Tải bản đầy đủ (.doc) (155 trang)

GIÁO TRÌNH phương pháp dạy học Mĩ thuật cấp Tiểu học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (20.17 MB, 155 trang )

ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
----------------------

ĐÀM VĂN THỌ

MỸ THUẬT

(TÀI LIỆU DÀNH CHO BẬC ĐẠI HỌC – NGÀNH GIÁO DỤC TIỂU HỌC)

Đà Nẵng – 2008


ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC
----------------------

ĐÀM VĂN THỌ

MỸ THUẬT
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC
MỸ THUẬT Ở TIỂU HỌC

Đà Nẵng - 2008


MỤC LỤC
-----------------------------------------------------------------------------------------------Trang
PHẦN THỨ NHẤT. VẼ THEO MẪU ………………………………………………… 7


CHƯƠNG I. MỘT SỐ KIẾN THỨC CHUNG VỀ MỸ THUẬT ...………………….. 7
1. Khái niệm mỹ thuật

………………………...................................................... 7

2. Nguồn gốc mỹ thuật

………………………………………………………… 7

3. Mỹ thuật và cuộc sống con người

…………………………………………… 8

4. Giới thiệu một số chất liệu mỹ thuật thường gặp …………………………… 9
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG I ….…………………………………………… 18
CHƯƠNG II. VẼ THEO MẪU

….…………………………………………………… 19

1. Khái niệm vẽ theo mẫu …...…………………………………………………

19

2. Một số kiến thức cơ bản về vẽ theo mẫu ...………………………………… 19
3. Luật xa gần

…….…………………………………………………………… 23

4. Phương pháp vẽ theo mẫu …...……………………………………………… 30
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG II


...…………………………………………… 38

CHƯƠNG III. KÝ HỌA VÀ PHƯƠNG PHÁP KÝ HỌA …..……………………… 39
1. Khái niệm và mục đích của ký họa

……...………………………………… 39

2. Giới thiệu tỷ lệ mặt người, tỷ lệ người ……………………………………… 41
3. Phương pháp vẽ ký họa người, cảnh và loài vật …...………………………. 44
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG III ……..………………………………………

52

PHẦN THỨ HAI. VẼ TRANG TRÍ ….……………………………………………… 53
CHƯƠNG IV. VẼ TRANG TRÍ …...………………………………………………… 53
1. Khái niệm trang trí

…….…………………………………………………… 53

2. Một số kiến thức cơ bản về trang trí ….……………………………………

57

3. Màu sắc và cách sử dụng màu sắc trong trang trí ………………………… 65
4. Phương pháp tiến hành một bài vẽ trang trí …….………………………… 71
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG IV …...………………………………………… 76
CHƯƠNG V. KẺ CHỮ IN HOA ……..………………………………………………

77


1. Vai trị của chữ trong trang trí ..…………………………………………… 77
2. Một số kiểu chữ chính …….………………………………………………… 77
3. Một số điều cần nhớ khi sử dụng chữ ………………………………………

79

4. Phương pháp kẻ khẩu hiệu

81

…………………………………………………

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG V ...…………………………………………… 84

5


PHẦN THỨ BA. VẼ TRANH …...……………………………………………………

85

CHƯƠNG VI. VẼ TRANH ...…………………………………………………………

85

1. Khái niệm ….…………………………………………………………………

85


2. Một số kiến thức cần thiết cho vẽ tranh
3. Phương pháp vẽ tranh

…..………………………………. 87

….………………………………………………… 123

HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG VI …….……………………………………… 126
CHƯƠNG VII. THƯỜNG THỨC MỸ THUẬT …...……………………………… 127
1. Sơ lược về lịch sử mỹ thuật cổ Việt Nam .………………………………… 127
2. Nghệ thuật hội họa cổ

..…………………………………………………… 130

3. Phân tích khái quát một số tranh dân gian tiêu biểu …….……………… 138
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG VII …..……………………………………… 144
PHẦN THỨ TƯ. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC …………………………………… 145
CHƯƠNG VIII. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC MỸ THUẬT ...……………………

145

1. Giới thiệu chương trình môn mỹ thuật ở tiểu học ….…………………… 145
2. Phương pháp dạy học mỹ thuật ở tiểu học ….…………………………… 147
3. Cách tổ chức giờ dạy - học mỹ thuật ở tiểu học ….……………………… 158
4. Kiểm tra và đánh giá kết quả học tập …..………………………………… 159
5. Thiết kế bài dạy ….………………………………………………………… 160
HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG VIII …..……………………………………… 164
MỘT SỐ THUẬT NGỮ MỸ THUẬT ……...………………………………………… 165
TÀI LIỆU THAM KHẢO


…………………………………………………………… 169

6


PHẦN THỨ NHẤT

VẼ THEO MẪU
CHƯƠNG I
MỘT SỐ KIẾN THỨC CHUNG VỀ MỸ THUẬT
1. KHÁI NIỆM MỸ THUẬT
Nghệ thuật là một danh từ để chỉ các loại hình như: Hội họa, Âm nhạc, Điện ảnh, Sân
khấu, Nhiếp ảnh… Đó là hình thái đặc biệt của ý thức xã hội. Nghệ thuật có chức năng nhận
thức và phản ánh thế giới khách quan theo một lăng kính nhất định, đồng thời nó cũng đóng một
vai trị quan trọng để tái tạo thế giới đó. Nghệ thuật bắt nguồn từ lao động, do đó ln gắn liền
với cuộc sống. Âm nhạc xuất phát từ những câu hò khi cần tập trung sức của nhiều người cho
một việc cụ thể nào đó. Điệu múa nảy sinh từ nhịp điệu của những công việc hàng ngày như đập
lúa, giã gạo… Tranh trên vách, trần các hang động được vẽ từ những quan sát tự nhiên và cuộc
sống cùng nhu cầu truyền bá kinh nghiệm khi săn bắt thú vật, chim muông cho thế hệ sau. Điêu
khắc bắt đầu từ kỹ năng làm công cụ lao động…
Trong quá trình lao động và phát triển, con người biến cái nặng nhọc gian khổ thành trị
chơi, ln cải hóa những giao tiếp hàng ngày thành những hình thái cụ thể để nhận biết, để trao
đổi và dễ nhớ… Điều đó chính là khởi nguồn cũng như là bản chất đầu tiên của nghệ thuật. Con
người cảm nhận được các loại hình nghệ thuật bằng ngũ quan của mình. Mặt khác, mỗi loại hình
nghệ thuật phản ánh cuộc sống bằng một hệ thống ngôn ngữ riêng biệt và đến với con người
bằng những con đường khác nhau.
Tuy vậy, cũng có nhiều loại hình nghệ thuật có cùng chung một ngôn ngữ biểu hiện và
cùng một “cửa ngõ” để đến với nội tâm tình cảm con người. Đó là các môn nghệ thuật đến với
con người thông qua “cửa ngõ” thị giác và cùng chung một hệ thống ngôn ngữ là đường nét,
hình khối, màu sắc,…như: Kiến trúc, Điêu khắc, Hội họa, Đồ họa… Các loại hình nghệ thuật đó

được gọi bằng cái tên chung là nghệ thuật tạo hình, hay cịn được quen gọi là mỹ thuật.
Ta có thể khái niệm chung nhất về mỹ thuật như sau:
Mỹ thuật là nghệ thuật tạo ra cái đẹp nhằm phục vụ nhu cầu vật chất và tinh thần của con
người. Mỹ thuật là nghệ thuật của thị giác (Nhìn, nhận ra cái đẹp) hoặc nghệ thuật của mặt
phẳng, của không gian (Tạo ra cái đẹp trên mặt phẳng, trong không gian) bằng cách sắp xếp các
đường nét, hình mảng, hình khối, đậm nhạt, màu sắc,…với các chất liệu phong phú đa dạng mà
chúng ta có thể dùng để diễn tả được.
2. NGUỒN GỐC MỸ THUẬT
Mỹ thuật không phải xuất hiện cùng một lúc với buổi sơ khai của xã hội loài người (tức
là thời kỳ bắt đầu hình thành xã hội lồi người). "Tuổi" của lồi người tính khoảng hơn ba mươi
ngàn năm, nhưng những dấu vết đầu tiên về nghệ thuật tạo hình thì mãi đến cuối thời kỳ đồ đá
cũ mới xuất hiện. Như vậy là khoảng hơn mười nghìn năm trước cơng ngun bắt đầu có những
dấu hiệu đầu tiên về nghệ thuật tạo hình. Lúc đó con người đã khá trưởng thành, đã có tiếng nói
và đã biết chế tạo công cụ lao động khá phức tạp bằng nhiều chất liệu như đá, xương, sừng động
vật... Cũng như ngơn ngữ, tiếng nói của người nghệ sĩ tạo hình phát sinh từ thời nguyên thuỷ
ngày càng khéo léo hơn, con mắt trở nên tinh tường hơn, nhận thức trở nên chính xác hơn.
Nhờ săn bắn mà con người nhận ra nhịp điệu, người nguyên thuỷ vẽ được những con bị
rừng sinh động, những hình người nhảy múa náo nhiệt. Nhờ quay chỉ mà người Phùng Nguyên

7


biết dùng những đường trịn. Hình trịn, hình vng, hình tam giác, đường thẳng, đường song
song là kết quả trừu tượng hóa các kinh nghiệm thị giác trong lao động bằng nhịp điệu. Đường
nét, màu sắc, khối, mảng cũng hình thành nhờ sự quy đúc các kinh nghiệm thị giác qua hàng
thiên niên kỷ vất vả và cực nhọc. Vậy lao động sinh ra nghệ thuật theo nghĩa đó.
Như vậy, ta có thể thấy rõ lao động đã xuất hiện trước nghệ thuật. Trong q trình chế
tạo cơng cụ lao động, con người đã nghĩ đến cái có ích trước, có nghĩa là làm sao cho cơng cụ
lao động tiện dụng trong việc tìm kiếm thức ăn, săn bắt thú vật... Đến một lúc nào đó, khi cơng
cụ lao động đạt đến độ hồn thiện thì "cái đẹp" cũng có nghĩa là nghệ thuật mới xuất hiện.

Trong quá trình lao động và đấu tranh xã hội, do nhu cầu khách quan của lịch sử và do
sự vận động của các mối quan hệ thẩm mỹ mà có những hình thức hoạt động nghệ thuật khác
nhau đã ra đời, trong đó có nghệ thuật tạo hình. Bắt đầu là những hình vẽ trên vách, trần các
hang động nơi người nguyên thủy từng cư trú. Lúc mới hình thành, tư duy của con người chưa
phát triển, con người chưa nhận thức được thế giới, do đó thiên nhiên đối với con người lúc đó
cịn mờ mịt, bí hiểm, càng ngày con người càng phát triển hoàn thiện hơn về tư duy và ý thức ...
họ nhận thức được thế giới xung quanh. Nghệ thuật chính là sự biểu hiện những nhận thức đó
bằng một thứ “ngơn ngữ” đặc biệt: ngơn ngữ của hình tượng và màu sắc…
Nghệ thuật là một hình thái của ý thức xã hội, hơn thế nó cịn là một hình thái đặc biệt
của ý thức xã hội. Nghệ thuật có sự liên quan mật thiết với các hình thái ý thức khác thuộc phạm
trù triết học, pháp luật, đạo đức… Đồng thời nghệ thuật phản ánh quan hệ đa dạng của đời sống
hiện thực. Nói một cách khác, nghệ thuật chính là tấm gương phản chiếu đời sống xã hội thông
qua thế giới quan và nhân sinh quan của người nghệ sĩ. Tuy nhiên, do cũng là một hình thái của
ý thức xã hội nên nghệ thuật cũng bị những ý thức tồn tại của xã hội chi phối, do đó ta thấy rằng
nghệ thuật cũng ln ln thay đổi theo lịch sử, theo thời đại, theo dân tộc. Mỗi một hình thái ý
thức phản ánh hiện thực theo tính đặc thù riêng của nó, khơng hình thái nào giống hình thái nào.
Phương tiện phản ánh của nghệ thuật nói riêng là hình tượng nghệ thuật lại được biểu hiện bằng
những cách khác nhau đối với từng loại hình nghệ thuật nói chung.
3. MỸ THUẬT VÀ CUỘC SỐNG CON NGƯỜI
Ngay từ buổi hoang sơ con người đã biết làm đẹp bằng cách vẽ lên người những màu sắc
có sẵn trong thiên nhiên, đeo lên người những xâu chuỗi bằng vỏ ốc, những lông chim, lông thú
sặc sỡ... Đã biết chế tạo những công cụ lao động bằng đá, bằng đồng từ hình dáng thơ sơ đến
tiện dụng và thẩm mỹ.
Cũng từ đó, nghệ thuật ln gắn bó khăng khít với lịch sử phát triển của con người và
ngày càng đạt tới mức độ nghệ thuật cao hơn. Từ những hoa văn trang trí đơn sơ, mộc mạc trên
đồ gốm Hoa Lộc (Thanh Hoá) đến những hoạ tiết trang trí tinh vi trên mặt trống đồng Đơng
Sơn. Từ các kiểu trang phục cũng như hoạ tiết, màu sắc khác nhau của các dân tộc, trải qua
nhiều thời đại đã cho ta thấy một nền nghệ thuật độc đáo, đặc sắc mang đậm bản sắc dân tộc ấy.
Ngày nay, trong đời sống xã hội mới, nhu cầu thẩm mỹ ngày càng phong phú và đa dạng
nên yêu cầu mỹ thuật cũng phải đổi mới về chất lượng và kiểu dáng.

Chính vì vậy, con người muốn xây dựng, cải tạo khung cảnh thiên nhiên và đời sống xã
hội cho đến cảnh quan và môi trường sống ngày một đẹp hơn, tốt hơn, hoàn mỹ hơn về nơi ăn,
chốn ở và các phương tiện sinh hoạt từ lớn đến nhỏ trong gia đình như: quần áo, giường tủ, bàn
ghế,...làm sao để ngày càng phải đẹp và tiện dụng hơn.
Mọi cơng trình sinh hoạt cơng cộng về văn hố vật chất và văn hoá tinh thần cũng được
xây dựng nhiều như Bảo tàng Hồ Chí Minh, lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, bảo tàng các dân tộc ít
người (bảo tàng Chàm Đà Nẵng) trùng tu cố đô Huế, các danh lam thắng cảnh của đất nước,…
xây dựng nhiều vườn hoa, công viên như công viên Lê-nin, công viên Thủ Lệ hay các phương
tiện giao thơng cũng cần có dáng vẻ và màu sắc đẹp, tiện nghi hơn.
Tóm lại: Đời sống xã hội mới ngày nay ở mọi nơi, mọi lúc đều cần đến vẻ đẹp "kịp thời"
của mỹ thuật nói riêng và nghệ thuật nói chung. Mỹ thuật trở nên nhu cầu càng cao đối với con
người và do vậy cái đẹp trở thành nhu cầu không thể thiếu. Cuộc sống của con người chỉ đẹp và

8


có ý nghĩa khi con người biết tạo ra cái đẹp và sống hài hoà trong thế giới cái đẹp của thiên
nhiên và do chính mình tạo ra.
4. GIỚI THIỆU MỘT SỐ CHẤT LIỆU MỸ THUẬT THƯỜNG GẶP
4.1. Sơn mài
Kỹ thuật dùng nhựa cây sơn được người châu Á biết rất sớm. Trước tiên là người Trung
Hoa, ngay từ thời nhà Thương (1384-1111tr.CN) đã có những đồ vật gia cơng sơn mài. Thoạt
đầu, căn bản đó là sự tận dụng độ bền của sơn để gia cố cho các vật liệu bằng tre, nứa, gỗ,…và
dùng làm chất kết dính cho các kỹ thuật khảm.
Cuối thời Chu sang thời Chiến quốc, do nhu cầu trang trí của cung đình và giới quí tộc,
chức năng nghệ thuật của sơn ngày càng nổi bật hơn là chức năng tăng độ bền của đồ vật.
Người Nhật học được ở Trung Hoa kỹ thuật khảm, khắc, mài,…và các kỹ thuật khác rồi
cải tiến và cuối cùng tìm ra lối vẽ sơn có rắc bột kim loại trên nền đen gọi là Ma-ki-ê. Lối vẽ
Ma-ki-ê này chia làm ba loại căn bản: vẽ phẳng, vẽ có mài bóng và vẽ sơn nổi lên như phù điêu,
tranh sơn rắc bột có khảm đạt tới đỉnh rực rỡ của nghệ thuật sơn Nhật Bản.

Ở Việt Nam ta, sơn mài đã có truyền thống lâu đời, từ thời Lý (thế kỷ XI) hoặc sớm hơn
nữa. Việc trang trí đình, chùa bằng chất liệu này do các phường thợ thủ cơng đảm đương. Những
trang trí cực kỳ tinh xảo ở đình, lăng, kiệu thờ và cửa vịng đền thờ Lý Bát Đế hay những trang
trí ở chùa Tây Phương là những ví dụ sáng chói của nghệ thuật sơn cổ Việt Nam. Nghệ nhân
Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều lối làm sơn, làm quang dầu bóng, sử dụng màu sơn, màu lục, màu
đen và thiếp vàng, thiếp bạc có phong cách riêng.
Thành tựu có tính chất bước ngoặt của sơn mài Việt Nam hiện đại là từ một chất liệu
trang trí mỹ nghệ nó đã trở thành một chất liệu tạo hình độc đáo. Và hiện nay, sơn mài ở vị trí
gần như hàng đầu, đi trước trong nghệ thuật tạo hình của nước ta.
Ở triển lãm mỹ thuật các nước XHCN tại Mát-xcơ-va năm 1958, chính sơn mài (và lụa)
đã tạo ra bộ mặt nghệ thuật mới ở Việt Nam. Một loạt tác phẩm sơn mài thành công ra đời như
“Tát nước đồng Chiêm”, “Mùa đông đến rồi” của Trần Văn Cẩn, “Nhớ một chiều Tây Bắc”,
“Gặt lúa Tây Bắc” của Phan Kế An, “Qua bản cũ” và “Giữ lấy hịa bình” của Lê Quốc Lộc, “Kết
nạp Đảng ở Điện Biên Phủ” của Nguyễn Sáng, “Nhà tranh gốc mít” của Nguyễn Văn Tỵ, “Tre”
của Trần Đình Thọ, “Bình minh trên nông trang” và “Quay sợi” của Nguyễn Đức Nùng…
và hàng loạt tác phẩm khác đã làm cho sơn mài nước ta thắng thế hoàn toàn và trở nên chất liệu
dẫn đầu tuyệt đối trong nền mỹ thuật nước ta. Những tác phẩm đó nay đã trở thành những tài sản
quí giá của viện bảo tàng mỹ thuật Việt Nam.

9


Mùa đông đến rồi - 1957 - Tranh sơn mài của họa sĩ Trần Văn Cẩn
4.2. Lụa
Tên gọi của chất liệu này khá độc đáo, có lẽ nó là chất liệu duy nhất không gọi tên theo
chất màu mà gọi tên theo vật liệu dùng làm nền tranh.
Vẽ lụa thường dùng màu nước hay mực nho vì màu mỏng, đều, giữ được hiệu quả trong
trẻo và nhẹ nhàng của lụa. Trong tranh lụa, các khoảng trống khơng bơi màu đóng một vai trò
cực kỳ quan trọng. Họa sĩ Nguyễn Tiến Chung có một nhận xét rất độc đáo: “Chính những mảng
trống tạo nên nhịp điệu cho bức tranh lụa”.

Cái lộng lẫy của sơn mài đối với cái giản dị có duyên của lụa, cả hai đều đáp ứng thói
quen thẩm mỹ của người Việt Nam. Cũng như sơn mài, lụa trở nên chất liệu hàng đầu trong nền
mỹ thuật nước ta.
Người có cơng đầu trong việc vẽ lụa ở Việt Nam là họa sĩ Nguyễn Phan Chánh với
“Chơi ô ăn quan”, “Cho chim ăn”, “Rửa rau cầu ao”…
Sau này, có một số họa sĩ cũng rất thành công trong việc vẽ tranh lụa như Trần Văn Cẩn
với “Con đọc bầm nghe” hay Trọng Kiệm “Ghé thăm nhà” và một số họa sĩ khác như Nguyễn
Thụ, Vũ Giáng Hương, Trần Lưu Hậu,…cũng đã có nhiều đóng góp mới, cố gắng làm giàu thêm
cho ngôn ngữ của lụa.

Cho chim ăn-1931-Nguyễn Phan Chánh

10

Rửa rau cầu ao-Nguyễn Phan Chánh


Chơi ô ăn quan-1931- Tranh lụa của họa sĩ Nguyễn Phan Chánh
4.3. Sơn dầu
Cũng như sơn mài ở Á Đông, người Phương Tây biết đến sơn dầu từ rất sớm, có thể từ
thời cổ đại. Lúc đó, sơn dầu cũng được dùng để sơn thuyền, phủ lên các đồ gỗ hoặc vẽ lên cờ…
Tuy nhiên, mãi đến thế kỷ XV, sơn dầu mới được dùng làm chất liệu tạo hình bên cạnh
tranh nề và các loại màu Tem-pê-ra. Người ta cho rằng hai anh em nhà Van Eyck [Hai họa sĩ lớn
người Hà Lan: Hubert Van Eyck (1370-1426) và Han Van Eyck (1390-1441)] là người đã phát
hiện ra sơn dầu. Tuy nhiên, thực tế anh em nhà Van Eyck chỉ có cơng hồn thiện chất sơn này và
áp dụng nó vào hội họa.
Sơn dầu có khả năng biểu đạt cao, gần như vơ tận, sơn dầu có khả năng tạo ra những sắc
độ tinh tế nhất, sự chuyển đổi màu sắc tinh vi nhất. Hơn nữa, bảng màu của sơn dầu so với các
chất liệu khác giống như những phím đen, trắng phong phú của cây đàn dương cầm so với sáo,
nhị hay ghi-ta vậy. Trong khi sơn mài mới có năm, bảy màu chính và vất vả lắm mới đưa thêm

được một màu mới vào thì những hộp sơn dầu bán ngồi cửa hàng thơng thường có tới 24 màu,
thậm chí có khi tới 36 màu khác nhau. Do đặc tính hóa học nên màu dầu ướt có thể pha vào
nhau, quện vào nhau và tùy theo tỉ lệ pha màu, ta có được vơ số các màu khác nhau.
Bức sơn dầu cũ nhất hiện nay được viện bảo tàng mỹ thuật Việt Nam vẫn lưu giữ là bức
“Chân dung cụ Tú Mền” (vẽ năm 1898) và bức “Bình văn” (vẽ năm 1905) - nay đã xám và tối
lại nhiều - của một người Việt Nam sang Pháp học và trở về nước vào những năm cuối thế kỷ
XIX. Đó là họa sĩ Lê Văn Miến (1874-1943), người đã tạo ra những bức tranh sơn dầu đầu tiên
của Việt Nam.
Tuy nhiên, sơn dầu chỉ thực sự phổ biến từ khi trường mỹ thuật Đông Dương ra đời vào
năm 1925. Bức tranh “Em Thúy” của họa sĩ Trần Văn Cẩn về mặt sử dụng chất liệu có thể coi là
tiêu biểu với sắc độ tinh tế, tranh được chất đầy da, thịt, tóc và thủy tinh thể của đơi mắt.
+ Trong các chất liệu hội họa từ Châu Âu đưa vào nước ta còn phải kể đến bột màu
(gouache) và màu Tăm-pê-ra. Đây là hai chất liệu đứng giữa sơn dầu và thuốc nước. Thời Trung
cổ đến tận thế kỷ XV, Tăm-pê-ra là loại thơng dụng nhất, bột màu có từ thế kỷ XVI và được phát
triển mạnh do bột màu tiện dụng, nhẹ nhàng nên được mọi người yêu thích.
Có những họa sĩ chun vẽ bột màu như Văn Giáo đã tạo nên được những bức tranh
phong cảnh có giá trị như: “Chùa voi phục”, “Cây đa Tân Trào”…và một loạt tranh vẽ về đề tài
bác Hồ. Từ “Du kích tập bắn” của Nguyễn Đỗ Cung trong kháng chiến chống Pháp đến “Ao
làng” của Phan Thị Hà, “Vịnh Hạ Long” của Minh Phương, “Phong cảnh miền núi” của Hà Cắm
Dìn,…bột màu đã trở nên quen thuộc với người xem.

11


Đồi cọ - 1957 - Tranh sơn dầu của họa sĩ Lương Xuân Nhị

Một góc phố cổ – Tranh màu bột của Đàm Thọ

Phố Hàng Mắm - Tranh sơn dầu của họa sĩ Bùi Xuân Phái


12


4.4. Các chất liệu đồ họa
Chúng ta có một truyền thống đồ họa khá phong phú, còn sống động là các dịng tranh
dân gian như Đơng Hồ, Hàng Trống,…và các loại tranh tết khác đến nay vẫn đang được sản
xuất. Trong quá khứ cũng như hiện tại, khắc gỗ là một trong những chất liệu được phát triển
nhất và thành công nhất. Tranh khắc gỗ Việt Nam cũ cũng như mới thu hút khá mạnh sự chú ý
của người xem trong và ngồi nước. Khắc gỗ của ta có cái khỏe mạnh, rắn rỏi lại vừa có sự ân
cần, thơ ngây và tình cảm. Khắc gỗ mới cịn đậm nét việc kế thừa trực tiếp từ tranh dân gian.
Chúng ta có khá nhiều tác phẩm khắc gỗ thành cơng của các lớp họa sĩ trẻ sau này. Trần
Nguyên Đán, Tấn Cư, Nguyệt Nga hay Hà Mỹ Lý,…là những người hăng say trong việc làm
tranh khắc gỗ, đã tạo ra một phong cách khắc gỗ riêng, độc đáo bằng lối vẽ tỉ mỉ, kỹ càng hoặc
phóng khống với lối dựng hình đầy chất trang trí. Vũ Duy Nghĩa, Huy Oánh, Nguyễn Tiến
Chung, Đường Ngọc Cảnh,…đã có những bức khắc gỗ tiêu biểu trưng bày ở các triển lãm trong
nước và quốc tế. “Phong cảnh Sài Sơn” của Nguyễn Tiến Chung là bức khắc gỗ màu rất đẹp, có
thể tiêu biểu cho việc khai thác truyền thống và mang vẻ hiện đại.
Bên cạnh khắc gỗ, ở nước ta còn phát triển in lưới. Xưởng tranh nghệ thuật đã in được
khá nhiều tranh đẹp của Trần Lưu Hậu, Lê Lam, Đào Đức, Trọng Kiệm, Vũ Duy Nghĩa, Đường
Ngọc Cảnh,…góp phần phổ biến rộng rãi các tác phẩm nghệ thuật tạo hình.
Ngồi tranh khắc gỗ ra, các chất liệu đồ họa gần đây còn có những phát triển khác như:
tranh khắc thạch cao, cao su, in kẽm, in đá…

Ông cháu
Tranh
khắc gỗ
của họa sĩ
Trần
Huy
Oánh


13


Làm gốm ở
Bầu Trúc,
Ninh Thuận
Tranh
khắc kẽm
của
Đàm Thọ

4.5. Điêu khắc
Cũng như hội họa và đồ họa, điêu khắc vốn có lịch sử từ rất xa xưa, ngay từ lúc con
người còn sống trong các hang động và bắt đầu biết làm đẹp cho cuộc sống của mình. Gắn bó
với kiến trúc, điêu khắc ngày càng có tiếng nói quan trọng trong đời sống và sự phát triển của
lịch sử xã hội lồi người.
Ở Việt Nam, từ rất sớm, các hình khắc trên vách đá hang Đồng Nội (nay thuộc huyện
Lạc Thủy, tỉnh Hịa Bình) và một số di vật đồ đá, xương, sừng, các đồ trang sức bằng vỏ sò,
ốc,…thuộc nền văn hóa Hịa Bình, Bắc Sơn cách đây tới hàng vạn năm, điêu khắc đã xuất
hiện. Rồi những pho tượng gỗ, đá còn lại cho đến ngày nay như tượng Phật chùa Tây
Phương, tượng Quan Âm nghìn mắt nghìn tay chùa Bút Tháp,…những chạm khắc trang trí
trên các đình làng,…đã trở thành những tác phẩm quí giá của nền mỹ thuật Việt Nam và là
niềm tự hào của dân tộc chúng ta.

14


Như vậy điêu khắc là một loại hình nghệ thuật sử dụng các chất liệu như gỗ, đá,
đồng, thạch cao, xi măng,…để tạo nên các tác phẩm nghệ thuật tồn tại và chiếm một diện tích

nhất định trong khơng gian. Nói một cách khác, nghệ thuật điêu khắc tạo hình bằng cách phối
hợp các hình khối trong khơng gian, qua đó nhà điêu khắc biểu hiện các ý tưởng nghệ thuật
của mình. Tác phẩm điêu khắc mang theo những đặc trưng khác biệt với các loại hình nghệ
thuật khác. Khi thưởng thức một tác phẩm hội họa, chúng ta đứng từ xa chiêm ngưỡng,
nhưng đối với tác phẩm điêu khắc ta có thể lại gần, thậm chí cảm nhận tác phẩm bằng xúc
giác. Khi sờ tay vào bức tượng ta sẽ cảm nhận được sự sống động, mềm mại hay thơ ráp, xù
xì; ấm áp hay lạnh lẽo… Tác phẩm điêu khắc tồn tại như một vật thể có trọng lượng, có khối,
có thể tích và chiếm chỗ trong khơng gian.
Ngồi vẻ đẹp về hình khối, đường nét, bố cục,…thì chất liệu cũng đóng góp một
phần quan trọng cho tiếng nói của điêu khắc. Chất liệu cho điêu khắc khá đa dạng, phong
phú. Mỗi chất liệu đều có những ưu điểm nhất định giúp cho nhà điêu khắc thể hiện có hiệu
quả hơn những hình tượng của mình.
Gỗ là một chất liệu quen thuộc trong điêu khắc. Tượng gỗ và phù điêu gỗ đã có
truyền thống lâu đời, gắn bó với vật liệu kiến trúc mà cha ông ta đã sử dụng để xây dựng
đình, chùa, nhà cửa... Ngồi ra, một chất liệu cũng khá quen thuộc đối với các nhà điêu khắc
Việt Nam là thạch cao. Ở bước đầu của điêu khắc Việt Nam hiện đại, thạch cao gần như là
chất liệu chính. Mặc dù đối với thế giới, đây là chất liệu dùng để làm phác thảo. Với chất liệu
thạch cao, nhiều tác phẩm đẹp và có giá trị đã ra đời như: “Cơ gái vót chơng” (Phạm Mười);
“Vân dại”, “Đài kỷ niệm Núi Thành” (Lê Công Thành); “Tượng đài chiến thắng” (Nguyễn
Hải); “Bác Hồ bên suối Lê-nin” (Diệp Minh Châu)… Từ năm 1975 đến nay, điêu khắc hiện
đại phát triển mạnh, các chất liệu điêu khắc đa dạng và phong phú vô cùng. Tại triển lãm mỹ
thuật tồn quốc năm 2000 chỉ có rất ít tác phẩm điêu khắc bằng thạch cao. Trong số 193 tác
phẩm điêu khắc ở triển lãm này có đến 55 tác phẩm bằng chất liệu đồng, 4 tác phẩm thạch
cao, 44 tác phẩm bằng gỗ. Còn lại là chất liệu đá, composit, đất nung, than đá, galito, sắt,
nhôm, xi-măng, bê-tông, gốm, đá, thủy tinh, thép, nhựa và chất liệu tổng hợp.

15


Qua đó bộc lộ sự hội tụ của mọi chất liệu, đồng thời thể hiện sự sáng tạo của các

nghệ sĩ điêu khắc Việt Nam hiện đại trong việc tìm cho tác phẩm mình một tiếng nói riêng,
biến những vật liệu vô tri, vô giác thành các tác phẩm nghệ thuật, thành chất da thịt, những
suy tưởng, ký ức, biểu tượng,…vô cùng sống động. Mỗi chất liệu, với những đặc điểm riêng
sẽ đưa lại các hiệu quả thẩm mỹ khác nhau. Các nhà điêu khắc sẽ sử dụng chất liệu phù hợp
để tạo nên tác phẩm cho riêng mình.

Tượng đầu người mình chim đánh trống – chùa Phật Tích (Bắc Ninh)
Năm 1057, cao 40cm, chất liệu đá

16


HƯỚNG DẪN HỌC TẬP CHƯƠNG I
1. Khái niệm mỹ thuật ? Bằng thực tế khách quan chứng minh rằng mỹ thuật là nhu cầu
không thể thiếu đối với cuộc sống con người ?
2. Mỹ thuật xuất hiện từ lúc nào ? Vì sao nói mỹ thuật phát sinh nhờ có lao động ?
3. Tại sao chúng ta yêu cầu học sinh luôn vở sạch, chữ đẹp, ăn mặc gọn gàng, nói năng
lễ phép, góc học tập ngay ngắn, ngăn nắp. Biết giữ gìn cảnh quan trường, lớp và mơi trường
xung quanh ?
4. Sơn mài có nguồn gốc từ đâu ? Tại sao nói tranh sơn mài là thế mạnh trong hoạt
động tạo hình ở nước ta ?
5. Sơn dầu có nguồn gốc từ đâu ? Đến với ta như thế nào ? Những tác phẩm và những
tác giả nổi tiếng nào đã làm nên diện mạo cho tranh sơn dầu Việt Nam ?
6. Một họa sĩ nổi tiếng đã đưa tranh lụa Việt Nam vươn ra tầm quốc tế, ông là ai ? Hãy
tìm đọc các tư liệu về cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của ông ?
7. Phân tích một tác phẩm hội họa yêu thích hoặc thân thế, sự nghiệp một trong các họa
sĩ tiêu biểu của nền mỹ thuật Việt Nam ?
8. Sưu tầm các phiên bản, các tác phẩm hội họa để làm tư liệu.
9. Sưu tầm các bài viết về mỹ thuật của các tác giả.
10. Tìm đọc các tài liệu, sách chun mơn về mỹ thuật, các họa sĩ nổi tiếng ( Leonar de

Vinci, Michel Ange, Raphaen,…Tơ Ngọc Vân, Nguyễn Gia Trí, Nguyễn Phan Chánh…)

17


CHƯƠNG II
VẼ THEO MẪU
1. KHÁI NIỆM VẼ THEO MẪU
Vẽ theo mẫu là người vẽ nghiên cứu mẫu đã trình bày sẵn, tìm cách để vẽ cho đúng, cho
giống mẫu về dáng vẻ, hình khối, đậm nhạt, màu sắc và có khơng gian như nó vốn có ở trước
mắt theo cách suy nghĩ và cảm xúc của riêng mình.
Những cảnh vật có thực ta nhớ lại để vẽ thì khơng gọi là vẽ theo mẫu mà gọi là vẽ theo
trí nhớ.
Chất liệu thông thường người vẽ hay sử dụng để vẽ theo mẫu là: chì đen, chì than, than
thỏi, màu bột, màu dầu...
Phân mơn này có nhiều tên gọi khác nhau: ở các trường phổ thông, các trường không
chuyên thường gọi là: Vẽ tả thực, vẽ tả sống (trước đây), vẽ theo mẫu (bây giờ - và cũng là tên
gọi thống nhất chung), ở các trường chuyên nghiệp gọi là hình họa.
Vẽ theo mẫu thực chất là hình hoạ. Từ xa xưa, khi con người chưa có tiếng nói và chữ
viết thì hình hoạ đã được sử dụng như một phương tiện "ngơn ngữ" chung của các dân tộc. Họ
vẽ hình để biểu thị ý muốn, để trao đổi tình cảm giữa con người với nhau trong sinh hoạt, trong
lao động, trong cuộc đấu tranh với thiên nhiên. Ngày nay, hình họa giữ một vị trí quan trọng
trong nghệ thuật tạo hình nói chung và trong hội hoạ nói riêng. Vì vậy, hình hoạ là một phân
mơn cơ bản nhất của ngành mỹ thuật, là môn học cơ sở của hội hoạ. Hình hoạ có tính chất quyết
định nhất trong việc bổ sung cho các loại hình nghệ thuật khác như: điêu khắc, trang trí…
Phân mơn vẽ theo mẫu (hình hoạ) nhằm rèn luyện nâng cao năng lực quan sát nhận xét
các vật mẫu, luyện tay vẽ thành thạo, chính xác, có khả năng biểu hiện được hình dáng, tỉ lệ, độ
đậm nhạt và màu sắc của các khối hình trong khơng gian (như hình mẫu ở trước mắt).
- Vẽ theo mẫu sẽ hình thành thị hiếu thẩm mỹ tốt, phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng,
kỹ xảo thể hiện đối tượng, đồng thời rèn luyện phương pháp làm việc khoa học.

- Vẽ theo mẫu giúp nhận thức nhanh dáng vẻ của các đối tượng, hình thành nên tình cảm
yêu quý thiên nhiên, yêu quý người lao động và thành phẩm lao động do con người làm ra.
- Đối với hội họa, điêu khắc và kiến trúc, vẽ theo mẫu luôn là cánh cửa đầu tiên để người
học nghiên cứu và khám phá, ln có mặt và tác động tích cực đến các môn học khác của
chuyên nghành. Thực tế cho thấy, các họa sĩ nổi tiếng của Việt Nam và trên thế giới, dù ở thời
đại nào cũng đều có trình độ vẽ theo mẫu rất tốt.
2. MỘT SỐ KIẾN THỨC CƠ BẢN VỀ VẼ THEO MẪU
Để thực hiện những yêu cầu vẽ theo mẫu chúng ta cần hiểu một số khái niệm cơ bản
thông thường của ngôn ngữ hội hoạ như:
Đường nét, hình khối, đậm nhạt, sáng tối, màu sắc, bố cục…
2.1. Đường nét
Đường nét do con người sáng tạo nên để biểu hiện một hình ảnh, một cảnh vật của giới
tự nhiên. Nó cịn là những ký hiệu, những quy ước của con người để biểu hiện hình khối của
mọi vật. Nét cịn gọi là đường viền hay đường chu vi, là ranh giới giữa vật này với vật khác hay
giữa một vật với không gian xung quanh. Định nghĩa một cách khoa học thì đường nét là tập
hợp của những điểm chuyển động; trong hội họa khái niệm “đường” và “nét” thường cùng song
hành, muốn tạo nét phải có đường và đường làm nên nét
Thơng thường, để diễn tả mọi vật người ta thường hay sử dụng mấy loại đường nét chính
như: nét thẳng, nét cong, nét gấp khúc. Chỉ dùng mấy loại nét này tìm cách thể hiện nó lúc nét
nhỏ, lúc nét to, nét đậm, nét nhạt, nét dài, nét ngắn,...là có thể vẽ được tất cả mọi thứ ta muốn.

18


2.2. Mảng
Một mặt phẳng có chu vi nhất định gọi là mảng. Vẽ là nghệ thuật diễn tả trên mặt phẳng
nhưng phải sử dụng các phương pháp khoa học về phép đo tỉ lệ, xa gần, tác động của sáng tối
trong khơng gian theo qui luật của mắt nhìn; có nghĩa là tạo được không gian ba chiều trên mặt
phẳng hai chiều .
Trong mỹ thuật, nhất là đối với bố cục tranh cịn có mảng chính, mảng phụ, mảng đậm,

mảng nhạt… Đó là cách gọi một lượng đậm hay nhạt màu nào đó chiếm diện tích nhất định trên
mặt tranh, tạo thành một mảng riêng, khác biệt rõ rệt với các mảng xung quanh. Một bức tranh
đẹp thường được nói đến bởi sự hài hịa chung của các hình mảng trong bố cục .
Đối với người mới học vẽ, bao giờ giáo viên cũng yêu cầu phải qui các vật thể của tự
nhiên định vẽ thành các mảng cụ thể để dễ nhận xét, phân tích và đẩy sâu bài học.
2.3. Hình
Mảng tạo nên hình nhất định, những hình khác nhau được sắp xếp tạo nên sự cân đối hay
thăng bằng trong bố cục, hình vẽ. Trong hội họa, khái niệm hình, mảng thường khơng tách rời
nhau, mảng khái qt cịn hình cụ thể hơn. Hiểu được mối quan hệ của hình và mảng để sắp đặt
trong một bố cục cụ thể là việc tìm tịi, nghiên cứu và sáng tạo của người học mỹ thuật .
Khi dạy các bài vẽ theo mẫu, cái mà học sinh nhận biết trước tiên chính là hình dáng bên
ngồi của vật đó nhờ khối, màu và nét. Ví dụ khi nhìn cái phích nước, cái ấm, chén,…trước mặt
không phải bằng khối, bằng màu, bằng nét mà bởi hình cái phích, ấm hay chén đó được tạo ra
trong mắt và sẽ được trẻ em thể hiện nhanh chóng.
2.4. Khối
Mọi vật thể phải có hình dáng và chiếm chỗ nhất định trong không gian, đều có hình khối
riêng, khơng giống nhau về màu sắc và hình dáng: cao to như ngọn núi, ngơi nhà đến nhỏ như
cái tủ, cái bàn, cái ghế, ấm, chén... Các vật thể ấy đều có thể vẽ được bằng những đường nét và
độ đậm, nhạt của đường nét, ta sẽ tạo được dáng hình khối của chúng.

Các khối hình biến thể và cấu tạo của con người nhìn theo khối hình cơ bản

19


Xuất phát từ các hình học cơ bản và các khối cơ bản ta sẽ tạo ra được các khối hình biến
thể. Các khối hình này là sự kết hợp các tính chất cơ bản của cặp đơi một hình, một khối ghép
với nhau .
Ví dụ: Khối hộp với hình trịn tạo ra khối hình trụ. Khối hình tam giác với hình trịn tạo
ra khối hình nón… Biến thể của khối hình cầu là khối quả trứng, của khối trụ là khối lục lăng…

Việc biểu hiện nghệ thuật hội họa có thể khái qt tất cả mọi hình dạng trong giới tự
nhiên thành hình dạng các khối cơ bản và biến thể như khối hình hộp, khối trụ, khối nón,…là
hồn toàn hợp lý. Nếu chú ý nhận xét sẽ thấy: Ngơi nhà ngói có mái là khối hình tam giác,
khung tường nhà là khối hình hộp; một hình cây có thân, cành là khối trụ, vịm lá là khối hình
quả trứng hoặc khối hình cầu…
Cơ thể con người là sự tổng hịa đến tuyệt vời của các hình khối. Đầu người là khối
hình quả trứng, cổ và chân tay có khối hình trụ, mình là khối hình hộp…
2.5. Màu sắc
Tất cả cảnh vật chung quanh ta đều có màu sắc. Màu sắc cảnh vật rất phong phú làm cho
con người và cuộc sống thêm tươi đẹp đáng yêu.
Trong sáng tạo nghệ thuật khơng thể thiếu được màu sắc, vì màu sắc là một trong những
ngơn ngữ tạo hình rất quan trọng. Màu sắc được pha trộn sẽ tạo ra vô vàn hòa sắc màu phong
phú và sinh động. Những màu nóng (có cùng gốc với màu đỏ, vàng, nâu) ln cho ta cảm giác
nóng bức hoặc vui vẻ, phấn chấn. Ngược lại, các màu lạnh (có cùng gốc với màu lục, lam, tím)
gợi cảm giác mát mẻ, nhẹ nhàng, êm ái hoặc lạnh lẽo, u buồn.
Tranh trong thời kỳ màu lam của Picatxô phần lớn là diễn tả những con người có số phận
thấp hèn, nghèo khổ trong xã hội Pháp ở đầu thế kỷ XX. Tồn bộ tranh ơng được phủ một màu
xanh lam lạnh lẽo. Những nhân vật gầy yếu, bệnh tật, chán chường như bị chìm ngập trong màu
lam nặng nề đó. Tất cả các yếu tố về hình, màu đã giúp Picatxơ diễn tả thành cơng và sâu sắc
các nhân vật. Người xem cảm nhận được gánh nặng của số phận. Nó khơng chỉ đè nặng lên nhân
vật trong tranh mà người xem cũng thấy căng thẳng nặng nề bởi gam màu lạnh lẽo nói trên.
2.6. Đậm nhạt, sáng tối
Khi có ánh sáng chiếu rọi, tính chất các hình khối và màu sắc sẽ thể hiện rõ hơn về đậm
nhạt và màu sắc. Cho nên khi vẽ cần nghiên cứu kỹ về sáng tối, đậm nhạt, màu sắc mới thể hiện
được đúng đối tượng, làm tăng thêm vẻ đẹp, khoẻ, chắc và sinh động của đối tượng.

Từ đất đai -Tranh tĩnh vật của hoạ sỹ Nguyễn Cương

20



2.7. Bố cục
Bố cục là sự sắp xếp các yếu tố tạo hình như: hình, mảng, đường nét, màu sắc, đậm nhạt
sao cho hợp lý, lơ-gíc để xây dựng nên một tác phẩm nghệ thuật làm nổi rõ ý đồ sáng tác của
họa sĩ. Hay nói một cách khác, bố cục tranh là sự tổng hòa các yếu tố tạo hình trên mặt phẳng
thơng qua sự diễn tả và cách nhìn riêng của người vẽ. Trong đó con người và cảnh vật là những
đối tượng không thể thiếu trong tác phẩm, nhất là những bức vẽ hữu hình và có chủ đề xã hội
Về mặt ngơn ngữ tạo hình, bố cục là việc tạo ra sự vận động của các yếu tố khối, nét,
màu bởi các thủ pháp nghệ thuật nhằm bộc lộ sự vận động tâm hồn suy tư và quan niệm của tác
giả để truyền đạt đến người xem.
Những đối tượng được đưa vào bức tranh không bao giờ tạo được ấn tượng tốt nếu
chúng không được bố trí một cách có lợi theo phép kết cấu và theo quy tắc hội hoạ và bố cục là
sự kết hợp của hai phần đó. Bố cục là cái quan trọng nhất, là tồn bộ tác phẩm. Bố cục chính là
sự phối hợp hài hoà các yếu tố đối lập, các biến thể của khối, nét, màu trong một không gian cụ
thể của tác phẩm. Đường nét, hình khối, và màu sắc là những thuộc tính vốn có của sự vật, nó ở
trạng thái tự nhiên trong từng hình thì có thể hồn chỉnh theo ý đồ tạo hố, nhưng quan sát nó
dưới những góc nhìn và đặt nó trong những khơng gian khác nhau thì ln cho những cảm thụ
nghệ thuật khác nhau. Điều đó đặt ra cho người vẽ phải có một sự sắp xếp, phân bố một cách
hợp lý để tạo được sự cân đối, nhịp nhàng về hình mảng, đường nét và đậm nhạt sao cho đạt
được hiệu quả thẩm mỹ cao nhất.
Danh hoạ người Italia, Lê-ơ-na đơ Vanh xi (Leonard de Vinci) đã nói: " Bố cục là tranh,
nếu khơng có bố cục, khơng có tranh".
Thật đúng vậy, bố cục có vai trị quyết định đối với vẻ đẹp của một tác phẩm nghệ thuật.

Sắp xếp bố cục trong một bài hình hoạ

21


3. LUẬT XA GẦN

3.1. Khái niệm về luật xa gần
Luật xa gần là luật giải thích và trình bày diễn biến của sự vật về hình thể và đường nét
từ gần đến xa khi người ta nhìn tự nhiên từ một điểm trông nhất định và giải quyết mọi tương
quan về đường nét của những vật thể, cảnh vật,...ở những vị trí xa gần khác nhau trong khơng
gian. Luật xa gần cịn có tên gọi là luật thấu thị hay luật phối cảnh.
Thời xa xưa khi luật xa gần chưa được tìm ra, người ta vẽ cảnh vật và người dù ở xa hay
ở gần cũng không phân biệt cao thấp, dáng nằm và dáng đứng cũng như nhau, làm cho khả năng
diễn đạt của hội hoạ rất hạn chế. Đến thời Phục Hưng (thế kỷ XV - XVI) khoa học về hội hoạ đã
tìm ra được những đường và điểm, tìm ra những quy luật thống nhất của các vật trong một thế
đứng nhất định. Những người có đóng góp lớn là các họa sĩ thời phục hưng Ý như: An-béc-ti
(1404-1472) và Pao-lơ U-xen-lơ (1397-1475). Ít lâu sau, Lê-ơ-na đờ Vanh-xi (1452-1519) đã
hiệu chỉnh lại vài chỗ chưa hợp lý và viết thành sách .
Sau này, sự phát triển của nhiều ngành khoa học như: vật lý , toán học, tâm lý học, kiến
trúc,...đã dần dần bổ sung, làm cho định luật xa gần có cơ sở khoa học, giải thích và trình bày
một cách chính xác trên bản vẽ những diễn biến của cảnh vật về hình thể và đường nét từ gần
đến xa như mắt ta nhìn thấy.
Ví dụ: Nếu ta nhìn ra cánh đồng thì ruộng gần, ruộng xa có diện tích tương ứng nhưng
sự diễn tả của các đường bờ ruộng, mặt rộng khác nhau. Người đang cày ruộng gần với người
đang cày ruộng xa cũng khác nhau về tỷ lệ và chiều cao.
Một số đồ vật trong nhà, chẳng hạn mặt bàn, mặt ghế là hình chữ nhật, miệng chén, cốc
thì trịn nhưng nếu đứng ngồi cửa nhìn vào thì miệng cốc, chén tạo thành hình bầu dục.
Tóm lại, luật xa gần là cơ sở khoa học giúp chúng ta chủ động phân tích, điều chỉnh lại
những hình vẽ cho đúng như cảnh vật mắt ta nhìn thấy.
3.2. Vai trị của luật xa gần trong học tập và sáng tác mỹ thuật
Luật xa gần có vai trị rất lớn trong học tập và sáng tác mỹ thuật vì nó là mơn khoa học
cơ bản chuyên nghiên cứu về phương pháp biểu hiện không gian trên bề mặt mà bất cứ một
người học vẽ nào cũng phải trải qua, nó là chỗ dựa đồng thời cũng là phương tiện tốt để nghiên
cứu học tập và xây dựng tác phẩm. Luật xa gần còn giúp cho người vẽ có khả năng tập hợp các
tài liệu đã ghi chép từ thực tế để hư cấu thành những bố cục. Nó cũng tạo điều kiện cho người vẽ
nhận thức đúng về khơng gian tạo hình và nắm vững tỉ lệ, diễn biến các vật thể trong không gian

theo chiều sâu.
Danh họa thế giới Lê-ô-na đờ Vanh-xi, người viết nên cuốn luật xa gần, đã vận dụng nó
vào hội họa và làm cho các tác phẩm của ông lừng danh như một mốc son chói lọi của nền hội
họa thời kỳ Phục hưng. Và đặc biệt, ảnh hưởng của luật xa gần to lớn đến nỗi nó được áp dụng
rộng rãi và thành công với nhiều họa sĩ ở các thời kỳ khác nhau như: Vơ-ri-dơ, Răm-brăng, Milê, Anh-gơ-rơ,…mà tên tuổi của họ luôn gắn liền với lịch sử hội họa thế giới.
3.3. Các đường và điểm chính trong định luật xa gần
Thuật ngữ và một số ký hiệu cần nhớ khi nghiên cứu về xa gần:
- ABCD : Khung phạm vi bao quát cảnh vật (còn gọi là khung tranh)
- HH’ : Đường chân trời (còn gọi là đường tầm mắt)
- CD
: Đường chân cảnh (hoặc gọi là đường sát đất)
-O
: Điểm nhìn (hoặc gọi là điểm mắt nhìn)
-P
: Điểm trơng chính
- Điểm tụ (gồm có điểm tụ chính và điểm tụ riêng)
- Điểm cách xa.

22


3.3.1. Đường tầm mắt (còn gọi là đường chân trời)
Đường tầm mắt là một đường hình học, giới hạn tầm xa mà mắt thường có thể nhìn thấy
được. Đường tầm mắt được ký hiệu là ĐTM.
Đường tầm mắt cao lên hay thấp xuống tùy thuộc vào sự thay đổi cao thấp của người vẽ
(tầm mắt của họ) mà tạo nên sự khác nhau về hình thể của cảnh vật. Như khi chúng ta đứng nhìn
cảnh vật thì đường chân trời cũng theo tầm mắt cao lên và ngược lại nếu ta ngồi xuống thấp thì
đường chân trời cũng theo tầm mắt tụt xuống theo.
Khi ta đứng trước cánh đồng ruộng mênh mơng thì tầm mắt là đường chia ngang bầu trời
và mặt đất hoặc khi đứng trước cảnh biển rộng bao la thì đường chân trời là đường nằm ngang

sát mặt biển và bầu trời. Do đó đường tầm mắt còn được gọi là đường chân trời.
Đường tầm mắt rất quan trọng, vì nó là cơ sở xác định các đường hướng để xây dựng
cảnh vật cho một bài vẽ, vì vậy khi đứng trước một cảnh vật, nhất là vẽ phong cảnh ta phải tìm
ra ngay đường đó và vạch lên giấy vẽ.
Muốn xác định được đúng đường tầm mắt, ta ngồi ngay ngắn tay cầm que đo (thật thẳng)
giơ cao ngang đúng tầm mắt, ta sẽ tìm thấy được. Hoặc lấy một miếng bìa cứng đưa lên ngang
tầm mắt, khi mặt trên và mặt dưới của miếng bìa chỉ là một đường thẳng nằm ngang trước mắt,
đường đó là đường tầm mắt.

Cách xác định đường tầm mắt

23


3.3.2. Đường chân cảnh
Đường chân cảnh là đường nằm dưới chân của khung tranh và song song với đường tầm
mắt. Đường chân cảnh còn được gọi là đường sát đất, có ký hiệu là ĐCC.
Đường chân cảnh ở cao hay thấp là do thế đứng của ta cao hay thấp nhìn sự vật mà ra.
Ví dụ: Khi ta ngồi thấp xuống thì khoảng cách giữa đường chân trời và đường chân cảnh
sẽ ngắn đi vì tầm mắt hạ xuống thì đường chân cảnh hạ xuống theo. Nếu ta nhìn một cảnh từ
trên cao thì đường chân cảnh ở cách xa đường tầm mắt và ta sẽ nhìn được mặt đất rộng hơn.

Đường chân cảnh (ĐCC)
3.3.3. Điểm trơng (điểm trơng chính)
Điểm trơng chính là điểm mắt ta nhìn thẳng góc với đường tầm mắt chạy qua khung tranh.
Điểm trơng chính thay đổi theo vị trí ta đứng nhìn mà làm cho bối cảnh thay đổi theo.
Ví dụ: Quang cảnh một đường khi ta đứng bên phải nhìn thấy khác, đứng ở bên trái nhìn
thấy khác và khi cúi mặt xuống ta nhìn thấy khác, đó là do điểm trơng thay đổi.

Cũng như đường chân trời, điểm trơng chính tùy theo chỗ đứng mà làm thay đổi phối

cảnh. Cũng là một cảnh vật, nhưng khi ta đứng ở vị trí khác nhau thì phối cảnh cũng khác nhau.

24


3.3.4. Điểm tụ (có điểm tụ chính và điểm tụ riêng)
- Điểm tụ chính (ĐTC) là nơi gặp nhau của những đường song hành thẳng góc với mặt
phẳng đứng của khung tranh. Điểm tụ chính này có thể ở giữa, ở bên phải hay bên trái trên
đường tầm mắt, tuỳ theo vị trí của điểm trơng chính.
- Điểm tụ riêng (ĐTR) là nơi gặp nhau của những đường song hành khơng thẳng góc
với mặt phẳng đứng của khung tranh.

3.3.5. Điểm cách xa
Điểm cách xa là điểm nằm trên đường tầm mắt có góc 45 độ so với điểm mắt nhìn. Từ
điểm cách xa đến điểm tụ chính dài bằng từ điểm tụ chính về điểm mắt nhìn.
Ví dụ: khoảng cách từ điểm mắt nhìn (điểm O) đến điểm tụ chính (điểm F) trên đường
tầm mắt. Hai điểm cách xa là X và Y nằm trên đường tầm mắt thì XF = FY = FO (xem hình vẽ).
OF là giới hạng phạm vi tầm mắt ta nhìn bao quát được một cảnh vật (rộng hay hẹp).
Như vậy, điểm cách xa có thể rộng ra hay hẹp lại tuỳ theo chỗ đứng nhìn của người vẽ xa
hay gần so với đường tầm mắt (tức là từ O đến F nhiều hay ít mà ra).
ĐCX
X

F

ĐCX
Y

O
3.4. Một số điểm cần ghi nhớ để áp dụng khi vẽ xa, gần

Tất cả các đường song hành không song song với đường tầm mắt chạy từ gần ra xa
đều quy tụ vào một điểm trên đường tầm mắt.
- Những đường song hành, thẳng góc với mặt tranh thì quy tụ vào điểm tụ chính
- Những đường song hành, khơng thẳng góc với mặt tranh thì quy vào điểm tụ riêng.
- Nếu ở trên đường tầm mắt thì các đường song hành có hướng đi xuống
- Nếu ở dưới đường tầm mắt thì các đường song hành có hướng đi lên

25


Tất cả các đường nằm ngang chạy song song với đường tầm mắt luôn luôn giữ nguyên
là đường thẳng nằm ngang không thay đổi, nhưng càng xa trông chúng càng ngắn lại và xít
dần.
Tất cả các đường thẳng đứng (cột điện, chân bàn, hàng cây…) luôn luôn giữ nguyên tư
thế thẳng đứng nhưng càng về xa trơng càng xít lại và thấp dần.

Các đường thẳng đứng và các đường song song nằm ngang

Hình vẽ các đường thẳng vng góc với đường chân trời
3.5. Những điều chú ý khi áp dụng luật xa gần
Khi áp dụng luật xa gần vào vẽ cảnh, vẽ người, vẽ đồ vật thì cần nắm vững đường tầm
mắt và điểm tụ.
- Đầu tiên cần xác định đường tầm mắt, sau đó tìm hướng đi của các đường song hành để
tìm điểm tụ chính (hay điểm tụ riêng) trên đường tầm mắt.

26


- Các thế đứng, thế nằm ngang khơng có gì thay đổi, cịn chiều sâu của chúng thì bị thu
ngắn, gần lại. Căn cứ vào thực tế để vẽ cho các tỉ lệ được cân đối.

Một số hình vẽ tham khảo về dáng người thông qua luật xa gần

Dáng người qua điểm trông của người đứng vẽ

27


×