Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Bàn về Tư duy dưới góc độ của Triết học.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.88 MB, 117 trang )

TS.Trần Việt Dũng

BÀN VỀ TƢ DUY – DƢỚI GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC
(Sách tham khảo)

Hải Phòng, 6/2021


MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ............................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA TƢ DUY HỌC ............................................................ 3
CHƢƠNG 2: TƢ DUY HỌC LÀ GÌ.......................................................................................... 5
2.1. Có “Tƣ duy học” hay khơng? .............................................................................................. 5
2.2. Tƣ duy học có vai trị gì? ..................................................................................................... 5
2.3. Những tiền đề cho việc xây dựng Tƣ duy học..................................................................... 5
2.4. Những quan điểm, cách tiếp cận tiêu biểu về Tƣ duy dƣới góc độ triết học ....................... 6
2.5. Khái lƣợc lịch sử Logic học ................................................................................................ 7
2.6. Đối tƣợng, phƣơng pháp nghiên cứu và những luận điểm xuất phát của Tƣ duy học ...... 22
CHƢƠNG 3: ĐỊNH NGHĨA, CẤU TRÚC, PHÂN LOẠI TƢ DUY ...................................... 24
3.1. Định nghĩa và phân tích tƣ duy ......................................................................................... 24
3.3. Hình thức biểu đạt của Tƣ duy .......................................................................................... 26
3.4. Phân loại tƣ duy ................................................................................................................. 26
CHƢƠNG 4: BỘ MÁY CỦA TƢ DUY .................................................................................. 29
4.1. Phân loại thao tác, quá trình tƣ duy ................................................................................... 29
4.2. Một vài nhận xét ................................................................................................................ 31
CHƢƠNG 5: TƢ TƢỞNG - KẾT QUẢ CỦA TƢ DUY......................................................... 33
5.1. Định nghĩa “Tƣ tƣởng” ...................................................................................................... 33
5.2. Phân loại “tƣ tƣởng” .......................................................................................................... 34
5.3. Các hình thức của tƣ tƣởng phản ánh ................................................................................ 35
5.4. Các hình thức của tƣ tƣởng cải biến .................................................................................. 38
5.5. Các hình thức của tƣ tƣởng kiến tạo .................................................................................. 39


5.6. Giá trị của tƣ tƣởng............................................................................................................ 39
5.7. Thƣớc đo giá trị của tƣ tƣởng ............................................................................................ 40
5.8. Vấn đề chân lý khách quan ................................................................................................ 41
CHƢƠNG 6: TƢ DUY TRONG CÁC MỐI QUAN HỆ ......................................................... 43
6.1. Mối quan hệ giữa Tƣ duy với Nhận thức, Ý thức ............................................................. 43
6.2. Mối quan hệ giữa Tƣ duy với Não bộ ............................................................................... 43
6.3. Mối quan hệ giữa Tƣ duy cá nhân với tƣ duy tập thể, xã hội, nhân loại ........................... 44
Sau đây là những nhân tố kìm hãm hiệu tính hiệu quả của tƣ duy tập thể ............................... 44
CHƢƠNG 7: CÁCH THỨC TƢ DUY TIẾP CẬN ĐỐI TƢỢNG VÀ CÁC HÌNH THỨC
BIỂU ĐẠT KẾT QUẢ CỦA TƢ DUY ................................................................................... 46
7.1. Những đặc điểm khi tƣ duy chủ thể tiếp cận phản ánh đối tƣợng ..................................... 46
7.2. Các hình thức biểu đạt kết quả của Tƣ duy ....................................................................... 47
CHƢƠNG 8: LƢỢNG THỨC – MỨC ĐỘ TƢ DUY XÂM NHẬP VÀO ĐỐI TƢỢNG ...... 49
8.1. Vấn đề đặt ra ...................................................................................................................... 49
8.2. Định nghĩa, phân tích khái niệm “lƣợng thức” .................................................................. 49
8.3. Quy luật Lƣợng thức ......................................................................................................... 50
CHƢƠNG 9: BÀN VỀ LOGIC CỦA TƢ DUY ...................................................................... 51


9.1. Khái niệm “Logic” và phân loại ........................................................................................ 51
9.2. Khái niệm “Logic học” và phân loại ................................................................................. 52
CHƢƠNG 10 : BÀN VỀ LOGIC HỌC CƠ SỞ ....................................................................... 56
10.1. Đối tƣợng nghiên cứu, mục đích, nhiệm vụ của Logic học cơ sở ................................... 56
10.2. Khái niệm “Quy luật logic của tƣ duy” ........................................................................... 56
10.3. Nội dung cơ bản của quy luật đồng nhất – xác định ....................................................... 57
10.4. Nội dung cơ bản của quy luật 2: Quy luật về mâu thuân logic ....................................... 61
10.5. Quy luật 3 của Logic học cơ sở: Quy luật suy luận tất suy ............................................. 86
10.5.1. Khái niệm “suy luận” và phân loại ............................................................................... 86
CHƢƠNG 11: BÀN VỀ LOGIC HỌC SÁNG TẠO ............................................................. 101
11.1. Logic học sáng tạo là gì? ............................................................................................... 101

11.2. Các hình thức phổ biến của Logic học sáng tạo ............................................................ 102
11.2.1. Vấn đề - định nghĩa, cấu trúc, phân loại .................................................................... 102
11.2.2. Ý tƣởng, lời giải.......................................................................................................... 103
11.3. Các quy luật của Logic học sáng tạo ............................................................................. 103
11.3.1. Quy luật 1: Quy luật cơ sở vấn đề của điều cần tìm (ý tƣởng, lời giải) ..................... 103
11.3.2. Quy luật 2 của Logic học sáng tạo: Quy luật về các phƣơng thức chung của tƣ duy tới
điều cần tìm ............................................................................................................................ 104
11.3.3. Quy luật 3: Quy luật về sự định hƣớng tƣ duy tiếp cận điều cần tìm ......................... 106
CHƢƠNG 12: BÀN VỀ LOGIC HỌC PHÁT TRIỂN .......................................................... 108
12.1. Logic học phát triển là gì? Đối tƣợng, nhiệm vụ nghiên cứu ........................................ 108
12.2. Quy luật 1 của Logic học phát triển: Quy luật về động lực phát triển .......................... 108
12.3. Quy luật 2 của Logic học phát triển: quy luật về sự phủ định phát triển ...................... 109
12.4. Quy luật 3 của Logic học phát triển: Quy luật phát triển vƣợt gộp ............................... 109
TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................................... 111


LỜI NĨI ĐẦU
Triết học có thể được hiểu theo hai nghĩa, nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Ở nghĩa rộng, triết
học là lý luận nghiên cứu thế giới trong chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất, bản chất
nhất trong tính chỉnh thể đó. Sự nghiên cứu này, dù là tự phát hay tự giác đều đặt trong mối
quan hệ giữa chủ thể - khách thể về vấn đề chân lý, tiêu chuẩn và thước đo của chân lý. Ở
nghĩa trên, triết học có những vấn đề như: Mối quan hệ giữa tư duy và tồn tại như thế nào?
(được xét ở 2 mặt: cái nào có trước, cái nào có sau?, chúng có đồng nhất với nhau được
khơng?), “Viên gạch” để xây dựng nên vũ trụ này là gì? Thế giới này chịu sự chi phối bởi
những quy luật chung gì? Con người bản chất là gì và có vị trí, vai trị như thế nào trong thế
giới này? …
Ở nghĩa hẹp, Triết học là lý luận nghiên cứu một lĩnh vực, một phương diện, một sự vật,
hiện tượng chung nhất, bản chất nhất và đặt trong mối quan hệ giữa đối tượng đó với các đối
tượng khác có liên quan. Sự nghiên cứu đó dù là tự phát hay tự giác đều đặt trong mối quan
hệ giữa chủ thể - khách thể về vấn đề chân lý, tiêu chuẩn và thước đó của chân lý. Ở nghĩa

hẹp trên, triết học có những đối tượng nghiên cứu cụ thể như: Triết học trong xã hội: Chủ
nghĩa duy vật lịch sử của Chủ nghĩa Mác là một ví dụ. Triết học trong toán học; Triết học
trong Mỹ học; Triết học trong chính trị; Triết học trong đạo đức; triết học trong khoa học tự
nhiên…
Đối với mỗi sự vật, hiện tượng cụ thể, triết học về đối tượng cụ thể này chính là việc nêu
lên đầy đủ các phương diện, các mối quan hệ có thể có của đối tượng đó, thấy được mối liên
hệ giữa tất cả các phương diện, mối quan hệ đó hay cũng có nghĩa là thấy được mối liên hệ
về mặt tri thức của tất cả các phương diện, mối quan hệ của đối tượng. Sau đó, chỉ ra được
cái bản chất, cái quy luật cơ bản nhất, chức năng và xu hướng biến đổi, phát triển của đối
tượng. Chẳng hạn, đối tượng nghiên cứu là Sơng Hồng. Dưới góc độ triết học về con sơng ở
Việt Nam này, nhà nghiên cứu phải nêu lên đầy đủ các phương diện khác nhau về Sông
Hồng: Về cấu trúc địa lý của con sông, về môi trường sinh thái của con sơng, về sự hình
thành, biến đổi của con sơng đó trong lịch sử, về vai trị và ảnh hưởng của con sông đối với
người dân sinh sống xung quanh v.v. trong tổng thể những tri thức, thông tin đó thấy được
tính hệ thống, nội dung chính yếu, xu hướng biến đổi của đối tượng.
Ở góc độ hẹp này, triết học và khoa học về đối tượng có mối quan hệ mật thiết: chẳng
hạn giữa chính trị học và triết học về chính trị; giáo dục học và triết học về giáo dục. Sự
giống nhau ở chỗ: chúng có cùng một đối tượng, đều phải tìm ra được tính tất yếu, bản chất
của đối tượng đó. Khác nhau ở chỗ: triết học nghiên cứu đối tượng ở chiều sâu hơn, rộng hơn
thậm chí vượt ra khỏi phạm vi con người có thể kiểm nghiệm được, đánh giá được trong thực
tiễn, còn khoa học về đối tượng chỉ nghiên cứu tính tất yếu, bản chất trong phạm vi mà con
người có thể kiểm nghiệm, đánh giá được trong thực tiễn. Riêng đối với đối tượng nghiên cứu
của toán học. Triết học chỉ nghiên cứu những vấn đề chung nhất, bản chất nhất của toán:
chẳng hạn: những định lý của toán học là kết quả phản ánh hay sáng tạo của nhà toán học;
là dụng cụ đo lường thế giới hay là kết quả của đo lường? Tính chân lý trong toán học như
thế nào? v.v.
1


Chính vì mối quan hệ mật thiết trên, trong sự phát triển của văn minh nhân loại, nhiều

ngành khoa học xuất hiện từ cái nôi của triết học. Nghĩa là có những giai đoạn, triết học về
đối tượng và khoa học về đối tượng đó là khơng có khác biệt là bao.
Trong cuốn sách này với nhan đề: “Tư duy dưới góc độ của Triết học” hay chính là
Triết học về Tư duy và cũng chính là “Tư duy học sơ khai”. Với cách tiếp cận trên, nội dung
chủ đạo của cơng trình là đề xuất, xây dựng nền tảng cho Tư duy học – một ngành khoa học
chưa được tạo dựng. Cơng trình này có tính chất tổng kết những ý tưởng của tác giả hình
thành, xây dựng trong suốt 20 năm về tư duy, logich và sáng tạo. Cuốn sách hy vọng mở ra
một ngành khoa học mới: Tư duy học – đáng nhẽ ra nó phải xuất hiện từ rất lâu. Cuốn sách
chắc chắn có nhiều điều thiếu sót, rất mong các nhà khoa học, độc giả lượng thứ và góp ý phê
bình.
Tác giả chân thành cảm ơn.

2


CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CỦA TƢ DUY HỌC
Cũng giống nhƣ các ngành khoa học khác, để xây dựng Tƣ duy học – ngành khoa học
nghiên cứu về Tƣ duy cần đáp ứng những yêu cầu tối thiểu nhƣ: đối tƣợng nghiên cứu; vai
trò, chức năng; những nguyên lý, tiền đề cơ bản; phƣơng pháp chính trong việc xây dựng và
kiểm nghiệm lý thuyết; hệ thống vấn đề; các khái niệm cơ bản; quy luật/định luật cơ bản v.v.
Sau đây là những vấn đề đặt ra cho việc xây dựng Tƣ duy học – nhƣ một ngành khoa
học đích thực.
1. Trong lĩnh vực khoa học, trên thế giới và Việt Nam đã xuất hiện Tƣ duy học chƣa?
Tƣ duy học nhất thiết phải xây dựng khơng? Nó có vai trị, chức năng gì cho nhận thức, khoa
học và hoạt động thực tiễn?
2. Nếu chƣa xuất hiện thì nền văn minh nhân loại đã tạo ra những tiền đề gì cho việc
nghiên cứu và xây dựng Tƣ duy học?
3. Đối tƣợng nghiên cứu của Tƣ duy học là gì? Có sự khác biệt gì giữa Tƣ duy học với
Triết học, Logich học, Tâm lý học, Sáng tạo học, Sinh lý học thần kinh ... những ngành khoa
học ít nhiều nghiên cứu về Tƣ duy ở các góc độ khác nhau.

4. Những phƣơng pháp nào để xây dựng và phát triển Tƣ duy học dƣới góc độ lý thuyết
và thực nghiệm? Đâu là phƣơng pháp chính, đặc trƣng của Tƣ duy học?
5. Tiền đề, những luận điểm cơ bản nào trong việc xây dựng hệ thống lý luận của Tƣ
duy học?
Đi sâu vào Tƣ duy học, có những vấn đề cụ thể hơn nhƣ:
6. Tƣ duy là gì? Cần có định nghĩa đầy đủ, đúng đắn nhất về tƣ duy, thông qua định
nghĩa này có thể nắm đƣợc cơ bản nội hàm và khu biệt ngoại diên của Tƣ duy, cấu trúc của tƣ
duy gồm những bộ phận gì, phân loại tƣ duy và xác định hình thái tồn tại của tƣ duy?
7. Kết quả của Tƣ duy là những tƣ tƣởng đƣợc hình thành, vậy Tƣ tƣởng có giá trị gì?
Cơ sở nào để kiểm tra, đánh giá, chứng minh giá trị đó. Phải chăng, tƣ tƣởng chỉ có giá trị
chân lý nhƣ là điều mà mọi ngƣời đều khẳng định.
8. Là khoa học về Tƣ duy, cần phải nghiên cứu cấu trúc nội tại của Tƣ duy và mối quan
hệ giữa Tƣ duy với những đối tƣợng khác có liên quan. Do vậy, vấn đề đặt ra là, mối quan hệ
giữa Tƣ duy với Ý thức, Tâm lý ngƣời nhƣ thế nào? giữa Tƣ duy cá nhân với Tƣ duy tập thể,
xã hội, nhân loại? giữa hoạt động Tƣ duy với hoạt động Sáng tạo…? Tƣ duy với Trí tuệ nhân
tạo?
9. Trong hoạt động phản ánh đối tƣợng, cách thức tƣ duy tiếp cận đối tƣợng nhƣ thế
nào? Vấn đề này là quan trọng vì kinh nghiệm cho thấy, Tƣ duy chủ thể khi tiếp cận đối tƣợng
theo cách khác nhau thì cho ra kết quả khác nhau.
10. Trong hoạt động phản ánh đối tƣợng, mức độ của Tƣ duy xâm nhập vào đối tƣợng
nhƣ thế nào? hay vấn đề Lƣợng thức?
11. Cấu trúc toàn diện của tƣ tƣởng nhƣ thế nào? Và vấn đề đồ hình tƣ duy.
12. Những quy luật cơ bản của Tƣ duy và Logic của Tƣ duy nhƣ thế nào? Làm cách nào
thống nhất đƣợc các trƣờng phái Logic hiện nay – đặt cơ sở lý thuyết chung, liên kết, bao
trùm các loại hình Logic hiện nay: Logic lƣỡng trị, Logic đa trị, Logic biện chứng. Liệu có
3


tồn tại Logic sáng tạo hay không? Khi mà nhận thức hiện nay của nhiều nhà lý luận, Logic
học cho rằng khơng thể tồn tại Logic sáng tạo.

Đó là 12 vấn đề cơ bản của Tƣ duy học đƣợc đặt ra. Ngồi ra, Tƣ duy học cịn có những
vấn đề khác.
Trong phạm vi cuốn sách tham khảo này, tác giả khơng có kỳ vọng giải quyết đầy đủ 12
vấn đề nêu trên mà chỉ giải quyết một phần những vấn đề cơ bản trên, nhiều khi chỉ ở những ý
tƣởng sơ khai. Rất cần có sự phê phán, bổ sung, phát triển sau này.

4


CHƢƠNG 2: TƢ DUY HỌC LÀ GÌ
2.1. Có “Tƣ duy học” hay không?
Hiện nay, trên thế giới và ở Việt Nam, chƣa hình thành một ngành khoa học đƣợc gọi là
“Tƣ duy học”. Mặc dù, đã có những khoa học nghiên cứu về Tƣ duy nhƣ: Triết học (đặt trong
mối quan hệ với Tồn tại), Logich học (nghiên cứu hình thức và quy luật tƣ duy đúng đắn),
Tâm lý học (nghiên cứu Tƣ duy trong mối quan hệ với các yếu tố khác của ý thức), Sinh lý
học thần kinh cao cấp (nghiên cứu cơ sở sinh học của hoạt động tƣ duy trong não bộ), Sáng
tạo học (nghiên cứu Tƣ duy nhƣ là một thành tố trung tâm của hoạt động sáng tạo của con
ngƣời). Những ngành khoa học này nghiên cứu tƣ duy ở các góc độ khác nhau, nhƣng cũng
không phải là Tƣ duy học.
Trong những ngành khoa học trên nghiên cứu về Tƣ duy, Logich học giữ vai trò quan
trọng thể hiện trực tiếp nội dung hoạt động của Tƣ duy.
2.2. Tƣ duy học có vai trị gì?
Tƣ duy học – ngành khoa học về tƣ duy sẽ nghiên cứu tƣ duy một cách toàn diện, hệ
thống và sâu sắc, tổng hợp đƣợc những thành tựu quan trọng nhất mà nhân loại đã đạt đƣợc ở
các khía cạnh, phƣơng diện khác nhau về tƣ duy.
Tƣ duy học sẽ đƣa ra một quan điểm tổng hợp, toàn diện về tƣ duy: bản chất, cấu trúc,
phân loại, cách tiếp cận, cách thức biểu đạt kết quả của tƣ duy; cấu trúc toàn diện của tƣ
tƣởng; mức độ xâm nhập của tƣ duy vào hiện thực; các quy luật của tƣ duy; thống nhất các
trƣờng phái logich học; xây dựng có hệ thống các phƣơng pháp tƣ duy đạt mức tối ƣu trong
việc giải quyết vấn đề....

Tƣ duy học trực tiếp đề cập đến giá trị tƣ tƣởng, cấu trúc của chân lý, giới hạn nhận thức
của con ngƣời, sự chuyển hóa từ tƣ duy đến hiện thực...
2.3. Những tiền đề cho việc xây dựng Tƣ duy học
Việc xây dựng Tƣ duy học dựa trên những thành tựu của: Triết học, Logich học, Những
quan điểm, lý thuyết về Tƣ duy, Tâm lý học, Sinh lý học thần kinh và Khoa học về tiềm năng
con ngƣời.
Triết học đƣa lại thế giới quan và phƣơng pháp luận cho việc việc nghiên cứu Tƣ duy
học. Có rất nhiều trƣờng phái triết học trong lịch sử từ cổ đến kim, từ đông sang tây, trong số
các trƣờng phái triết học đó, Triết học duy vật biện chứng là trƣờng phái có nhiều tƣ tƣởng
hợp lý, đã khái quát đƣợc thành tựu của khoa học cụ thể. Do vậy, ngƣời viết lựa chọn trƣờng
phái triết học này làm cơ sở thế giới quan và phƣơng pháp luận của Tƣ duy học, tuy nhiên chỉ
dựa vào những tƣ tƣởng tinh túy nhất của triết học này mà thôi.
Logic học với những thành tựu hiện nay, giúp cho Tƣ duy học xây dựng một lý thuyết
hoàn chỉnh thống nhất các mảng logic học khác nhau lại thành: logic của tƣ duy.
Tâm lý học cung cấp cho Tƣ duy học cơ sở dữ kiện để xác định đúng mối quan hệ giữa
Tƣ duy với các yếu tố khác của Ý thức, Tâm lý ngƣời nhƣ: trí nhớ, tình cảm, xúc cảm, niềm
tin, ý chí nhất là vấn đề tiềm thức, vô thức.
Sinh lý học thần kinh vạch ra cơ sở vật chất của tƣ duy là não bộ con ngƣời. Cơ chế của
sinh lý học thần kinh cũng là yếu tố vạch ra đặc điểm và giới hạn của tƣ duy con ngƣời.
5


Khoa học về tiềm năng của con ngƣời giúp Tƣ duy học giải quyết những vấn đề sau:
Thứ nhất, liệu bộ não có phải là cơ quan vật chất duy nhất tham gia việc hình thành và
điều khiển tƣ duy, ý thức của con ngƣời? Bởi có giả thuyết cho rằng, ở con ngƣời, bên cạnh
sự tồn tại của cấu trúc vật chất – sinh học nhƣ khoa học hiện đại nghiên cứu và cơng nhận thì
cịn có một cấu trúc vật chất tế vi. Ý thức, tƣ duy phát sinh ở cấu trúc đó.
Thứ hai, khi tƣ duy cá nhân hoạt động có chịu sự tác động của trƣờng thơng tin vũ trụ
hay khơng mà qua đó chủ thể tƣ duy có thể hình thành ý tƣởng mới từ nguồn thơng tin đó.
Thứ ba, những kiến thức và năng lực tƣ duy hiện thời của chủ thể có đƣợc là do bản

năng di truyền, môi trƣờng sống và nỗ lực “cái tơi” cá nhân hay cịn có ngun nhân khác.
Nếu thuyết luân hồi là đúng thì phải chăng, tri thức và năng lực tƣ duy của chủ thể hiện thời
chịu ảnh hƣởng bởi linh hồn kiếp trƣớc.
2.4. Những quan điểm, cách tiếp cận tiêu biểu về Tƣ duy dƣới góc độ triết học
* Xét về bản thể của tƣ duy, có sự khác biệt cơ bản của chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa
duy tâm về vấn đề này. Nhìn chung, quan điểm duy tâm khách quan cho rằng tƣ duy, ý thức,
linh hồn độc lập với thể xác và bắt nguồn từ linh hồn vũ trụ hoặc từ một thực thể tinh thần
khách quan có trƣớc và độc lập với ý thức, tƣ duy của con ngƣời. Quan điểm của chủ nghĩa
duy vật gắn tƣ duy, ý thức, linh hồn với một dạng cụ thể của vật chất (chủ nghĩa duy vật chất
phác thời cổ đại), hoặc một dạng vật chất trong bộ óc con ngƣời (Chủ nghĩa duy vật tầm
thƣờng “não tiết ra tƣ tƣởng nhƣ gan tiết ra mật, tuyến tụy tiết ra dịch vị)), hoặc là một thuộc
tính phản ánh của não bộ (chủ nghĩa duy vật biện chứng).
Chủ nghĩa duy tâm xem tƣ duy, ý thức là tính thứ nhất so với vật chất.
Theo Platon, trong con ngƣời có phần thể xác và linh hồn, phần thể xác đƣợc cấu thành
từ lửa, nƣớc, không khí và đất, phần linh hồn là sản phẩm của linh hồn vũ trụ. Linh hồn có 3
phần: trí tuệ, xúc cảm và cảm tính. Phần trí tuệ thì bất diệt, cịn hai phần sau thì chết cùng thể
xác. Số lƣợng các linh hồn thì khơng thay đổi bởi chúng đã đƣợc tạo ra bởi Thƣợng đế.
Theo Heghen cần phân biệt hai dạng tƣ duy: một là, tƣ duy tự nó tức là tinh thần tuyệt
đối tạo thành bản chất của toàn bộ hiện thực; hai là, tƣ duy cho nó tức là tƣ duy con ngƣời.
Đây là tƣ duy tự nó đạt đến giai đoạn phát triển cao nhất, là giai đoạn tƣ duy có ý thức. Ở
Heghen, logic học đồng nhất với siêu hình học.
Đối với Béccơly – nhà triết học duy tâm chủ quan điển hình cho rằng con ngƣời đƣợc
cấu thành từ linh hồn và thể xác, trong đó thể xác thuộc về các vật thể tự nhiên, tức là các cảm
giác. Thể xác tồn tại là nhờ linh hồn cảm nhận nó, nên thể xác phải tuân theo “cái gậy chỉ
huy” của linh hồn. Theo Ông, các sự vật không tồn tại khách quan mà phụ thuộc vào tri giác
của con ngƣời. Nên, chân lý là sự phù hợp giữa sự suy diễn của chúng ta về sự vật với chính
bản thân sự vật đó tồn tại trên thực tế.
Quan điểm duy vật cho rằng tƣ duy, ý thức là tính thứ hai.
Theo Đêmơcrít, tƣ duy, ý thức, linh hồn thực chất chỉ là tổng thể các nguyên tử, năng
động chạy khắp cơ thể.

Nhà triết học duy vật Pháp thời kỳ khai sáng Đê ni Đi đ rô cho rằng con ngƣời đƣợc cấu
thành từ linh hồn và thể xác trong sự thống nhất hữu cơ với nhau. Linh hồn, ý thức, tƣ duy chỉ
6


là tổng thể các hiện tƣợng tâm lý, bản thân nó cũng là một đặc tính của vật chất. Ơng cho
rằng, khơng có cơ thể con ngƣời thì khơng thể giải thích đƣợc cái gì cả.
Chủ nghĩa duy vật biện chứng của C.Mác, Ph.Ăng ghen và V.I. Lê nin đƣa đến quan
niệm ý thức, tƣ duy là chức năng phản ánh sáng tạo của não bộ, não bộ là cơ quan vật chất
của ý thức, tƣ duy.
* Xét về loại hình tƣ duy:
Tƣ duy siêu hình: là loại hình tƣ duy nhận thức đối tƣợng ở trạng thái cô lập, tách rời
đối tƣợng ra khỏi các mối quan hệ đƣợc xem xét và coi các mặt đối lập với nhau có một ranh
giới tuyệt đối (vận động là vận động, đứng im là đứng im, sống là sống, chết là chết, giữa
chúng khơng có mối liên hệ và chuyển hóa); nhận thức đối tƣợng ở trạng thái tĩnh, đồng nhất
đối tƣợng với trạng thái tĩnh nhất thời đó. Thừa nhận sự biến đổi chỉ là sự biến đổi về lƣợng;
về hiện tƣợng bên ngoài. Nguyên nhân của sự biến đổi đƣợc coi là nằm ở bên ngoài đối
tƣợng. Tƣ duy siêu hình chỉ phù hợp với khoa học ở giai đoạn tích lũy, mổ xẻ giới tự nhiên.
Nhà triết học duy vật ngƣời Anh thế kỷ XVII Tômát Hốpxơ (Thomas Hobbs) đã đƣa những
ngun tắc phân tích và cơ lập trong khoa học tƣ nhiên vào làm nguyên tắc nhận thức phổ
biến trong triết học.
Tƣ duy biện chứng: là loại hình tƣ duy nhận thức đối tƣợng trong các mối liên hệ phổ
biến vốn có của nó, trong sự lệ thuộc, ảnh hƣởng lẫn nhau, ràng buộc, quy định lẫn nhau;
nhận thực đối tƣợng ở trạng thái luôn vận động, biến đổi, nằm trong khuynh hƣớng chung là
phát triển. Quá trình vận động này thay đổi cả về lƣợng và về chất của sự vật, hiện tƣợng.
Nguồn gốc của sự vận động, phát triển là do mâu thuẫn nội tại của bản thân sự vật, hiện
tƣợng. Tƣ duy biện chứng nhận thức hiện thực đúng đắn hơn, toàn diện và sâu sắc hơn. Tƣ
duy biện chứng xuất hiện từ thời kỳ cổ đại gắn liền với các nhà biện chứng tự phát nhƣ
Hêrclit, Lão Tử.
Tƣ duy phức hợp hay là tƣ duy về tính phức hợp do Edgar Morin (sinh năm 1921)

ngƣời Pháp xây dựng. Trƣớc hết, tính phức hợp đƣợc hiểu nhƣ là những gì liên kết lại với
nhau, đan dệt cùng nhau. Tính phức hợp liên quan đến khối lƣợng khổng lồ những tƣơng tác
giữa các bộ phận cấu thành dị biệt, gắn bó hữu cơ với nhau, tạo nên “tấm dệt chung” không
thể phân cách và quy giản đƣợc. Tƣ duy phức hợp chính là tƣ duy về tính phức hợp của hiện
thực. Ơng nêu lên ba nguyên tắc mới của tƣ duy phức hợp: nguyên tắc đối hợp logic, nguyên
tắc hồi quy và nguyên tắc toàn hình.
Tƣ duy hệ thống: là tƣ duy phản ánh đối tƣợng nhƣ là một hệ thống với những phần tử
có mối liên hệ chặt chẽ với nhau tạo nên chỉnh thể riêng biệt và tính trồi hệ thống; là tƣ duy
tuân theo những nguyên tắc của hệ thống.
Hệ thống là tập hợp các phần tử liên hệ, tƣơng tác với nhau tạo nên một chỉnh thể có đặc
tính chung và tƣơng đối độc lập. Hệ thống có đặc trƣng là tính trồi, tính nhất thể, tính cân
bằng, tính phức tạp và tính hƣớng đích.
2.5. Khái lƣợc lịch sử Logic học
Tên gọi “Logic học ” có nguồn gốc từ một từ cổ Hy lạp “Logos”, từ này có 2 nghĩa. Thứ
nhất, chỉ “từ”, “lời nói”. Thứ hai, chỉ “tƣ tƣởng”, “ý tƣởng”, “lý tính”.
7


Cùng với sự phát triển của lịch sử nhân loại, với những kinh nghiệm tƣ duy của nhiều
thế hệ, tƣ duy đã đi đến sự phản tƣ chính mình. Những tƣ tƣởng lý luận về Logic học đã xuất
hiện từ rất sớm ở các nƣớc Hy Lạp, Trung Hoa và Ấn Độ thời cổ đại.
Ở Trung Hoa cổ đại, một số trƣờng phái đã đóng góp những tƣ tƣởng có giá trị trong
kho tàng lý luận nhƣ trƣờng phái Mặc gia do Mặc tử (479 – 381 TCN) khởi xƣớng, trƣờng
phái Danh gia với những đại biểu nhƣ Huệ Thi (370 – 310 TCN), Công Tôn Long (320 – 255
TCN).
Phái Mặc biện đƣa ra thuyết “Tam biểu” nổi tiếng. Mặc tử cho rằng lời nói muốn chính
xác tất phải có 3 biểu sau:
1/ Bản: xem xét việc làm của thánh vƣơng đời xƣa nếu thấy đúng thì làm nếu thấy sai thì
bỏ.
2/ Nguyên: xét đến cái thực của tai mắt trăm họ (nghĩa là xem có phù hợp với thực tế

hay khơng).
3/ Dụng: xem có lợi cho nhà nƣớc, nhân dân hay khơng.
Tam biểu trên có sự thống nhất giữa luận lý, nhận thức và thực tiễn.
Phái Danh gia chú trọng xem xét sự phân biệt và mối tƣơng quan giữa danh và thực hay
giữa khái niệm, phạm trù và cái đƣợc phản ánh trong những khái niệm, phạm trù ấy. Huệ Thi
chú ý đến tính chất tƣơng đối, ln biến đổi của sự vật, hiện tƣợng, phủ nhận sự khác nhau về
chất giữa các sự vật. Từ đó đƣa ra những kết luận tƣơng đối chủ nghĩa. Chẳng hạn ở quan
điểm: Mặt trời vừa đứng bóng vừa xế tà, vật vừa sinh vừa tử (Nhạt phƣơng trung phƣơng
nghễ, vật phƣơng sinh phƣơng tử).
Cơng Tơn Long nhấn mạnh tính chất tuyệt đối và sự tồn tại độc lập của những khái
niệm, không phụ thuộc vào đối tƣợng phản ánh. Chẳng hạn, quan điểm “Ngựa trắng không
phải ngựa (Bạch mã phi mã).
Nhìn chung, theo quan điểm của một số nhà nghiên cứu phái Danh gia đã đặt vấn đề về
hạn chế căn bản của Logic hình thức có tính chất thuần túy (điều này dễ dẫn đến quan điểm
siêu hình), từ đó gợi mở khuynh hƣớng tƣ tƣởng logic hình thức không thuần túy.
Ở triết học Ấn độ cổ đại, tƣ tƣởng về Logic học nổi tiếng là Nhân minh học xuất hiện
vào khoảng thế kỷ VII, VI TCN do trƣờng phái Nyàya Vaisesika khởi xƣớng, sau này Phật
học đã tiếp thu và phát triển thành tân nhân minh học.
Nhân minh học nghĩa là môn học về việc làm sáng tỏ nguyên nhân của sự vật, hiện
tƣợng bằng nhận thức đúng đắn và biện lý chặt chẽ.
Kết cấu Nhân minh học Phật giáo bao gồm 2 phần: Phần nhận thức luận và phần Tam
đoạn luận (hay tam chi tác pháp).
Tam chi tác pháp của Nhân minh học có dạng đầy đủ bao gồm 3 thành phần chính:
1.Tơn : Ngƣời thì phải chết.
2.Nhân : Vì là sinh vật
3.Dụ : Nhƣ Platon.
Nhìn chung, Logic học ở Phƣơng Đông chƣa đến độ phát triển để trở thành một môn
khoa học độc lập với đầy đủ hệ thống khái niệm, phạm trù, quy luật.
8



Logic học hình thành gắn liền với tên tuổi của Nhà bách khoa toàn thƣ vĩ đại Aristotle
(384 – 322 TCN) của Hy Lạp cổ đại. Trên cơ sở những cuốn sách của Đêmôcrit về Logic,
Aristotle đã viết một loạt các cơng trình về Logic học sau này gọi chung là Bộ công cụ bao
gồm 6 tập:
Tập 1. Các phạm trù: thực chất là học thuyết về khái niệm, thế giới đƣợc phân loại thành
10 phạm trù.
Tập 2. Về sự giải thích: Trình bày học thuyết về phán đốn, phân loại phán đốn.
Tập 3. Phân tích (I): bàn về Tam đoạn luận.
Tập 4. Phân tích (II): học thuyết về chứng minh.
Tập 5. Thuật tranh biện: học thuyết về phép biện chứng (hiểu là thuật tranh biện).
Tập 6. Bác bỏ ngụy biện: phê phán những khuynh hƣớng lạm dụng phép biện chứng.
Bộ công cụ trở thành nền tảng của bộ môn Logic học truyền thống ở Phƣơng Tây.
Aristotle là ngƣời đầu tiên đƣa ra 3 quy luật của Logic học hình thức với xuất phát điểm
là ngun lý về tính cơ lập và bất biến tƣơng đối của mọi sự vật, hiện tƣợng.
“Nếu ta thừa nhận mọi sự vật, hiện tƣơng đều có tính cơ lập và bất biến tƣơng đối thì
đƣơng nhiên chúng phải tuân theo quy luật đồng nhất: “Nó chính là nó”. Nếu tn theo quy
luật đồng nhất thì tất yếu phải tuân theo quy luật phi mâu thuẫn: “Khơng thể đồng thời vừa là
nó, vừa khơng phải là nó” và cả quy luật bài trung: “Hoặc là nó, hoặc khơng phải là nó, khơng
có trƣờng hợp thứ ba”1.
Cống hiến lớn lao của Aristotle không chỉ là xây dựng hệ thống những nguyên lý, quy
luật, bộ máy phạm trù của Logic học mà còn xây dựng học thuyết tam đoạn luận với tƣ cách
là lý thuyết logic chuyên biệt. Tƣ tƣởng của ơng đã tổng kết những hình thức logic cơ bản của
tƣ duy (khái niệm, phán đoán, suy luận, chứng minh) và những quy luật cơ bản của tƣ duy
logic.
Tiếp nối Aristote là trƣờng phái Khắc kỷ. Nếu Aristote tập trung vấn đề quan hệ giữa tƣ
duy và thực tại thì các nhà Khắc kỷ lại chú trọng đến quan hệ giữa tƣ duy và ngôn ngữ với
tính cách là hình thức biểu hiện nội dung của tƣ duy. Trƣờng phái này đã bổ sung thêm loại
hình tam đoạn luận thứ tƣ, xây dựng những phán đoán có điều kiện, phán đốn tình thái và
phát hiện một số nghịch lí logic.

Khi thần học và chủ nghĩa kinh viện thống trị trong triết học và cả logic học thì Logic
học của Aristote cũng bị Thiên chúa giáo lợi dụng để bảo vệ những quan điểm, niềm tin trong
Kinh thánh. Nhìn chung, ở thời kỳ này ngƣời ta đi sâu vào những vấn đề ngữ nghĩa và triết
học, khảo sát những dạng thức và logic của các phán đoán có điều kiện.
Thời kỳ Cận đại ở Phƣơng tây, Logic học hình thành hai khuynh hƣớng: thứ nhất là bảo
vệ và tiếp tục phát triển logic hình thức; thứ hai là tích cực tìm tịi một logic học mới.
Khuynh hướng thứ nhất:
Với sự phát triển của các khoa học thực nghiệm, nhà triết học và tự nhiên học kiệt xuất
ngƣời Anh F. Bacon (1561 – 1626) đã viết tác phẩm Bộ cơng cụ Mới với mục đích vƣợt qua
hạn chế của Bộ cơng cụ của Aristotle cho rằng nó chỉ là cơng cụ của chứng minh chứ khơng
1

Lê Dỗn Tá, Tô Duy Hợp, Vũ Trọng Dung (đồng chủ biên), Giáo trình Logic học, NXB CTQT Hà Nội, 2004, tr.26.

9


phải là công cụ cho phát minh. Tƣ tƣởng của ông thực chất là phát triển logic quy nạp – kinh
nghiệm từ đó làm cơ sở cho phƣơng pháp thực nghiệm khoa học.Theo Bacon quá trình nhận
thức chia thành các bƣớc sau:
Thứ nhất, lịch sử tự nhiên: hiểu biết giới tự nhiên thông qua các giác quan con ngƣời với
sự đa dạng và sinh động của nó.
Thứ hai, lập bảng và so sánh các dữ kiện: trên cơ sở những gì mà các giác quan thu
đƣợc, ta lập bảng, so sánh, hệ thống lại và phân tích chúng.
Thứ ba, quy nạp (loại trừ): thu thập mọi dữ kiện giúp ta biết về sự vật, sau đó phân tích,
loại bỏ những dữ kiện phụ. Từ đó chúng ta đi đến khẳng định bản chất của sự vật.
Ở nƣớc Pháp, nhà triết học, vật lý và toán học vĩ đại R. Descartes (1596 – 1650) đã
hoàn thiện và tiếp tục phát triển logic suy diễn. Trong tác phẩm “Luận về phƣơng pháp” của
mình ơng đã nhấn mạnh ý nghĩa của phép diễn dịch nhƣ là phƣơng pháp cơ bản của nhận thức
khoa học. Tƣ tƣởng của ông làm cơ sở cho phƣơng pháp lý thuyết khoa học với lƣợc đồ giả

thuyết – diễn dịch. Descartes đề ra một số nguyên tắc nhƣ:
Thứ nhất: chỉ coi là chân lý đúng đắn những gì đƣợc cảm nhận rất rõ ràng và rành mạch,
không gợi lên một chút nghi ngờ gì cả, tức là những điều hiển nhiên.
Thứ hai, chia mỗi sự vật phức tạp, trong chừng mực có thể làm đƣợc thành các bộ phận
cấu thành nó để tiện lợi nhất trong việc nghiên cứu chúng.
Thứ ba: trong quá trình nhận thức chúng ta cần phải xuất phát từ những điều đơn giản
nhất và sơ đẳng nhất, dần dần đi đến những điều phức tạp hơn.
Thứ tư: yêu cầu chúng ta phải xem xét đầy đủ mọi dữ kiện, khơng đƣợc bỏ sót một tƣ
liệu nào trong quá trình nhận thức sự vật.
Thực chất phƣơng pháp của 2 nhà tƣ tƣởng này không mâu thuẫn loại trừ nhau mà bổ
sung cho nhau, con đƣờng xây dựng giả thuyết khoa học của Ph. Bacon chính là quy nạp – giả
thuyết, còn đối với R. Descartes là giả thuyết – diễn dịch.
Việc phát triển logic học hình thức đƣợc tiếp tục với cơng lao của nhà bác học ngƣời
Đức G.W. Laibnitz (1646 – 1716), ông là ngƣời bổ sung quy luật thứ tƣ vào logic hình thức
của Aristotle, đó là quy luật lý do đầy đủ. Quan trọng hơn, tuy mới chỉ là gợi ý song ơng đã
chủ trƣơng dùng ngơn ngữ hình thức hóa để chính xác hóa các phát biểu và lập luận. Đây là
đƣờng lối ký hiệu hóa và tốn học hóa lập luận logic. Thực sự đây là tƣ tƣởng có ý nghĩa vạch
thời đại.
Logic quy nạp không dừng lại ở Ph. Bacon mà tiếp tục đƣợc phát triển nhờ nỗ lực của
nhà triết học, Logic học, Kinh tế chính trị học ngƣời Anh J.S. Mill (1806 – 1873). Mill đã
hoàn thiện các phƣơng pháp quy nạp phục vụ cho việc phát hiện những nguyên nhân của hiện
tƣợng, các phƣơng pháp nhƣ: Phƣơng pháp giống nhau duy nhất, phƣơng pháp khác nhau duy
nhất, phƣơng pháp biến đổi cùng nhau, phƣơng pháp phần dƣ v.v..
Khuynh hướng thứ hai: Khuynh hƣớng xây dựng Logic học mới – gắn với nội dung của
tƣ duy hơn – logic học biện chứng.
Ngƣời có cơng lao khởi đầu cho khuynh hƣớng xây dựng logic biện chứng là nhà triết
học vĩ đại ngƣời Đức I. Kant (1724 – 1804). Ông là ngƣời đầu tiên phê phán hạn chế của
10



Logic hình thức và đặt vấn đề xây dựng một logic học khác mà ông gọi là “logic siêu
nghiệm”. Theo Kant Logic hình thức chỉ có tác dụng trong phạm vi giác tính với các phạm trù
kinh nghiệm. Logic học mới ở mức cao hơn sẽ tác động sang phạm vi Lý tính, ở đó phạm trù
kinh nghiệm đƣợc thay thể bởi các phạm trù tiên nghiệm và nguyên lý phi mâu thuẫn đƣợc
thay thế bởi nguyên lý mâu thuẫn. Nên, thực chất logic siêu nghiệm là logic biện chứng vì nó
dựa trên cơ sở ngun lý mâu thuẫn.
Ngƣời thực sự xây dựng nền tảng của toàn bộ logic biện chứng là nhà triết học lỗi lạc F.
Hegel (1770 – 1831). Trong tác phẩm “Khoa học về logic” ông đề xuất xây dựng hệ thống
nguyên lý, quy luật, phạm trù và những lƣợc đồ thao tác logic biện chứng.
Có bảng so sánh sau:
Cơ sở Logic học

Logic hình thức

Logic biện chứng

Nguyên lý logic

- Cơ lập
- Bất biến

- Liên hệ
- Biến hóa

Quy luật logic cơ bản

- Đồng nhất
- Phi mâu thuẫn
- Bài trung


- Lƣợng đổi dẫn tới chất đổi
và ngƣợc lại.
- Mâu thuẫn biện chứng.
- Phủ định biện chứng

Trên cơ sở những nguyên lý và quy luật của logic biện chứng, Hegel đã xây dựng học
thyết về biện chứng của khái niệm, phán đốn và lập luận. Với ơng, tƣ duy biện chứng ăn
khớp với biện chứng của tƣ duy và biện chứng của thực tại. Tất cả đều đƣợc vận động theo
một lƣợc đồ gọi là tam đoạn thức.
Chính đề
Nguyên đề

Hợp đề
Phản đề

Logic học hiện đại
Theo nhiều nhà nghiên cứu, khái niệm Logic học hiện đại dùng để chỉ giai đoạn phát
triển của logic học từ nửa sau thế kỷ XIX đến nay. Trong giai đoạn này logic lƣỡng trị (đƣợc
gọi là Logich cổ điển) vẫn tiếp tục phát triển mạnh mẽ (chủ yếu là các nhánh logic toán mệnh
đề và vị từ), nhƣng quan trọng là có sự xuất hiện và phát triển mạnh mẽ hơn của logic đa trị
(đƣợc gọi là Logic phi cổ điển).
Logich cổ điển bao gồm Logic hình thức truyền thống và Logic tốn mệnh đề và vị từ,
phần nào nữa là logic biện chứng cũ.
Ngay cả logic hình thức truyền thống (Aristotle) cũng đƣợc tốn học hóa theo ý tƣởng
của G.W. Laibnitz và tiếp tục phát triển trở thành logic tốn, cịn có tên gọi khác là logic ký
hiệu. Việc xuất hiện Logic toán thực sự là một cuộc cách mạng trong logic học. Logic toán là
11


kết quả của việc áp dụng triệt để phƣơng pháp kí hiệu hóa và tốn học hóa. Logic tốn tiến

hành vạch thảo và ứng dụng phổ biến ngôn ngữ nhân tạo: hệ thống kí hiệu để biểu diễn cấu
trúc và sự biến đổi của tƣ tƣởng. Việc sử dụng các phƣơng pháp toán học, trƣớc hết là phƣơng
pháp tiên đề hóa của tốn học đƣợc áp dụng vào Logic học từ đó xây dựng các phép tốn
logic. Cơng trình “Đại số logic” của nhà toán học Anh G. Boole (1815 – 1864) là kết quả khởi
đầu của việc toán học hóa logic.
Logich biện chứng cũ gắn liền với vai trị của Hegel trong việc vƣợt qua “logic siêu
nghiệm” của Kant (thực chất là sự cái tiến nửa vời Logic hình thức truyền thống) và mở ra
giai đoạn phát triển mới của Logic biện chứng.
Logic phi cổ điển bao gồm Logic hình thức hiện đại và Logic biện chứng mácxít.
Logic hình thức hiện đại là khuynh hƣớng chuyển từ logic lƣỡng trị hình thức cổ điển
sang khuynh hƣớng logic đa trị trong đó lƣỡng trị chỉ là trƣờng hợp đặc biệt.
Logic hình thức cổ điển có đặc trƣng cơ bản là chỉ chấp nhận 2 giá trị logic là đúng hoặc
sai. Nghĩa là logic này dựa trên nguyên lý lƣỡng trị chân lý của các phán đoán. Mỗi phán đoán
bất kỳ chỉ có hai giá trị thái cực: hoặc là chân thực, hoặc là giả dối khơng có trƣờng hợp thứ
ba, kí hiệu tƣợng ứng là 1 và 0. Logic hình thức phi cổ điển cho rằng bên cạnh giá trị chân
thực cịn có vơ số những giá trị gần chân thực, gần giả dối (nghĩa là lớn hơn 0 và nhỏ hơn 1).
Từ đó, Logic hình thức phi cổ điển xét lại các nguyên lý, quy luật và các quy tắc của logic cổ
điển, thay thế vào đó các nguyên lý, quy luật, quy tắc logic phi cổ điển nhằm mở rộng phạm
vi ứng dụng logic hình thức hiện đại và tăng cƣờng hiệu quả thực tế của tƣ duy logic.
Bên cạnh đó, các khuynh hƣớng Logic hình thức phi cổ điển đã bổ sung, mở rộng phạm
vi của logic học mà Logic hình thức cổ điển chƣa tính đến nhƣng việc bổ sung này lại phản
ánh sát hơn thực tế của tƣ duy. Chẳng hạn, đó là vấn đề “tình thái” trong cấu trúc của tƣ
tƣởng, “tính mờ” trong các tƣ tƣởng, yếu tố “thời gian” trong tƣ tƣởng v.v..
Logich hình thức phi cổ điển có nhiều khuynh hƣớng khác nhau gắn với các phƣơng
diện, khía cạnh khác nhau của tƣ duy phản ánh hiện thực, bao gồm các hệ thống Logic đa trị,
logic xác suất, logic tình thái, logic kiến thiết, logich mờ…
Phƣơng thức chung trong việc xây dựng các hệ thống logic này là phƣơng pháp hình
thức hóa và tốn học hóa các lập luận logic.
Logic biện chứng mácxít chính là sự vƣợt bỏ những hạn chế của Logic biện chứng
Hegel nhƣ: 1/ tính chất thần bí (lập trƣờng duy tâm khách quan); 2/ xem nhẹ vai trị của logic

hình thức.
Với những cố gắng khắc phục hai hạn chế này, các nhà kinh điển nhƣ K. Marx, F.
Engels, V.I. Lenin và của các nhà logic học Liên Xô (cũ) trƣớc đây đã đề xuất, xây dựng các
nguyên lý, nguyên tắc và quy luật của tƣ duy biện chứng.
Nhƣ vậy, lịch sử phát triển logic học đến nay đã trải qua nhiều giai đoạn để đạt đến
thành tựu cao nhất là phân tách ra thành Logic cổ điển và logic phi cổ điển. Trong đó Logic
tốn và các khuynh hƣớng Logic phi cổ điển đã ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển của các khoa
học, kỹ thuật – cơng nghệ và đời sống nói chung.
12


Nội dung cơ bản của một số trường phái Logic học tiêu biểu hiện nay
Logic hình thức truyền thống
Logic hình thức là phân ngành Lơgíc nghiên cứu các hình thức và quy luật chung của tƣ
duy phù hợp với thực tế khách quan. Logic hình thức truyền thống hình thành từ thời kỳ cổ
đại (ngƣời đặt nền tảng là Aristotle), chủ yếu nghiên cứu các hình thức logic cơ bản của tƣ
duy nhƣ khái niệm, phán đoán, suy luận, chứng minh và dƣờng nhƣ đối xứng là bốn quy luật
cơ bản đã biết của tƣ duy hình thức.
Hai nguyên lý nền tảng của tồn bộ logic hình thức truyền thống là:
1) tính cơ lập và
2) tính bất biến tƣơng đối.
Từ hai nguyên lý này cụ thể hóa thành 4 quy luật cơ bản sau:
1.Quy luật đồng nhất
2.Quy luật phi mâu thuẫn (logic hình thức).
3.Quy luật bài trung (3 quy luật đầu do Arixtote đƣa ra).
4.Quy luật lý do đầy đủ (quy luật này do Nepnit đƣa ra).
Chuẩn mực giá trị logic hình thức truyền thống có đặc trƣng nổi bật là tính lƣỡng trị
chân lý của mọi tƣ tƣởng. Mỗi phán đoán chỉ nhận một trong hai giá trị chân lý hoặc là chân
thực hoặc là giả dối.
Logic toán

Logic toán là hình thức phát triển cổ điển của Logic hình thức truyền thống.
Có thể nói, cuộc cách mạng thực sự trong các nghiên cứu Logic học là việc tạo ra Logic
tốn vào nửa sau thế kỷ XIX cịn gọi là logic biểu tƣợng (ký hiệu), đã mở ra thời kỳ mới, hiện
đại trong sự phát triển của logic học. Logic toán là kết quả của việc áp dụng triệt để phƣơng
pháp kí hiệu hóa và tiên đề hóa. Cơng trình Đại số logic của nhà toán học Anh G. Boole
(1815 - 1864) là kết quả khởi đầu trong việc toán hóa logic học. Các quan hệ logic nhƣ phép
hội, phép tuyển, phép kéo theo… đƣợc hình thức hóa tƣơng đƣơng với các phép tính trong đại
số nhƣ phép nhân, phép cộng… và thông qua các thao tác logic chuyển thành các phép toán
logic.
Logic toán tiếp tục phát triển với sự đóng góp của nhiều nhà logic học xuất sắc khác
nhƣ: E. Shroder (1841 - 1902), G. Frege (1848 - 1925), D. Hilbert (1826 - 1943), B. Russell
(1872 - 1970, K. Godel (1906 - 1978).
Logic toán bao gồm hai nhánh chủ yếu là logic mệnh đề và logic vị từ.
Đối tƣợng của logic mệnh đề là các mệnh đề, nên phép tính logic mệnh đề thực chất là
logic phán đốn. Ví dụ:
a: Nam đọc báo
b: An xem ti vi
Có thể thực hiện các phép toán logic đối với các mệnh đề a, b bằng các phép hội, phép
tuyển, phép kéo theo, phép phủ định v.v..
Logic vị từ cho phép diễn tả cấu trúc nội tại của một mệnh đề.
Ví dụ phán đoán: a: Một số ngƣời là sinh viên.
13


Có thể viết phán đốn này dƣới dạng: Có một số x là ngƣời đồng thời là sinh viên.
Câu trên đƣợc ký hiệu nhƣ sau: (Ex) [N(x) ۸ S(x) ]
Việc sử dụng phổ biến các ký hiệu hóa và thao tác tốn học hóa làm cho các quan hệ
logic trong một mệnh đề và giữa các mệnh đề đƣợc biểu diễn một cách chính xác và cho phép
thực hiện đƣợc các phép toán logic.
Xuất hiện trên cơ sở logic học hình thức truyền thống, logic tốn, một mặt, đã chính xác

hóa, làm sâu sắc và phong phú thêm những quan niệm trƣớc đây về các hình thức và quy luật
logic, đặc biệt trong lý thuyết suy luận, còn mặt khác, lại mở rộng và làm giàu đáng kể hệ vấn
đề logic học.
Logic toán ngày càng đƣợc ứng dụng rộng rãi trong các khoa học khác – khơng chỉ
trong tốn học, khoa học chính xác (vật lý học, sinh học…) mà còn là cơ sở logic của điều
khiển học, của kỹ thuật máy tính điện tử.
Ban đầu, Logic tốn hình thành có cơ sở là logic cổ điển nhƣng ngày nay với sự phát
triển của nhiều hệ thống tính tốn mới đã làm xuất hiện các hệ thống logic toán mới dựa trên
những khuynh hƣớng phi cổ điển.
Logic tam trị Łukasiewicz
Logic tam trị là một trong những loại hình cơ bản và đơn giản nhất của Logic phi cổ
điển. Năm 1920, Jan Łukasiewicz (1878 - 1956) đã xây dựng hệ thống lơgíc đa trị đầu tiên.
Bên cạnh, 1 - đúng; 0 – sai cịn có1/2 – trung hồ. Các thao tác (phép tính) lơgíc cơ bản là:
phủ định (7X), kéo theo ( X  Y ), hội (X  Y) và tuyển (X v Y).
Bảng giá trị chân lý của phủ định và kéo theo nhƣ sau:
X

7X

1

0

1/2

½

0

1


7X=1–X
X

1

1/2

0

1

1

1/2

0

1/2

1

1

1/2

0

1


1

1

Y

X  Y = 1 nếu X  Y ; X  Y = 1- [(X) + (Y)] nếu X > Y

Tổng quát: X  Y = min [1, 1 - (X) + (Y)]
Giá trị chân lý của phép hội đƣợc tác giả xác định là giá trị nhỏ nhất trong số các giá trị
của các thành phần tạo nên phép hội: (X  Y) = min [(X); (Y)];
Còn phép tuyển, giá trị chân lý đƣợc xác định là giá trị lớn nhất trong số các giá trị của
các thành phần tạo nên phép tuyển: (XvY) = max [(X), (Y)].

14


Trên cơ sở các định nghĩa nhƣ trên về phủ định, hội và tuyển mà các quy luật phi mâu
thuẫn và quy luật bài trung trong lơgíc lƣỡng trị, cũng nhƣ phủ định của các quy luật này, đã
khơng cịn là quy luật trong hệ thống Łukasiewicz nữa.
Có thể nói Logic học Lucasevich khơng hồn tồn là phủ định của lơgíc lƣỡng trị vì
lƣỡng trị chỉ là trƣờng hợp đặc biệt. Tất cả các hằng đúng của lơgíc Lucasevich đều là các
hằng đúng của lơgíc lƣỡng trị, bởi nếu bỏ giá trị 1/2 thì trong lơgíc Lucasevich và lơgíc lƣỡng
trị các thao tác hội, tuyển, kéo theo, và phủ định sẽ tƣơng ứng trùng nhau. Nhƣng vì trong
lơgíc Lucasevich có cả giá trị chân lý thứ 3 là 1/2, cho nên khơng phải mọi hằng đúng của
lơgíc lƣỡng trị đều là hằng đúng trong lơgíc Lucasevich.
Trong lơgíc học Lucasevich các quy tắc bỏ hai lần phủ định, bốn quy tắc của Đơ
Morgan và quy tắc phản chứng ( a  b   7b  7a  ) vẫn còn đúng.
Trong khi đó, quy tắc dẫn đến điều phi lý của lơgíc lƣỡng trị: [(X Y)  (X 7Y)]
7X, nghĩa là nếu từ X suy ra 2 mệnh đề mâu thuẫn nhau, thì việc đó chứng tỏ X sai) đã

khơng còn là đúng nữa. Điều này minh chứng khi lấy X = 1/2 và Y = 1/2 (theo công thức tính
ở bảng trên).
Lơgíc tình thái
Logic tình thái là một trong những loại hình cơ bản của Logic phi cổ điển. Logic tình
thái nghiên cứu mối liên hệ logic của các phán đốn tình thái.
Việc nghiên cứu các phán đốn tình thái đã có lịch sử lâu dài và phong phú. Aristotle là
ngƣời đã đƣa các tình thái vào lơgíc học. Những nhà khoa học đầu tiên nghiên cứu logic tình
thái theo hƣớng hiện đại là C.I. Lewis (1883 - 1964), C.H. Langford (1895 - 1964). Lơgíc tình
thái xuất hiện chính thức nhƣ là hệ thống vào năm 1918 khi nhà triết học và lơgíc học ngƣời
Mỹ C.I. Lewis trong cơng trình A survey of symbolic lơgíc đã đƣa ra phép tính tình thái.
Lơgic truyền thống chỉ khảo sát các phán đốn khẳng định chính dữ kiện tồn tại hay
thiếu vắng tình huống: chẳng hạn, phán đốn “trời mƣa” ghi nhận sự hiện diện của việc nƣớc
rơi dƣới dạng mƣa, còn phán đốn “trời khơng mƣa” ghi lại thơng tin về việc thiếu vắng tình
huống đó. Các phán đốn nhƣ thế đƣợc gọi là phán đoán mặc nhiên.
Một trong những thiếu sót của Logic lƣỡng trị cổ điển là nó đã “lãng qn” tính chất
“tình thái” của các phán đốn, nói cách khác Lơgíc lƣỡng trị cổ điển chỉ khảo sát các phán
đoán “mặc nhiên”, những phán đoán phản ánh nội dung khách quan về đối tƣởng phản ánh
(có thể là ghi nhận sự kiện hoặc phủ nhận sự kiện), chƣa tính đến có những phán đốn thể
hiện cả tâm trạng của chính chủ thể. Chúng có thể là biểu thị tính chắc chắn hoặc chƣa chắc
chắn của chủ thể, biểu thị niềm tin hoặc sự không tin tƣởng, biểu thị sự đánh giá của chủ thể
v.v..
Biểu hiện của tình thái trong phán đoán hết sức đa dạng. Các phán đoán tình thái nhƣ:
Tất yếu là, nếu nung nóng thanh kim loại thì nó nở ra.
Trời có khả năng mƣa to.
Chắc chắn rằng, ngày mai mặt trời vẫn mọc ở hƣớng Đơng, lặn ở hƣớng Tây.
Có lẽ, ngƣời ngồi hành tinh đã đến trái đất từ lâu.
Tôi tin rằng anh ta là ngƣời tốt.
15



Tơi khơng tin rằng trên đời này lại có ngƣời xa lạ giúp đỡ anh nhiệt tình nhƣ vậy.
Đã chứng minh đƣợc rằng, trên mặt trăng khơng có sự sống.
Chƣa biết đƣợc, sau đây 100 năm máy bay sẽ nhƣ thế nào.
Anh An có thể làm cơng việc này.
Tốt q, trời mƣa
Thật chán, trời lại nắng to rồi
….
Sơ đồ chung của chúng là: M(S là P), các tác tử tình thái khác nhau sẽ đƣợc đặt vào chỗ
M trong sơ đồ đó.
Logic tình thái bao gồm một số bộ phận hay xu hƣớng mà mỗi một trong số chúng
nghiên cứu một kiểu phán đốn tình thái xác định. Nền tảng của logic tình thái là logic mệnh
đề, vì vậy nó là sự mở rộng của logic mệnh đề. Hơn nữa, Logic tình thái thƣờng đƣợc xây
dựng qua các hệ thống tiên đề (bằng phƣơng pháp tiên đề hóa). Do vậy, cùng là những vấn đề
tình thái nhƣng có thể đƣợc xác lập bằng những hệ thống tiên đề khác nhau.
Logic tình thái có đặc trƣng đa trị, ít nhất là tam trị tình thái, ở đó ngồi hai giá trị
“đúng” và “sai” cịn có giá trị thứ ba là giá trị “có thể”. Hơn nữa, Hệ thống logic tình thái
đƣợc xây dựng theo nguyên tắc mở rộng hệ thống logic cổ điển.
Trong Logic tình thái, bên cạnh các tác tử nhƣ thƣờng có ở Logic cổ điển cịn có hai tác
tử tình thái là: tác tử “tất yếu” kí hiệu là “□” và tác tử “có thể” kí hiệu là “◊”.
Quan hệ giữa hai tác tử trên đƣợc xác định nhƣ sau: Gọi p là một phán đốn, ta có:
□p = -◊-p
Ví dụ: “Trời tất yếu mƣa” = “Trời khơng thể khơng mƣa”.
◊p = - □ – p
Ví dụ: “An có thể lập gia đình” = “An khơng nhất thiết khơng lập gia đình”
P  ◊p. (Ghi chú khơng có hệ thức ◊P P)
Ví dụ: “Trên sao hỏa có sự sống”  Có thể trên sao hỏa có sự sống.
□p  p (Ghi chú khơng có hệ thức p □p)
Ví dụ: “Khủng long tất yếu bị diệt chủng do thiên thạch va chạm vào trái đất” 
“Khủng long bị diệt chủng do thiên thạch va chạm vào trái đất”.
Relevant Logic

Relevant Logic là một ngành logic học hiện đại bắt đầu phát triển từ năm 1956.
Relevant Logic tập trung nghiên cứu những vấn đề về mối quan hệ suy diễn logic: quan hệ
giữa các tiền đề và hệ quả của nó. Quan hệ này gắn với phép toán kéo theo và đƣợc biểu diễn
bởi phép toán này. Quan hệ suy diễn giữa a và b nghĩa là b đƣợc suy ra từ a, b là hệ quả của a
(kí hiệu: a ├ b), thƣờng đƣợc biểu diễn bằng công thức a b. Vấn đề chuẩn hóa, xác định
quan hệ suy diễn logic là một trong những vấn đề trọng tâm, quan trọng của khoa học logic,
nên Relevant logic là một trong những ngành logic quan trọng và có ý nghĩa nhất.
Relevant logic có mối liên hệ rất chặt chẽ với khái niệm liên hệ điều kiện (“nếu…,
thì…”). Nên vấn đề đặt ra là cần phải xác định, chuẩn hóa khái niệm liên hệ điều kiện nhƣ thế
nào. Có sự khác biệt nào giữa Relevant logic và liên hệ điều kiện.
16


Trong quan hệ suy diễn logic có các nghịch lý nhƣ sau:
Thứ nhất, Quy luật logic có thể suy ra từ bất cứ mệnh đề nào:
B ├ (A v 7A)
Thứ hai, Từ mâu thuẫn logic có thể rút ra bất cứ mệnh đề nào:
(A ۸ 7A) ├ B.
Để giải quyết các nghịch lý nêu trên của quan hệ suy diễn cổ điển, các nhà logic học đã
xây dựng rất nhiều hệ thống logic phi cổ điển với các quan hệ suy diễn khác.
Logic thời gian
Logic thời gian thuộc hệ thống logic phi cổ điển. Trong logic cổ điển, giá trị của mệnh
đề (đúng – sai) độc lập với thời gian. Logic thời gian xây dựng những mệnh đề có mối quan
hệ chặt chẽ với từng thời điểm của thời gian.
Chẳng hạn
Ngôn ngữ hàng ngày
G là một học sinh
A đã cƣới B
A sẽ cƣới B


Logic thời gian
G tại thời điểm này, là một học sinh
Thời điểm t là trƣớc lúc này và A đã cƣới B ở thời điểm t
Thời điểm t sau lúc này và A cƣới B ở thời điểm t

Những nhà logic học hiện đại tiên phong trong nghiên cứu về Logic thời gian đều muốn
trình bày các lập luận toán học một cách chặt chẽ về thời của các mệnh đề. Thời gian là một
yếu tố quan trọng của các sự vật, hiện tƣợng, khi gắn sự vật, hiện tƣợng với thời gian chúng ta
thấy đƣợc sự biến đổi phát triển của chúng. Nên nếu bỏ qua khơng xét thời của các mệnh đề
trong lập luận có thể thu đƣợc kết quả khơng chân thực, có tính chất ngộ nhận và khơng phù
hợp với thực tiễn.
Tóm lại, Logic thời gian là một công cụ hữu hiệu để ngƣời ta khảo sát giá trị của những
mệnh đề thời gian, do vậy nó có ý nghĩa nhận thức khơng nhỏ.
Đánh giá chung về Logic hiện nay
Thông qua nội dung cơ bản nhất của lịch sử logic học và một số trƣờng phái Logic học
hiện đại có thể đƣa ra những nhận định chung nhƣ sau:
Thứ nhất, Logic học hiện nay nghiên cứu tƣ duy phản ánh hiện thực.
Thứ hai, Giá trị của tƣ tƣởng đã đƣợc mở rộng, không chỉ bó hẹp ở hai giá trị có tính
cực đoan là chân thực và giả dối mà còn bao hàm vô số giá trị trung gian và cả giá trị không
xác định. Điều này dẫn đến Logic học hiện đại có thể mơ tả giá trị tƣ tƣởng cụ thể hơn và
phản ánh đƣợc cấu trúc của những tƣ tƣởng phức tạp, chẳng hạn những mệnh đề tình thái.
Thứ ba, việc sử dụng các phƣơng pháp hình thức hóa, kí hiệu hóa kết hợp với phƣơng
pháp tiên đề trong tốn học tƣơng đối phổ biến tạo nên những thành tựu không nhỏ trong
logic học và tác động ngƣợc trở lại đối với sự phát triển của toán học. Việc phổ biến này dẫn
đến những đối tƣợng và nội dung của Logic học đƣợc trình bày chặt chẽ, logic, ngắn gọn và
có khả năng đi sâu mơ tả chi tiết đặc tính của đối tƣợng.
Thứ tư, Logic học hiện nay đã đề cập đến những mệnh đề phức tạp mà Logic học cổ
điển trƣớc đây khơng đụng chạm đến, đó là những yếu tố tình thái trong mệnh đề (Logic tình
thái), yếu tố thời gian trong mệnh đề (Logic thời gian), những mệnh đề có giá trị khơng xác
17



định (Logic mờ), những mệnh đề có giá trị mang tính xác suất (Logic xác suất), v.v. đây là
một bƣớc tiến không nhỏ trong việc xác định cấu trúc logic và giá trị của những mệnh đề
phức tạp nhƣng lại gắn chặt với thực tế cuộc sống.
Thứ năm, Logic học hiện nay cũng đặt ra những vấn đề cần giải quyết, những vấn đề
này biểu hiện sự hạn chế, khiếm khuyết cần phải có một lý thuyết bao quát hơn, rộng hơn để
phản ánh đúng hơn, sâu sắc hơn logic của tƣ duy.
Một số vấn đề cơ bản đặt ra đối với Logic học hiện nay
Logic học hiện đại ngày nay đã đạt đến sự phát triển vƣợt bậc so với thời của Aristotle,
tuy nhiên, để ngành khoa học này tiếp tục hoàn thiện và phát triển trƣớc hết cần phải vạch ra
những vấn đề tồn tại của nó, từ đó là cơ sở để đề xuất, xây dựng lý thuyết mới có tính bao
qt hơn, mơ tả đầy đủ hơn cấu trúc logic thực tế của tƣ duy đã và đang diễn ra.
Vấn đề thứ nhất: trong quá trình tƣ duy đƣa ra giải pháp, mơ hình kiến tạo, tƣ duy có
tuân theo những quy luật của logic học không, nhất là logic học hiện đại?
Trong logic học hiện nay, tất cả những tƣ tƣởng mà nó nghiên cứu đều là những tƣ
tƣởng phản ánh thế giới, kể cả tƣ duy do Logic học biện chứng nghiên cứu (logic của tƣ duy
phản ánh sự vận động, phát triển và các mối liên hệ đa dạng, phong phú của các đối tƣợng
hiện thực). Do vậy, giá trị mà tƣ tƣởng đem lại cho chủ thể là giá trị chân lý, có thể là lƣỡng
trị hoặc đa trị. Tuy nhiên, có những tƣ tƣởng về giải pháp, về mơ hình kiến tạo lại không đƣợc
đề cập, nghiên cứu nhƣ là đối tƣợng của logic học. Chẳng hạn: trong một vụ bắt cóc con tin,
cảnh sát phải đƣa ra giải pháp đột nhập vào nhà nơi kẻ bắt cóc đang giam giữ con tin. Cảnh
sát trƣởng đƣa ra giải pháp: “Chúng ta sẽ đột nhập ở phía sau nhà từ một nhà bên cạnh, trƣớc
đó một ngƣời thơng báo qua loa dụ hắn để đánh lạc hƣớng…”. Tƣ tƣởng này không xét về
phƣơng diện giá trị chân lý đúng hay sai, mà chỉ xét đến giải pháp đó có khả thi hay khơng?
Nghĩa là việc thực hiện giải pháp đó có đáp ứng đƣợc mục đích đề ra là: giải cứu con tin với
mức an tồn cao nhất có thể. Một ví dụ khác, một kiến trúc sƣ đƣa ra bản thiết kế một tòa nhà
mới độc đáo mà chủ đầu tƣ cần có. Bản thiết kế với những đƣờng nét, hình khối, kí hiệu thể
hiện ý tƣởng của kiến trúc sƣ. Vậy điều quan tâm của chủ đầu tƣ là: bản thiết kế đó trƣớc hết
có đảm bảo an tồn kỹ thuật khơng? Có đáp ứng u cầu đề ra của mình khơng? (về sự thuận

lợi, tính thẩm mỹ, tiết kiệm, an tồn phịng cháy chữa cháy…).
Sản phẩm của tƣ duy chủ thể không chỉ là những tƣ tƣởng phản ánh về đối tƣợng (từ đó
xét đến sự chân thực – giả dối của tƣ tƣởng) mà cịn có những sản phẩm là những phƣơng
pháp, giải pháp, biện pháp, những sản phẩm kiến tạo (tác phẩm nghệ thuật, máy móc, thiết bị
mới v.v.) nhằm giúp chủ thể cải biến hiện thực, sáng tạo ra thế giới mới. Những sản phẩm đó
chủ yếu đƣợc đánh giá ở góc độ: có khả thi hay khơng khả thi, có tối ƣu hay khơng, đạt yêu
cầu hay không đạt yêu cầu đề ra.
Những tƣ tƣởng kiến tạo, cải tạo hiện thực đó có phải tuân theo những quy luật logic
hay không?
Việc tuân theo quy luật logic không chỉ là những tƣ tƣởng phản ánh hiện thực mà cả
những tƣ tƣởng kiến tạo và cải tạo nữa. Chẳng hạn, một giải pháp đƣa ra trong tình huống
khẩn cấp (nhà bị lụt) của ngƣời cha: Ngƣời cha nói với vợ con: “Chúng ta sẽ dỡ một vài viên
18


ngói để chui ra ngồi”. Khi ngƣời con gái út nghe chƣa rõ, hỏi lại cha: Chúng ta bây giờ có
phải là sẽ dỡ một vài viên ngói để chui ra ngồi khơng cha? Ngƣời cha đáp: “Khơng đâu”.
Nhƣ vậy là tƣ duy của ngƣời cha đang mâu thuẫn. Nên ngƣời chị cả hỏi lại cha: “Nhƣng vừa
rồi cha bảo là chúng ta sẽ dỡ một vài viên ngói để chui ra ngoài mà, sao bây giờ cha lại bảo là
khơng”.
Tƣ tƣởng: “Chúng ta sẽ dỡ một vài viên ngói để chui ra ngoài” rút ra một tƣ tƣởng tất
yếu sau: “Một vài viên ngói sẽ đƣợc dỡ”.
Tƣ tƣởng kiến tạo: Một ngƣời chồng nói với vợ: “Trang trại phức hợp mới mà chúng ta
dự định mở, bao gồm: Có vƣờn cây ăn quả, vƣờn hoa, vƣờn rau, những trò chơi giải trí, khu
nhà nghỉ, nhà hàng, hồ cá sinh thái và nửa diện tích cịn lại của dự án là chăn ni cừu, bị
sữa”. Ngƣời vợ hỏi: “trong dự án mới của mình chúng ta có những trị choi giải trí khơng?”
Ngƣời chồng nói: “Khơng có em à”. Ngƣời vợ ngạc nhiên nói: “Em nghe khơng nhầm lúc nãy
anh bảo là có cả những trị chơi giải trí nữa mà, sao bây giờ lại bảo không !”. Nhƣ vậy, tƣ
tƣởng của ngƣời chồng có mâu thuẫn.
Từ tƣ tƣởng: “Trang trại mới liên hợp mà chúng ta dự định mở, bao gồm: Có vƣờn cây

ăn quả, vƣờn hoa, vƣờn rau, những trị chơi giải trí, khu nhà nghỉ, nhà hàng, hồ cá sinh thái và
nửa diện tích cịn lại là chăn ni cừu, bị sữa” rút ra một tƣ tƣởng tất yếu sau: “toàn bộ vƣờn
cây ăn quả, vƣờn hoa, vƣờn rau, những trị chơi giải trí, khu nhà nghỉ, nhà hàng, hồ cá sinh
thái chiếm một nửa diện tích của dự án”.
Nhƣ vậy, có thể khẳng định rằng: thứ nhất, bên cạnh tƣ tƣởng phản ánh thì tƣ tƣởng cải
biến (giải pháp, biện pháp, phƣơng pháp), tƣ tƣởng kiến tạo (mơ hình thiết kế, sản phẩm nghệ
thuật…) cũng là đối tƣợng nghiên cứu của logic học. Thứ hai, bên cạnh giá trị chân lý (chân
thực – giả dối) ở tƣ tƣởng phản ánh cịn có những giá trị khác, giá trị thẩm mỹ, giá trị kinh tế,
giá trị chính trị, giá trị đạo đức… ở những tƣ tƣởng cải biến, tƣ tƣởng kiến tạo.
Vấn đề thứ hai: khi tƣ duy về những đối tƣợng trong sự liên hệ, vận động và phát triển
thì tƣ duy có phải tn theo những quy luật của logic hình thức hay khơng?
Trong logic hình thức hiện nay những tƣ tƣởng chịu sự tác động của quy luật đồng nhất,
quy luật phi mâu thuẫn và quy luật bài trung là những tƣ tƣởng phản ánh đối tƣợng trong sự
ổn định và cô lập một cách tƣơng đối. Liệu khi tƣ tƣởng phán ánh đối tƣợng trong sự vận
động, trong mối liên hệ phổ biến thì tƣ duy có phải tn theo những quy luật đó hay khơng?
Ta thử khảo sát những ví dụ sau.
Ngƣời mẹ nói với con trai: “Con biết khơng: khi gà mái đẻ ra một quả trứng, quả trứng
đó đƣợc ấp sau một vài ngày nở ra một con gà, gà con đó đƣợc mẹ nó bảo vệ, chăm lo sau
một vài tháng thành gà trƣởng thành, gà trƣởng thành rồi thì gà mẹ sẽ khơng cho ăn nữa”.
Đây là tƣ tƣởng phản ánh đối tƣợng trong sự biến đổi: từ gà mẹ đẻ  trứng  trứng nở gà
con gà trƣởng thành. Con biết rồi, có phải mẹ bảo là: khi gà trống đẻ ra một quả trứng, quả
trứng đó nở ra một vài gà con, gà con đó đƣợc gà trống bảo vệ, chăm lo sau một thời gian
thành gà trƣởng thành”. Ngƣời mẹ nói: “Ồ, con hiểu nhầm đôi chút, gà mái chứ không phải gà
trống và một quả trứng chỉ nở ra một gà con thôi”. Vậy, ở trên, ngƣời con đã vi phạm luật
đồng nhất, đã hiểu “xuyên tạc” đối tƣợng, nội dung tƣ tƣởng.
19


Ở tƣ tƣởng phản ánh mâu thuẫn ở sự vật:
Nếu ở một chủ thể có đồng thời hai tƣ tƣởng sau thì chủ thể đó vi phạm luật cấm mâu

thuẫn:
<1>: “Ở thanh sắt này vừa có q trình làm cho thanh sắt đó dài ra vừa có q trình làm
cho thanh sắt đó co lại” và “Làm gì có chuyện, ở thanh sắt này vừa có q trình làm cho thanh
sắt đó dài ra vừa có q trình làm cho thanh sắt đó co lại”.
<2>: “Sự vật trong mỗi lúc vừa ở chỗ này đồng thời khơng ở chỗ đó” và “Làm gì có
chuyện, sự vật trong mỗi lúc vừa ở chỗ này đồng thời khơng ở chỗ đó”.
<3>: “A là ngƣời tốt với bạn nhƣng lại không tốt với anh trai của mình” và “Làm gì có
chuyện, A là ngƣời tốt với bạn nhƣng lại không tốt với anh trai của mình”.
<4>: “Nhìn chung, B vừa có tính tốt, vừa có tính xấu, có lúc khiêm tốn, có lúc kiêu
ngạo” và “Làm gì có chuyện, nhìn chung, B vừa có tính tốt, vừa có tính xấu, có lúc khiêm
tốn, có lúc kiêu ngạo”.
Nhƣ vậy, khi tƣ tƣởng phản ánh đối tƣợng trong sự biến đổi, phát triển và trong sự liên
hệ đều vẫn phải tuân theo quy luật logic của tƣ duy. Cụ thể là trong 4 ví dụ nêu trên tƣ duy
buộc phải chọn là đúng 1 trong 2 mệnh đề đứng trƣớc hoặc sau chữ và.
Vấn đề thứ ba: giá trị logic của tƣ tƣởng phải chăng chỉ có giá trị chân lý?
Tồn bộ logic học hiện nay, đều xem xét tƣ tƣởng dƣới phƣơng diện chân lý, ngay cả
logic học biện chứng cũng quan niệm nhƣ vậy. V.I. Lênin cho rằng: “Không phải tâm lý học,
không phải hiện tƣợng học của tinh thần, nhưng là lơgích học = vấn đề chân lý”2. Tuy nhiên,
thực tế cho thấy khơng chỉ có tƣ tƣởng phản ánh thế giới với giá trị chân lý của tƣ tƣởng (biểu
hiện là những tri thức khoa học, tri thức triết học) mà cịn có những tƣ tƣởng là những giải
pháp, biện pháp, phƣơng pháp và những mơ hình kiến tạo hay sản phẩm kiến tạo (bản thiết kế
tòa nhà, bản thiết kế sản phẩm mới…). Những giải pháp, biện pháp, phƣơng pháp đƣa ra
khơng thể có giá trị chân lý (vấn đề chân thực – giả dối) mà ngƣời ta chỉ xét đến góc độ khả
thi hay khơng khả thi của giải pháp. Đối với sản phẩm kiến tạo không thể xét đến giá trị chân
lý mà chỉ xét đến góc độ có đạt u cầu hay khơng đạt u cầu đề ra.
Ta có bảng so sánh sau:
Tƣ tƣởng phán ánh
Tƣ tƣởng cải biến
Tƣ tƣởng kiến tạo
Tri thức: Electron quay Biện pháp: Muốn trẻ Mơ hình thiết kế: bản

xung quanh hạt nhân không biếng ăn hãy cho thiết kế ngôi nhà với tiêu
Ví dụ
của ngun tử
trẻ ăn khi đã đói.
chí đề ra: a,b,c,d…
Giá trị chân lý, giúp chủ Giá trị cách thực: giúp Giá trị kiến tạo: Tạo ra
thể biết sự thật về đối chủ thể đạt mục đích cấu trúc mới có giá trị
Giá trị của
tƣợng
(mục tiêu) đề ra….
thỏa mãn những tiêu chí
tƣ tƣởng
đề ra (yêu cầu)
Miền chân lý: [Giả Miền khả thi: [Không Miền yêu cầu: [Không
khả thi… Khả thi… đạt yêu cầu… Đạt yêu
Miền giá trị dối… Chân thực]
Giải pháp tối ƣu]
cầu…Đạt trên yêu cầu]
Ứng với vấn đề - chủ Ứng với vấn đề - chủ Ứng với vấn đề - chủ thể
thể giải quyết vấn đề chỉ thể giải quyết vấn đề có giải quyết vấn đề có thể
Đặc điểm
có một lời giải
thể có một hoăc nhiều có một hoăc nhiều lời
lời giải
giải
2

V.I. Lênin: Toàn tập, t.29, NXB Tiến bộ, Mátxcơva, 1981, tr.184.

20



Ở tƣ tƣởng cải biến và tƣ tƣởng kiến tạo trong những trƣờng hợp cụ thể có thể bao gồm
những giá trị cụ thể nhƣ:
Giá trị kinh tế khi giải pháp giải quyết vấn đề kinh tế là khả thi và thực hiện thành công
sẽ đem lại giá trị kinh tế cho ngƣời thực hiện (chẳng hạn lợi nhuận tăng lên).
Giá trị đạo đức khi giải pháp về vấn đề đạo đức là khả thi và thực hiện thành công sẽ
đem lại giá trị đạo đức cho đối tƣợng chịu tác động (ngƣời xấu trở lên lƣơng thiện, tốt hơn…).
Giá trị thẩm mỹ khi sản phẩm kiến tạo nhƣ tác phẩm văn chƣơng có giá trị (tác phẩm
hay, hấp dẫn) thì đó là giá trị thẩm mỹ ở tính tƣ tƣởng của tác phẩm.
v.v….
Kết luận: bên cạnh giá trị chân lý, tƣ tƣởng cịn có những giá trị khác. Từ đó, việc xét
miền giá trị của tƣ tƣởng khơng chỉ giới hạn ở chân lý mà còn ở sự khả thi và thỏa mãn các
yêu cầu.
Vấn đề thứ tƣ: vấn đề vai trò, tƣ cách của các quy luật logic
Trong logic học hình thức hiện nay có 4 quy luật logic của tƣ duy đó là quy luật đồng
nhất, quy luật phi mâu thuẫn, quy luật bài trung và quy luật lí do đầy đủ. Nhƣng khi các Logic
học đa trị xuất hiện đã khiến cho nó lần lƣợt vi phạm những quy luật này, nghĩa là chúng
khơng cịn đúng (không tác động) trong phạm vi đối tƣợng nghiên cứu của các logic học đó,
chẳng hạn, trong hệ thống Logich tam trị của J.Lukasiewics các quy luật bài trung và phi mâu
thuẫn của Logich học hình thức bị vi phạm nghĩa là chúng khơng cịn là quy luật logic tuyệt
đối. Logic trực giác, Logic kiến thiết xét lại nguyên lý bài trung của Logic hình thức cổ điển
và thay thế vào đó là ngun lý chấp chung. Thậm chí ngay cả trong Logic tốn vốn là Logic
hình thức hiện đại thì những quy luật cơ bản của Logic hình thức truyền thống nhƣ quy luật
phi mâu thuẫn, quy luật bài trung có thể khơng là quy luật logic cơ bản nữa vì do chọn một hệ
tiên đề khác ngƣời ta có thể chứng minh những quy luật đó chỉ là quy tắc.
Vấn đề thứ năm: “Vấn đề” có vai trị gì đối với Logic học
Trong Logic học hiện nay, “vấn đề” không xuất hiện trong những cơ cấu lý thuyết của
các trƣờng phái Logic học. Nó khơng phải là nội dung cần phải đề cập tới với vai trò là một
trong những mắt xích quan trọng về sự hoạt động của tƣ duy, tƣ duy logic. Thực tế, trong

phạm vi Logic học vấn đề là một trong những nội dung tất phải đề cập tới vì chỉ đƣa “vấn đề”
vào thì giá trị của tƣ tƣởng mới có thể xác định đƣợc, vì đối với vấn đề này thì nó có giá trị
này, vấn đề khác thì có giá trị khác, hơn nữa vấn đề của chủ thể này là thế này, vấn đề của chủ
thể khác là thế khác. Ta có ví dụ sau:
Cho một mệnh đề: “Bạn B là ngƣời đạt huy chƣơng vàng trong cuộc thi vô địch toán thế
giới năm 2010” = a.
Mệnh đề này đúng thì giá trị đó ký hiệu số 1, nếu mệnh đề này sai thì giá trị đó ký hiệu
số 0 và phủ định mệnh đề này (7a) có giá trị 1. Đây chỉ là giá trị khi xét a đúng hay sai.
Nhƣng nếu vấn đề đƣa ra: Ai là ngƣời đạt hay chƣơng vàng toán thế thế giới năm 2010 thì
phủ định tƣ tƣởng a khơng đem lại đáp án cần tìm mà chỉ giúp chủ thể loại bỏ đi một phƣơng
án sai mà thôi.
21


Hơn nữa, nếu vấn đề mà chủ thể tƣ duy đặt ra là: “Ai là ngƣời đạt huy chƣơng Bạc trong
cuộc thi vơ địch tốn thế giới năm 2010?” thì tƣ tƣởng a không phải là đáp án mà chủ thể cần
tìm, nó chỉ có tác dụng thu hẹp phạm vi tìm kiếm của chủ thể mà thơi.
Do vậy, cần phải đƣa “vấn đề” vào trong Logic học.
Vấn đề thứ sáu: Logich biện chứng hiện nay đã đƣợc các nhà Mác xít phát triển từ
những nền tảng tƣ tƣởng của các vị sáng lập của Chủ nghĩa Mác – Lênin, tuy nhiên, hiện nay,
với thành quả đạt đƣợc còn hạn chế, ít đƣợc các nhà khoa lý luận, logic học thuộc ngồi chủ
nghĩa Mác xít cơng nhận. Điều này, xuất phát từ những khiếm khuyết cơ bản trong việc xác
định đối tƣợng nghiên cứu của Logic biện chứng. Rằng, Logic biện chứng nghiên cứu tƣ duy
phản ánh sự liên hệ, chuyển hóa, vận động và phát triển của các sự vật, hiện tƣợng trên thế
giới, khác biệt với Logic hình thức nghiên cứu tƣ duy phản ánh trạng thái ổn định về chất của
sự vật, hiện tƣợng, tạm thời tách đối tƣợng ra khỏi các mối quan hệ mà chỉ tập trung phản ánh
đối tƣợng trong một mối quan hệ, một phƣơng diện, khía cạnh nhất định. Hơn nữa, việc trình
bày nội dung Logic biện chứng gần nhƣ đồng nhất với Phép biện chứng, những quy luật của
Logic biện chứng đồng nhất với những quy luật trong phép biện chứng – quy luật của trạng
thái tồn tại chung. Cuối cùng, từ sự nhầm lẫn 2 vấn đề trên, dẫn đến khiếm khuyết thứ ba,

Logic biện chứng hiện nay chƣa thể hình thức hóa, ký hiệu hóa đƣợc.
Vấn đề thứ bảy: hiện nay, trong khoa học về Logic, Logic học sáng tạo chƣa đƣợc xây
dựng và phát triển bởi hầu nhƣ các nhà tƣ tƣởng, lý luận đều cho rằng: không thể tồn tại cái
gọi là “Logic sáng tạo” bởi những thứ mà con ngƣời phát minh, sáng chế không thể cơng thức
hóa đƣợc, “Khơng có Logic của phát minh”. Ngƣời viết khẳng định, Logic sáng tạo là tồn tại
hiện thực. Ở cuốn sách này, ngƣời viết sẽ trình bày những nội dung cơ bản của Logic học
sáng tạo.
Trên đây là 7 vấn đề mà Tƣ duy học đặt ra liên quan đến những vấn đề Logic của tƣ
duy.
2.6. Đối tƣợng, phƣơng pháp nghiên cứu và những luận điểm xuất phát của Tƣ
duy học
Tƣ duy học là khoa học nghiên cứu về cấu trúc, bản chất, quy luật của tƣ duy cá nhân
xét ở đầy đủ các phƣơng diện và mối quan hệ, nhằm hình thành những nguyên tắc, phƣơng
pháp tƣ duy hiệu quả, tối ƣu hóa hoạt động tƣ duy.
Đối tƣợng nghiên cứu của Tƣ duy học chính là bản chât, quy luật của tƣ duy cá nhân
đƣợc xem xét ở đầy đủ các phƣơng diện và mối quan hệ.
Các phƣơng diện và mối quan hệ của Tƣ duy và gắn với các chủ đề nghiên cứu nhƣ:
1.Tƣ duy là gì, cấu trúc, phân loại của Tƣ duy, các hình thức phổ biến của Tƣ duy?
2.Tƣ duy trong các mối quan hệ: với tồn tại, với Ý thức, Tâm lý; quan hệ giữa Tƣ duy cá
nhân với Tƣ duy tập thể, xã hội, nhân loại, vũ trụ.
3.Cơ sở vật chất của tƣ duy: nghiên cứu về sinh lý học thần kinh cao cấp.
4.Cách thức tƣ duy xâm nhập vào hiện thực.
5.Sự chuyển hóa tƣ tƣởng thành hiện thực – vấn đề chân lý.
6.Tƣ tƣởng là gì? Phân loại và giá trị của tƣ tƣởng?
22


×