Tải bản đầy đủ (.docx) (9 trang)

CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (61.5 KB, 9 trang )

CẢI CÁCH BỘ MÁY HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC
Trong bối cảnh hiện nay, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến cơng tác
Cải cách hành chính nói chung và cải cách bộ máy hành chính nói riêng, được xem
như là một bước đổi mới, là trọng tâm của tiến trình xây dựng và hồn thiện bộ
máy Nhà nước theo Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nhằm xây dựng một nền
hành chính dân chủ, thống nhất, đủ năng lực theo đường lối chính sách của Đảng,
Nhà nước, phục vụ đắc lực cho nhân dân.
Cải cách hành chính là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị - xã hội, nhằm sửa đổi
tồn diện hệ thống hành chính nhà nước, giúp cơ quan nhà nước hoạt động hiệu
lực, hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội tốt
hơn trong tình hình mới.
Cịn cải cách bộ máy nhà nước là việc sửa đổi, cải biến về mơ hình, cơ cấu tổ
chức và hoạt động của hệ thống các cơ quan nhà nước nhưng không làm thay đổi
bản chất của nhà nước.
Cải cách bộ máy nhà nước được thực hiện bởi các hoạt động như thay đổi, sáp
nhập, chia, tách, xoá bỏ hay thành lập mới cơ quan nhà nước, đổi mới hình thức
hoạt động của các cơ quan nhà nước, tăng cường nhiệm vụ và quyền hạn cho các
cơ quan nhà nước. Mục đích của cải cách bộ máy nhà nước là làm cho bộ máy nhà
nước có hiệu lực và hoạt động có hiệu quả hơn.
Việc cải cách bộ máy nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam thường
được xuất phát từ các nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam và được các cơ
quan nhà nước có thẩm quyền như Quốc hội, Chính phủ... quy định trong các văn
bản quy phạm pháp luật, đặc biệt là trong hiến pháp và các luật của Quốc hội.
Khái niệm bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Để hiểu khái niệm “bộ máy nhà nước” nói chung và “bộ máy nhà nước Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” nói riêng, trước tiên cần hiểu khái niệm “Nhà
nước”.
1


Với khái niệm chung về bộ máy nhà nước như trên, có thể hiểu “bộ máy nhà


nước Cộng hịa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam” là cấu trúc tổ chức trực tiếp nắm giữ
và thực thi quyền lực nhà nước, tức là bộ máy nhà nước của nước Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Việt Nam.
Ở góc độ luật hiến pháp, khi nói tới “Cơ quan nhà nước” là nói tới yếu tố cấu
thành chính của nó như: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, cơ cấu tổ chức - nhân
sự. Các thuật ngữ này cũng sẽ được sử dụng thường xuyên và xuyên suốt quá trình
khảo cứu các cơ quan nhà nước cụ thể trong chương trình mơn học Luật hiến pháp.
“Chức năng” của cơ quan nhà nước là lĩnh vực hoặc những lĩnh vực hoạt động
chính của cơ quan đó, ví dụ lĩnh vực - chức năng lập pháp, lĩnh vực - chức năng
hành pháp, lĩnh vực - chức năng tư pháp, lĩnh vực - chức năng kiểm soát quyền
lực, lĩnh vực - chức năng công tố, lĩnh vực - chức năng quản lý hành chính nhà
nước
Căn cứ vào chức năng, cơ quan nhà nước được giao thẩm quyền nhất định, tức
là tổng thể các nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể được quy định trong hiến pháp và các
văn bản pháp luật khác. Cơ quan nhà nước sử dụng và viện dẫn các nhiệm vụ,
quyền hạn này để tiến hành các hoạt động cụ thể nhằm thực hiện chức năng của
mình. Cũng có thể nói, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đem đến sự bảo đảm
pháp lý cho việc thực hiện chức năng của cơ quan nhà nước đó. Chính vì vậy,
phạm vi thẩm quyền của cơ quan nhà nước luồn được quy định phù hợp với chức
năng của nó. Ví dụ: Quốc hội Việt Nam có chức năng lập pháp thì có quyền ban
hành các đạo luật; tịa án nhân dân có chức năng tư pháp thì có nhiệm vụ bảo vệ
cơng lý, có quyền xét xử và giải thích pháp luật...
Nếu “nhiệm vụ, quyền hạn” là yếu tố bảo đảm về mặt pháp lý thì “cơ cấu tổ
chức - nhân sự” là yếu tố bảo đảm về mặt vật chất cho hoạt động của một cơ quan
nhà nước. Mọi cơ quan nhà nước đều được tạo thành bởi con người, được sắp xếp
thành các bộ phận trong cơ cấu tổ chức phù hợp với việc thực hiện chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn. Cơ cấu tổ chức của một cơ quan nhà nước cũng phải phù
hợp với tính chất hoạt động, tức là đặc điểm chủ đạo xuất phát từ cách thức hình
thành và nội dung nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan đó. Ví dụ: Quốc hội có tính
chất là cơ quan đại diện của nhân dân nên có cơ cấu tổ chức theo kiểu hội đồng với

2


các uỷ ban giúp việc; trong khi đó, các Bộ là các cơ quan hành chính nhà nước có
tính chất thủ trưởng chế nên trong cơ cấu tổ chức xoay quanh một người có thẩm
quyền và trách nhiệm cao nhất là bộ trưởng... Nhân sự trong các cơ quan nhà nước
cũng là vấn đề cần bàn tới. Những người nắm giữ chức vụ, quyền hạn cụ thể trong
một cơ quan nhà nước thường có hai tư cách. Thứ nhất, họ là người nhân danh
quyền lực thực hiện một phần nào đó của chức năng nhà nước, ví dụ Thủ tướng
Chính phủ đại diện nhà nước khi điều hành hoạt động của Chính phủ, Thẩm phán
đại diện nhà nước khi xét xử... Khi thực hiện nhiệm vụ của mình, họ là “người nhà
nước” và có thể được hưởng các đặc quyền tương ứng với nhiệm vụ và quyền hạn
mà họ phải thực hiện. Tuy nhiên, ở góc độ thứ hai, họ cũng là những người dân
bình thường. Do đó, trong hồn cảnh khơng thực hiện nhiệm vụ nhà nước thì họ là
con người bình thường, có quyền, lợi ích và nghĩa vụ pháp lý cũng như những
người bình thường khác.
1. Từ những ý trên chúng ta có thể thấy được một điều rằng Nhà nước cần

phải cải cách bộ máy hành chính nhà nước tại vì
Do sự thay đổi từ nền kỉnh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường
định hướng XHCN.Sự phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo cơ
chế thị trường, cơng nghiệp hóa hiện đại hóa trong thời kỳ mới thì hồn thiện nên
hành chính về thể chế, nâng cao hệ thống văn bản quy phạm pháp luật theo cơ chế
mới nhằm đảm bảo đất nước phát triển nhanh chống và vững mạnh theo định
hướng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Một trong số đó, cần phải quan tâm là cải cách về cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
nhà nước của các cơ quan hành chính.
– Hiện nay, cịn nhiều vấn đề tồn tại trong nền hành chính nhà nước có biểu hiện
tiêu cực, chưa đáp ứng cơ chế quản mới và nhu cầu của người dân, cụ thể:
+ Công tác quản lý nhà nước của cơ quan hành chính trong nền kinh tế thị

trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa thể hiện rõ nét, còn mang đậm nét những
cơ chế quản lý cũ.
Sự phân công, phân cấp giữa các cơ quan, ban, ngành từ trung ương đến địa
phương chưa rành mạnh.
+ Thể chế hành chính chưa thống nhất, thiếu đồng bộ; thủ tục hành chính của
nhiều lĩnh vực còn rườm ra, phức tạp.

3


+ Bộ máy nhà nước trong lĩnh vực hành chính cịn cơng kềnh, nhiều cấp bậc,
cách thức quản lý hành chính mang đậm tính chất tập trung quan liêu; chính sách
tài chính cho các hoạt động dịch vụ cơng chưa phù hợp với hoạt động của các cơ
quan, hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập…
+ Đội ngũ cán bộ, cơng chức cịn yếu kém cả về năng lực, trình độ chuyên môn
và phẩm chất, đạo đức trong quản lý, thực hiện chức năng, nhiệm vụ hành chính;
tác phong, phong cách làm việc trì trệ, ngai thay đổi; tệ quan liêu, tham nhũng,
sách nhiễu nhân dân con diễn ra khá phổ biến.
+ Cơ quan thực hiện công tác quản lý hành chính ở các địa phương cịn xa rời
với dân, không nắm bắt đầy đủ các thông tin diễn ra trên địa bàn, còn hạn chế trong
kĩ năng xử lý các tình huống phức tạp.
+ Việc sử dụng nguồn tài chính cơng trong q trình cơng tác, hoạt động quản lý
chưa phù hợp, cịn gây nhiều sự lãng phí, thất thốt, sử dụng chưa hiệu quả.
– Do sự tồn cầu hóa và hội nhập quốc tế ảnh hưởng sâu rộng. Điều đó địi hỏi
bộ máy hành chính phải vận hành linh hoạt hơn để tăng tính cạnh tranh trong q
trình hội nhập và phân công lao động phù hợp với tính chất tồn cầu.
Chính vì vậy, mà về thể chế hành chính hay đội ngũ nhân lực phải phù hợp với
pháp luật và thông lệ quốc tế, nhưng vẫn mang tính chất độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi
ích của quốc gia.
– Do sự phát triển vượt trội và nhanh chống của nền khoa học kĩ thuật công

nghệ. Điều này đã dẫn đến ảnh hưởng lớn đến nhiều mặt của đời sống xã hội, đặc
biệt là trong hoạt động quản lý hành chính.
Sự thay đổi này đánh dấu phải có sự biến đổi về cơ chế quản lý hành chính mới.
Hay nói cách khác cơ chế này phải thơng qua sự cải cách hành chính, tổ chức lại
bộ máy, thay đổi cách thức quản lý cho phù hợp với sự phát triển chung của thế
giới.
– Do nhận thức của người dân về xã hội ngày càng cao. Trong bối cảnh đó, địi
hỏi Nhà nước phải phát huy tính dân chủ, tăng trách nhiệm của người dân trong
việc tham gia góp ý hồn thiện cơ chế quản lý hành chính và phải cơng khai, minh
bạch trong hoạt động của mình. Vì vậy cải cách bộ máy hành chính nhằm bảo đảm
tính chất pháp lý, sự công bằng, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả trong quy trình giải
quyết cơng việc hành chính; hạn chế các hành vi tiêu cực như tham nhũng, sách
nhiễu, gây khó khăn cho người dân, loại bỏ các thủ tục, giấy tờ rườm rà.
2. Nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
4


Cải cách bộ máy nhà nước được thực hiện ở những nội dung sau:
2.1 Cải cách cơ cấu tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
2.2 Cải cách phương thức hoạt động bộ máy hành chính nhà nước
2.3 Cải cách mối quan hệ chức năng của bộ máy hành chính nhà nước
2.4 Cải cách quản lý nhà nước trong bộ máy hành chính nhà nước.
Trong bốn nội dung trên thì cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước là nội
dung được quan tâm nhất
Các nội dung cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước trong những năm
vừa qua đã tập trung cho việc rà soát, sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy, tinh giản
biên chế, phân định và làm rõ chức năng, nhiệm vụ của các bộ, cơ quan ngang bộ,
cũng như xác định rõ hơn việc thực hiện chức năng xây dựng, ban hành thể chế, kế
hoạch, chính sách, quản lý vĩ mơ đối với sự phát triển kinh tế - xã hội. Ngoài ra,
việc phân định rõ thẩm quyền, trách nhiệm của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ

và các bộ trưởng cũng là một trong những kết quả nổi bật của nội dung cải cách tổ
chức bộ máy. Các bộ đã tiến hành rà soát chức năng, nhiệm vụ, sắp xếp tổ chức bộ
máy của các cơ quan, đơn vị, bước đầu khắc phục những chồng chéo, trùng lặp về
chức năng, nhiệm vụ, đã chuyển cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ
hoặc doanh nghiệp làm những cơng việc về dịch vụ khơng cần thiết phải do cơ
quan hành chính nhà nước trực tiếp thực hiện.
Nhìn chung, cơ cấu tổ chức bộ máy bên trong của bộ, cơ quan ngang bộ, cơ
quan thuộc Chính phủ đã được sắp xếp, góp phần xây dựng một bộ máy tinh gọn,
hợp lý, tương xứng với chức năng nhiệm vụ quản lý nhà nước của mỗi cơ quan;
định rõ tính chất và các loại hình tổ chức trực thuộc để tham mưu và thực thi pháp
luật.
Từ 2016 - 2021 “Điểm nổi bật trong nhiệm kỳ XII là việc đổi mới hoàn thiện tổ
chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hệ thống chính trị được làm rất
mạnh mẽ, có thể nói như một “cuộc đổi mới” về tổ chức”, “… bảo đảm hệ thống
hành chính nhà nước từ Trung ương đến địa phương hoạt động thống nhất, thông
suốt, hiệu lực, hiệu quả”.
*Những kết quả chính đã đạt được khi cải cách bộ máy hành chính
Về xây dựng thể chế: Việc xây dựng, hồn thiện thể chế hành chính nhà nước đã
đạt những kết quả có ý nghĩa rất quan trọng Quốc hội, Chính phủ và các bộ, ngành
5


đã ban hành 71 luật, 745 nghị định, 232 quyết định của Thủ tướng Chính phủ,
2.242 thơng tư và nhiều văn bản khác. Qua đó, thể chế của nền hành chính được
cải cách và hồn thiện phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và cơ chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cơ bản đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc
tế. Cần nhấn mạnh rằng, kết quả xây dựng, hồn thiện thể chế hành chính nhà nước
không chỉ thể hiện ở số lượng văn bản, mà ý nghĩa quan trọng nhất là đã kịp thời
thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng để tạo lập cơ sở pháp lý đồng bộ,
thống nhất cho việc thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính nhà nước tinh

gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Về kết quả thực hiện sắp xếp: Bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa
phương đã từng bước phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn, cơ bản khắc phục tình
trạng chồng chéo, bỏ sót chức năng, nhiệm vụ, phạm vi, đối tượng quản lý; cơ cấu
bên trong đã có sự phân định rõ hơn giữa cơ quan quản lý nhà nước và đơn vị sự
nghiệp công lập. Việc triển khai Nghị quyết số 18-NQ/TW và Nghị quyết số 19NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đã đạt nhiều kết quả tích cực,
tạo được nhận thức mới, tư duy mới và hành động quyết liệt trong tồn hệ thống
chính trị từ Trung ương đến địa phương và đến nay đã giảm được nhiều đầu mối
bên trong các bộ, ngành và địa phương, đặc biệt giảm trên 25% đơn vị sự nghiệp,
nhất là ở các địa phương đã giảm 3.980 đơn vị sự nghiệp; thực hiện tích cực việc
sắp xếp lại đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã (đã giảm 08/713 đơn vị hành
chính cấp huyện và 557/11.160 đơn vị hành chính cấp xã; 38.369/98.455 thơn, bản,
tổ dân phố, tương ứng giảm 39%). Qua sắp xếp, bước đầu đảm bảo tổ chức bộ máy
hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Về tinh giản biên chế gắn với sắp xếp tổ chức bộ máy: Đã giảm trên 27.500 biên
chế công chức (tương ứng giảm 10,01% so với năm 2015); giảm gần 243.000 biên
chế viên chức (tương ứng giảm 11,98% so với năm 2015), và vượt so với mục tiêu
giảm 10% mà Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị đề ra đến năm 2021.
Cơng chức từ cấp huyện trở lên giảm 40.000 người; giảm gần 148.000 cán bộ,
công chức cấp xã và người hoạt động không chuyên trách ở thôn, bản, tổ dân phố;
hợp đồng lao động giảm gần 7.000 người.
*Những hạn chế trong cải cách bộ máy hành chính
Một số văn bản hướng dẫn chi tiết thực hiện các văn bản quy định về tổ chức bộ
máy chưa ban hành kịp thời. Tổ chức bộ máy vẫn chưa khắc phục triệt để những
chồng chéo, giao thoa về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, cơ quan ngang bộ;
nguyên tắc một việc chỉ giao một cơ quan chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm
chính chưa được phát huy mạnh mẽ. Chức năng, nhiệm vụ và mô hình tổ chức của
chính quyền địa phương tuy đã được xác định và kiện toàn nhưng chưa đồng bộ và
triệt để; việc sắp xếp đơn vị hành chính cấp huyện, cấp xã còn thiếu quyết liệt ở
6



một số địa phương.Việc sắp xếp cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh, cấp
huyện chưa thật phù hợp với quan điểm chỉ đạo của Trung ương; một số địa
phương chưa thực hiện đúng quy định về sắp xếp tổ chức bộ máy; việc rà soát, tinh
giản biên chế chưa thực sự gắn với nâng cao chất lượng và cơ cấu lại đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức; chưa chủ động đề xuất, kiến nghị với Trung ương sửa
đổi, bổ sung các văn bản, các quy định không phù hợp với thực tế.
Những hạn chế này đã được Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng chỉ rõ: “Cải
cách hành chính, cải cách tư pháp chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu phát triển đất
nước. Tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương chưa đổi mới mạnh mẽ;
chức năng, nhiệm vụ, phân cấp, phân quyền chưa thật rõ ràng, hiệu lực, hiệu quả
hoạt động còn hạn chế. Số lượng cán bộ cấp xã và đội ngũ viên chức trong các đơn
vị sự nghiệp cơng vẫn cịn q lớn; phẩm chất, năng lực, uy tín cịn hạn chế, thiếu
tính chuyên nghiệp, chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới”.
Chính phủ cũng đánh giá “... bộ máy hành chính nhà nước chưa thực sự tinh gọn,
hiệu quả. Việc đổi mới lề lối làm việc, kỷ cương, kỷ luật, chất lượng đội ngũ cán
bộ, công chức chưa đồng đều, vẫn cịn tình trạng đùn đẩy, né tránh”.
Tiếp tục xây dựng nền hành chính nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì
Nhân dân là quyết tâm chính trị đã được Đại hội ĐBTQ lần thứ XIII của Đảng
khẳng định, cần được quán triệt đầy đủ từ nhận thức đến hành động trong thời gian
tới. Trong đó, trọng tâm là xây dựng bộ máy hành chính nhà nước tinh gọn, hoạt
động hiệu lực, hiệu quả, có năng lực kiến tạo phát triển, liêm chính, phục vụ nhân
dân. Theo tinh thần đó, cần tập trung thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm
và cơ bản.
3. Phương hướng, nhiệm vụ cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
giai đoạn tới
Trên cơ sở những kết quả đã đạt được và những yêu cầu chủ quan, khách quan
của bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới, để xây dựng một nền
hành chính năng động, trách nhiệm, hiện đại, xây dựng tổ chức bộ máy tinh gọn,

hoạt động hiệu lực, hiệu quả cần tiếp tục triển khai thực hiện những nhiệm vụ sau:
3.1. Tăng cường vai trị, trách nhiệm và quyết tâm chính trị của người đứng đầu
cơ quan hành chính các cấp, của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức trong từng
cơ quan, đơn vị là điều kiện quan trọng đảm bảo sự thành cơng của cải cách hành
chính nói chung, cải cách tổ chức bộ máy hành chính nói riêng. Người đứng đầu cơ
quan hành chính các cấp cần tăng cường cơng tác chỉ đạo, điều hành cải cách hành
chính, chịu trách nhiệm chính về kết quả cải cách hành chính. Tiếp tục đổi mới
phương thức làm việc và sự chỉ đạo, điều hành của Chính phủ, Thủ tướng Chính
7


phủ, các bộ và cơ quan hành chính địa phương các cấp trong việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn
3.2. Việc thành lập các tổ chức hành chính trong hệ thống các cơ quan quan
hành chính cần được thực hiện trên cơ sở đáp ứng các tiêu chí, điều kiện cụ thể
theo quy định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ hoặc Bộ trưởng Bộ Nội.Thực
hiện nguyên tắc phân công quản lý nhà nước “một việc chỉ giao cho một cơ quan
chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm chính”. Theo đó, lĩnh vực tổ chức bộ máy
được Chính phủ phân cơng cho Bộ Nội vụ quản lý, thì Bộ Nội vụ thực hiện nhiệm
vụ chủ trì và chịu trách nhiệm chính về quản lý tổ chức bộ máy, tránh tình trạng
thiếu tính thống nhất về mơ hình tổ chức trong cùng hệ thống.
3.3. Nghị quyết số 39-NQ/TW của Bộ Chính trị đặt ra yêu cầu đối với các quy
định về tổ chức bộ máy và biên chế cần được quy định thống nhất trong các văn
bản pháp luật thuộc chuyên ngành tổ chức nhà nước. Thực tiễn cho thấy, việc hình
thành tổ chức hành chính thường gắn với phát sinh các quy trình, thủ tục hành
chính. Vì vậy, để thực hiện đơn giản hóa thủ tục hành chính theo Nghị quyết số 192016/NQ-CP ngày 28/4/2016 của Chính phủ về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu
cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia hai năm
2016-2017, định hướng đến năm 2020, ngoài việc rà sốt, loại bỏ các thủ tục
khơng cần thiết, đơn giản hóa và hiện đại hóa thủ tục hành chính, cần tăng cường
quản lý chặt chẽ đối với tổ chức hành chính, đặc biệt là các tổ chức hành chính

được thiết kế quản lý theo ngành dọc từ Trung ương đến địa phương (tổng cục và
tổ chức tương đương).
3.4. Triển khai thực hiện có hiệu quả Luật tổ chức Chính phủ năm 2015 và Luật
tổ chức chính quyền địa phương năm 2015, theo đó, điều chỉnh chức năng của
Chính phủ cho phù hợp với yêu cầu của cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, trên cơ sở đó xác định rõ thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ và chính quyền địa phương. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ từng
cấp, từng ngành, từng cơ quan, tổ chức để bảo đảm không chồng chéo, trùng lặp
giữa các cơ quan trong hệ thống chính trị, giữa Trung ương và địa phương. Sáp
nhập những cơ quan, tổ chức có cùng hoặc tương đồng về chức năng, nhiệm vụ.
Khơng nhất thiết Trung ương có tổ chức, cơ quan nào thì địa phương có tổ chức, cơ
quan đó. Nghiên cứu từng bước khắc phục nhiều bộ máy trong hệ thống chính trị
và các cơ quan có chức năng tương đồng. Bảo đảm nguyên tắc một việc, trên một
địa bàn chỉ giao cho một cơ quan, tổ chức chủ trì thực hiện và chịu trách nhiệm
chính, khơng bỏ trống nhiệm vụ quản lý nhà nước.

8


3.5. Quy định cụ thể nguyên tắc "ba định" trong thành lập tổ chức là: xác định
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức mới dự kiến được thành lập có trùng
lắp với tổ chức hiện có hay khơng, trên cơ sở đó xác định mơ hình tổ chức được
thành lập và quyết định số lượng biên chế của tổ chức mới đó. Đồng thời, quy định
cụ thể nguyên tắc thành lập tổ chức, khung cơ cấu, số lượng cơ quan, tổ chức trực
thuộc một ban, bộ, ngành, đoàn thể Trung ương; nguyên tắc thành lập tổ chức,
khung cơ cấu, số lượng cơ quan, tổ chức trực thuộc cấp ủy, chính quyền, đồn thể
ở tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh
(kể cả cơ cấu các đơn vị bên trong các cơ quan, tổ chức này). Các bộ, cơ quan
ngang bộ khẩn trương hoàn thiện dự thảo Nghị định quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của cơ quan mình, trong đó, kiện tồn cơ cấu tổ

chức bộ máy tinh gọn, giảm cấp trung gian, quản lý đa ngành, đa lĩnh vực, đáp ứng
đúng các tiêu chí về thành lập vụ, cục, tổng cục thuộc bộ, cơ quan ngang bộ.
3.6. Kiên quyết thực hiện việc chuyển giao mạnh các nhiệm vụ, công việc không
thuộc chức năng của hệ thống hành chính cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính
phủ, tổ chức sự nghiệp dịch vụ công, tổ chức doanh nghiệp, tư nhân đảm nhiệm,
theo hướng đẩy mạnh xã hội hoá. Tiếp tục cải cách và triển khai trên diện rộng cơ
chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Ban hành
nghị định quy định về cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành, lĩnh
vực, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quy hoạch mạng lưới các đơn vị sự
nghiệp công lập theo ngành, lĩnh vực theo hướng tinh gọn, hiệu quả, đẩy mạnh xã
hội hóa; danh mục dịch vụ sự nghiệp cơng sử dụng ngân sách nhà nước thuộc lĩnh
vực quản lý. Căn cứ quy hoạch mạng lưới đơn vị sự nghiệp công lập theo ngành,
lĩnh vực, các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan khác ở
Trung ương và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương rà soát, xây
dựng đề án sắp xếp, tổ chức lại các đơn vị sự nghiệp công được giao quản lý để
quyết định theo thẩm quyền hoặc trình cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

9



×