỉnh Bến Tre giai đoạn 2013-2020”.
Tuyên truyền, phổ biến về các quy định, các chính sách đến doanh
nghiệp; Tăng cường hợp tác giữa các quốc gia đối với các hoạt động liên quan
đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Đưa ra các quy định nghiêm cấm việc sản
xuất, nhập khẩu, mua bán, trao dổi... những hàng hóa khơng đảm bảo quy
chuẩn kỹ thuật tương ứng, những hàng hóa khơng có nguồn gốc xuất xứ. Để
khuyến khích các doanh nghiệp quan tâm hơn nữa đến chất lượng sản phẩm,
hàng hóa, hàng năm, Hội đồng Giải thưởng Chất lượng Quốc gia tổ chức xét
tặng giải thưởng cho các doanh nghiệp có hoạt động nổi bật, được sự tín nhiệm
của người tiêu dùng do sản xuất những sản phẩm, hàng hóa có chất lượng cao.
Thứ hai, Luật quy định cụ thể về quyền và nghĩa vụ của người sản xuất,
người nhập khẩu, người xuất khẩu, người bán hàng, người tiêu dùng đối với
chất lượng sản phẩm, hàng hóa mà mình sản xuất, cung ứng, nhập khẩu, xuất
khẩu, bán cho người tiêu dùng.
Thứ ba, quy định cụ thể về quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa trong
các khâu sản xuất, xuất khẩu, nhập khẩu, lưu thơng trên thị trường và trong q
trình sử dụng. Chất lượng sản phẩm, hàng hóa phải được quản lý thông qua
việc công bố tiêu chuẩn áp dụng; thông qua việc công bố phù hợp với tiêu
chuẩn (công bố hợp chuẩn) và phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật (công bố hợp
quy).
Thứ tư, quy định cụ thể về kiểm tra, thanh tra của cơ quan nhà nước về
chất lượng sản phẩm, hàng hóa. Theo đó, cơ quan chức năng được giao nhiệm
vụ có nhiệm vụ thanh tra việc thực hiện pháp luật của các tổ chức, cá nhân sản
xuất, kinh doanh sản phẩm, hàng hóa và tổ chức, cá nhân có hoạt động liên
quan đến chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Thứ năm, quy định về giải quyết tranh chấp, bồi thường thiệt hại, giải
quyết khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm pháp luật về chất lượng sản phẩm,
hàng hóa.
Thứ sáu, quy định cụ thể trách nhiệm quản lý nhà nước về chất lượng
sản phẩm, hàng hóa. Theo đó, ngồi việc quy định trách nhiệm quản lý chất
lượng sản phẩm, hàng hóa của các bộ, ngành, Luật quy định Bộ Khoa học và
Cơng nghệ với vai trị là cơ quan chịu trách nhiệm trước Chính phủ, thống nhất
quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
1.1.3.2.
Vai trị của Luật Chất lượng sản phẩm, hàng hóa đối với nền
kinh tế và xã hội
Trước khi Luật chất lượng sản phẩm, hàng hoá nêu trên được ban hành,
nước ta đã từng tồn tại một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật khá đồ sộ
quy định về vấn đề chất lượng sản phẩm, hàng hoá, bao gồm Pháp lệnh chất
lượng hàng hoá (ban hành năm 1999) và các văn bản do Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ, các Bộ, cơ quan liên quan ban hành để quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành Pháp lệnh trên. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật về chất lượng chưa
thống nhất và đồng bộ, có những điểm bất cập với yêu cầu quản lý chất lượng
sản phẩm, hàng hố trong tình hình mới.
Cũng như nhiều nước trên thế giới, quản lý nhà nước về chất lượng sản
phẩm, hàng hoá là vấn đề có ý nghĩa quan trọng đối với việc tăng cường khả
năng cạnh tranh của hàng hoá, dịch vụ, nhất là trong bối cảnh nền kinh tế Việt
Nam ngày càng hội nhập sâu, rộng với kinh tế thế giới. Luật Chất lượng sản
phẩm, hàng hóa được ban hành là bước quan trọng góp phần hồn thiện khn
khổ pháp lý cho hoạt động quản lý chất lượng hướng vào mục tiêu nâng cao
chất lượng của sản phẩm, hàng hóa sản xuất trong nước, góp phần thúc đẩy
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp và cả nền kinh tế trong bối cảnh tự do
hố thương mại và hội nhập; đổi mới vai trị điều tiết của Nhà nước kết hợp
linh hoạt với điều tiết của thị trường nhằm định hướng và bảo đảm cho hoạt
động chất lượng có tác động tích cực tới sự phát triển kinh tế, giúp các doanh
nghiệp và sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam vượt qua các rào cản kỹ thuật trên
cơ sở đáp ứng các tiêu chuẩn khắt khe của thị trường xuất khẩu, đồng thời, bảo
vệ được lợi ích quốc gia và người tiêu dùng trong nước thơng qua các biện
pháp kiểm sốt chất lượng đối với hàng hoá nhập khẩu; đổi mới cơ chế quản lý
chất lượng phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và yêu cầu quản
lý kinh tế cũng như các tập quán quốc tế trong lĩnh vực chất lượng; bảo đảm
tối đa quyền lợi người tiêu dùng thơng qua cơ chế kiểm sốt chất lượng chặt
chẽ, toàn diện, kể cả các biện pháp mạnh từ phía Nhà nước đối với các hành vi
vi phạm pháp luật về chất lượng. Việc ban hành Luật này cũng nhằm tạo sự
đồng bộ với hệ thống các quy định của Luật tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
được Quốc hội khoá X ban hành năm 2006 (Luật số 68/2006/QH11)4
1.1.3.3.
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006
Những nội dung cơ bản của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm
2016:
Tiêu chuẩn là quy định về đặc tính kỹ thuật và yêu cầu quản lý dùng làm
chuẩn để phân loại, đánh giá sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ, q trình, mơi
trường và các đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội nhằm nâng cao
chất lượng và hiệu quả của các đối tượng này5. Tiêu chuẩn được áp dụng trên
nguyên tắc tự nguyện, do một tổ chức công bố dưới dạng văn bản để tự nguyện
áp dụng.
Quy chuẩn kỹ thuật là quy định về mức giới hạn của đặc tính kỹ thuật và
yêu cầu quản lý mà sản phẩm, hàng hố, dịch vụ, q trình, mơi trường và các
đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội phải tuân thủ để bảo đảm an
toàn, vệ sinh, sức khoẻ con người; bảo vệ động vật, thực vật, mơi trường; bảo
vệ lợi ích và an ninh quốc gia, quyền lợi của người tiêu dùng và các yêu cầu
4Nguyễn Văn Quynh, Một số nội dung cơ bản của Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa
/>5 Khoản 1 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006
thiết yếu khác. Quy chuẩn kỹ thuật do cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban
hành dưới dạng văn bản để bắt buộc áp dụng.6 Quy chuẩn kỹ thuật được áp
dụng bắt buộc trong hoạt động sản xuất, kinh doanh và các hoạt động kinh tế xã hội khác.
Đối tượng của hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và đối tượng của hoạt
động trong lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật bao gồm: sản phẩm, hàng hố; dịch vụ;
q trình; mơi trường vàcác đối tượng khác trong hoạt động kinh tế - xã hội.
Các hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật dựa trên các
nguyên tắc: bảo đảm nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động kinh tế - xã
hội, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hoá và dịch vụ trên thị trường
trong nước và quốc tế; phải đáp ứng yêu cầu về an toàn, an ninh quốc gia, vệ
sinh, sức khoẻ con người, quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan,
bảo vệ động vật, thực vật, mơi trường và sử dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên;
bảo đảm công khai, minh bạch, không phân biệt đối xử và không gây trở ngại
không cần thiết đối với hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại.
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật quy định các nội dung theo các
định hướng cơ bản sau đây:
Một là, thể chế hoá các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về
phát triển hoạt động tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật phục vụ các mục tiêu
phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập kinh tế quốc tế.
Hai là, đổi mới toàn diện tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật theo hướng thống nhất đầu mối quản lý, giản lược
các cấp tiêu chuẩn, áp dụng linh hoạt chế độ tiêu chuẩn tự nguyện áp dụng và
quy chuẩn kỹ thuật bắt buộc áp dụng,... nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tạo
bước tiến rõ rệt về năng suất, chất lượng của các sản phẩm, dịch vụ trong nước,
thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và chất lượng tăng trưởng
6 Khoản 2 Điều 3 Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006
của nền kinh tế.
Ba là, bảo đảm sự quản lý thống nhất của Nhà nước cũng như quyền lợi
và trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân trong hoạt động tiêu chuẩn và quy
chuẩn kỹ thuật. Kế thừa các quy định của hệ thống pháp luật hiện hành về tiêu
chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đã được thực tiễn kiểm nghiệm và tham khảo có
chọn lọc kinh nghiệm pháp luật của các nước để vận dụng phù hợp với tình
hình Việt Nam.
1.1.3.4.
Vai trò của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật đối với
nền kinh tế và xã hội
Cùng với sự phát triển của đời sống kinh tế - xã hội, hoạt động xây
dựng, ban hành và áp dụng tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật (hoạt động tiêu
chuẩn hoá) trở thành một bộ phận không thể tách rời của hoạt động sản xuất,
kinh doanh và quản lý kinh tế - xã hội. Tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật là
cơng cụ và phương tiện quan trọng để duy trì các chuẩn mực trong các quan hệ
kinh tế, thương mại; thúc đẩy doanh nghiệp quan tâm đổi mới, nâng cao chất
lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ; đảm bảo an toàn, vệ
sinh, sức khoẻ cho con người; bảo vệ động vật, thực vật và môi trường, sử
dụng hợp lí tài nguyên thiên nhiên để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của
người tiêu dùng và xã hội.7
Điều này cũng đã được Tổ chức Quốc tế về tiêu chuẩn hóa (ISO) xác
định: Tiêu chuẩn được xem là “xương sống” của xã hội khi chúng bảo đảm sự
an toàn và chất lượng sản phẩm và dịch vụ, tạo thuận lợi cho thương mại quốc
tế và cải thiện môi trường mà chúng ta đang sống. Sự phù hợp với tiêu chuẩn
sẽ giúp đảm bảo với người tiêu dùng rằng sản phẩm, hệ thống và tổ chức là an
toàn, đáng tin cậy và tốt cho môi trường.
Đối với doanh nghiệp, Tiêu chuẩn giúp các doanh nghiệp tiếp cận thị
7Tổng cục Tiêu chuẩn Đo lường Chất lượng (2015), Hoạt động quản lý về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật
/>
trường mới, thông qua việc đảm bảo sự phù hợp của sản phẩm và dịch vụ;
giảm tác động của doanh nghiệp lên môi trường. Tiêu chuẩn là công cụ chiến
lược và định hướng để giúp các công ty giải quyết một số thách thức đòi hỏi
khắt khe nhất của hoạt động kinh doanh hiện đại. Chúng đảm bảo cho các hoạt
động kinh doanh càng ngày càng hiệu quả, làm tăng năng suất. Tiêu chuẩn
giúp cho doanh nghiệp cắt giảm chi phí thơng qua việc cải thiện hệ thống và
các q trình; tăng khả năng cạnh tranh, sự hài lịng của khách hàng thơng qua
cải thiện an tồn, chất lượng và quá trình.
Đối với người tiêu dùng, tiêu chuẩn nâng cao chất lượng cuộc sống. Khi
các sản phẩm và dịch vụ phù hợp với tiêu chuẩn, người tiêu dùng có thể tin
tưởng rằng chúng là an toàn, đáng tin cậy và có chất lượng phù hợp. Tiêu
chuẩn được sử dụng để khảo sát đánh giá chất lượng về các sản phẩm để cảnh
báo cho xã hội và người tiêu dùng về các nguy cơ gây mất an tồn.Với cuộc
cách mạng cơng nghiệp 4.0 thì tiêu chuẩn càng thể hiện vai trị của mình trong
quá trình đồng hành và phát triển.
Nếu như tiêu chuẩn là thước đo để xem xét mức chất lượng của sản
phẩm, hàng hóa thì Quy chuẩn kỹ thuật được xem là cơng cụ đánh giá độ an
tồn của sản phẩm, hàng hóa nhóm 2 mà bắt buộc những nhà sản xuất kinh
doanh phải tuân thủ.
Hệ thống tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật đã và đang trở thành cơng cụ
hữu hiệu góp phần đắc lực phục vụ u cầu quản lý kinh tế - xã hội của đất
nước qua các thời kỳ và đưa hoạt động quản lý chất lượng sản phẩm, hàng hóa,
dịch vụ nói chung đi vào nề nếp. Hoạt động quản lý nhà nước về tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật cũng được đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động
nhằm theo kịp với các chuyển đổi mạnh mẽ trong quản lý kinh tế- xã hội của
đất nước và đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế của đất nước.
Để hoạt động tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật được theo một trình tự
nhất định, đáp ứng nhu cầu chung của tổ chức, cá nhân trong nước và phù hợp
với chuẩn mực của quốc tế, Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật được ban
hành đã tạo nên khuôn khổ pháp lý chung cho các tổ chức, cá nhân có liên
quan cùng thực hiện, thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế xã hội, nâng cao
khả năng cạnh tranh của sản phẩm hàng hóa trong nước so với thị trường quốc
tế. Bên cạnh đó, Nhà nước ta đã đưa ra các chính sách về phát triển hoạt động
trong lĩnh vực tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật. Cụ thể, Nhà nước chú trọng
đầu tư xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ
quản lý nhà nước về hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn
kỹ thuật; hỗ trợ, thúc đẩy nghiên cứu, ứng dụng khoa học và phát triển công
nghệ phục vụ hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh vực quy chuẩn kỹ
thuật; khuyến khích tổ chức, cá nhân trong nước, tổ chức, cá nhân nước ngoài,
người Việt Nam định cư ở nước ngoài tham gia xây dựng, áp dụng tiêu chuẩn
và quy chuẩn kỹ thuật, đầu tư phát triển hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và
lĩnh vực quy chuẩn kỹ thuật tại Việt Nam, đào tạo kiến thức về tiêu chuẩn và
quy chuẩn kỹ thuật cho các ngành kinh tế - kỹ thuật.
Bên cạnh việc khuyến khích phát triển các hoạt động trong lĩnh vực
tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật, Nhà nước cũng đưa ra các quy định nghiêm
cấm đối với các hành vi: lợi dụng hoạt động trong lĩnh vực tiêu chuẩn và lĩnh
vực quy chuẩn kỹ thuật để cản trở, gây phiền hà, sách nhiễu đối với hoạt động
sản xuất, kinh doanh, thương mại của tổ chức, cá nhân; thông tin, quảng cáo
sai sự thật; lợi dụng các hoạt động về tiêu chuẩn và quy chuẩn kỹ thuật để gây
phương hại đến lợi ích quốc gia, quốc phịng, an ninh, trật tự, an tồn xã hội.
1.2.
Một số bất cập của pháp luật về chất lượng sản phẩm, hàng hóa
của Việt Nam
1.2.1.
Bất cập về quy định dấu hợp quy và quyền sử dụng dấu hợp
quy
Dấu hợp quy hay còn gọi là tem hợp quy, là ký hiệu gắn dấu CR cho sản
phẩm, hàng hóa. Đây là đặc điểm chứng nhận sản phẩm của doanh nghiệp đảm
bảo phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật, đảm bảo độ an toàn cho người tiêu dùng,
được phép lưu thông và tiêu thụ trên thị trường. Ngồi việc đảm bảo về chất
lượng, nhóm hàng hóa có nguy cơ gây mất an toàn 8 cho người tiêu dùng (hàng
hóa nhóm 2) cịn được bắt buộc phải cơng bố phù hợp với quy chuẩn kỹ thuật
tương ứng, điều này thể hiện qua việc dán dấu hợp quy trên sản phẩm đã được
chứng nhận. Doanh nghiệp chỉ được phép sử dụng dấu hợp quy cho một sản
phẩm, hàng hóa khi sản phẩm, hàng hóa đó đã được chứng nhận và cơng bố
hợp quy.
Hình dạng, kết cấu và cách sử dụng, thể hiện dấu hợp quy đã được
Thông tư 28/2012/TT-BKHCN của Bộ Khoa học và Công nghệ9 quy định tại
khoản 2 Điều 4 như sau: dấu hợp quy được sử dụng trực tiếp trên sản phẩm,
hàng hóa; trên bao bì; trong tài liệu kỹ thuật hoặc trên nhãn gắn trên sản phẩm,
hàng hóa ở vị trí dễ thấy, dễ đọc; dấu hợp quy phải bảo đảm khơng dễ tẩy xóa
và khơng thể bóc ra gắn lại; có hình dạng, kích thước theo quy định (có thể
được phóng to hoặc thu nhỏ nhưng phải đảm bảo đúng tỷ lệ, kích thước cơ bản
của dấu hợp quy và nhận biết được bằng mắt thường); dấu hợp quy phải được
thiết kế và thể hiện cùng một màu, dễ nhận biết.10
Có thể nói, dấu hợp quy chính là cơ sở giúp cho người tiêu dùng về cơ
bản lựa chọn được những sản phẩm đáp ứng điều kiện về độ an toàn, đạt chất
lượng phù hợp với quy định của quy chuẩn kỹ thuật tương ứng (đối với hàng
8Khi sản phẩm có khuyết tật khơng được kiểm sốt tốt từ q trình sản xuất, hoặc hàng hóa phát sinh khuyết
tật trong q trình vận chuyển, bảo quản, lưu thơng, sử dụng, thì có khả năng sản phẩm, hàng hóa đó gây mất
an tồn ở mức độ khác nhau.
9 Thông tư quy định về công bố hợp chuẩn, công bố hợp quy và phương thức đánh giá sự phù hợp với tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật
10 Xem Phụ lục Hình dạng, kích thước của dấu hợp quy.
hóa nhóm 2). Tuy nhiên, việc quy định sử dụng dấu hợp quy vẫn chưa được
thống nhất trong hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật. Cụ thể:
Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ thuật năm 2006 quy định về quyền và
nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân đề nghị chứng nhận hợp quy. Trong đó, tổ chức,
cá nhân có quyền “sử dụng dấu hợp quy trên sản phẩm, hàng hóa, bao gói của
sản phẩm, hàng hóa, trong tài liệu về sản phẩm, hàng hóa đã được chứng nhận
hợp quy, công bố hợp quy” - một trong các quyền của tổ chức, cá nhân, được
nêu tại điểm c khoản 1 Điều 49.
Để chi tiết thi hành một số điều của Luật Tiêu chuẩn và Quy chuẩn kỹ
thuật, Nghị định 127/2007/NĐ-CP quy định: dấu hợp quy do tổ chức chứng
nhận cấp cho sản phẩm, hàng hoá được chứng nhận hợp quy hoặc do tổ chức,
cá nhân gắn cho sản phẩm, hàng hoá sau khi đã chứng nhận và đăng ký công
bố hợp quy. Tổ chức, cá nhân sản xuất, kinh doanh tự thể hiện dấu hợp quy
trên sản phẩm, hàng hóa, bao gói sản phẩm, hàng hóa, tài liệu về sản phẩm,
hàng hóa, dịch vụ, q trình, mơi trường đã được chứng nhận hợp quy. 11
Bên cạnh đó, dấu hợp quy cũng được đề cập tại Nghị định 43/2017/ NĐCP về nhãn hàng hóa. Trong đó, sử dụng dấu hợp quy là quyền của tổ chức, cá
nhân, họ có thể thể hiện hoặc không thể hiện dấu hợp quy trên nhãn hàng hóa.
Cụ thể khoản 1 Điều 18 quy định “Tổ chức, cá nhân chịu trách nhiệm về hàng
hóa được thể hiện mã số, mã vạch, dấu hợp chuẩn, dấu hợp quy và những nội
dung khác (nếu có). Những nội dung thể hiện thêm không được trái với pháp
luật và phải bảo đảm trung thực, chính xác, phản ánh đúng bản chất của hàng
hóa, khơng che khuất, khơng làm sai lệch những nội dung bắt buộc trên nhãn”.
Quy định này được hiểu dấu hợp quy không phải là nội dung bắt buộc theo quy
định về nhãn hàng hóa.
Từ hệ thống quy định về dấu hợp quy cho thấy, tổ chức, cá nhân sản
11"Khoản 2, khoản 3 Điều 15 Nghị định 127/2007/NĐ-CP
xuất, kinh doanh sau khi được chứng nhận hợp quy có thể tự thể hiện dấu hợp
quy. Việc sử dụng dấu hợp quy khơng mang tính bắt buộc, mà đó là “quyền”
của tổ chức, cá nhân.
Tuy nhiên, khi quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
tiêu chuẩn, đo lường và chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Nghị định
119/2017/NĐ-CP lại đưa ra mức xử phạt từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000
đồng đối với hành vi “không sử dụng dấu hợp quy, sử dụng dấu hợp quy không
đúng quy định đối với sản phẩm, hàng hóa đã được cơng bố hợp quy khi đưa ra
lưu thông thị trường”12. Như vậy, việc không sử dụng dấu hợp quy hay sử dụng
dấu hợp quy không đúng quy định theo Nghị định 119/2017/NĐ- CP được xem
là hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiêu chuẩn, đo lường và chất
lượng sản phẩm, hàng hóa.
Qua việc phân tích các văn bản quy phạm pháp luật trên cho chúng ta
thấy việc quy định quyền sử dụng dấu hợp quy giữa các văn bản quy phạm
pháp luật không thống nhất nhau. Luật và các Nghị định hướng dẫn thi hành
quy định việc sử dụng dấu hợp quy trên sản phẩm, hàng hóa đã được chứng
nhận là quyền của tổ chức, cá nhân, do tổ chức, cá nhân tự nguyện áp dụng.
Trái lại, Nghị định quy định về xử phạt vi phạm hành chính cùng lĩnh vực lại
có quy định “khơng sử dụng dấu hợp quy” là một hành vi vi phạm hành chính
và đưa ra chế tài xử phạt. Với những quy định theo kiểu “trống đánh xui, kèn
thổi ngược” như vậy rất khó cho lực lượng thực thi trong quá trình áp dụng vào
hoạt động quản lý nhà nước về chất lượng sản phẩm, hàng hóa.
Về quan điểm cá nhân, tác giả nhận thấy, khi việc sử dụng dấu hợp quy
được xem là “quyền” thì tổ chức, cá nhân có thể lựa chọn sử dụng hay khơng
sử dụng. Khi đó, dễ dẫn đến trường hợp sản phẩm, hàng hóa chưa được chứng
nhận hợp quy trà trộn vào những sản phẩm, hàng hóa đã được chứng nhận, tạo
12
Điểm c khoản 3 Điều 19 Nghị định 119/2017/NĐ-CP