Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

KINH TẾ VĨ MÔ CỦA NỀN KINH TẾ MỞ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.5 KB, 20 trang )

Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

BÀI 7

KINH TẾ VĨ MÔ CỦA NỀN KINH TẾ MỞ

Hướng dẫn học
Để học tốt bài này, học viên cần tham khảo các phương pháp học sau:
 Học đúng lịch trình của môn học theo tuần, làm các bài luyện tập đầy đủ và tham gia
thảo luận trên diễn đàn.
 Đọc tài liệu:
1. Giáo trình Kinh tế học - Tập II – NXB Kinh tế Quốc dân, 2012
Chủ biên. PGS.TS. Vũ Kim Dung và PGS.TS. Nguyễn Văn Công.
2. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Giáo trình Ngun lý kinh tế
học vĩ mơ, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
3. Bộ môn Kinh tế vĩ mô (Đại học Kinh tế Quốc dân), Bài tập Nguyên lý kinh tế vĩ
mô, Nhà Xuất Bản Lao động, 2012.
 Học viên làm việc theo nhóm và trao đổi với giảng viên trực tiếp tại lớp học hoặc qua email.
 Trang Web mơn học.
Nội dung
 Cán cân thanh tốn.
 Tỷ giá hối đoái.
 Thị trường ngoại hối.
 Các hệ thống tỷ giá hối đoái.
 Tác động của sự thay đổi tỷ giá đến nền kinh tế.
Mục tiêu


Giúp học viên nhận biết được cấu trúc của bảng cán cân thanh toán;




Giúp học viên nhận biết được các yếu tố tác động tới tỷ giá hối đoái;



Giúp học viên nhận biết được tác động của tỷ giá hối đoái tới nền kinh tế.

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

91


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

Tình huống dẫn nhập
Ngày 11/02/2011 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam điều chỉnh tỷ giá giữa VND với USD tăng
thêm 9,3%. Tại sao NHNN lại làm như vậy, chính sách này ảnh hưởng như thế nào đến các hoạt
động kinh tế?

1. Để giải quyết các câu hỏi trên, cần làm rõ: định nghĩa của tỷ giá hối đoái, các
yếu tố tác động tới tỷ giá, vài trò của tỷ giá trong hoạt động kinh tế.
2. Tất cả những vấn đề trên được nghiên cứu trong bài học này

92

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở


7.1.

Cán cân thanh toán

7.1.1.

Khái niệm

Ngày nay, hầu hết các quốc gia đều có độ mở kinh tế khá cao trên lĩnh vực thương
mại hàng hóa, dịch vụ, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư danh mục nước ngoài, và
các dòng di cư của lao động. Với mức độ hội nhập kinh tế tương đối cao thì tầm ảnh
hưởng của kinh tế thế giới tới nền kinh tế bản địa ngày càng trở nên mạnh mẽ và quan
trọng đối với sự ổn định và phát triển kinh tế của nền kinh tế đó.
Chính vì lý do đó, các nhà kinh tế rất cần thiết phải theo dõi những hoạt động kinh tế
mang tính chất đối ngoại như trên để có thể có những chính sách phản ứng đúng đắn
và kịp thời. Vậy họ sẽ phải theo dõi những chỉ tiêu gì và lấy thơng tin về chúng ở đâu?
Bảng cán cân thanh toán là một bảng thống kê rất quan trọng của quốc gia mà các nhà
kinh tế cần phải theo dõi rất sát sao để nắm được những thông tin, từ tổng thể tới chi
tiết, về hoạt động kinh tế đối ngoại của nền kinh tế đó.
Theo định nghĩa, bảng cán cân thanh toán là bảng
thống kê ghi chép lại một cách có hệ thống và khoa
học các giao dịch kinh tế giữa cư dân trong nước với
cư dân nước ngồi trong một thời kỳ nhất định, thơng
thường là một năm.
Các giao dịch kinh tế được nói tới ở đây bao gồm các
giao dịch về trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa cư dân hai quốc gia, tức là hoạt động
xuất nhập khẩu. Bên cạnh đó cịn có các giao dịch dưới hình thức vay và cho vay vốn
giữa cư dân hai nước, khi đó nó sẽ xác nhận quốc gia này là nước nợ hay nước chủ nợ
của thế giới. Ngồi ra, bảng này cịn bao qt các giao dịch về mua bán tài sản ngoại tệ
của Ngân hàng Trung ương, qua đó làm thay đổi mức dự trữ ngoại hối của cơ quan này.

Tất cả những dữ liệu về giao dịch kinh tế giữa cư dân trong nước và cư dân nước
ngoài được cơ quan thống kê quốc gia thu thập từ dữ liệu tại cơ quan hải quan (số liệu
về hoạt động thương mại hàng hóa, dịch vụ), các tổ chức tài chính như ngân hàng
thương mại, thị trường chứng khoán, và các định chế tài chính khác, các doanh nghiệp
có hoạt động kinh tế với nước ngồi, các cơ quan chính phủ phụ trách về mảng viện
trợ và nhận viện trợ nước ngoài, và Ngân hàng Trung ương và một số nguồn thông tin
bổ sung khác. Tuy nhiên, chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy tình trùng lặp về dữ liệu
cũng như độ chênh về thời gian giữa các nguồn này. Ví dụ dữ liệu về giá trị một lơ
hàng nhập khẩu có thể vừa tìm thấy từ cơ quan hải quan và cũng có tìm thấy ở ngân
hàng mà thực hiện thanh tốn cho giao dịch này, tuy nhiên có thể nguồn tiền chuyển
sớm hơn hoặc chậm hơn so với thời điểm giao hàng và vì vậy có thể sẽ làm phát sinh
những sai số nhất định. Trên thế giới, Quỹ Tiền tệ Quốc tế đảm trách việc xây dựng
một bảng cán cân thanh toán chuẩn cho các quốc gia để giúp cho việc phân tích và so
sánh ở phạm vi quốc tế được đơn giản hơn. Tất nhiên, sẽ có những khác biệt nhất định
giữa bảng cán cân thanh toán do từng quốc gia xây dựng với bảng cán cân thanh tốn
do Quỹ Tiền tệ Quốc tế xây dựng vì các tiêu chuẩn của hai nơi có thể khác nhau.

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

93


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

7.1.2.

Các tài khoản của cán cân thanh toán

Như định nghĩa ở trên, các giao dịch kinh tế được ghi chép trong bảng cán cân thanh
tốn khơng phải theo kiểu liệt kê mà nó sẽ được cấu trúc một cách cơ đọng nhất nhưng

cũng truyền tải nhiều ý nghĩa và thông tin nhất.
Theo truyền thống, bảng cán cân thanh toán được cấu trúc thành hai phần chính là tài
khoản vãng lai và tài khoản vốn. Các giao dịch kinh tế sẽ được sắp xếp vào trong hai tài
khoản này. Trong khi tài khoản vãng lai phản ánh các luồng thu nhập rịng giữa cư dân
trong nước và cư dân nước ngồi thì tài khoản vốn phản ánh các thay đổi rịng trong cơ
cấu tài sản và nợ giữa cư dân trong nước và cư dân nước ngoài. Bản thân trong tài khoản
vãng lai và tài khoản vốn, người ta có thể chia tiếp thành các tiểu khoản. Tại nhiều quốc
gia, tài khoản vốn đã được phân tách thành hai nhóm là tài khoản vốn của khu vực tư
nhân, mà chúng ta gọi tắt là tài khoản vốn, và tài khoản vốn của ngân hàng trung ương,
mà chúng ta gọi là tài khoản điều chỉnh chính thức. Đơn vị trong bảng cán cân thanh tốn
có thể ghi bằng nội tệ, hoặc một số quốc gia có thể ghi bằng đơla Mỹ.
Mỗi một giao dịch giữa cư dân trong nước ln có hai phía (nguyên tắc của hoạt động
nhập sổ kép trong kế tốn), nhận và chi trả, và cả hai phía này sẽ đều được ghi lại
trong số liệu thống kê cán cân thanh toán. Bảng 7.1 cung cấp dữ liệu cán cân thanh
toán do Quỹ Tiền tệ Quốc tế xây dựng cho Việt Nam.
Đơn vị: triệu USD

94

2002

2003

2004

2005

2006

2007


2008

I - Cán cân
tài khoản
vãng lai

-676

-1935

-1565

-560

-164

-6992

-9238

Cán cân
thương mại

-1054

-2582

-2287


-2439

-2776

-10360

12284

Xuất khẩu,
f.o.b

16706

20149

26485

32447

39826

48561

62906

Nhập khẩu,
f.o.b

17760


22730

28772

34886

42602

58921

75189

Dịch vụ phi
nhân tố
(ròng)

-749

-778

-871

-296

-8

-894

-2315


Nhận

2948

3272

3867

4176

5100

6030

6300

Trả

3697

4050

4739

4472

5108

6924


8615

Thu nhập từ
đầu tư (rịng)

-794

-814

-891

-1205

-1429

-2168

-1969

Nhận

167

125

188

364

668


1093

1068

Trả

961

939

1079

1569

2097

3261

3037

Chuyển khoản
(rịng)

1921

2239

2485


3380

4049

6430

7330

Tư nhân

1767

2100

2310

3150

3800

6180

7000

Chính thức

154

139


175

230

249

250

330

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở
II - Cán cân
tài khoản
vốn

1071

4086

2447

Tổng FDI vào

2023

1894


1878

Vốn góp

1882

1294

1283

Giải ngân cho
vay

141

600

595

Hồn trả nợ
FDI

414

590

536

FDI rịng
(Tổng FDI vào

– Hồn trả
FDI)

1609

1304

Cho vay
trung, dài hạn
(rịng)

458

Cho vay ngắn
hạn (rịng)
Đầu tư danh
mục

3087

3088

17540

9175

1342

1889


2315

6550

7800

974

1396

921

1025

2045

919

-996

1808

-291

-588

-1565

2702


856

-

-

-

865

1313

6243

-400

-396

1398

-349

-100

Sai số và bỏ
sót
Cán cân
tổng thể (I
+ II)


395

2151

883

2131

4322

10199

-162

Tài khoản
điều chỉnh
chính thức

-395

-2151

-883

-2131

-4322

-10199


162

Thay đổi tài
sản rịng của
NHTƯ (-,
tăng)

-395

-2151

-883

-2131

-4322

-10199

162

Tổng dự trữ
ngoại tệ

3692

5619

6314


8557

11491

20964

23022

Số tuần nhập
khẩu của năm
tới

7.2

8.7

8.4

9.4

9.0

12.8

17.5

Thâm hụt tài
khoản vãng lai
(% GDP)


-1.9

-4.9

-3.4

-1.1

-0.3

-9.8

-10.3

Nợ nước ngoài
(% GDP)

35

33.7

33.5

32.5

31.4

33.3

29.8


Trả lãi nợ
nước ngoài
(% xuất khẩu)

8.6

7.8

6

4.5

4.2

3.8

3.4

Bảng 7.1: Bảng cán cân thanh toán Việt Nam, 2002-2008

Nguồn: Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2006, 2008)

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

95


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở


Cán cân tài khoản vãng lai
Tài khoản vãng lai theo cách phân loại của Quỹ Tiền tệ Quốc tế được phân thành bốn
tiểu khoản lần lượt là cán cân thương mại, dịch vụ nhân tố ròng, thu nhập đầu tư ròng,
và chuyển khoản ròng. Chữ ròng ở đây hàm ý là chênh lệch giữa nhận và chi trả.
Thứ nhất, cán cân thương mại phản ánh chênh lệch giữa giá trị xuất khẩu hàng hóa
với giá trị nhập khẩu hàng hóa. Ví dụ, năm 2007, Việt Nam xuất khẩu hàng hóa được
48.561 triệu USD và nhập khẩu hết 58.921 triệu USD nên cán cân thương mại sẽ bị
thâm hụt 10.360 triệu USD, và dấu trừ ở đây hàm ý thâm hụt cán cân thương mại.
Dịch vụ phi nhân tố ròng bao gồm một số giao dịch như vận tải hàng hóa, bảo hiểm
vận tải, chi phí phát sinh trong q trình vận tải và cư trú cho mục đích vận tải, các
khoản thu nhập của lao động làm việc ở nước ngoài (nhưng thời gian làm việc ở nước
ngoài là dưới một năm), thu nhập từ quyền tài sản như bằng phát minh, sở hữu trí tuệ,
bản quyền và các tài sản vơ hình phi tài chính khác, hoạt động liên lạc, quảng cáo…,
và các hoạt động giao dịch của cơ quan chính phủ như đại sứ quán, căn cứ quân sự…
phát sinh giữa hai nước. Chênh lệch giữa giá trị dịch vụ phi nhân tố nhận được từ
nước ngoài với giá trị dịch vụ phi nhân tố phải trả cho nước ngoài sẽ cho chúng ta giá
trị dịch vụ phi nhân tố ròng. Trong bảng số liệu trên, vào năm 2007, giá trị dịch vụ phi
nhân tố ròng sẽ bằng giá trị nhận từ nước ngoài là 6.030 triệu USD trừ đi giá trị phải
trả cho nước ngoài là 6.924 triệu USD, và cuối cùng sẽ bằng -894 triệu USD.
Thu nhập đầu tư ròng gắn với các khoản thu nhập/chi
trả liên quan tới việc sở hữu các tài sản tài chính và
cho th tài ngun đất đai… Bạn có thể sở hữu các tài
sản tài chính nước ngồi như cổ phần, cho vay (dưới
dạng đầu tư trực tiếp hoặc đầu tư danh mục) và những
tài sản này sẽ mang lại thu nhập cho bạn sau mỗi năm
dưới dạng cổ tức, lợi nhuận tái đầu tư, tức là lợi nhuận
giữ lại công ty, tiền lãi... Những khoản thu nhập này sẽ được tính vào thu nhập từ đầu
tư nước ngồi. Ngược lại, người nước ngồi cũng có thể đầu tư vào nước bạn và
chúng ta sẽ phải trả lợi tức cho phía nước ngồi và khoản này sẽ được trừ đi để tính ra
thu nhập đầu tư rịng. Cho th đất đai, bất động sản giữa cư dân trong nước và cư dân

nước ngoài cũng sẽ phát sinh thu nhập và cũng được hạch tốn vào trong tiểu khoản
này. Ngồi ra cịn có các khoản thuế và trợ cấp đánh vào sản xuất và các sản phẩm
như thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, lệ phí kinh doanh phát sinh đối với cư
dân nước ngoài hoặc theo chiều ngược lại cũng được tính vào trong tiểu khoản này.
Trong năm 2007, thu nhập đầu tư ròng của Việt Nam là -2.168 triệu USD, tức là số
thu nhập đầu tư mà cư dân Việt Nam nhận được từ nước ngoài chỉ là 1.093 triệu USD
trong khi cư dân nước ngoài nhận được từ Việt Nam lên tới 3.261 triệu USD. Điều
này cũng dễ hiểu bởi vì Việt Nam là nước tiếp nhận đầu tư nước ngoài hơn là đầu tư
ra nước ngoài, và do vậy thu nhập của cư dân nước ngoài từ Việt Nam tất nhiên sẽ
phải lớn hơn.
Chuyển khoản rịng bao gồm các khoản viện trợ chính thức giữa chính phủ quốc gia
đấy với các chính phủ quốc gia khác, các tổ chức quốc tế… Ngồi ra, nó cịn bao gồm
các khoản thuế đánh vào thu nhập và của cải của người khơng phải là cư dân nước đó,
các khoản đóng góp bảo hiểm và trợ cấp xã hội, các khoản phí bảo hiểm phi nhân thọ
96

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

ròng, các khoản bảo hiểm phi nhân thọ khi phát sinh sự kiện được bảo hiểm, các
khoản viện trợ ở khu vực tư nhân, các khoản phạt đối với người không phải cư dân,
tiền thắng từ chơi bạc hoặc xổ số…
Trong năm 2007, chuyển khoản ròng của Việt Nam là 6.430 triệu USD, trong đó của
khu vực tư nhân lên tới 6.180 triệu USD cịn khu vực cơng chỉ có 250 triệu USD. Có
tương đối nhiều người Việt kiều cư trú ở các quốc gia khác như Mỹ, Pháp, một số
nước châu Âu khác và họ cũng thường xuyên gửi tiền về cho người thân để tiêu dùng
hoặc nhờ người thân sử dụng cho mục đích đầu tư. Trong mấy năm trở lại đây, kiều
hối gửi về, đặc biệt giai đoạn cuối năm đóng vai trị quan trọng trong việc bình ổn tỷ

giá khi đó cũng chính là thời điểm mà các doanh nghiệp nhập khẩu của Việt Nam
thường phải thanh tốn cho phía đối tác nước ngồi.
Cán cân tài khoản vốn
Tài khoản vốn ghi chép lại các giao dịch liên quan tới tài sản và các khoản nợ tài
chính diễn ra giữa cư dân trong nước (khơng tính ngân hàng trung ương) với cư dân
nước ngoài.
Trong tài khoản vốn, người ta có thể chia nhỏ thành các tiểu khoản như đầu tư trực
tiếp, đầu tư danh mục, các dạng đầu tư khác như các cơng cụ tài chính phái sinh và
quyền chọn cổ phiếu. Trong mỗi tiểu khoản đó, có thể người ta chia tiếp thành các
cơng cụ vốn cổ phần, các công cụ nợ và các công cụ tài chính khác. Riêng đối với đầu
tư danh mục, người ta có thể chi tiết thêm về kỳ hạn của các khoản đầu tư. Tất nhiên,
mỗi tiểu khoản sẽ luôn có hai phía nhận và trả.
Trong năm 2007, tiểu khoản đầu tư trực tiếp nước
ngồi rịng của Việt Nam là 6.550 triệu USD, tức là
trong năm đó chênh lệch giữa lượng vốn ngoại tệ đi
vào với lượng vốn ngoại tệ đi ra dưới hình thức đầu tư
trực tiếp là 6.550 triệu USD. Khơng có dấu ở đây hàm
ý Việt Nam nhận đầu tư nước ngoài nhiều hơn đầu tư
ra nước ngồi. Ngược lại, nếu nó mang dấu âm thì
điều ngược lại xảy ra. Trong các bảng cán cân thanh toán chi tiết hơn, người ta sẽ ghi
rõ là đầu tư mới là bao nhiêu, hoàn trả nợ FDI là bao nhiêu, FDI dưới dạng vốn góp cổ
phần là bao nhiêu và dưới dạng nợ là bao nhiêu.
Đối với tiểu khoản cho vay trung và dài hạn, chúng ta đã nhận 2.045 triệu USD giá trị
rịng, trong đó giải ngân các khoản mới là 3.397 triệu USD và hoàn trả các khoản vay cũ
là 1.352 triệu USD. Các số liệu ở đây đều là số liệu ròng. Đối với cho vay ngắn hạn,
chúng ta cũng được nhận 2.702 triệu USD bao gồm giá trị tiền gửi của phía nước ngồi
tại các ngân hàng thương mại Việt Nam trừ đi giá trị tiền gửi của phía Việt nam tại các
ngân hàng nước ngồi và tín dụng thương mại. Giá trị tiền gửi ngắn hạn ròng tại các
ngân hàng thương mại là 2.623 triệu USD cịn tín dụng thương mại là 79 triệu USD.
Đầu tư danh mục, chủ yếu là đầu tư vào các cơng cụ tài chính trên thị trường chứng

khốn, của năm 2007 là 6.243 triệu USD. Như chúng ta đã biết, năm 2006 thị trường
chứng khoán của Việt Nam bùng nổ và q trình này cịn tiếp tục tới gần hết năm
2007. Với sức hấp dẫn của thị trường chứng khoán Việt Nam nên các tổ chức và cá
nhân nước ngoài đã mang vốn tới Việt Nam để đầu tư vào cổ phiếu, trái phiếu cơng ty.
Chính vì vậy, trong năm này số vốn đầu tư danh mục đã tăng lên rất cao. Tuy nhiên,

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

97


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

nó đã đảo chiều vào năm 2008 khi giá trị đầu tư danh mục là -400 triệu USD, tức là
phía nước ngoài đã rút vốn ra khỏi thị trường Việt Nam do ảnh hưởng của khủng
hoảng tài chính tại Mỹ cũng như chỉ số chứng khoán của Việt Nam giảm mạnh do các
chính sách thắt chặt chi tiêu nhằm chống lạm phát của chính phủ.
Ở đây, việc phân loại thành đầu tư trực tiếp, các khoản vốn vay trung và dài hạn, các
khoản vốn vay ngắn hạn cũng như lượng vốn đầu tư danh mục là hết sức quan trọng
và cần thiết. Tính chất ổn định của các dịng vốn này rất khác nhau. Tỷ trọng tương
đối giữa các dòng vốn sẽ là một chỉ báo quan trọng để chính phủ và đặc biệt là ngân
hàng trung ương có những chính sách kinh tế phù hợp. Chúng ta sẽ quay trở lại để nói
rõ thêm về điều này trong phần phân tích kinh tế vĩ mơ cho nền kinh tế mở.
Cán cân tài khoản vốn của Việt Nam năm 2007 là 17.540 triệu USD, tức là chúng ta là
nước đi vay của thế giới. Ngược lại, khi cán cân tài khoản vốn mang dấu âm, tức là
chúng ta sẽ mang vốn ra nước ngoài để đầu tư, cho vay nhiều hơn so với chúng ta
nhận, khi đấy chúng ta là nước cho vay. Thông thường, cán cân tài khoản vốn của
Việt Nam những năm qua đều mang dấu dương, và đó cũng là một đặc trưng chung
của các nước đang phát triển và đang trong q trình cơng nghiệp hóa.
Tổng của cán cân tài khoản vãng lai và cán cân tài khoản vốn cộng thêm với sai số sẽ

cho chúng ta cán cân tổng thể. Ở đây, cán cân tổng thể của Việt Nam năm 2007 bằng
10.199 triệu USD, tức là thặng dư cán cân tổng thể. Con số này hàm ý rằng tổng số
ngoại tệ mà cư dân Việt Nam (không kể Ngân hàng Trung ương) nhận được từ cư dân
nước ngoài lớn hơn so với tổng số ngoại tệ mà cư dân Việt Nam (không kể Ngân hàng
Trung ương) đã phải trả cho cư dân nước ngoài.
Vậy số ngoại tệ dôi ra này sẽ được sử dụng làm gì?
Tài khoản điều chỉnh chính thức
Khi cán cân tổng thể thặng dư, như trường hợp của Việt Nam năm 2007, ngân hàng
trung ương sẽ đứng ra mua lại số ngoại tệ này bằng nội tệ VND, và có thể dùng số
ngoại tệ này để đầu tư vào các tài sản tài chính nước ngồi khác như tín phiếu Kho bạc
Mỹ, vàng, và các tài sản tài chính khác. Nghiệp vụ này như chúng ta đã nói ở phần
trước được gọi là nghiệp vụ thị trường ngoại hối. Hoặc ngân hàng trung ương cũng có
thể sử dụng khoản ngoại tệ này để trả các khoản vay trước đây từ Quỹ Tiền tệ Quốc
tế, từ chính phủ các nước, từ các tổ chức tài chính tư nhân. Khi đó, tài sản dự trữ (tài
sản ngoại tệ và vàng) của ngân hàng trung ương sẽ tăng lên hoặc các khoản nợ nước
ngoài của ngân hàng trung ương sẽ giảm xuống.
Ngược lại, nếu trong trường hợp cán cân tổng thể bị thâm hụt, tức là tổng số ngoại tệ
mà cư dân Việt Nam (không kể Ngân hàng Trung ương) nhận được từ cư dân nước
ngồi ít hơn so với tổng số ngoại tệ mà cư dân Việt Nam (không kể Ngân hàng Trung
ương) đã phải trả cho cư dân nước ngồi, thì Ngân hàng Trung ương sẽ phải chịu trách
nhiệm cung cấp chỗ thiếu hụt này. Khi đó, hoặc Ngân hàng Trung ương sẽ bán các tài
sản ngoại tệ đang có, sau đó sẽ dùng số ngoại tệ có được để bán cho thị trường, hoặc
Ngân hàng Trung ương sẽ đi vay từ các tổ chức tài chính rồi sau đó bán lại ngoại tệ
cho thị trường. Làm như vậy sẽ dẫn tới tài sản dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung
ương giảm xuống hoặc gánh nặng nợ nước ngoài tăng lên.
Ngân hàng Trung ương cũng có thể chủ động mua bán ngoại tệ trên thị trường để điều
chỉnh tỷ giá hối đoái về mức mà Ngân hàng Trung ương mong muốn.

98


NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

7.2.

Tỷ giá hối đoái

7.2.1.

Tỷ giá hối đoái danh nghĩa

Trong một nền kinh tế mở, khi cư dân các nước
thực hiện giao dịch kinh tế với nhau, một vấn đề
nảy sinh là sự khác biệt giữa các đồng tiền mà
các nước sử dụng. Ví dụ, một sinh viên Việt
Nam muốn mua một cuốn sách Kinh tế Vĩ mô
do một tác giả người Mỹ viết, anh ta sẽ cần phải
có USD để thanh toán. Ngược lại, một người Mỹ
khi sang Việt Nam du lịch thì anh ta lại cần VND. Chính vì vậy, bạn sinh viên người
Việt và vị khách du lịch người Mỹ sẽ cần phải đổi đồng tiền của họ sang đồng tiền của
nước kia để có thể thực hiện các giao dịch kinh tế. Để biết được tỷ lệ trao đổi là bao
nhiêu, họ sẽ phải nhìn vào tỷ giá hối đối được các ngân hàng thương mại cơng bố.
Tỷ giá hối đoái danh nghĩa được định nghĩa là tỷ lệ trao đổi giữa hai đồng tiền, tức là
nó cho biết cần bao nhiêu đồng nội tệ để có thể mua được một đồng ngoại tệ, hoặc
ngược lại cần bao nhiêu đồng ngoại tệ để có thể mua được một đồng nội tệ.
Phần lớn các nước trên thế giới, bao gồm Việt Nam, đều niêm yết tỷ giá theo cách thứ
nhất, tức là sẽ niêm yết bao nhiêu đồng nội tệ mua được một đồng ngoại tệ. Tại Việt
Nam, các Ngân hàng Thương mại sẽ niêm yết bao nhiêu VND mua được một USD,

bao nhiêu VND mua được một euro… Cách niêm yết thứ hai, số ngoại tệ mua được
một đồng nội tệ, chỉ được sử dụng tại một số ít quốc gia như Mỹ, Anh, và khu vực
châu Âu sử dụng đồng tiền chung euro. Tại Mỹ chẳng hạn, chúng ta sẽ thấy họ niêm
yết bao nhiêu yên Nhật mua được một USD, bao nhiêu euro mua được một USD…
Bản chất hai cách niêm yết này là như nhau, nó đơn giản chỉ là nghịch đảo của nhau
mà thơi, ngồi ra nó khơng có hàm ý gì khác.
Khi niêm yết tỷ giá, thông thường các ngân hàng thương mại sẽ niêm yết hai mức tỷ
giá mua và tỷ giá bán. Ví dụ, vào ngày 15/01/2011, Ngân hàng Ngoại thương Việt
Nam công bố tỷ giá mua USD là 21000 VND và tỷ giá bán USD là 21500 VND. Việc
niêm yết hai mức tỷ giá mua và bán nhằm đảm bảo cho Ngân hàng Thương mại có
một khoản doanh thu bù đắp cho chi phí hoạt động trao đổi ngoại hối và có thêm một
phần lợi nhuận cho nghiệp vụ này.
7.2.2.

Tỷ giá hối đối thực tế

Trong các phân tích kinh tế, một điều quan trọng chúng ta rất muốn biết là sự thay đổi
của sức cạnh tranh về giá cả giữa hàng hóa trong nước với hàng hóa nước ngồi. Tuy
nhiên, nếu nhìn vào tỷ giá danh nghĩa, chúng ta không thể biết được sự thay đổi của
sức cạnh tranh về giá cả của hàng hóa trong nước so với các hàng hóa khác bởi vì
chúng ta khơng biết được diễn biến giá cả hàng hóa ở hai quốc gia thay đổi như thế
nào. Chính vì vậy, các nhà kinh tế đã tính tốn thêm một chỉ tiêu nữa là tỷ giá thực tế
để phản ánh sức cạnh tranh.

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

99


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở


Tỷ giá thực tế cho biết tỷ lệ giá cả hàng hóa ở
hai quốc gia khi tính theo cùng một đơn vị tiền
tệ, hay nói cách khác là tỷ lệ trao đổi hàng hóa
hai quốc gia. Giả sử hai nền kinh tế Việt Nam
và Mỹ chỉ sản xuất duy nhất một hàng hóa là áo
sơ mi, trong đó giá áo sơ mi của Việt Nam là
300 nghìn VND cịn giá áo sơ mi của Mỹ là 30 Áo sơ mi của Việt Nam là 300 nghìn VND
giá áo sơ mi của Mỹ là 30 USD, tỷ
USD, tỷ giá danh nghĩa giữa hai đồng tiền là còn
giá danh nghĩa giữa hai đồng tiền là
20.000 VND/USD
20.000 VND/USD, giả định mọi yếu tố khác là
như nhau. Khi đó, giá áo Mỹ tính theo VND sẽ là 600 nghìn và đắt gấp hai lần so với
giá áo Việt Nam. Tỷ giá thực tế trong trường hợp này sẽ bằng 2, tức là 2 chiếc áo Việt
Nam đổi được một chiếc áo của Mỹ. Như vậy, sức cạnh tranh của áo Việt Nam tốt hơn
so với áo Mỹ xét trên khía cạnh giá cả.
Tuy nhiên, trong thực tế, hai nền kinh tế sẽ sản xuất rất nhiều hàng hóa nên thay vì sử
dụng giá của một loại hàng hóa để tính tỷ giá thực tế thì chúng ta sẽ phải sử dụng chỉ
số giá của hai quốc gia để tính tỷ giá thực tế.
Cơng thức tính tỷ giá thực tế sẽ là:

Er 

En  Pf
Pd

Trong đó Er là tỷ giá thực tế, En là tỷ giá danh nghĩa (số nội tệ đổi lấy một ngoại tệ), Pf
là chỉ số giá hàng nước ngoài, và Pd là chỉ số giá hàng trong nước. Với cách định
nghĩa như vậy thì tỷ giá thực tế sẽ cho biết tỷ lệ giữa giá hàng nước ngoài trên giá

hàng trong nước, hay bao nhiêu hàng trong nước đổi lấy được một hàng nước ngoài.
Tuy nhiên, cũng như trường hợp của tỷ giá danh nghĩa, cái chúng ta quan tâm không
phải là con số cụ thể của tỷ giá thực tế mà là sự thay đổi tương đối của mức tỷ giá này
theo thời gian bởi điều đó mới phản ánh sự thay đổi của sức cạnh tranh về giá của
hàng hóa hai quốc gia.
7.3.

Thị trường ngoại hối và xác định tỷ giá hối đoái

Một cách tiếp cận tương đối đơn giản nhưng khá hữu ích khi chúng ta muốn phân tích
chiều hướng thay đổi của tỷ giá là cách tiếp cận cung cầu truyền thống. Cách tiếp cận
này có thể lý giải một cách tương đối rõ ràng và dễ hiểu cho chiều hướng biến động
của tỷ giá, tuy nhiên nó có hạn chế là khơng định lượng được quy mô thay đổi. Trong
phần này, chúng ta sẽ giới thiệu cách tiếp cận này.
Tỷ giá hối đoái như chúng ta định nghĩa là số lượng nội tệ cần thiết phải bỏ ra để mua
một đồng ngoại tệ, hay nói cách khác tỷ giá theo cách định nghĩa này chính là giá của
đồng ngoại tệ. Như vậy, tỷ giá hối đoái cân bằng, tức là giá đồng ngoại tệ cân bằng sẽ
được xác định như thế nào?
Giống như mọi thị trường hàng hóa thơng thường, mức giá cân bằng của thị trường
chính là mức giá mà ở đó cung cầu hàng hóa cân bằng nhau. Trong thị trường ngoại
hối, tỷ giá hối đối cân bằng chính là mức tỷ giá cân bằng cung cầu ngoại tệ trên thị

100

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

trường. Để xác định được tỷ giá cân bằng cũng như sự vận động của tỷ giá cân bằng,

chúng ta sẽ cần phải xác định cung và cầu ngoại tệ.
7.3.1.

Cung ngoại tệ

Nguồn cung ngoại tệ trên thị trường xuất phát từ hoạt động xuất khẩu của quốc gia đó.
Khi người nước ngoài mua hàng của Việt Nam, họ sẽ cần phải trả ngoại tệ cho các nhà
xuất khẩu Việt Nam, và do đó nó mang lại nguồn cung ngoại tệ cho Việt Nam. Tương
tự như nhập khẩu, xuất khẩu của Việt Nam sẽ phụ thuộc vào thu nhập của người nước
ngoài. Khi tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước trên thế giới cao, đặc biệt là tại các thị
trường xuất khẩu chính của Việt Nam, thì lượng hàng xuất khẩu của Việt Nam theo đó
cũng sẽ tăng lên. Ngồi ra, yếu tố giá cả tương đối giữa hàng hóa trong nước và hàng
hóa nước ngồi cùng với tỷ giá hối đoái cũng sẽ quyết định tới lượng hàng xuất khẩu.
Khi đồng nội tệ mất giá thì giá hàng Việt Nam khi tính theo ngoại tệ sẽ rẻ hơn. Ví dụ,
một chiếc áo sơmi của Việt Nam có giá 800 nghìn VND, nếu tỷ giá là 20 nghìn VND
đổi lấy một USD thì sẽ phải bán tại Mỹ với giá là 40 USD, cịn khi tỷ giá là 25 nghìn
VND/USD thì sẽ phải bán tại Mỹ với giá 32 USD. Khi giá hàng Việt Nam rẻ hơn, với
giả định mọi thứ khác khơng thay đổi thì người nước
ngồi sẽ mua nhiều hàng của Việt Nam và xuất khẩu
của Việt Nam sẽ tăng. Tuy nhiên, liệu nguồn cung ngoại
tệ mang về nước tăng hay khơng thì chưa hồn tồn
chắc chắn. Do doanh thu ngoại tệ từ xuất khẩu bằng tích
của giá bán tính theo ngoại tệ với lượng hàng xuất khẩu
bán được, trong trường hợp này lượng hàng bán tăng nhưng giá lại giảm nên chúng ta
không chắc chắn nguồn cung có tăng hay khơng. Trong phần này, chúng ta giả định
rằng hệ số co giãn của cầu theo giá của người nước ngoài đối với hàng Việt Nam lớn
hơn một, và do vậy doanh thu ngoại tệ từ xuất khẩu sẽ tăng khi đồng nội tệ mất giá.
Nguồn cung ngoại tệ cũng đến từ hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, trong
đó đáng chú ý nhất là nguồn đầu tư nước ngồi trực tiếp và cho vay chính thức từ các
tổ chức quốc tế. Từ khoảng năm 2007 trở lại đây, khi thị trường chứng khoán Việt

Nam bắt đầu phát triển thì các nguồn vốn đầu tư danh mục quốc tế bắt đầu xuất hiện
nhiều hơn ở Việt Nam. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp phụ thuộc vào khá
nhiều yếu tố khác nhau mà chúng ta đã trình bày ở trong bài trước như quy mơ thị
trường, chính sách thuế, những ưu thế về mặt vị trí và nguồn lực... Nguồn vốn đầu tư
nước ngồi gián tiếp vào Việt Nam chủ yếu phụ thuộc vào tỷ suất sinh lời của các tài
sản tài chính của Việt Nam trong mối tương quan với tỷ suất sinh lời của các thị
trường tài chính khác, và phụ thuộc vào độ rủi ro của thị trường tài chính.
Ở Việt Nam, một nguồn cung ngoại tệ khá quan trọng cần phải kể đến là nguồn kiều
hối gửi về và các nguồn viện trợ từ các tổ chức chính thức và phi chính thức khác.
Trong khoảng gần mười năm trở lại đây, với chính sách mở cửa nên số lượng Việt
kiều có xu hướng quay trở về nước đầu tư đã tăng lên. Tuy nhiên, do trong một số lĩnh
vực đầu tư vẫn còn nhiều ràng buộc và hạn chế đối với sự tham gia của Việt kiều nên
họ đã đi đường vòng bằng cách gửi tiền về cho người thân ở Việt Nam để người thân
đầu tư. Về bản chất, có thể coi đây là khoản đầu tư nước ngoài, tuy nhiên trên góc độ
thống kê thì nó vẫn được xếp vào phần nhận viện trợ từ nước ngoài.
NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

101


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

Ngồi ra, nguồn cung ngoại tệ có thể xuất phát từ sự can thiệp của Ngân hàng Trung
ương trên thị trường ngoại hối. Khi Ngân hàng Trung ương quyết định bán ngoại tệ ra
thị trường nhằm điều chỉnh tỷ giá về mức mục tiêu thì nó sẽ làm gia tăng nguồn cung
ngoại tệ. Khi đó, đồng ngoại tệ sẽ giảm giá và đồng nội tệ lên giá. Chính sách này
thường được sử dụng để ngăn chặn tình trạng mất giá của đồng nội tệ.
7.3.2.

Cầu ngoại tệ


Nhu cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại hối xuất hiện khi các tác nhân kinh tế trong
nước muốn nắm giữ ngoại tệ. Vậy họ cần có ngoại tệ khi nào?
Thứ nhất là để nhập khẩu hàng hóa và
dịch vụ. Khi bạn mua hàng nước ngồi,
bạn cần có ngoại tệ để trả cho phía nhà
cung cấp nước ngoài. Nhu cầu mua hàng
nước ngoài sẽ phụ thuộc vào nhiều yếu
tố khác nhau như: (i) thu nhập trong
nước, (ii) giá cả hàng hóa nước ngồi và
trong nước, (iii) tỷ giá hối đối, (iv)
chính sách thuế nhập khẩu, và các yếu tố
khác. Khi thu nhập trong nước tăng lên,
Nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ cần có ngoại tệ
bạn sẽ có nhu cầu chi tiêu cao hơn, và
để trả cho phía nhà cung cấp nước ngồi.
trong đó có chi tiêu cho hàng nước
ngoài, và điều này làm phát sinh nhu cầu ngoại tệ. Tương quan giá cả hàng hóa trong
nước và nước ngồi cũng sẽ quyết định tới lựa chọn của bạn. Tỷ giá hối đoái cũng sẽ
ảnh hưởng trực tiếp tới giá cả hàng nước ngoài khi tính theo nội tệ và do vậy sẽ ảnh
hưởng tới quyết định mua hàng nước ngoài của bạn. Khi đồng nội tệ mất giá, tức là
giá hàng nước ngoài khi quy ra nội tệ sẽ đắt hơn và do vậy nhu cầu hàng nước ngoài
sẽ giảm xuống và lượng cầu ngoại tệ cũng sẽ giảm xuống. Tác động của sự thay đổi tỷ
giá tới lượng cầu ngoại tệ thường được quyết định bởi hệ số co giãn của lượng hàng
nhập khẩu theo giá hàng nhập khẩu. Các yếu tố khác như chính sách thuế nhập khẩu,
thị hiếu... cũng sẽ tác động tới quyết định mua hàng nước ngoài và qua đó tác động tới
cầu ngoại tệ.
Nhu cầu ngoại tệ cũng phát sinh khi bạn muốn nắm giữ các tài sản nước ngoài như trái
phiếu, cổ phiếu, tiền gửi được ghi bằng ngoại tệ hoặc bất động sản ở nước ngoài. Để
có thể mua được các tài sản tài chính này, bạn cần có ngoại tệ. Nhu cầu nắm giữ các

tài sản nước ngoài chủ yếu phụ thuộc vào mức lợi tức và mức rủi ro của những tài sản
này. Nếu như lợi tức của tài sản nước ngoài cao hơn một cách tương đối so với tài sản
trong nước, giả định mọi yếu tố cịn lại khơng thay đổi, khi đó mọi người sẽ có
khuynh hướng muốn nắm giữ nhiều tài sản tài chính nước ngồi hơn và điều này sẽ
làm tăng nhu cầu ngoại tệ. Trong trường hợp lợi tức của tài sản nước ngồi và trong
nước khơng thay đổi, nhưng nếu mọi người nhận thức rằng các tài sản tài chính trong
nước có thể gặp rủi ro lớn hơn trong tương lai gần, ví dụ rủi ro của cả nền kinh tế, của
hệ thống tài chính, rủi ro tỷ giá... thì mọi người sẽ có khuynh hướng nắm giữ các tài
sản tài chính nước ngồi để đảm bảo giá trị của cải tích lũy và điều này sẽ làm gia tăng
nhu cầu ngoại tệ. Ngoài ra, các quy định của chính phủ đối với việc các tác nhân kinh
102

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

tế trong nước nắm giữ tài sản tài chính nước ngoài cũng sẽ quyết định tới cầu ngoại tệ.
Tại một số quốc gia, chính phủ hạn chế người dân nắm giữ các tài sản tài chính nước
ngồi thì nhu cầu ngoại tệ xuất phát từ động cơ này sẽ không lớn và ngược lại.
Nhu cầu ngoại tệ cũng có thể xuất hiện khi Ngân hàng Trung ương thực hiện các
nghiệp vụ ngoại hối mua ngoại tệ trên thị trường nhằm đưa tỷ giá về mức mà Ngân
hàng Trung ương mong muốn. Khi ngân hàng trung ương quyết định mua ngoại tệ,
nhu cầu ngoại tệ trên thị trường sẽ tăng lên và do vậy làm tỷ giá tăng, tức là đồng
ngoại tệ lên giá và đồng nội tệ giảm giá. Đây là nghiệp vụ thị trường ngoại hối nhằm
mục tiêu giảm giá đồng nội tệ, qua đó cải thiện cán cân thương mại.
7.3.3.

Xác định tỷ giá cân bằng


Sau khi xác định được cung và cầu ngoại tệ, chúng ta sẽ kết hợp lại để xác định mức
tỷ giá cân bằng. Trên đồ thị thị trường ngoại hối, trục tung biểu diễn tỷ giá và trục
hoành biểu diễn lượng ngoại tệ giao dịch trên thị trường. Khi đó, đường cầu ngoại tệ
sẽ có hệ số góc âm phản ánh quan hệ trái chiều giữa lượng cầu ngoại tệ và tỷ giá, còn
đường cung ngoại tệ sẽ có hệ số góc dương phản ánh quan hệ thuận chiều giữa lượng
cung ngoại tệ và tỷ giá.

Biểu đồ 7.1: Xác định tỷ giá cân bằng

Tại mức tỷ giá E0 trên đồ thị 7.1, lượng cung và lượng cầu ngoại tệ cân bằng nhau nên
thị trường sẽ khơng có áp lực phải điều chỉnh tỷ giá. Khi tỷ giá tại E1 thấp hơn E0 (tức
là nội tệ lên giá) thì thị trường xảy ra tình trạng dư cầu ngoại tệ do nhu cầu mua hàng
nước ngoài tăng lên trong khi lượng hàng xuất khẩu giảm xuống. Tình trạng dư cầu
ngoại tệ sẽ khiến cho ngoại tệ lên giá trở về E0 để cân bằng lại thị trường. Ngược lại,
khi tỷ giá tại E2 cao hơn E0 (tức là nội tệ mất giá) thì thị trường xảy ra tình trạng dư
cung ngoại tệ do lượng hàng xuất khẩu tăng mạnh cịn lượng hàng nhập khẩu giảm
xuống. Tình trạng dư cung ngoại tệ sẽ khiến cho ngoại tệ giảm giá trở về E0 để cân
bằng lại thị trường. Như vậy, E0 là mức tỷ giá cân bằng ổn định của thị trường. Tại
mức tỷ giá này, thị trường khơng cịn phải chịu áp lực điều chỉnh nữa, cịn khi tỷ giá bị
lệch ra khỏi vị trí này thì sẽ xuất hiện những áp lực từ thị trường để đưa tỷ giá quay
trở lại trạng thái E0.
NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

103


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

7.3.4.


Các nhân tố ảnh hưởng tới sự thay đổi của tỷ giá hối đoái

Khi xuất hiện những biến động từ phía cung hoặc cầu ngoại tệ trên thị trường thì tỷ
giá sẽ phải thay đổi. Ví dụ, nếu như xuất khẩu của Việt Nam giảm mạnh do các đối tác
thương mại chính của Việt Nam bị suy thối kinh tế, khi đó cung ngoại tệ vào Việt
Nam sẽ giảm xuống. Giả sử đồng tiền thanh toán ở đây là USD, thì khi đó cung USD
về Việt Nam sẽ giảm xuống, và đường cung USD sẽ dịch sang trái. Thị trường xảy ra
tình trạng thiếu hụt USD (tức là dư cầu USD). Tỷ giá khi đó sẽ tăng lên tới E1, tức là
VND sẽ bị mất giá so với USD (biểu đồ 7.2, hình a).

Biểu đồ 7.2: Những biến động của tỷ giá

Ví dụ thứ hai là chính phủ Việt Nam tăng thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng tiêu
dùng nhập khẩu. Khi đó, giá hàng nhập khẩu sẽ tăng lên cao và khiến cho người dân
Việt Nam mua ít hàng nước ngoài hơn. Nhập khẩu giảm sẽ làm cho nhu cầu ngoại tệ
giảm xuống và thị trường xảy ra tình trạng dư cung ngoại tệ. Tỷ giá do vậy sẽ giảm
xuống E2, tức là VND lên giá so với USD (biểu đồ 7.2, hình b)
Có những tình huống mà đồng thời cả đường cung và đường cầu USD sẽ dịch chuyển.
Ví dụ thị trường chứng khốn Việt Nam tăng trưởng nhanh trở lại trong khi vẫn đảm
bảo mức độ an tồn. Khi đó, phía nước ngồi sẽ có xu hướng đầu tư nhiều hơn vào thị
trường chứng khoán Việt Nam, điều này làm gia tăng nguồn cung ngoại tệ và có xu
hướng làm VND lên giá. Đồng thời, người Việt Nam sẽ giảm nhu cầu nắm giữ các tài
sản ngoại tệ và chuyển về nắm giữ các tài sản tài chính trong nước. Khi đó, nhu cầu
ngoại tệ sẽ giảm xuống và làm VND lên giá. Cả hai tác động tới phía cung và cầu
ngoại tệ đều dẫn tới việc lên giá của VND.
Ngồi ra, cịn khá nhiều tình huống khác sẽ ảnh hưởng tới phía cung và/hoặc cầu
ngoại tệ, qua đó ảnh hưởng tới tỷ giá. Học viên có thể tự tìm hiểu thêm.
7.4.

Các hệ thống tỷ giá hối đoái


7.4.1.

Chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi hoàn toàn

Trong chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá sẽ hoàn toàn được quyết định bởi cung cầu ngoại tệ
trên thị trường mà khơng có bất kỳ sự can thiệp nào, dù là trực tiếp hay gián tiếp, từ
phía Ngân hàng Trung ương nhằm làm thay đổi tỷ giá.

104

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

Có hai yếu tố căn bản chính được nêu ra để ủng hộ cho việc các quốc gia nên sử dụng
chế độ tỷ giá thả nổi là (i) tính tự chủ về chính sách tiền tệ và (ii) Cơ chế tự điều chỉnh
để cân bằng cán cân thương mại.
Thứ nhất, trong chế độ tỷ giá cố định, Ngân hàng
Trung ương sẽ không thể tự do tăng hoặc giảm cung
tiền do nó phải duy trì mức cung tiền hợp lý nhằm cố
định tỷ giá. Tăng cung tiền sẽ gây ra lạm phát và gây
áp lực mất giá nội tệ. Khi đó, để cố định tỷ giá thì
Ngân hàng Trung ương buộc phải bán ngoại tệ/mua
nội tệ và điều này làm cung tiền giảm trở lại. Ngược
lại, thắt chặt cung tiền làm lãi suất tăng sẽ gây ra áp lực tăng giá nội tệ do các dịng
vốn nước ngồi chảy vào. Muốn cố định tỷ giá, Ngân hàng Trung ương sẽ phải mua
ngoại tệ/bán nội tệ và điều này làm cung tiền tăng trở lại. Như vậy, cung tiền sẽ không
thể được điều chỉnh một cách tự do theo ý muốn của Ngân hàng Trung ương trong chế

độ tỷ giá cố định.
Ngược lại, trong chế độ tỷ giá thả nổi, do Ngân hàng Trung ương không phải cam kết
về một mức tỷ giá cụ thể nào nên họ hồn tồn có quyền mở rộng hoặc thu hẹp cung
tiền để điều chỉnh các biến mục tiêu quan trọng như sản lượng, việc làm, hay tỷ lệ lạm
phát. Nếu Ngân hàng Trung ương tăng cung tiền và gây ra lạm phát (gây bất lợi cho
sức cạnh tranh) thì đồng nội tệ sau đó cũng sẽ có xu hướng mất giá (có tác động cải
thiện sức cạnh tranh) và do vậy tỷ giá thực tế sẽ không bị ảnh hưởng, và sức cạnh
tranh cũng không bị ảnh hưởng.
Thứ hai, khi một quốc gia áp dụng tỷ giá thả nổi thì nó sẽ giống như một cơ chế tự
điều chỉnh giúp cân bằng cán cân thương mại. Nếu vì một lý do nào đó mà quốc gia
này bị thâm hụt thương mại, tức là xảy ra tình trạng dư cầu ngoại tệ, thì đồng ngoại tệ
sẽ lên giá và đồng nội tệ giảm giá. Sự điều chỉnh này sẽ giúp cho xuất khẩu tăng còn
nhập khẩu giảm, qua đó cải thiện cán cân thương mại theo hướng cân bằng trở lại.
7.4.2.

Chế độ tỷ giá hối đoái cố định

Trong chế độ tỷ giá cố định, tỷ giá sẽ do Ngân hàng Trung ương ấn định tại một mức
cụ thể. Tất cả các tác nhân trong nền kinh tế được yêu cầu phải giao dịch tại mức tỷ
giá đã quy định này. Để thị trường ngoại tệ cân bằng tại mức tỷ giá đã ấn định thì
Ngân hàng Trung ương sẽ buộc phải can thiệp vào thị trường bằng cách mua/bán
ngoại tệ ra thị trường.
Ví dụ, tại mức tỷ giá Ef do Ngân hàng Trung ương quy định, thị trường đang xảy ra
tình trạng dư cung ngoại tệ (đoạn AB trong đồ thị 7.3 hình a). Nếu khơng có sự can
thiệp của Ngân hàng Trung ương thì tỷ giá sẽ có xu hướng giảm xuống E1, tức là đồng
nội tệ sẽ lên giá. Để duy trì mức tỷ giá cố định này, Ngân hàng Trung ương khi đó sẽ
phải mua ngoại tệ từ thị trường, và tất nhiên sẽ phải bán nội tệ ra thị trường. Cầu ngoại
tệ trên thị trường tăng lên và dịch sang phải để loại bỏ đi phần cung ngoại tệ dư thừa
và thị trường cân bằng tại Ef. Khi đó, dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương tăng
lên (đoạn AB) và lượng cơ sở tiền tệ cũng tăng lên (bằng đoạn AB nhân với tỷ giá cố

định Ef). Trong trường hợp này, chúng ta nói rằng đồng nội tệ đang được Ngân hàng
Trung ương định giá quá thấp.
NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

105


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

Biểu đồ 7.3: Can thiệp của Ngân hàng Trung ương trong chế độ tỷ giá cố định

Ngược lại, nếu như thị trường lại xảy ra tình trạng dư cầu ngoại tệ (đoạn CD bên đồ
thị 7.3 hình b) tại mức tỷ giá Ef do Ngân hàng Trung ương quy định thì Ngân hàng
Ttrung ương sẽ buộc phải bán ngoại tệ ra/mua nội tệ vào để cân bằng thị trường. Cung
ngoại tệ trên thị trường sẽ tăng lên và dịch sang phải để loại bỏ đi tình trạng dư cầu
ngoại tệ. Khi đó, dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương sẽ giảm xuống và cơ sở
tiền tệ cũng sẽ giảm xuống theo (do nội tệ ngoài thị trường được Ngân hàng Trung
ương thu về). Trong trường hợp này, chúng ta nói rằng đồng nội tệ đang được Ngân
hàng Trung ương định giá quá cao.
Những người ủng hộ chế độ tỷ giá cố định cũng đưa ra một số luận điểm để phê phán
chế độ tỷ giá thả nổi và nêu ra những ưu việt của chế độ tỷ giá cố định.
Thứ nhất, chế độ tỷ giá cố định giúp cho việc điều hành tiền tệ có tính ngun tắc và
kỷ luật cao hơn. Yêu cầu duy trì tỷ giá cố định sẽ khơng cho phép Ngân hàng Trung
ương có thể tùy tiện tăng cung tiền và gây ra lạm phát. Họ cho rằng chính phủ ở một
số quốc gia rất tùy tiện trong việc tăng cung tiền để kích cầu, và hệ quả là lạm phát
tăng lên cao sau một thời gian. Việc áp dụng tỷ giá cố định sẽ đảm bảo điều này
không xảy ra.
Thứ hai, họ cho rằng hoạt động đầu cơ luôn hiện hữu trên thị trường và nếu như theo
đuổi chế độ tỷ giá thả nổi thì nền kinh tế sẽ được chứng kiến sự dao động liên tục của
tỷ giá. Nếu hoạt động đầu cơ diễn ra dai dẳng và kéo dài khiến cho tỷ giá thực tế diễn

ra bị chệch so với tỷ giá cân bằng dài hạn thì nó sẽ làm méo mó giá cả hàng hóa xuất
khẩu và nhập khẩu và dẫn đến sự sai lệch trong phân bổ nguồn lực. Ngoài ra, sự bất
ổn của tỷ giá do hoạt động đầu cơ sẽ khiến cho việc lập kế hoạch kinh doanh và đầu tư
trở nên khó khăn một cách khơng cần thiết. Khi tỷ giá dao động, các doanh nghiệp
hoạt động ở phạm vi xuyên quốc gia sẽ phải đối mặt với những bất định lớn hơn và
điều này sẽ làm xói mịn các giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế. Với chế độ tỷ giá
cố định, những hoạt động đầu cơ sẽ có thể được ngăn chặn một cách kịp thời bằng các
nghiệp vụ thị trường ngoại hối của Ngân hàng Trung ương và nhờ đó tỷ giá sẽ trở nên
ổn định và qua đó thúc đẩy tăng trưởng trong giao dịch thương mại và đầu tư quốc tế.
Tuy nhiên, những người ủng hộ chế độ tỷ giá thả nổi cho rằng các công cụ phái sinh
nhằm bảo hiểm cho các rủi ro về tỷ giá cũng có thể đạt được mục tiêu này. Các hợp
106

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

đồng kỳ hạn, quyền chọn về tỷ giá cho phép các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh
vực thương mại không còn phải lo lắng quá nhiều về sự biến động của tỷ giá.
Thứ ba, nó cho phép chính phủ có thể sử dụng công cụ tỷ giá để đạt các mục tiêu kinh
tế vĩ mô như cán cân thương mại, tăng trưởng. Ví dụ, Ngân hàng Trung ương có thể
định giá đồng nội tệ thấp hơn giá trị thực của nó bằng cách mua ngoại tệ/bán nội tệ.
Khi đó, giá hàng xuất khẩu sẽ rẻ hơn, giá hàng nhập khẩu đắt hơn và nhờ đó cải thiện
cán cân thương mại. Đây là điều mà chính phủ Trung Quốc đã và đang thực hiện và
trước đó nữa là trường hợp của Nhật Bản. Đồng nhân dân tệ và trước đây là đồng yên
đều đã bị định giá quá thấp so với đồng USD và cả một số đồng tiền khác nữa. Hệ quả
là hai quốc gia này đã đạt được thặng dư thương mại rất lớn, qua đó thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế và việc làm.
Tuy nhiên, những người ủng hộ chế độ tỷ giá thả nổi không cho rằng việc giảm giá

đồng nội tệ sẽ đảm bảo cho một sự cải thiện của cán cân thương mại, thậm chí đơi khi
còn gây ra thâm hụt thương mại nặng hơn và những tác động không mong muốn khác
như lạm phát và dẫn tới sự bất ổn trong nền kinh tế. Như chúng ta đã nói ở phần trước,
việc giảm giá nội tệ sẽ giúp giảm giá hàng xuất khẩu tính theo ngoại tệ và tăng lượng
xuất khẩu và do vậy chúng ta không thể chắc chắn rằng liệu doanh thu ngoại tệ từ xuất
khẩu có tăng hay khơng và do vậy khơng thể chắc chắn cán cân thương mại có được
cải thiện hay không.
7.5.

Tác động của sự thay đổi tỷ giá hối đối đến nền kinh tế

Tỷ giá có ảnh hưởng quan trọng đến nhiều biến số kinh tế vĩ mô trong một nền kinh tế mở
như lạm phát, cán cần thương mại và tăng trưởng kinh tế. Các tổ chức tài chính quốc tế
như Ngân hàng thế giới (WB) và quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) thường khuyến nghị phá giá
đồng nội tệ khi mơt nước gặp khó khăn về cán cân thanh
toán quốc tế với lập luận rằng phá giá sẽ làm cho giá
hàng hóa nhập khẩu tăng trên thị trường trong nước và
giá của hàng hóa xuất khẩu giảm trên thị trường quốc tế.
Cả hai tác động này đều cải thiện sức cạnh tranh quốc tế
của hàng trong nước.
Việc giảm giá nội tệ sẽ giúp cải thiện cán cân thương
giá hối đoái hiện nay đang
mại, tuy nhiên, điều này nếu đúng thì thường chỉ đúng Tỷcó
lợi cho xuất khẩu hay
nhập khẩu?
trong trung và dài hạn. Nguyên nhân là do hệ số co
giãn của cầu xuất khẩu và nhập khẩu theo giá tương đối nhỏ trong ngắn hạn, tức là dù
nội tệ mất giá làm cho giá hàng nhập khẩu đắt hơn khi tính theo nội tệ và giá hàng
xuất khẩu rẻ hơn khi tính theo ngoại tệ thì lượng hàng xuất khẩu và nhập khẩu thay
đổi không nhiều. Chính vì vậy, nhiều khả năng cán cân thương mại sẽ tạm thời xấu đi

trong ngắn hạn. Tuy nhiên, sau một khoảng thời gian, người tiêu dùng cũng như nhà
sản xuất bắt đầu điều chỉnh dần hành vi và cán cân thương mại dần dần được cải thiện.
Có ba lý do quan trọng đã được đưa ra để lý giải cho hệ số co giãn của xuất khẩu và
nhập khẩu theo giá là tương đối thấp trong ngắn hạn, nhưng lại tăng lên trong dài hạn.
Lý do thứ nhất là độ trễ về hành vi người tiêu dùng, tức là người tiêu dùng cả ở trong
nước và nước ngoài cần có một khoảng thời gian để nhận thức sự thay đổi giá cả,

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216

107


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

kiểm chứng chất lượng hàng hóa nước ngồi thay thế để đi đến quyết định lựa chọn
tiêu dùng cuối cùng.

Biểu đồ 7.4: Hiệu ứng đường cong J

Lý do thứ hai là độ trễ về hành vi của nhà sản xuất, tức là bản thân nhà sản xuất cũng
cần có một khoảng thời gian để mở rộng quy mô xuất khẩu. Các đơn đặt hàng xuất
khẩu và nhập khẩu thường được ký kết trước sáu tháng tới một năm nên doanh nghiệp
cũng không thể thay đổi lượng hàng xuất nhập khẩu ngay khi tỷ giá thay đổi.
Lý do thứ ba là sự điều chỉnh giá cả đi kèm với sự thay đổi của tỷ giá. Khi đồng nội tệ
mất giá, có thể giá hàng nhập khẩu tính theo ngoại tệ sẽ được giảm xuống nhằm đảm
bảo thị phần không bị giảm xuống. Đồng thời, hàng hóa của nước ngồi cũng có thể
giảm giá để cạnh tranh với hàng xuất khẩu của chúng ta. Tất cả những điều chỉnh này
sẽ làm cho lượng hàng xuất khẩu và nhập khẩu không thay đổi nhiều trong ngắn hạn.
Tuy nhiên, trong dài hạn thì sự điều chỉnh này có thể diễn ra dễ dàng hơn. Đặc điểm
này được gọi là hiệu ứng đường cong J từ việc giảm giá nội tệ.


108

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

Tóm lược cuối bài
 Bảng cán cân thanh tốn bao gồm ba tài khoản: (i) tài khoản vãng lai, (ii) tài khoản vốn, và
(iii) tài khoản điều chỉnh chính thức.
 Khi cán cân tổng thể lớn hơn khơng thì dự trữ ngoại tệ của ngân hàng trung ương sẽ tăng và
đồng nội tệ đang được định giá quá thấp.
 Tỷ giá thực tế phản ánh giá cả tương đối giữa hàng hóa nước ngồi so với hàng hóa trong
nước. Sức cạnh tranh về giá của hàng nội sẽ tăng khi (i) đồng nội tệ mất giá, và/hoặc (ii) lạm
phát trong nước thấp hơn lạm phát nước ngoài.
 Theo cách tiếp cận cung cầu truyền thống, tỷ giá sẽ được điều chỉnh về mức để cân bằng giữa
lượng cung ngoại tệ và lượng cầu ngoại tệ trên thị trường. Khi có những biến động cung
và/hoặc cầu ngoại tệ trên thị trường thì tỷ giá sẽ thay đổi.
 Nhà nước có thể điều hành tỷ giá theo một số chế độ khác nhau: (i) tỷ giá thả nổi/linh hoạt
hoàn toàn, (ii) tỷ giá cố định, và (iii) dạng kết hợp. Trong chế độ tỷ giá cố định, Ngân hàng
Trung ương sẽ can thiệp bằng cách mua/bán ngoại tệ từ thị trường để đưa tỷ giá về mức
mong muốn còn trong chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá được quyết định hoàn tồn bởi thị trường
mà khơng có bất kỳ sự can thiệp nào của Ngân hàng Trung ương.
 Tỷ giá thay đổi sẽ ảnh hưởng tới cán cân thương mại và qua đó tác động tới tăng trưởng và
lạm phát của nền kinh tế. Tuy nhiên, cần có một khoảng thời gian nhất định để sự thay đổi
của tỷ giá ảnh hưởng tới cán cân thương mại.

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216


109


Bài 7: Kinh tế vĩ mô của nền kinh tế mở

Câu hỏi ơn tập
1.

Cán cân thanh tốn là gì? Hãy cho biết cấu trúc của cán cân thanh toán?

2. Tỷ giá hối đối danh nghĩa là gì? Hãy giải thích các nhân tố có thể làm thay đổi tỷ giá danh

nghĩa trong hệ thống tỷ giá thả nổi?
3. Tỷ giá hối đối thực tế là gì? Hãy giải thích các nhân tố ảnh hưởng đến sự thay đổi của tỷ giá

thực tế?
4. Ngân hàng trung ương cần phải làm gì khi muốn nâng giá đồng nội tệ cao hơn so với giá trị

thực của nó? Điều này sẽ ảnh hưởng ra sao tới cơ sở tiền tệ và dự trữ ngoại tệ của ngân hàng
trung ương?
5. Đồng nội tệ lên giá có những tác động nào tới cán cân thương mại, tổng cầu, sản lượng và

mức giá của nền kinh tế?

110

NEU_ECO102_Bai7_v1.0013101216




×