Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (49.1 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
Đổi mới cách ra đề bài môn Ngữ Văn cho học sinh THCS
Kể từ vài năm trở lại đây, vấn đề đổi mới phương pháp giảng dạy và đổi mới đánh giá kết quả học
tập môn Ngữ văn ở bậc THCS thực sự là giải pháp có tính chiến lược để nâng cao chất lượng dạy
và học văn trong trường phổ thơng. Tuy cịn nhiều vấn đề cần phải nghiên cứu và tiếp tục được thể
nghiệm, song chúng ta cần phải đồng thời đổi mới một cách tích cực cả phương pháp giảng dạy và
cách đánh giá kết quả học tập môn Ngữ văn của học sinh hiện nay. Trong bài viết này, xin được
trao đổi một số vấn đề về đổi mới việc ra đề bài kiểm tra môn Ngữ văn trong trường THCS.
st1\:*{behavior:url(#ieooui) }
Chúng ta đều biết rằng vấn đề đánh giá trong lĩnh vực giáo dục mang tính đặc thù riêng, không
giống với bất cứ một lĩnh vực khoa học nào. Bởi đánh giá trong giáo dục là q trình thu thập và xử
lý kịp thời có hệ thống những thông tin về hiện trạng, khả năng hay nguyên nhân của chất lượng và
hiệu quả giáo dục trên cơ sở căn cứ vào mục tiêu môn học, mục tiêu giáo dục đào tạo để làm cơ sở
cho những chủ trương và biện pháp giáo dục tiếp theo.
Trong cơng tác đánh giá, thì kiểm tra được xem là phương tiện và hình thức quan trọng nhất. Có thể
có nhiều cách thức và phương tiện giúp cho việc kiểm tra đạt hiệu quả tốt, nhưng phương tiện hay
công cụ) kiểm tra chủ yếu vẫn là thông qua hệ thống đề bài kiểm tra.
Đối với bộ môn Ngữ văn ở bậc THCS, tuy có vận dụng nguyên tắc “tích hợp” giữa 3 phân mơn:
Văn, tiếng Việt và Tập làm văn nhưng trong khung phân phối chương trình của Bộ GD-ĐT cũng
như phân phối chương trình chi tiết của Sở GD-ĐT các tỉnh thành trong cả nước thì đều có tiết
kiểm tra riêng của từng phân mơn, trong đó các bài viết Tập làm văn 2 tiết tại lớp có một vị trí quan
trọng đặc biệt - quyết định kết quả học tập bộ môn Ngữ văn của học sinh . Đề bài là những câu hỏi
hoặc bài tập đưa ra yêu cầu học sinh giải quyết bằng hình thức thơng qua văn bản viết có quy định
cụ thể về thời gian thực hiện. Qua đó, giáo viên xem xét đánh giá kết quả học tập bộ môn của từng
học sinh.
Trong những năm gần đây, cấu trúc đề bài kiểm tra Ngữ văn bậc học phổ thơng khơng cịn là dạng
đề truyền thống có tính chất mệnh lệnh hay áp đặt mà có sự thay đổi cả về nội dung và cấu trúc. Cụ
Với cách ra đề như đã nói ở trên, đề bài văn của ta thực sự chưa tạo ra được hứng thú làm bài của
học sinh và cũng đồng nghĩa là đề bài chưa dành cho các em khả năng độc lập sáng tạo trong quá
trình tạo lập văn bản. Từ tình hình thực tế của việc ra đề như lâu nay, nên tháng 8-2008, Bộ GD-ĐT
và Viện KHGD đã tổ chức tập huấn “Đổi mới PPGD và đổi mới PPĐG kết quả học tập môn Ngữ
văn của học sinh THCS” với tinh thần và phương châm là …“Thay đổi cách ra đề Tập làm văn theo
hướng “Mở” khơng trói buộc sự tưởng tượng và sáng tạo độc lập của học sinh. Theo đó, nội dung
của đề bài khơng những có trong chương trình mà có thể mở rộng tới những vùng kiến thức, kỹ
năng tương tự nằm ngồi chương trình, miễn sao những đơn vị kiến thức đó khơng q xa lạ đối
với học sinh”… Bên cạnh đó là sự điều chỉnh đổi mới khuynh hướng ra đề quá thiên về nghị luận
văn học, hướng tới những dạng đề gắn với thực tiễn cuộc sống thiên nhiên và cuộc sống con người
của chúng ta ngày nay. Xu hướng ra đề này đã được các nền giáo dục tiên tiến trên thế giới như
Nga, Mỹ, Trung Quốc…áp dụng từ khá lâu.
“mở. Như thế nào là “mở”? và mở ở mức độ nào để phù hợp với trình độ, đối tượng của học sinh ở
tất cả các vùng miền.
Trước hết cần quan niệm như thế nào là đề “mở”. Một đề bài mở là một đề bài khơng có u cầu
Đề thi Đình (năm 1442):
Trẫm nghĩ trị nước phải lấy nhân tài làm gốc. Thời Đường Ngu nhân tài có nhiều, nhưng các quan
được dùng ngồi Tứ Nhạc, Cửu quan, Thập nhị mục ra khơng thấy cịn ai nữa: Sao nhân tài khó tìm
vậy. Đến Đế Nghiêu sáng suốt hiểu người như thế mà trong triều vẫn cịn tứ hung, sao tiền nhân
khó biết vậy! Cái nạn Giáng Thủy, cái họa Hoài Sơn dân chúng thời ấy tai vạ thực khơng ít. Cổn trị
thủy đến chín năm, gây biết bao tai họa cho dân, sao trừ bỏ tiểu nhân muộn vậy? Đời Chu được
Kinh thi ca ngợi là kẻ sĩ đông đúc . Văn Vương dựa vào họ mà dẹp yên đất nước nhưng tới thời Vũ
Vương chỉ còn thấy nhắc tới thập loạn. Như vậy, bảo là nhân tài khó kiếm, há chẳng phải đúng sao?
Quản Thúc, Sài Thúc phao tin đồn nhảm, khiến Chu Công phải lận đận, Vương Thất suýt sụp đổ,
sao bọn tiểu nhân nham hiểm đến thế, khơng thời đại nào là khơng có chúng. Đức Thái Tổ Cao
Hoàng để ta lấy được thiên hạ, nhiều phen xuống chiếu cầu hiền mà khơng có một ai ứng tuyển,
trong khi ấy thì bọn Xảo, bọn Hãn ngẫm nuôi mưu gian. Trẫm từ khi lên ngôi tới nay, gắng sức trị
nước thế mà việc chọn nhân tài vẫn mịt mờ, thăm thẳm. Bọn Ngân, bọn Sát lại gian ngoan chứa ác.
Sao người quân tử khó tìm, kẻ tiểu nhân khó biết như vậy?
Các người hãy đem hết hiểu biết của mình trả lời, trẫm sẽ đích thân xem xét.
Trẫm thường đọc sách Luận ngữ đến chỗ Tử Cống hỏi về chính sự, Khổng Tử nói rằng: “đủ lương
thực, đủ binh lính, dân tin theo vậy” Nhân nghĩ cơng việc hiện nay, khơng gì quan trọng hơn điều
đó, mà muốn thực hiện được điều đó thì sự lựa chọn người tốt lại quan trọng hơn cả.Trẫm từng đêm
ngày lo nghĩ mà vẫn chưa đạt được hiệu quả mong muốn. Đông đảo kẻ sĩ các người lúc mới xuất
thân ắt hẳn có cơ sở học kinh bang tế thế. Vậy thì những loại việc thiết thực như vậy, suy từ cổ chí
kim, nghĩ thế nào, làm thế nào để có cơng hiệu, hãy nói hết với trẫm. Các người chớ lặp lại ý người
khác, chớ bàn phù phiếm, trẫm cũng bất tất phải nói nhiều để các người có thời giờ rộng rãi, nói
đ-ược hết ý nghĩa, xứng với ý muốn của trẫm.
Đọc lại các đề bài của cha ông ngày xưa, chúng ta cùng suy ngẫm thì nhận thấy rằng đề bài có tính
độc lập rất cao, đòi hỏi người viết phải thực sự độc lập sáng tạo và có một năng lực lập luận và sức
thuyết phục cao mới dành được kết quả.
Xem ra cái cách ra đề của chúng ta hiện nay nếu khơng nhanh chóng đổi mới tư duy thì chất lượng
học tập bộ mơn Ngữ văn trong nhà trường phổ thơng sẽ cịn bị tụt hậu rất nhiều so với các nước
trong khu vực và thế giới. Đề bài là một phương tiện đồng thời là một phương pháp để kiểm tra và
đánh giá kết quả học tập của học sinh, đề bài cũng thể hiện một cách sinh động trình độ chun
mơn của người ra đề và không phải giáo viên nào cũng ra được đề, đối với mơn Ngữ văn thì ra đề
đã khó ra được đề hay lại càng khó hơn .
sách tham khảo . Vì vậy, vơ tình giáo viên đã tạo điều kiện cho học sinh làm theo hoặc chép lại mà
không cần phải độc lập suy nghĩ, sáng tạo.
Đổi mới kiểm tra đánh giá mơn Ngữ văn theo hướng ra đề mở có ý nghĩa tích cực trong việc phát
huy tính tích cực, độc lập sáng tạo của học sinh. Song việc ra đề mở cũng cần chú trọng đến những
tình huống trái ngược với ý tưởng của người ra đề. Vì vậy việc ra đề mở cần phải có tính định
hướng, tính khoa học và tính tư tưởng nhất định.
Ra đề bài mơn Ngữ văn theo hướng “mở” địi hỏi giáo viên phải thực sự có trình độ chun mơn
tốt, phải thực sự say mê tìm tịi suy nghĩ. Ra đề bài là vấn đề quan trọng và nhạy cảm, có ý nghĩa
quyết định trong cơng tác kiểm tra đánh giá. Việc ra đề đã khó, việc xây dựng đáp án cho một đề
bài Ngữ văn theo hướng “mở” lại càng khó hơn.