Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

Nhung tam guong anh hung dan toc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (606.29 KB, 49 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>KIM ĐỒNG Cánh chim đầu đàn.... Ngày 15-5-1941 Đảng trao cho Đoàn chính thức thành lập Đội Nhi dồng cứu quốc (tiền thân của Đội TNTP) tại thôn Nà Mạ, xã Trường Hà (nay là Xuân Hòa), huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Người đội viên đầu tiên chính là Kim Đồng. Tên thật của Kim Đồng là Nông Văn Dền, dân tộc Nùng, ở thôn Nà Mạ, xã Trường Hà, huyện Hà Quảng, tỉnh Cao Bằng. Như hoàn cảnh thiếu niên ở Nà Mạ lúc đó, nhà Kim Đồng cũng thật là nghèo. Còn nhớ ngay từ bé, đặc biệt ở tuổi lên 10, Kim Đồng đã giúp mẹ làm đủ việc trong nhà và ở rừng, ở rẫy. Kim Đồng thả trâu, kiếm củi, bẻ ngô, len lỏi khắp nơi, có ngày từ mờ sương đến tối mịt. Sống ở quê hương cách mạng, chính thôn Nà Mạ là một trong những nơi được giác ngộ cách mạng trước tiên., do đó Kim Đồng đã được lớn lên ở trong không khí khởi nguồn ấy. Nhận công tác nào cậu bé chưa đến 15 tuổi ấy cũng hoàn thành nhiệm vụ. Kim Đồng vừa gan dạ vừa mưu trí, luôn có sáng kiến bảo vệ tài liệu mật qua nhiều hình thức ít ai có thể ngờ đến, như giấu trong ống rỗng của cần câu. Gặp lính dọa khám xét, Kim Đồng bình tĩnh như không. Khi phải ngồi họp cho cán bộ, Kim Đồng vờ ngồi câu bên bờ suối, có dây ròng từ suối lên nhà họp, hễ có động là.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> rung dây để chuông trong nhà kêu lên báo tin ngay cho cán bộ kịp giải tán đi lối khác. Có lần dẫn cán bộ băng rừng, bất ngờ gặp lính đi tuần, Kim Đồng ra hiệu cho cán bộ lẩn tránh, còn mình cứ thản nhiên tới gặp địch, vờ chuyện trò, hỏi han bâng quơ. Lần cuối cùng canh gác để cán bộ họp bất thường, Kim Đồng thấy lính bao vây, chỉ còn cách nhờ bạn lẻn lối khác về báo cấp tốc, còn mình đánh động để lính chú ý tới mình thôi. Quả nhiên lính bị lừa. Tên lính gần nhất đã thẳng tay nhằm bắn em. Tiếng súng nổ vang, cũng là tiếng báo động cho các cán bộ đang họp thoát nạn. Nhưng chính Kim Đồng thì gục ngã bên bờ suối, ở tuổi 15. Hôm ấy là ngày 15/2/1943. Người đội viên đầu tiên đã nêu một tấm gương vì cách mạng quên mình, hy sinh trong khi làm nhiệm vụ bảo vệ cán bộ. Đó là tấm gương sáng chói mở đầu cho nhiều gương cao quý khác trong đội ngũ đội viên đội TNTP..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Tiểu sử:. KƠ-PA KƠ-LƠNG. “15 tuổi đã đánh 30 trận, diệt 88 tên địch...” KƠ-PA KƠ-LƠNG sinh ngày 19/8/1948, người dân tộc Gia Rai, Tây Nguyên. Căm thù Mỹ-Diệm giết cha trong cuộc nổi dậy của dân làng, KơLơng quyết chí trả thù. Mới 13 tuổi, Kơ-Lơng xin vào du kích nhưng không được, anh tìm cách đánh giặc của riêng mình. Sau đó nhờ giết được nhiều tên giặc cho nên anh được vào du kích năm 14 tuổi theo đơn xin, và sau đó được làm quân giải phóng. Năm 15 tuổi, Kơ-Lơng đã đánh 30 trận, giật 12 quả mìn, lật nhào 8 xe cơ giới, diệt 88 tên địch, trong đó có 4 tên xâm lược Mỹ. KƠ-PA KƠ-LƠNG đã được tặng danh hiệu Anh hùng quân đội..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Tiểu sử:. BẾ VĂN ĐÀN. Bế Văn Đàn là người dân tộc Tày, quê ở huyện Phục Hoan, Cao Bằng. Bố chết Đàn ở với mẹ, nhà nghèo khó anh đã biết giúp đỡ mẹ nhưng ước mơ đi bộ đội đánh giặc vẫn hấp dẫn anh và anh đã trốn nhà đi bộ đội. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, anh đã anh dũng lấy thân mình làm giá súng cho đồng đội tấn công tiêu diệt địch và anh đã anh dũng hy sinh. Chuyện Bế Văn Đàn lấy thân mình làm giá súng đã lan ra khắp chiến dịch và đã cổ vũ mạnh mẽ tinh thần chiến đấu của bộ đội ta..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Thần thoại mới: Cù Chính Lan. Ngày ấy, ở một làng quê miền Trung đói khổ... Có một cậu bé con nhà nghèo, quanh năm phải làm thuê kiếm sống. Cách mạng Tháng Tám thành công nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời đã giải phóng cho gia đình cậu bé cùng bao nhiêu lớp người nghèo khó... Mở đầu cuộc đời Cù Chính Lan cô đọng và giản dị giống như một nhân vật hiền lành trong câu chuyện cổ tích. Cậu bé nghèo hoan hỉ đón cách mạng và cuộc đời mới với tất cả sự say mê, hồn nhiên, sôi nổi của tuổi 16. Cù Chính Lan xin vào Đoàn Thanh niên Cứu quốc và đêm đêm tới lớp bình dân học chữ. Dường như bao sức lực, bao mơ ước, Cù Chính Lan dồn hết cho cuộc sống mới, không một giây phút ngập ngừng. Kháng chiến bùng nổ, anh xung phong vào bộ đội và được nhận làm liên lạc cho khu đội, liên khu Bốn. Năm đầu - anh là chiến sĩ thi đua xuất sắc. Năm 1948 - chuyển sang đơn vị chiến đấu, là tiểu đội trưởng tiểu đội liên lạc, lập công xuất sắc - anh được kết nạp vào Đảng Cộng sản Việt Nam. Cũng năm này, ạnh đã nổi tiếng khắp Đại đoàn 304, với danh hiệu vẻ vang, mang vẻ thần thoại: "Anh hùng tay không đánh giặc" - Và được tặng thưởng huân chương chiến công hạng nhì..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Đấy là vào một ngày đi công tác độc lập. Cù Chính Lan bỗng gặp một đơn vị đang bố trí chuẩn bị đánh địch. Cũng vừa lúc đó địch tiến vào trận địa, anh đã xin được cùng đơn vị bạn chiến đấu. Vũ khí phải tự túc, sẵn con dao trong tay, anh khôn khéo nắm thời cơ và dũng mãnh lao đuổi theo một tên giặc vác tiểu liên. Vừa đuổi, anh vừa la hét và vung lưỡi dao lấp loáng. Tên lính địch hoảng hốt, chưa biết xử trí ra sao, đã bị anh giật mất súng, đành ngoan ngoãn giơ tay lên đầu. ở trận này đã thấy vóc dáng một Cù Chính Lan bất tử, với khuôn mặt hăm hở, quyết liệt, với bước chân rắn chắc, và bao trùm là ý chí tiến công của cả thế hệ trẻ. Anh - ngay trận đầu đã tiêu biểu cho lối đánh của cả dân tộc. Tiến công - lấy ít đánh nhiều, lấy thô sơ thắng hiện đại... Nhớ tới Cù Chính Lan là nhớ tới một chiến sĩ trẻ, áo trấn thủ, giày vải đang sải những bước dài dồn đuổi xe tăng địch. Dấu chân người chiến sĩ đè lên xích xe tang không bao giờ phai mờ trong lịch sử đánh giấc của nhân dân ta. Hình ảnh ấy đã mang vòng hào quang của thần thoại. Giống như Thánh Gióng nhổ lũy tre làng lên mà đánh đuổi tan tác giặc nhà Ân. Giống như Thạch Sanh với cái rìu của người tiều phu đã chém đứt đầu xà tinh hung dữ... Bước chân thần thoại ấy đã được rèn đúc từ lòng căm thù, đã được chuẩn bị từ những ngày đi làm thuê cuốc mướn, đã được báo hiệu bằng nắm tay rắn chắc, thề trước cờ Đảng. Con đường số 6 hiện ra trong tưởng tượng của chúng ta vào một ngày mùa đông năm 1951. Và Cù Chính Lan với cái áo trấn thủ màu nâu đã bạc trắng (di vật duy nhất để tại Viện bảọ tàng quân đội) đang bố trí tiểu đội súng máy của mình. Bọn địch muốn tìm mọi cách chiếm đoạn đường huyết mạch của ta. Tiểu đội súng máy của anh đã diệt 2 đại đội địch. Lúc ấy viện binh địch tới cứu đồng bọn đang bị truy kích. Chiếc xe tăng đi đầu, gắn súng máy, cứ lừng lững tiến, xả đạn vào quân ta. Súng máy của ta bắn trả nhưng không ăn thua gì. Thế là cuộc truy kích của ta bị chặn lại. Cù Chính Lan buông súng, tháo chốt lựu đạn, lao về phía xe tăng, hô lớn: - Anh em ơi! Phải mần bằng được chiếc xe tăng ni! Lựu đạn nổ ầm trong vòng xích xe tăng, nhưng nó ngạo nghèo xô tới, gầm rú điên cuồng và nhả đạn như mưa. Cù Chính Lan nhìn đồng đội lần lượt ngã xuống, tim anh như thắt lại. Trong khoảnh khắc anh mở quả lựu đạn thả lọt thỏm qua cửa tròn. Nhưng ngay lập tức một bàn tay lông lá đã vươn ra ném trả lại quả lựu đạn. Lựu đạn nổ, ngay lập tức hất Cù Chính Lan xuống đất....

<span class='text_page_counter'>(7)</span> Trận đánh có thể đến đây là ngừng đối với anh. Không có thể chê trách anh điều gì cả. Và xem kìa, chiếc xe tăng, vừa bắn loạn xạ, vừa chạy xa dần. Cũng giống như Phan Đình Giót khi đã bị đạn gục xuống, có thể chỉ nằm đợi cứu thương đưa về tuyến sau. Đấy chính là khoảnh khắc có thể tạo ra hoặc không tạo ra người anh hùng. Khoảnh khắc đó người chiến sĩ tự vượt lên bản thân - một cá thể đã luôn luôn đứng ở hàng đầu - và sáng lên như một tia chớp. Người anh hùng có lẽ chính là người lúc bình thường đã chọn một chỗ đứng tiên tiến nhất, một suy nghĩ tích cực nhất, và trong giây phút thử thách, có thể rất ngẫu nhiên, họ bỗng bay vút lên... Giây phút nằm trên mặt đất, khắp người đau ê ẩm, tai ù ù. Cù Chính Lan nửa mê nửa tỉnh. Vừa tỉnh hẳn, mở mắt, anh đã nhỏm dậy và thấy ngay chiếc xe tăng vừa nổ súng ùng ục vừa sắp khuất sau đoạn đường vòng. Anh bật ngay dậy, cầm quả lựu đạn trong tay và tìm đường tắt đón đầu xe tăng. Không có ai ghi lại quãng đường đó. Quãng đường mà anh bộ đội với quả lựu đạn trong tay quyết định băng tới đón đầu trái núi thép. Trái núi di động gắn khẩu súng máy điên loạn kia chỉ cần một viên đạn ghim trúng anh. Không hiểu sao, mỗi lúc tưởng tượng đến quãng đường đuổi đánh xe tăng của Cù Chính Lan tôi lại nhớ tới một cảnh trong phim Bài ca người Lính. Đó là chiếc xe tăng phát xít Đức rượt theo anh chiến sĩ. Hồng quân trẻ tuổi. Bọn lính xe tăng phát xít muốn nghiến nát anh Hồng quân dưới bánh xích sắt. Cuối cùng, chiếc xe tăng cũng bị anh bắn cháy. Nhưng ở đây có hoàn cảnh thật khác nhau, mục đích cũng khác nhau. Cù Chính Lan chủ động đuổi đánh. Và chính lý tưởng đó mang tính thần thoại. Nó bất ngờ cả với kẻ địch vốn ỷ vào vũ khí. Tin chắc đã diệt xong anh chiến sĩ (hoặc chí ít cũng bẻ gãy ý muốn săn đuổi của anh) bọn lính xe tăng chừng đang khoan khoái sau phút giấy căng thẳng. Chúng đâu ngờ chính giây phút đó, Cù Chính Lan đã nhảy bám trên xe và đang bò lần đến chiếc cửa tròn mở rộng. Quả lựu đạn xì khói trên tay anh đến thời kỳ khắc chín muồi nhất, anh nhoai người đưa nó vào trong lỗ tròn. Một bàn tay rắn chắc, nắm lấy tay anh đ ̣nh đẩy ra. Quả lựu đạn đã nóng bừng. Mỗi tích tắc khắc nghiệt và thử thách. Lựu đạn đã xì khói xanh. Bàn tay lông lá bỗng mềm oặt ra. Chúng rú lên..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Cù Chính Lan vừa kịp rút tay ra, người anh đã bay bổng dập xuống một bụi cây lúp xúp bên đường. Anh chỉ kịp nhìn thấy chiếc xe tăng chìm trong khói đen. Nhớ tới Cù Chính lan là nhớ tới người anh hùng đuổi đánh và diệt xe tăng địch. Nhưng những trang thần thoại về anh chưa hết. Và mỗi dòng chữ trong đó đều thấm đượm tinh thần: sẵn sàng chết cho tự do và độc lập của Tổ quốc. Gặp địch là đánh. Tay không đuổi địch cướp súng. Dẫu địch có xe tăng cũng không cho chúng chạy thoát. Sau này trận Gô Tô, người "anh hùng đánh xe tăng" đã viết xong cuộc đời thần thoại của mình. Gô Tô là cứ điểm phòng ngự kiên cố, có năm lớp dây thép gai bao quanh. Gãy một cánh tay, anh vẫn tiếp tục ôm bộc phá lên phá tiếp. Lô cốt thứ nhất bị diệt, lao lên lô cốt thứ hai, cánh tay thứ hai của anh lại bị đạn lớn dập nát. Cù Chính Lan vẫn tiếp tục chiến đấu trong những giây phút gay go nhất. Khi lô cốt thứ hai bị phá tung thì mảnh đại bác địch lại tiện đứt một chân của Lan. Anh đã trút hơi thở cuối cùng trên tay đồng đội trong niềm kính phục yêu mến của mọi người. Thần thoại về anh bắt đầu bằng những dòng giản dị. Ngày xửa ngày xưa, ở miền đất kia, có một cậu bé nhà nghèo, phải đi làm thuê để kiếm ăn lần hồi... Anh băng băng sải những bước chân dài, phía trước chiếc xe tăng địch cuống cuồng bỏ chạy. Khuôn mặt trẻ trung hồng đỏ và đẫm mồ hôi. Tấm áo trấn thủ màu nâu đã sờn, với những ô quả trám đơn giản, như đang bay lên trên con đường đỏ... Bay lên, và cao lớn, bước chân của anh, vóc dáng của anh. Bay lên là sâu đậm, vóc dáng anh trong ý tưởng của mỗi con người tuổi trẻ. Bay bổng và diệu kỳ như mùa xuân tuổi trẻ - Vĩnh viễn..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> Tiểu sử:. HOÀNG VĂN THỤ. Hoàng Văn Thụ sinh năm 1906 tại Nhân Lý, huyện Văn Uyên, Lạng Sơn. Là người dân tộc Tày. Ngay từ nhỏ anh rất cần cù, thật thà và rất thương người. Có đức tính tốt lại học giỏi nên anh được mọi người yêu mến. Cuối năm 1927 anh sang Trung Quốc tìm đường Cách Mạng và sau đó được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương. Tháng 8 /1943 trên đường đi dự họp anh đã bị địch bắt, chúng đã dùng đủ cực hình để tra tấn, dụ dỗ nhưng không khai thác được gì ở anh. Một sáng mùa hè năm 1944 địch đưa anh ra pháp trường xử bắn. Năm ấy anh tròn 38 tuổi..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> Mắt sáng - Hồng Quang Tương lai mở ra trước mắt chàng trai những viễn cảnh đầy hứa hẹn khi anh đỗ xuất sắc vào trường Đại học Luật Hà Nội. Nhiều gia đình tư sản lớn ở Hà Nội rắp ranh "lôi kéo" chàng trai cao lớn, thông minh, đầy triển vọng này. Họ dành cho anh những chỗ ở, những tiện nghi và rất nhiều hứa hẹn cả sự săn sóc ân cần của những cô con gái mới lớn đến tuổi cặp kê. Một kết quả thông minh thường có thể tưởng tượng được: Chàng sinh viên khoa Luật cặp kê với ái nữ của một nhà tư sản nổi tiếng đất thủ đô. Một đám cưới. Cặp vợ chồng, những đứa con kháu khỉnh, một vila diễm lệ và thơ mộng. Cuộc đời khép lại trong cánh cổng sắt và những vòng tay tin yêu của vợ và con cái. Cặp kính cận cứ dày thêm và "ngài luật sư Hồng Quang" ngày càng không nhìn thấy rõ điều gì khác ngài bản thân và gia đình. Như con chim được nhất trong lồng son, chỉ nhìn thấy gạo trắng, nước trong, chuối ngọt và bóng mình trong gương chứ không thấy ở ngoài xa kia là bầu trời cao vời vợi, là nắng bụi đời thường, là cây xanh mọc rễ từ đất rừng ngạo nghễ... Nhưng Hồng Quang đã cảm thấy cuộc sống "công chức" như bố anh có cái gì đó bất ổn. Đó là sự ứ đọng của mảnh ao tù. Dường như còn có điểm gì đó ở bên ngoài cuộc đời bố mẹ anh đang sống và nuôi anh ăn học. Và may thay, Hồng Quang qua tuổi thơ ấu trúng dịp hoạt động của phong trào Mặt trận dân chủ Đông Dương. Sách báo Mác-Xít còn ít nơi, và không hệ thống, đã đến với cậu học trò đang học năm cuối cùng của ban tú tài. Hồng Quang nghỉ học hàng tháng liền để đi tìm đọc sách báo Mác-xít ở các quán phát hành sách báo của Đảng. Những cuốn sách như "Tìm hiểu về chủ nghĩa cộng sản". "A.B.C. của chủ nghĩa Mác-xít"... đã thu hút chàng trai sắp bước vào đời. Tầm mắt của Hồng Quang được rộng mở tới một cõi trời âu, không phải là đất nước của bọn xâm lược Pháp, ở đó có giai cấp công nhân lớn mạnh, có những người trí thức sớm giác ngộ. ở đó "bóng ma" chủ nghĩa cộng sản làm khiếp vía bọn bóc lột, và gieo vào tâm hồn những người lao động biết bao mơ ước. ở đó... ở đó... Còn ở đây, Hồng Quang đã lờ mờ cảm thấy kẻ thù của mình và của cả dân tộc. Anh càng khao khát hiểu biết để tìm một hướng đi cho mình. Với trí thông minh chỉ ít ngày ôn luyện lại, anh đã thi đỗ tú tài với điểm cao nhất. Rồi trường Đại học Luật Hà Nội đón anh vào. Kẻ thù mong đào tạo được thêm một trí thức tay sai mới.. Chúng biết đâu, anh có mục đích học khác hẳn bọn con cái nhà giàu, chỉ cốt kiếm chốn "vinh thân, phì gia"..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Tự tìm tìm tòi học tập và tìm hiểu sách báo của Đảng, rồi đoàn thể đã dang tay đón anh: Hồng Quang được giới thiệu đến một lớp huấn luyện ngắn ngày. ở đây anh đã hiểu biết rõ hơn về cuộc đấu tranh xã hội, về con đường cần đi tới của cách mạng Việt Nam. Có thể nói chân lý cách mạng được Hồng Quang đón nhận như đón nhận mối tình đầu. Anh cảm thấy bầu máu mình sôi sục. Anh thấy mình cần phải tranh đấu và có thể tranh đấu. Và thế là luôn luôn có những cuộc tranh luận giữa anh và bọn giáo sư phản động trong trường. Một hôm tên giáo sư người Pháp đang nói về "công lao khai hóa" của bọn thực dân trên đất nước ta. Quang đứng dậy ngắt lời hắn. Anh bình thản nhưng kiên quyết bày tỏ chính kiến của mình "Tôi muốn ông đi vào nội dung giảng dạy, còn chuyện đó nếu có thì giờ còn phải tranh luận nhiều. Chúng tôi không thể thừa nhận được những ý kiến của ông..." Tên thực dân cáo già trố mắt nhìn người sinh viên năm thứ nhất. Anh ta đứng đó, vóc dáng mạnh khỏe và một đôi mắt, (tuy phải đeo kính cận), ánh lên những tia sáng kỳ lạ; ánh mắt đó thoáng một nét giễu cợt, thách thức. Vũ Hồng Quang nhận thấy nét hằn học biểu hiện trên khuôn mặt đội lốt giáo sư kia. Và con đường anh đã chọn khó có thể hòa hợp với chỗ ngồi của người sinh Viên trường Luật - thứ luật pháp bênh vực cho kẻ bóc lột và quân xâm lược. Quả nhiên anh bị đuổi. Từ đấy anh hiến tất cả tinh thần và nghị lực tuổi thanh niên cho sự nghiệp cách mạng. Dẫu thời gian đó chỉ có hơn ba năm. Hơn ba năm hai lần vào tù vì "bị tình nghi chính trị" . Từ một người đấu tranh tự phát, từ lòng yêu nước, dần dần Hồng Quang đã trở thành người cộng sản. Nhất là sau 10 tháng bị giam giữ ở Hỏa Lò - được các đồng chí cách mạng lão thành giúp đỡ - Hồng Quang đã hiểu rõ hơn về Liên Xô, quê hương cách mạng vô sản, giác ngộ sâu sắc về lý tưởng Đảng. Anh đã viết trong "Bài ca phản đế" những lời kêu gọi thống thiết: Đảng cộng sản nêu cờ phục quốc Kêu gọi ai yêu nước thương nòi Nào ai khinh kiếp tôi đòi Nào ai muốn sống cuộc đời tự do. Mau đứng dậy dưới cờ phản đế Nghìn tay giơ như thể một tay. Đoàn kết đấu tranh để giành độc lập, giành quyền làm chủ cho công nông theo gương nước Nga Xô-viết Đuổi thằng Nhật diệt thằng Tây Tham quan bạo chúa ra tay tiêu trừ.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> Bao nhà máy quân thù thu lấy Đem giao cho hết thảy thợ thuyền Rừng của Tây, đất đồn điền Tịch thu giao lại toàn quyền nông dân Bao thuế má nợ'nần xóa hết Khuếch thu ở các nhà giàu Lập Xô-Viết tự dân bầu Công nông giai cấp đứng đầu liên bang. Từ đây Hồng Quang bước vào trường đại học cách mạng. ở đó tầm mắt anh ngày càng rộng mở, sức lực anh ngày càng dồi dào, công tác anh ngày càng tiến bộ... Nhưng kẻ thù một lần nữa lại bắt Hồng Quang với đầy đủ chứng cớ về công việc anh làm: Liên lạc cho cách mạng trong tỉnh Hưng Yên... Bọn giặc hí hửng lắm, chúng tổ chức tiệc mừng chè chén với nhau. Tên chánh mật thám Pháp đại gian ác ở Hưng Yên tuyên bố quả quyết rằng hắn đã nắm trong tay tất cả cơ sở của cộng sản trong tỉnh. Quả là Hồng Quang nắm vững những bí mật ấy. Khi bị bắt anh còn đang giữ bức thư của đồng chí Bí thư Xứ ủy Bắc Kỳ trong đó Quang được giao trách nhiệm liên lạc với một số cán bộ phụ trách công tác của Xứ A3o tưởng của chúng đã bị tan vỡ. Tra tấn, mua chuộc, dùng cả sự tác động tình cảm gia đình... tất cả đều bất lực trước ý chí kiên cường và tinh thần bất khuất của Hồng Quang. Người thanh niên cao lớn, sôi động rất chịu khó tập luyện và khá thành thạo môn quyền Anh, với những bắp thịt cuồn cuộn, tâm hồn đầy súc cảm và mơ ước, giờ đây chỉ còn là một thể xác gầy yếu, lở loét bị đày ải trong lao tù. Giờ phút cuối cùng, Hồng Quang không còn nhìn thấy bằng đôi mắt thường nữa. Anh không được nhìn thấy gương mặt của bố, mẹ và của người vợ thân yêu. Anh không được nhìn thấy bạn bè đồng chí. Nhưng đôi mắt tâm hồn anh vẫn trong sáng, vẫn nhìn xa thấy một tương lai của dân tộc, như lời thơ sôi động của anh: Giờ hiện tại là giờ giải phóng Mau đứng lên nòi giống Lạc Long Đứng lên theo ngọn cờ Hồng Dựng xây thê giới đại đồng tương lai! Đôi mắt người trí thức tuổi trẻ vẫn sáng ngời ý chí cách mạng, vẫn sáng lên niềm tin vào tương lai, và một tinh thần trách nhiệm cao. "Mình thấy đã đến lúc phải đem hết sức ra rồi, nếu như chúng ta có một phút nào đó xao lãng nhiệm vụ hay nghĩ đến bản thân mình nhiều quá, chính là lúc.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> đó ta có tội với nhân dân". Đó là lời tâm sự khi Hồng Quang chưa phải là người trong Đảng, nhưng nó sáng người chất cộng sản. Đấy là tầm nhìn được Đảng soi sáng, dìu dắt và Hồng Quang đã giữ được trọn đời mình. Phạm Đức.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> LA VĂN CẦU CHẶT ĐỨT CÁNH TAY ĐÃ GÃY NÁT, ÔM BỘC PHÁ XÔNG LÊN.... La Văn Cầu, người dân tộc Tày, sinh năm 1932 tại xã Quang Thành, huyện Trùng Khánh, tỉnh Cao Bằng. Khi được tuyên dương anh hùng anh là tiểu đội trưởng bộ binh thuộc đại đội 671, tiểu đoàn 73, đại đoàn 312. Anh sinh ra và lớn lên trong một gia đình vốn có mối thù sâu sắc với đế quốc, phong kiến. Khi còn bé, Cầu chứng kiến cái chết uất ức của cha, hậu quả của những trận đòn tra tấn đánh đập dã man, kiệt sức rồi qua đời. Cuộc đời lam lũ cực khổ như đè nặng lên đôi vai nhỏ bé của Cầu từ thuở thiếu thời. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công, được nhiều cán bộ tuyên truyền giác ngộ, anh càng hiểu rõ nguồn gốc sự cực khổ của người nghèo và người dân mất nước, nên hăng hái tham gia vào công cuộc kháng chiến ở quê hương. Với khát khao được cầm súng giết giặc trả thù và giải phóng đất nước, La Văn Cầu mới 16 tuổi đã khai tăng lên 18 tuổi để được vào bộ đội. Lúc đó là năm 1948, thời kỳ đầu của cuộc kháng Pháp vô cùng gian khổ, thiếu thốn. Nhưng niềm vui và ý chí đã giúp anh vượt qua khó khăn, vươn lên rèn luyện thành một chiến sĩ gương mẫu, giàu lòng nhân ái, nên được anh em đồng đội rất quí mến. Trong hoàn cảnh phải tự lực cánh sinh, đương đầu với những thử thách chông gai trên chiến trường rừng núi Bắc bộ, Cầu đã tỏ rõ bản lĩnh phẩm chất của người lính Cụ Hồ, kiên quyết vượt qua mọi khó khăn, chấp hành nghiêm mệnh lệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Anh tham gia chiến đấu 29 trận trong các cương vị chiến sĩ và chỉ huy..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Trong trận phục kích ở Bông Lau năm 1949, anh xung phong vào tổ xung kích đột phá trận đánh. Khi nổ súng, có lệnh xung phong, Cầu dũng cảm xông lên, phát hiện một tên Pháp ngồi trên xe tăng và hạ gục nó bằng một phát đạn, rồi lao lên xe cướp súng. Ngoảnh lại sau, thấy 3 tên Pháp chạy tới, anh liền dùng khẩu súng vừa cướp được, bắn chết cả 3 tên. Quyết không để bọn giặc chạy thoát, anh nhảy xuống xe, tiếp tục truy lùng diệt thêm 6 tên nữa. Trong chiến dịch Biên Giới năm 1950, quân ta đánh đồn Đông Khê lần thứ nhất, Cầu bị đau chân vẫn kiên quyết xin đi chiến đấu. Trận đánh gặp khó khăn, đơn vị bạn bị thương vong nhiều, Cầu động viên anh em trong tiểu đội (hầu hết là tân binh), băng bó và cõng hết thương binh về nơi an toàn. Trên đường rút về căn cứ, địch nhảy dù phản kích, mặc dù chân đau và đuối sức, anh vẫn vác khẩu pháo 12 ly 7 thu được của địch, về tới đơn vị. Trận công đồn Đông Khê lần thứ hai (1950), La Văn Cầu được phân công chỉ huy tổ bộc phá làm nhiệm vụ phá hàng rào và đánh lô cốt đầu cầu (cửa mở trận đánh). Phá được hai hàng rào thì hai đồng chí xung kích bị thương. Địch tập trung hỏa lực dữ dội và cửa mở, phá hủy mất của ta một số bộc phá ống. Cầu nghĩ ngay phải dành bộc phá đánh lô cốt, nên động viên anh em trong tổ gỡ mìn của địch và dũng cảm xông lên dùng mìn phá nốt hai hàng rào cuối cùng. Song tình huống diễn ra càng phức tạp hơn. Khi tiến đánh lô cốt thì anh em đã bị thương tất cả, chỉ còn lại một mình Cầu. Không ngần ngại, Cầu ôm bộc phá xông tới lô cốt đầu cầu quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ “đột phá khẩu” của tổ. Nhưng khi vượt rào đến được giao thông hào thứ ba thì anh bị thương, ngất đi. Tỉnh dậy, thấy cánh tay phải của mình bị địch bắn gãy nát, nghĩ đến trọng trách chưa hoàn thành, anh quay trở lại khẩn thiết yêu cầu đồng đội chặt đứt cánh tay cho khỏi vướng víu, rồi tiếp tục xông lên đánh tan lô cốt đầu cầu, mở đường cho đơn vị xung phong diêt gọn đồn địch, kết thúc thắng lợi trận Đông Khê. Tấm gương rực sáng của La Văn Cầu đã cổ vũ phong trào thi đua giết giặc lập công trong toàn đại đoàn và trở thành lá cờ đầu trong phong trào thi đua sử dụng bộc phá công đồn, một hình thức chiến thuật mới của quân đội ta mở ra từ chiến dịch Biên Giới năm 1950. La Văn Cầu được tặng thưởng một huân chương Quân công hạng ba. Trong đại hội liên hoan Anh hùng - Chiến sĩ thi đua toàn quốc lần thứ nhất năm 1952, anh được Chính phủ và Hồ Chủ Tịch tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhất. Ngày 19-5-1952, La Văn Cầu được Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân..

<span class='text_page_counter'>(16)</span> Đại tá La Văn Cầu đã nghỉ hưu, trở về với đời thường, nhưng phẩm chất của người anh hùng mãi mãi là tấm gương sáng cho các thế hệ trẻ Việt Nam..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> LÊ ĐÌNH CHINH. Lê Đình Chinh (1960-1978) là chiến sĩ Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội Biên phòng) đầu tiên hi sinh trong chiến tranh biên giới Việt-Trung 1978-1979, tại mặt trận huyện Cao Lộc tỉnh Lạng Sơn trong khi thi hành nhiệm vụ ngăn cản quân Trung Quốctràn qua biên giới Việt Nam. Tên tuổi của Lê Đình Chinh trở thành một trong những biểu tượng anh hùng của thế hệ thanh niên Việt Nam trưởng thành trong khói lửa chiến tranh vệ quốc. Tiểu sử Lê Đình Chinh sinh năm 1960, quê ở xã Hoằng Quang, huyện Hoằng Hóa, trú quán tại nông trường Sông Âm, huyện Ngọc Lặc, tỉnh Thanh Hóa. Lê Đình Chinh nhập ngũ ngày 16/2/1975 khi đó anh 15 tuổi. Sau thời gian huấn luyện, Lê Đình Chinh được biên chế vào đại đội 6, tiểu đoàn 2, trung đoàn 12, Bộ tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> phòng). Anh từng tham gia chiến đấu nhiều trận với quân Khmer Đỏ trong chiến tranh biên giới Tây Nam, lập được một số công trạng. Ngày 25 tháng 8 năm 1978, quân xâm lược Trung Quốc vượt biên giới sang Việt Nam hành hung cán bộ, phụ nữ và nhân dân địa phương. Lê Đình Chinh đã đánh trả, bằng tay không đánh gục hàng chục kẻ địch nhưng cuối cùng đã hy sinh khi mới 18 tuổi. Vì thành tích này anh được nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. An táng tại quê nhà Ngày 05/01/2013, Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng Thanh Hóa và gia đình, cùng đại diện Ban liên lạc Trung đoàn 12 tổ chức cất bốc, đưa hài cốt anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh từ Nghĩa trang liệt sĩ huyện Cao Lộc, tỉnh Lạng Sơn về quê nhà tại Thanh Hóa. Sáng ngày 06/01/2013 Bộ Chỉ huy Bộ đội biên phòng Thanh Hóa và UBND thành phố Thanh Hóa tổ chức lễ an táng hài cốt của anh hùng liệt sĩ Lê Đình Chinh tại ghĩa trang liệt sĩ Hàm Rồng, TP.Thanh Hóa. Truy tặng Ngày 30 tháng 8 năm 1978, Lê Đình Chinh được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Tên anh được nhiều địa phương trên đất nước Việt Nam đặt tên đường, trường học, trung học, nông trường. Một số sáng tác viết về Lê Đình Chinh có thể kể đến như bài hát Chúng tôi là đồng đội của Lê Đình Chinh..

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Tiểu sử:. LÊ HỒNG PHONG. Lê Hồng Phong (tên thật là Lê Huy Doãn) sinh năm 1902 tại làng Thông Lạng, xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Nhà nghèo nhưng vẫn cố cho anh ăn học và anh sớm có tinh thần yêu nước. Tháng 1/1924 anh sang Trung Quốc tìm đường cứu nước. Anh gia nhập Việt Nam thanh niên cách mạng đồng chí hội và là người học trò xuất sắc của Bác Hồ. Ngày 29 /9 /1939 anh bị địch bắt lần thứ 2, bị đày ra Côn đảo, anh cùng đồng đội đấu tranh. Anh bệnh nặng mất ngày 6 /9 / 1942..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Trận đánh tuổi 19. Ở tuổi trẻ trung, phơi phới mười tám, đôi mươi, nhưng cũng như bao đồng đội, Hồng Gấm chưa có dịp chú ý tới mùa xuân đã về. Mùa xuân năm 1970 công việc cách mạng thật bề bộn, khó khăn. Sau Mậu Thân - 1968, dường như ta lại đang chuẩn bị những trận đánh lớn hơn. Công việc của người chiến sĩ giao liên không lúc nào hết. Đối với Gấm, công việc càng nhiều hơn. Lúc nào cần, ở đâu cần, việc gì cần, cô đều xung phong đảm nhận. Làm giao liên ở xã cũng như ở huyện, làm xã đội phó cũng như chỉ huy trung đội du kích vành đai, tiếp tế đạn dược cho tỉnh hay vận chuyển lương thực cho khu, phục kích quân Mỹ hay diệt trừ một ổ ác ôn, tổ chức võ trang tuyên truyền hay vận động quần chúng... việc nào Gấm cũng hoàn thành tất và còn vận động được nhiều người cùng làm. Chuyến đi này cũng bình thường như hàng trăm chuyến đi khác, ngay sát căn cứ giặc. Khắp nơi là giặc, nhưng cũng là ta xen kẽ..

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Đột nhiên có tiếng động rầm rầm. Gấm biết đấy là máy bay trực thăng địch đi trinh sát. Tất cả con người Gấm như biến đổi. Đang là cô em gái dịu dàng, nhỏ nhẹ, bỗng thành một người chỉ huy quyết đoán. Gấm giục hai bạn, chạy về phía đám vườn xanh xanh phía xa. Còn Gấm thong thả bước về hướng ngược lại. Bãi trống quá, rõ ràng bọn giặc đã nhìn rõ và đang ào tới định đổ quân vây bắt cả ba. Thấy mất hút hai người, cả hai máy bay vòng về phía Gấm. Lúc này Gấm rảo bước. Máy bay địch vội rượt theo. Chắc là chúng muốn bắt sống chị đây. Chị nhớ tới lần đầu diệt Mỹ. Lúc ấy các anh chị chưa tin cô bé nhỏ bé như Gấm. Chưa đủ sức mang súng trường lại có thể vào du kích đánh giặc. Gấm liền rủ mấy bạn gái cùng lứa bí mật đi kiếm mìn, lựu đạn, pháo lép và học lỏm cách gài lựu đạn, đánh mìn. Phải cho các chú, các anh chị biết Gấm không còn là trẻ con nữa. Gấm dò la biết được đường đi lối lại của bọn giặc, trong một trận càn ở làng bên. Cô chọn vị trí, chôn trái mìn và trèo lên cây theo dõi. Giặc đi càn về, nghênh ngang, lếch thếch vì các thứ vơ vét được, bị trúng trái mìn. Tiếng nổ ầm vang cả một vùng, năm tên xâm lược Mỹ bị xé xác. Từ đấy, Gấm trở thành du kích và lúc nào cũng vui vẻ, nhanh nhẹn, mưu trí thắng địch. Lần này Gấm cũng quyết không cho địch thực hiện ý đồ của chúng. Gấm sẵn sàng hy sinh bắt chúng phải trả cái giá cao nhất. Một chiếc lên thẳng vừa sả xuống định đổ quân, Gấm liền cho một tràng súng. Nó bị bất ngờ, lao thẳng đầu xuống đất, cháy tan xác. Chiếc thứ 2 điên cuồng vừa bắn xối xả vừa đậu xuống. Mười hai tên ngụy bổ xuống, chạy túa về phía Gấm, vừa xô tới vừa nhả đạn. Gấm nhắm kỹ, hạ thêm mấy tên nữa. Hình như chúng nổi điên hoặc là biết gặp phải đối tượng không thể bắt sống, nên đạn nhằm thẳng vào Gấm. Bị mấy vết thương quá nặng, đạn cũng hết, Gấm bình tĩnh thu hết sức lực đập vỡ nát khẩu súng trên tay và rồi cũng gục xuống. Trận đánh quyết liệt ấy, trận đánh cuối cùng ấy diễn ra khi Gấm mới 19 tuổi. Mười chín tuổi đời con gái, phơi phới như mùa xuân. Lê Thị Hồng Gấm ngã xuống không kịp biết mùa xuân của đất trời, ngã xuống tự nhiên như tự nhiên lao vào cuộc chiến đấu, tìm địch mà đánh, tìm bọn xâm lược mà giết. Cái hào khí ấy như thấm vào mùa xuân quê hương, để mỗi độ xuân về, bao nhiêu người lại nhớ tới cô gái 19 tuổi đũng mãnh và hiền dịu ấy..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> LÊ VĂN TÁM “Anh đuốc sống” Truyền thuyết kể rằng: Hồi Nam Kì khởi nghĩa 1940, cha của Lê Văn Tám có mặt. Sau đó gia đình sống ở Sài Gòn, vật chất túng thiếu. Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, nhưng chỉ hơn tháng sau, Pháp đã quay trở lại nổ súng gây hấn. Gia đình Lê Văn Tám quyết định ra vùng kháng chiến, rồi lại phải trở lại thành phố lúc ấy đã bị địch tạm chiếm. Hoàn cảnh gia đình quá túng thiếu, mỗi người phải lao động tùy theo sức. Lê Văn Tám bé nhất, đi bán lạc rang rong các phố phường. Cuộc sống thiếu thốn làm Lê Văn Tám luôn luôn âu lo, suy nghĩ. Không lúc nào có thể quên được những cảnh đồng bào ngoài vùng tự do bị bom đạn giặc tàn sát. Mỗi khi đi qua các trạm gác của địch ở nội thành, Lê Văn Tám không sao chịu được hình ảnh bọn chúng ngạo mạn, hỗn xược, coi rẻ bà con cô bác Việt Nam. Mỗi ngày lòng thù hận giặc càng tăng, Lê Văn Tám tìm cách trả thù. Do mỗi ngày đi bán lạc, Tám thường ghé đến một trạm gác kho xăng và đạn khá lớn của giặc ở khu vực trung tâm thành phố. Bọn lính hồi đầu còn vẫy tay xua, không cho Tám tới gần, dần dần cũng mặc. Nét mặt Tám cũng dễ mến, cử chỉ lanh lợi, nên không bao lâu sau quen được bọn lính đồn trú, có lúc vào qua cả rào cản. Xăng dầu để ra sao, xe cộ ra vào thế nào, khi nào đổi gác, Tám biết rất rõ... Thế rồi một hôm, như mọi ngày, Tám lăng xăng đem lạc bán cho bọn lính chờ đổi gác. Nhưng khác với mọi ngày, lựa lúc bọn lính không để ý, Tám chạy như bay vào chỗ những phuy xăng gần nhất, nơi có cả những can dầu lẻ và giẻ ướt, móc hộp quẹt giắt sẵn trong người, bật lửa... Một chớp sáng, ngọn lửa bùng lên, rồi tiếng nổ liên tiếp, rền vang. Bọn lính chỉ còn kịp thấy thoáng thằng bé bán lạc trong khói lửa dầy đặc, lao vút sâu thêm, như một ngọn đuốc rồi hòa vào kho lửa bùng cháy dữ dội... Sau này đồng bào thành phố Sài Gòn và nhân dân cả nước nhắc tới gương oanh liệt hi sinh vì đất nước, vì dân tộc của Lê Văn Tám, đều quen goi người thiếu niên anh dũng ấy là “Anh đuốc sống”.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Trong xà lim án chém. Năm 1931, một ngày cuối xuân, thực dân Pháp đưa Lý Tự Trọng từ bót Catina đến tòa án để kết án anh tội tử hình. Người thanh niên cộng sản mười bảy tuổi ấy đã lấy vành móng ngựa để làm diễn đàn lên án bọn thống trị, kêu gọi nhân dân đứng lên đấu tranh. Luật sư bào chữa cho anh xin tòa mở lượng khoan hồng vì anh chưa đến tuổi thành niên, đã hành động không có suy nghĩ. Lý Tự Trọng dõng dạc nói: - Tôi hành động không phải là không suy nghĩ. Tôi hiểu việc tôi làm. Tôi làm vì mục đích cách mạng. Tôi chưa đến tuổi thành niên thật, nhưng tôi đủ trí khôn để hiểu rằng con đường của thanh niên chỉ có thể là con đường cách mạng và không thể là con đường nào khác. Tôi tin rằng nếu các ông suy nghĩ kỹ thì các ông cũng thấy cần phải giải phóng dân tộc, giải phóng những người cần lao như tôi. Chánh án, một tên quan cai trị thực dân tuyên án xử tử anh Trọng. Lý Tự Trọng vẫn bình tĩnh. Tên thực dân Pháp hỏi anh có ăn năn gì không. Lý Tự Trọng đứng trước vành móng ngựa, mặt nhìn thẳng phía trước chỉ nói một câu: "không ăn năn gì cả!" Ở trong xà lim án chém khám lớn Sài Gòn, Lý Tự Trọng oanh liệt sống những ngày cuối cùng của đời mình. Mọi chi tiết về người tù án chém "Trọng Con" được những tên gác ngục, tên chủ khám truyền ra ngoài với một lòng cung kính, khâm phục. "Ông nhỏ ngày nào cũng tập thể dục!" Nhìn ông nhỏ sống không ai tưởng tượng được là người đợi ngày lên máy chém. Gương mặt Lý Tự Trọng rắn rỏi và kiên nghị. Anh nhớ lại những ngày thơ ấu trên đất Xiêm, nơi cha mẹ anh vì trốn tránh sự khủng bố của đế quốc sang ẩn náu ở bên kia bờ Cửu Long và sinh ra anh. Lý Tự Trọng tưởng như thấy lại các chiến sĩ cộng sản Trung Quốc bị bọn Quốc dân đảng phản bội bắn chết hàng loạt bên bờ sông Châu Giang trên đất Quảng.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Châu sau ngày Công xã Quảng Châu thất bại. Anh nhớ lại lần cuối cùng với các đồng chí lớn tuổi đi viếng mồ liệt sĩ Phạm Hồng Thái ở Hoàng Hoa Cương. Người thanh niên yêu nước Phạm Hồng Thái năm 1926 đã ôm bom vào giết tên toàn quyền Pháp Meclanh ở Tô giới Pháp sau nhảy xuống sông Châu Giang để khỏi sa vào tay giặc. Lý Tự Trọng bồi hồi nhớ lại lần đầu được đặt chân lên Ô Cấp, được về hoạt động trên đất nước thân yêu, những lúc vùi đầu vào các trang sách đầy hào hứng, những phút trò chuyện ngắn ngủi với các đồng chí ở cơ sở, nhớ cả lúc không ngăn nổi lòng bồng bột trước kẻ thù tàn bạo bị sa vào tay giặc... Những đòn tra tấn tàn bạo của bọn giặc không lay chuyển được ý chí của anh. Trong xà lim án chém, Lý Tự Trọng làm bạn với "Truyện Kiều"của Nguyễn Du. Cuốn truyện này do vợ tên chủ khám biếu. Những câu thơ lục bát trong sáng, tài hoa của thi hào Nguyễn Du đã quyện lòng anh với tâm hồn dân tộc. Anh chưa đặt chân lên làng quê anh bên dòng sông La. Dòng sông ấy chảy qua huyện Đức Phổ đổ vào sông Lam bên 99 ngọn Hồng Lĩnh xuôi về Cửa Hội. Anh chưa được đến đó những câu thơ: "Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa... " cứ khắc khoải trong anh. Trong xà lim, anh thả hồn mình theo những câu thơ đẹp như ngọc bích của thi hào: "Long lanh đáy nước in trời Thành xây khỏi biếc, non phơi bóng vàng" Lý Tự Trọng yêu đất nước, yêu đồng bào, yêu đồng chí của mình, anh càng yêu cuộc sống, sống trọn vẹn những năm tháng ngắn ngủi của đời mình, không hề lãng phí, không để mầm bi quan len lỏi vào tâm hồn mình mặc dù biết mình sắp bị giặc đem chém. Bọn thực dân tìm cách lung lạc ý chí gang thép của anh, nhưng tất cả những lời dụ đỗ, những sự phỉnh phờ đê hèn của chúng đều bị anh đánh bại. Những án chém đế quốc thường để hàng năm mới đem ra xử. Riêng vụ "Trọng con", một vụ án "đổ nhiều mực" như bọn chúng hồi đó thường gọi, chưa được 6 tháng, chúng đã xử. Bà Angđơrê Viôlit đã viết về giờ phút cuối cùng của Lý Tự Trọng: "ngày 21.11.1931 thì Huy (tức là Trọng) bị đem đi xử tử. Sài Gòn hết sức xúc động. Hôm ấy phải ra lệnh thiết quân luật. Từ khám lớn vang ra ngoài đường phố, tiếng la hét của tù chính trị. Tiếng thét từ lồng ngực và trái tim của họ đã đi theo Huy ra trường chém. Phải điều quân đội và lính cứu hỏa đến phun nước để đàn áp họ. Trong những tường giam của khám lớn đã.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> xảy ra chuyện gì thế? Trước máy chém Huy định diễn thuyết. Song hai tên sen đầm nhảy xổ đến ngăn không cho anh nói. Người ta chỉ còn nghe thấy tiếng anh kêu lên "Việt Nam! Việt Nam!" Huy cũng như Phạm Hồng Thái, cũng như nhiều người khác là những anh hùng của nền độc lập Việt Nam. Lý Tự Trọng trước khi lên máy chém, mấy lần gọi hai tiếng "Việt Nam" thân yêu và đã hát nhiều lần bài "Quốc tế ca": "Vùng lên hỡi các nô lệ ở thế gian!". Hai tháng trước đó cũng tại thành phố Sài Gòn, ở nhà thương Chợ Quán, đồng chí Trần Phú, Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam, lúc sắp mất đã nhắn nhủ với các đồng chí ở lại: "Hãy giữ vững chí khí chiến đấu!" Trong xà lim án chém, Lý Tự Trọng tuy không được đồng chí Trần Phú trực tiếp dặn dò nhưng anh đã giữ vững chí khí chiến đấu đến phút chót của đời mình. Và hơn mười năm sau, ngày 15-10-1964, tại khám Chí Hòa, Nguyễn Văn Trỗi trước lúc hy sinh lại hô: "Việt Nam muôn năm!" - "Hồ Chí Minh muôn năm!". Trên thành phố Sài Gòn anh hùng, những câu nói giản dị và sâu sắc của những chiến sĩ tiêu biểu ở nhiều thế hệ ấy đã ngân vang từ những tâm hồn yêu nước nồng nhiệt và ý chí cách mạng kiên cường. Ngày nay, giữa thành phố Hồ Chí Minh, con đường mang tên Lý Tự Trọng (đường Gia Long cũ) chạy qua nơi anh từng bắn chết tên mật thám Lơ Gơrng, cũng nằm cách bót Catina không xa... Anh vẫn như còn đó với tuổi mười bảy hiên ngang, với tâm hồn trong sáng tràn ngập lòng yêu đời. Trần Phương Trà.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> Tiểu sử:. NGÔ GIA TỰ. Ngô Gia Tự sinh ngày 3 tháng 12 năm 1908 ở làng Tam Sơn, Phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Anh ham đọc sách báo và học rất giỏi. Bị đuổi khỏi trường vì tham gia bãi khóa đòi thực dân Pháp thả tự do cho cụ Phan Bội Châu, anh trở về quê dạy học rồi được giới thiệu vào Việt Nam thanh niên Cách mạng đồng chí hội .. Sau hội nghị hợp nhất thành lập Đảng năm 1930, anh được bầu làm Bí thư chấp ủy lâm thời của Đảng bộ Đảng Cộng sản Việt Nam ở Nam kỳ. Cuối năm 1930 anh bị địch bắt. Bị tra tấn nhiều lần chết đi sống lại anh vẫn một mực kiên trung . . Tháng 11/1935 anh cùng một số đồng chí tổ chức vượt Côn đảo về đất liền, nhưng không may đã bị mất tích giữa biển khơi. Năm ấy anh mới 27 tuổi ..

<span class='text_page_counter'>(27)</span> NGÔ MÂY TIẾNG NỔ LỚN Ngô Mây, như bao bạn trẻ nghèo khổ khác, sống cơ cực những ngày tuổi nhỏ ở làng Cát Chánh, huyện Phù Cát, tỉnh Bình Định. Những công việc đòi hỏi sức lực của người cha trong nhà như cày, bừa, thì lại chính hai mẹ con Ngô Mây phải đảm đương từ sớm đến tối trên ruộng đất người khác. Cha anh mất từ khi anh còn rất nhỏ. Cho tới những ngày mùa thu năm 1945, Ngô Mây đã được đổi đời nhờ Cách mạng. Như bao thanh niên trai tráng lúc đó, anh trở thành đội viên đội “Tự vệ sắt” của làng, sẵn sàng chiến đấu nếu giặc Pháp lấn tới. Vì tiếng súng đã nổ ở Nam Bộ, lan dần đến phía nam Trung Bộ. Tây Nguyên đã có bóng giặc xâm lăng. Giặc tập trung quân, từ mạn Pleiku, theo đường 19 chúng tràn xuống đồng bằng tỉnh Bình Định. Bác Hồ kêu gọi “Thanh niên cảm tử cho Tổ quốc quyết sinh”, Ngô Mây thấm lời Bác. Anh có mặt ngay trong đội cảm tử quân của tỉnh nhà. Phải chặn ngay vết chân tội ác của giặc! Ngô Mây viết quyết tâm thư, nguyện ôm bom đợi giặc đến nộp mạng ngay ở trận đụng độ thứ nhất. Anh cũng viết những dòng thật xúc động nhờ đồng đội trao lại mẹ: “Tóc má đã bạc trắng. Con của má sẽ làm tiếng nổ lớn chôn vùi lũ cướp nước để má được sống tự do trong tuổi già …”. Cuối thư anh hỏi mẹ: “Má ơi, má có vui không má?”. Rồi anh rảo bước lên đường, quấn một tấm khăn đỏ quanh cổ. Đồng đội anh đã bố trí mai phục giặc, trong rừng suối Vôi. Hơn một đại đội Âu Phi hùng hổ trên bốn xe cơ giới ầm ì lao trên đường An Khê. Ngô Mây chào anh em lần cuối, ôm bom, trái bom anh lau chùi sạch bong từ ngày nhận, ra vệ đường nấp sẵn trong bụi cây. Súng giặc đã nổ râm ran, càng lúc càng dữ dội. Chúng đã đụng quân ta. Nhưng như kế hoạch đã định, quân ta tạm thời rút lui. Giặc mắc mưu, xông ra, miệng hò hét: - Việt Minh! Việt Minh đâu? .. Như một ánh chớp, Ngô Mây đứng vụt lên, thét lớn: - Việt Minh đây! Anh sừng sững như một pho tượng, ngực vươn cao, mắt sáng quắc. Thấy anh có một mình, giặc hí hững ùa tới toan bắt sống. Chỉ đợi có thế, Ngô Mây cúi xuống, nhấc bổng quả bom, lao lên phía giặc: - Ầm! Lửa chói lòa vàkhói đen nghi ngút trùm kín khu vực, kèm tiếng nổ xé trời. Tiếng thét, tiếng rên la hỗn loạn … Những tên giặc sống sót dẫm.

<span class='text_page_counter'>(28)</span> đạp lên nhau tháo chạy tán loạn. Các chiến sĩ cảm tử đồng đội của dũng sĩ Ngô Mây ra ngay nơi người anh hùng vừa cho nổ trái bom quyết chiến, trái bom chặn đứng trận càn đầu tiên mở đường cho các trận ác liệt của địch sau này. Không còn Ngô Mây đứng đó, nhưng gương hy sinh của người liệt sĩ trẻ tuổi mãi mãi chẳng bao giờ phai mờ trong trí óc và trái tim những người quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> Tiểu sử : NGUYỄN THỊ MINH KHAI. Nguyễn Thị Minh Khai sinh năm 1910 tại xã Nhân chính, Huyện Từ Liêm, Hà Nội. Thử nhỏ chị học rất thông minh và ưa hoạt động. Sau khi Đảng cộng sản Việt Nam được thành lập chị được kết nạp vào Đảng và được phân công phụ trách công tác tuyên truyền huấn luyện ở Trường Thi - Bến Thủy . Khi dự họp xong xứ ủy trở về chị bị địch bắt, biết đây là nhân vật quan trọng địch đã dụ dỗ, tra tấn nhưng không khuất phục được chị. Chi đã anh dũng hy sinh tại trường bắn Bà Điểm ngày 28 /8 /1941..

<span class='text_page_counter'>(30)</span> Tiểu sử:. NGUYỄN VĂN CỪ. Nguyễn Văn Cừ sinh ngày 9 / 7 /1912 Tại làng Phù Khê , tổng Nghĩa Lập, phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Cha anh là nhà nho nghèo nhưng vẫn cho anh ăn học. Anh học vào loại xuất sắc và có tinh thần yêu nước, thù ghét kẻ thù. Bị đuổi học anh về quê dạy học. Anh tham gia Cách mạng bị bắt và đòi được tha . Tháng 8 / 1937 được bầu vào Ban thường vụ Trung ương Đảng. Năm 1938 được bầu làm Tổng Bí thư Đảng và vào Sài Gòn hoạt động. Anh bị bắt và bị địch dùng mọi thủ đoạn tra tân dụ dỗ nhưng anh vẫn giữ vững khí tiết cộng sản. Đẩu thu 1941 địch đưa anh và 1 số đồng chí khác ra pháp tường xử bắn..

<span class='text_page_counter'>(31)</span> NGUYỄN VĂN TRỖI "Chính tôi đã tổ chức giết Mac Namara". Anh hùng Nguyễn Văn Trỗi quê ở xã Thanh Quít, huyện Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam. Mẹ anh chết sau trận càn của giặc Pháp năm anh mới 3 tuổi. Còn cha bị Tây bắt. Anh sống nhờ vào bác và anh chị. Đến năm 15 tuổi, anh ra Đà Nẵng ở nhà người anh, tìm việc làm nuôi thân. Nhưng anh Trỗi sợ anh chị gánh thêm việc nuôi mình sẽ gặp nhiều khó khăn hơn nên trốn anh chị vaò Sài Gòn tìm cách mưu sinh. Mới đầu anh đạp xích lô. Sau nhờ người bác họ, anh xin học được nghề thợ điện. Có nghề, vào xưởng lại bị chủ trả ít lương, anh bỏ sang xương khác. Đến xưởng Ngọc Anh là xưởng máy thứ ba, việc làm mới tạm ổn. Trong phong trào đấu tranh của nhân dân Sài Gòn, anh được Đảng giác ngộ và được kết nạp vào Đoàn Thanh niên. Anh là một chiến sĩ giải phóng trong đơn vị biệt động bí mật của Sài Gòn. Anh nhận nhiệm vụ đặt mìn ở cầu Công Lý để giết Mac Namara, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng Mỹ, sang Sài Gòn. Lúc đó, anh Nguyễn Văn Trỗi đang chuẩn bị cưới vợ. Tổ chức biết việc xây dựng gia đình của anh, muốn anh hưởng thời gian hạnh phúc những ngày mới cưới. Nhưng anh xin nhận bằng được nhiệm vụ. Thế là ngay trong những ngày đầu lập gia đình, tuy rất thương vợ, anh vẫn lao vào chuẩn bị kế hoạch đặt mìn giết Mac Namara, đi thị sát miền Nam Việt Nam. Gần đến lúc thành công, ngày 9/5/1964 anh bị bắt. Chúng đánh anh tàn nhẫn bằng mọi cực hình để tìm ra manh mối cơ sở ta, nhưng anh không khai. Anh tự nhận:”Chính tôi đã tổ chức giết Mac Namara, ngoài ra không còn ai khác”. Chúng đem chị Phan Thị Quyên, vợ anh, lại gặp anh. Nhưng anh khảng khái nói'”Còn thằng Mỹ thì không ai có hạnh phúc nổi cả”..

<span class='text_page_counter'>(32)</span> Bọn tay sai lấy cuộc sống xa hoa sung sướng ra để mua chuộc anh. Anh khinh bỉ mắng:”Sống như các người, tôi không sống nổi. Sống như thế thà chết còn hơn”. Chúng hỏi: - Thế anh muốn gì? Anh trả lời” - Tao muốn giết hết bọn Mỹ, tao muốn miền Nam được giải phóng. Cuối cùng chúng kết án tử hình và định ngày đưa anh ra xử bắn. Đột nhiên có tin du kích Venezuela bắt được trung tá tình báo Mỹ Smolen và báo cho tổng thống Mỹ Johnson đòi đổi mạng cho anh Trỗi. Họ dọa:”Nếu ở Việt Nam xử bắn anh Trỗi thì một giờ sau ở Venezuela quân du kích sẽ xử bắn trung tá Mỹ”. Mỹ đành phải ra lệnh cho chính quyền Sài Gòn hõan ngày hành hình anh Trỗi”. Nhưng khi du kích Venezuela thả trung tá Smolen thì chúng lật lọng, vội vàng xử bắn anh Trỗi. Ngày 15/10/1964, khi ra pháp trường, anh rất bình thản, đàng hoàng. Anh vạch trần tội ác xâm lược của giặc Mỹ trước các nhà báo. Có người hỏi anh:”Có tiếc gì trước cái chết?”. Anh nói:”Tôi chỉ tiếc chưa giết được Mac Namara”. Chúng định bịt mắt anh. Anh giật phăng băng đen ra và nói:”Không, phải để tôi nhìn mảnh đất này, mảnh đất thân yêu của tôi”. Trước khi chết, anh còn hô to: - Đả đảo bọn xâm lược Mỹ và tay sai! - Việt Nam muôn năm! - Hồ Chí Minh muôn năm! Câu “Hồ Chí Minh muôn năm” anh hô đến 3 lần. Bác Hồ, vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta đã ghi trên bức ảnh anh Trỗi: “Vì Tổ quốc, vì nhân dân, liệt sĩ Nguyễn Văn Trỗi đã anh dũng đấu tranh chống đế quốc Mỹ đến giây phút cuối cùng. Chí khí lẫm liệt của anh hùng Nguyễn Văn Trỗi là một tấm gương cách mạng sáng ngời cho mọi người yêu nước, cho các cháu học tập”..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> NGUYỄN VIẾT XUÂN NHẰM THẲNG QUÂN THÙ MÀ BẮN. Nguyễn Viết Xuân sinh ra trong một gia đình nông dân quá nghèo, ở xã Ngũ Kiên, huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phú. 7 tuổi, Xuân ở bế em cho một người bà con xa để kiếm sống. Đoạn đời đi ở ấy kéo dài tới mười năm liền. Năm 18 tuổi, từ vùng tạm chiếm anh vượt ra vùng giải phóng xin vào bộ đội. Đó là năm 1952. Anh trở thành chiến sĩ quân đội nhân dân và được bổ sung vào một trung đoàn pháo cao xạ. Ở chiến dịch Điện Biên Phủ, đơn vị Nguyễn Viết Xuân đã bắn rơi hàng chục chiếc máy bay giặc Pháp. Lần đầu bắn được loại máy bay B.24 tại chỗ, Xuân vui sướng quá, nói với anh Nguyễn Khắc Vy là chỉ huy của mình: “Em tưởng bắn B.24 khó lắm, thế mà nó cũng phải rơi anh nhỉ.” Người chỉ huy nói: “Dũng cảm mà bắn thì nhất định máy bay nào của địch cũng phải rơi!”. Trong một trận đánh, hàng đàn máy bay giặc bổ nhào xuống trận địa. Bom rơi như sung. Anh Vỹ hiên ngang đứng trên hầm pháo chỉ huy, dõng dạc hô: “Nhằm thẳng vào máy bay bổ nhào, bắn!”. Nhưng sau đó, anh hy sinh oanh liệt. Hình ảnh người chỉ huy dũng cảm với tiếng hô đanh thép ấy đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Nguyễn Viết Xuân. Noi gương, anh luôn luôn phấn đấu và được kết nạp vào Đảng Lao Động Việt Nam. Anh trở thành chính trị viên phó đại đội, rồi chính trị viên đại đội..

<span class='text_page_counter'>(34)</span> Năm 1964, thiếu úy Nguyễn Viết Xuân đưa đơn vị pháo cao xạ của mình lên đóng ở miền tây Quảng Bình, để bảo vệ vùng trời biên giới của Tổ quốc. Ngày 18.11.1964, giặc cho máy bay xâm phạm vùng trời miền Bắc ở phía tây Quảng Bình, hết đợt này đến đợt khác. Các chiến sĩ dũng cảm trên các khẩu pháo bắn tỉa máy bay địch. Tiếng Nguyễn Viết Xuân hô vang: -Nhằm thẳng quân thù mà bắn! Hai máy bay phản lực F.100 tan xác. Lần thứ tư, có tiếng máy bay địch lại tới, Nguyễn Viết Xuân chạy vội về sở chỉ huy để truyền lệnh chiến đấu. Ba chiếc F.100 lao tới liên tiếp nhả đạn. Không may Nguyễn Viết Xuân bị đạn bắn trúng đùi. Anh ngã nhào trong hầm, một chân dập nát. Chiến sĩ Tình nhìn thấy định báo tin cho đồng đội, Nguyễn Viết Xuân nghiến răng chịu đau, ra hiệu im lặng. Rồi anh dặn: “Đồng chí không được cho ai biết tôi bị thương. Đồng chí hãy giúp tôi truyền lệnh chiến đấu”. Y tá Nhu tới, thấy máu chính trị viên ra nhiều, vội lấy băng, nhưng Nguyễn Viết Xuân gạt đi: “Đi băng cho anh em bị thương khác đã …” Và anh yêu cầu cắt chân để khỏi bị vướng. Y tá trù trừ, anh giục: “Cứ cắt đi… và giấu chân vào chỗ kín hộ tôi.” … Chân cắt xong, Nguyễn Viết Xuân bảo đưa khăn để anh ngậm. Người Y tá quá thương cảm, vùng đứng dậy thét vang: -Tất cả đồng chí bắn mạnh lên, trả thù cho chính trị viên. Các khẩu pháo nhất loạt rung lên, tạo thành lưới lửa quất vỡ mặt quân thù khi chúng vừa lao đến. Khói lửa mịt mù. Một chiếc F.100 nữa đâm đầu xuống núi kéo theo vệt lửa dài. Cả bọn hoảng hốt cút thẳng về hướng đông. Khi bầu trời trở lại quang đãng, mọi người ùa tới bên người chiến sĩ, nhưng anh đã hy sinh. Khẩu lệnh của anh hùng liệt sĩ Nguyễn Viết Xuân “Nhằm thẳng quân thù, bắn!” đã trở thành bất diệt. Khẩu lệnh tấn công ấy đã luôn luôn làm bạt vía, kinh hồn lũ giặc lái máy bay Mỹ khi chúng xâm phạm bầu trời miền Bắc của Tổ quốc mến yêu..

<span class='text_page_counter'>(35)</span> Tiểu sử:. PHẠM NGỌC ĐA. Phạm Ngọc Đa quê ở xã Bạch Đằng, huyện Tuyên Lãng, tỉnh Hải Phòng. Nhà nghèo cha mẹ chết sớm, Đa đi ở cho một gia đình giàu có. Năm 12 tuổi, Đa vào Đội Thiếu nhi, noi gương anh Kim Đồng, Đa hoạt động du kích rất giỏi. Bằng nhiều cách, nhiều lần Đa đã làm cho bọn giặc ăn không ngon ngủ không yên. Làm liên lạc theo dõi bọn phản động, đặt mìn, vót chông vì quê Đa là vùng du kích... Hôm ấy, Đa bị bắt do hầm bị sụt lở, bọn giặc tra tấn anh đủ điều nhưng anh vẫn không khai. Chúng biết không hỏi được gì ở anh nên chúng đã giết anh. Chúng chặt người anh đến nát ra. Phạm Ngọc Đa đã ngã xuống, dũng cảm đến tuyệt vời..

<span class='text_page_counter'>(36)</span> Qua mỗi lỗ châu mai. Hơn ba mươi năm đã trôi qua từ giờ phút ấy: chiều 13 tháng 3 năm 1954. Đấy là giờ phút trận đánh mở màn chiến dịch "chấn động địa cầu". Giờ phút báo tử cho cả một chế độ thực dân cũ - một uy thế được dựng lên trên dây thép gai và máy chém, Phan Đình Giót mồ côi cha từ nhỏ, vào bộ đội đã bốn năm, đã qua nhiều chiến dịch lớn, vậy mà giờ phút này vẫn thấy bồi hồi xúc động. Kia là những khuôn mặt đồng đội gầy hốc hác mà đầy niềm hứng khởi, đầy ý chí quyết tâm. Những bộ quần áo đã bạc phếch và lấm lem bùn đất. Biết bao mồ hôi công sức đã đổ ra cho trận đánh này. Trận đánh chắc là phải có một ý nghĩa to lớn. Anh Giót nhớ như in lời thư của Bác Hồ: "Các chú sắp ra trận. Nhiệm vụ của các chú lần này rất to lớn, khó khn, nhưng rất vinh quang... chúc các chú thắng to Bác hôn các chú". Còn đây là lệnh động viên của Đại tướng Tổng tư lệnh Võ Nguyên Giáp: "Trận này là trận công kiên chiến qui mô lớn nhất trong lịch sử quân ta từ trước đến nay... Giờ ra trận đã đến!". (Trên những nẻo đường của Tổ quốc hòa bình hôm nay, ven đê, đầu cầu, lưng đồi, đỉnh dốc, thỉnh thoảng ta vẫn còn gặp những con mắt đen ngòm, của lỗ châu mai câm đặng. Cứ qua mỗi nơi như thế, khó mà quên được, khó mà không tưởng tượng lúc nó còn là con mắt đỏ lửa hằn học nhằm thẳng vào bà con, bạn bè đồng chí của ta...) Giờ xung trận đã đến hoàn toàn bất lợi cho đơn vị của Phan Đình Giót. Một bộ phận bị lộ và đang bị pháo giặc ghìm chặt, chia cắt, nhiều đồng đã bị thương vong. Tiểu đội bộc phá lao lên, hết người này đến người.

<span class='text_page_counter'>(37)</span> khác mà chưa phá được hàng rào. Đến lượt Phan Đình Giọt nhảy lên, luồn dưới các làn đạn địch, đặt ống bộc phá thứ 9. Khói cuộn mù mịt: thêm ba thước rào bị phá. Khi quay lại anh bị đạn xuyên qua đùi, máu chảy lênh láng. Chính trị viên giục Phan Đình Gíot lui về quân y. Quả bộc phá của anh không đến nỗi tồi, và vết thương, dù anh đã lấy tay bộp lại, nhưng máu vẫn tứa ra khá mạnh. Có lẽ anh sẽ thanh thản lùi về phía sau, nếu như trận đánh không tiếp tục gay go ác liệt hơn. Đồng chí đánh quả bộc phá thứ 10 bị các làn đạn giặc ghìm xuống, bò lết từng đoạn rất chậm. Anh vội bươn tới, nhận bộc phá, lợi dụng khói lửa mù mịt đánh tiếp một quả, mở thêm một đoạn rào nữa. Nhưng anh chưa kịp quay lại, thì đồng chí số 11 chạy lên, trúng đạn ngã vật xuống, bộc phá văng ra xa. Phan Đình Giọt nhảy tới, tay ôm bộc phá, tay dìu bạn lùi về phía sau, giấu bạn vào chỗ đỡ trống trải, rồi chạy vụt lên đặt ống thuốc. Lần này một dãy rào dài hàng chục mét bị phá tan hoang. Cửa mở rồi? Cửa mở rồi! Xung kích ào ạt xông lên. Phan Đình Giót mệt mỏi gần như ngất đi - nằm úp mặt trên mảnh đất, nóng bỏng và đang rầm rập bước chân quân ta. (Mỗi lần qua những lỗ châu mai đã tắt ngấm tự bao giờ, tôi lại nhớ đến các anh. Những người đã đem cả cuộc sống của mình đè bẹp hỏa lực địch. Đem trái tim bủa vây lửa đạn, cho đồng đội an toàn xông lên. Đó là Trần Cử - tại mặt trận Đông Khê (chiến dịch Biên giới - 1950) - Là Phan Đình Giót. Là Trừ Văn Thố trong trận bất ở Cây Trường, năm 1963... Những lỗ châu mai giờ đây câm lặng, bình yên, đâu có phải tự nhiên như vậy? Đâu có phải dễ dàng được vậy?) Phan Đình Giót tỉnh dậy khi hỏa điểm số 3 bỗng rít lên điên cuồng. Nó ở ngay trước mắt anh - cái lỗ châu mai dài và mảnh. Bên cạnh anh, các đồng chí cứ lần lượt ngã xuống. Anh nhận rõ từng dáng người và tưởng tượng đến từng khuôn mặt quen thuộc... Phan Đình Giót lại bị thêm mấy vết thương nữa. Anh chỉ còn sức nằm nghỉ để đợi đồng đội đưa về. Nhưng hỏa điểm số 3 vẫn không ngừng nhả đạn nhằm vào bóng các xung kích của ta. Nó như giễu cợt, thách thức anh. Một sức mạnh ghê gớm thúc đẩy anh nhích từng bước. Trong tay không còn vũ khí gì nữa, anh cứ trườn lên. Lưới đạn đã bỏng rát trên người anh và nghe rõ hơi gió bạt vù vù. Anh vẫn tiến từng bước một, lê từng chút một. Cái hỏa điểm giống như một con quái vật, thỉnh thoảng phun ra một làn lửa đỏ lóe, nóng bỏng. Còn Phan Đình Giọt vẫn nhích lên, tiến sát tới lô cốt, sờ thấy mảng tường đá nham nhở. Anh quay lại nhìn đồng đội đang nằm rải rác phía sau. Hình như mọi người đã thấy anh, đã hiểu việc anh định là ai và chờ đợi....

<span class='text_page_counter'>(38)</span> Anh nằm ngửa, thở gấp, chân và tay run rẩy, mệt mỏi. Cứ thế anh đẩy người tựa lên thành xi măng và từng ly một nhô dần tới cái miệng độc ác của bọn quái vật này. Và rồi bỗng một phút im lặng... cái hỏa điểm điên cuồng bỗng chìm đâu mất. Xung kích đột ngột bật dậy. Có ai đó hô: Trả thù cho Phan Đình Giót! Anh ngồi đó tựa lưng đè vào lỗ - châu mai, khuôn mặt hướng về phía đồng đội đang ào ạt xông lên. Khuôn mặt như khích lệ, như kêu gọi, như nhìn nhận... (Cứ mỗi lần đi qua những lỗ châu mai tàn dư của lũ cướp nước và bán nước, những "con mắt chột" tối om và đầy tính hung bạo, nham hiểm, tôi lại nhớ đến tư thế hy sinh của người anh hùng: Lưng tựa vào đạn lửa, mắt hướng về đồng đội. Có thể còn cảm thấy hàng trăm viên đạn ghim vào tấm lưng trai trẻ, qua tấm áo thấm đỏ máu và bám đầy bụi...) Anh tựa lưng vào hỏa điểm giờ đây đã im lim. Những bàn tay giặc run rẩy giơ lên trước mũi súng xung kích và những đôi mắt nảy lửa của đồng đội Phan Đình Giót. Còn anh, vẫn tựa lưng vào đá cứng. Lũ giặc kinh hoàng từ hỏa điểm số 3 chui ra, vừa đi vừa ngoái cổ nhìn lại người chiến sĩ Việt Nam bé nhỏ, đã bịt chặt họng súng điên cuồng của chúng. Chúng không tài nào hiểu được điều đó. Chúng không sao tưởng tượng nổi - mặc dù chúng đã nghe nhiều lần về những con người kỳ diệu, đối thủ của chúng. Những con người bé nhỏ kia vẫn khiến chúng kinh ngạc và run sợ như đứng trước thần linh. Mặc dù chúng chưa hiểu rằng, khi nhích dần qua khoảng cách thử thách ấy, trên mình anh Phan Đình Giót đã mang những vết thương nặng, đủ đem lại vinh dự cho bất cứ người lính dũng cảm nào... Anh có thể nằm nghỉ an toàn trên khoảng đất trước cửa mở ấy, đợi chờ thắng lợi mà đồng đội nhất định sẽ đạt tới. Chỉ chậm hơn chút ít, chỉ cần hy sinh thêm một số đồng chí nữa... Nhưng đó là đồng đội của anh: những khuôn mặt quen và lạ. Một thôi thúc bùng cháy trong từng tế bào, mạch máu của anh. Anh cố nhích lên, quyết lấy cái chết của mình để đè bẹp cái chết đang bắn vào đồng đội. Anh không hề nghĩ khác ngoài quyết tâm cố lên chút nữa, cố lên, phải ngăn những viên đạn nửa kia, phải chặn chúng lại. (Mỗi lần đi qua những lỗ châu mai tối đen, dẫu giờ đây nó mang vẻ hiền từ, vô hại, tôi vẫn nghĩ tới cái chết và tội ác từ đấy tuôn ra, quật ngã những cuộc sống yên lành... Mỗi lần qua những lỗ châu mai tôi lại liên tưởng tới những "con mắt chột" vô hình khác có thể đang bắn vào cuộc sống bằng những viên đạn im.

<span class='text_page_counter'>(39)</span> lặng, thầm lặng tiêu diệt những con người. Những lỗ châu mai vô hình của kẻ thù còn đặt, còn đón lõng, còn săn đuổi ở đâu đây. Và mong mỏi sao, có những tâm hồn và nghị lực Phan Đình Giót). Đồng đội đỡ anh xuống, và rất nhiều nước mắt cháy bỏng, thấm vào thân hình đầy vết đạn của anh. Và ngọn cờ đang bừng đỏ trên nóc cứ điểm dường như nhuộm máu trái tim anh cùng bao liệt sĩ khác. Phạm Đức.

<span class='text_page_counter'>(40)</span> Tiểu sử:. TRẦN PHÚ. Trần Phú sinh ngày 1/5/1904 tại huyện Đức Phổ - Tỉnh Quảng Ngãi. Cha anh là một nhà nho, thi đỗ giải Nguyên được bổ làm tri Huyện Đức Phổ. Lúc nhỏ anh học rất giỏi, đổ đầu kỳ thi thành chung và về dạy học ở trường Cao Xuân Dục (Vinh). Anh tham gia Cách Mạng từ năm 1925, sang Trung Quốc năm 1926, được dự lớp huấn luyện do Bác Hồ tổ chức và được kết nạp vào Đảng cộng sản Việt Nam. Tháng 10 năm 1930 được đề cử làm Tổng Bí thư của Đảng. Anh là người thảo ra Luận cương chính trị của Đảng. Tháng 9 năm 1931, Trần phú qua đời. Lời nhắn nhủ của anh là: “ Hãy giữ vững chí khí chiến đấu”.

<span class='text_page_counter'>(41)</span> TRẦN VĂN ƠN VÀ TRUYỀN THỐNG NGÀY 9/1 BẤT DIỆT. Năm 1949, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta bước vào giai đọan phản công. Tại Sài Gòn, các tầng lớp đồng bào cũng tích cực hưởng ứng dưới nhiều hình thức: biểu tình chống sưu thuế, chống bắt lính, đòi công ăn việc làm. Học sinh, sinh viên bãi trường, bãi khóa liên miên. Lúc bấy giờ anh Trần Văn Ơn đang học lớp Đệ ngũ (nay gọi là lớp 8 ) trường Petrus Ký (nay là Lê Hồng Phong), đã bí mật tham gia Đội Vũ Trang Diệt Ac Trừ Gian của phong trào Học Sinh Sinh Viên Cức Quốc. Ngày 18/5/1949, đội vũ trang này đã thi hành án tử hình đối với hai tên mật vụ Nguyễn Văn Minh và Trấn Tấn Phát, lọại trừ hai tên chó săn này khỏi trường Petrus Ký. Thực dân Pháp và tay sai càng hốt hoảng càng hung hãn Phát xít. Ngày 1/11/1949, ban lãng đạo học sinh Cứu Quốc Sài gòn gồm 5 đồng chí là học sinh các trường Petrus Ký và Gia Long bị địch bắt. Ở trong tù, mặc dù bị tra tấn, mọi người đều giữ khí tiết (trong số năm đồng chí này có đồng chí là Lê Thiết, bấy giờ là Thư ký Đoàn Học Sinh Cứu Quốc và sau này tiếp tục tham gia cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước với chức vụ Tổng thư ký Hội Liên Hiệp Thanh Niên Học Sinh Sinh Viên Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.) Để hỗ trợ cuôc chiến đấu của bạn bè yêu nước ở trong tù, ngày 9/1/1950, 2000 học sinh trường Petrus Ký và Gia Long kéo đến sở Giáo Dục Sài gòn đòi trả tự do cho 5 học sinh bị bắt. Đến 10 giờ sáng có thêm học sinh các trường Phước Kiến (Chợ Lớn ), Franco - Chinois, Taberd và một số tư thục cũng xuống đường hỗ trợ. Cùng ngày, đồng bào đìng công, bãi thị, công chức không đến sở. Một phái đoàn đại biểu các đoàn thể nhân.

<span class='text_page_counter'>(42)</span> dân do luật sư Nguyễn Hữu Thọ kéo vào dinh của tên Thủ hiến Trần Văn Hữu đưa kiến nghị đòi trả tự do cho các học sinh bị bắt. Thực dân Pháp trả lời bằng cách bắt giữ phái đoàn của Luật sư Nguyễn Hữu Thọ bỏ lên xe bit bùng đưa đi nơi khác, đồng thời chúng tăng cường lực lượng bảo vệ dinh Thủ Hiến, sẵn sàng đàn áp. Thái độ đó đã làm đám đông phẫn nộ, bùng nổ cuộc xung đột. Những người biểu tình dùng mọi vũ khí có trong tay chống trả quyết liệt với lính Pháp, lính Âu Phi và công an Bình Xuyên… Trần Văn Ơn và sáu nam nữ học sinh vượt lên khỏi đám đông tiến vào dinh Thủ Hiến. Một loạt đạn vang lên, Trần Văn Ơn ngã gục, trên tay vẫn còn bản kiến nghị. Địch toan cướp xác Trần Văn Ơn nhưng bạn bè và đồng bào đã bảo vệ, đưa thi hài anh về trường Petrus Ký để cử hành tanh lễ. Lễ tang Trần Văn Ơn được cử hành trên khắp các tỉnh thành trong nước. Hàng Triệu lượt học sinh sinh viên và đồng bào các giới đã đeo băng tang tham gia truy điệu để tỏ lòng thương tiếc và xuống đường tuần hành bày tỏ chí căm thù. Bài văn điếu trong buổi lễ có câu: Ai chết vinh buồn chăng? Ai sống nhục thẹn chăng? Những câu hỏi đó cứ vang mãi trong những tháng năm đen tối của đất nước, thúc giục bao thế hệ trẻ noi gương Trần Văn Ơn, quên mình xông lên phía trước. Kể từ đó, ngày 9 tháng 1 năm 1949 đi vào lịch sử tranhđấu được chọn làm ngày TRUYỀN THỐNG HỌC SINH SINH VIÊN VIỆT NAM. Truyền thống vẻ vang đó đã được các thế hệ học sinh sinh viên kế thừa oanh liệt trong thời chống Mỹ và trở thành bất diệt..

<span class='text_page_counter'>(43)</span> VÕ THỊ SÁU CÔ GÁI MIỀN ĐẤT ĐỎ HIÊN NGANG. Cô bé Nguyễn Thị Sáu, thích thêu thùa, may vá, Sáu cũng thích hái hoa. Đó là những thú vui của tuổi lên mười. Khi vừa mười hai tuổi, Sáu đã được người anh trai nói cho nghe về cách mạng, đổi họ Nguyễn thành họ Võ để dễ tham gia các hoạt động. Lúc ấy những cảnh giặc Pháp và bọn tay sai hà hiếp, bắt bớ, giết hại đồng bào ở ngay quê hương hoặc các vùng lân cận, làm chị Sáu đã sớm căm thù lũ giặc dã man. Sáu xin anh cho theo lên chiến khu, có công tác nào phù hợp sức vóc thì nhận làm. Không ngờ việc đầu tiên chị thực hiện lại vô cùng nguy hiểm. Chị nhận trái lựu đạn, đem lọt về quê hương Đất Đỏ, thừa dịp thuận lợi, quẳng trúng một tên quan ba Pháp và mấy chục tên lính khác. Tiếng nổ đanh gọn đã giết chết ngay tên quan ba, còn bọn lính bị thương hầu hết. Hồi ấy, cô bé Võ Thị Sáu mới 14 tuổi. Tin tưởng Sáu có thể làm tốt các việc khác, đoàn thể ưng thuận cho chị ở lại Bà Rịa với nhiệm vụ dò la tình hình địch. Chị còn tìm cách phụ giúp việc tiếp tế mọi mặt cho chiến khu. Ở làng chị có tên cai tổng tên Tòng, là một tên tay sai bán nước khét tiếng gian ác, hãm hại dân lành, gây bao tang tóc. Chị Võ Thị Sáu lại nhận lựu đạn, quyết tâm cho nổ giết nó. Nhưng lần này chị bị vòng vây của giặc thít chặt. Chị bị bắt tại trận. Đó là năm 1950. Bắt được chị Sáu, giặc mừng lắm, luôn luôn thay đổi nơi giam và tiến hành các cuộc tra hỏi, đánh đập tàn nhẫn, cốt khai thác được địa điểm, nhân sự của các tổ chức cách mạng. Nhưng đó là một người con gái không dễ lung lạc mặc dù chúng tàn bạo, nham hiểm hết mức. Cuối cùng, không chịu nổi, giặc kết án tử hình, đày chị ra Côn Đảo đợi ngày xử bắn..

<span class='text_page_counter'>(44)</span> Những ngày ở đảo Côn Sơn, chị hoàn toàn bình thản, không lộ một giây phút nào lo âu, buồn nản. Chị luôn nói với các đồng chí bị giam cầm ở ngục tù khủng khiếp ấy niềm tin vào tiền đồ tất thắng của cách mạng Việt Nam. Sớm ngày phải ra pháp trường, Võ Thị Sáu cài hoa lên mái tóc và hát một bài ca yêu nước. Chị cương quyết không để bọn lính tới gần bịt vải lên mắt chị. Người con gái Đất Đỏ hiên ngang nhìn thẳng vào các họng súng đang nhằm vào chị mà hô lớn: - Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất muôn năm! - Hồ Chủ Tịch muôn năm!.

<span class='text_page_counter'>(45)</span> Tiểu sử :. VỪ - A - DÍNH. Vừ - A - Dính, quê ở Phú Nhung, huyện Tuần Giáo, tỉnh Lai Châu. Làng Phú Nhung nằm trong nanh vuốt của bọn giặc Pháp luôn bị càn quét. Mới 10 tuổi A-Dính đã trãi qua nhiều gian khổ, A-Dính luôn đi canh gác giữ làng, A-Dính xin đi du kích. Từ đấy A-Dính luôn đi công tác. Một lần A-Dính chuyển đạn lên cho cán bộ, biết tin giặc sắp lên khu du kích thì trong lúc này A-Dính bị bắt, chúng tra tấn và dụ dỗ đủ điều nhưng anh không khai. Cuối cùng chúng trói và treo A-Dính lên cây đào giữa rừng bắn chết tại chỗ. Vừ-A-Dính đã chết nhưng tên anh vẫn còn lưu mãi..

<span class='text_page_counter'>(46)</span> Tô Vĩnh Diện. Tô Vĩnh Diện (1924 - 1953) là một Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân của Việt Nam. Tô Vĩnh Diện quê ở xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn, tỉnh Thanh Hoá; nhập ngũ năm1949, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam. Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Năm 1946, anh tham gia dân quân ở địa phương. Năm 1949 thì xung phong đi bộ đội. Khi hy sinh anh là khẩu đội trưởng pháo phòng không, đại đội 827, tiểu đoàn 394, trung đoàn 367. Để phục vụ cho chiến dịch Điện Biên Phủ, tháng 3 năm 1953, Tô Vĩnh Diện và đồng đội kéo pháo ra đến đoạn Dốc Chuối. Lúc đó, anh và pháo thủ Ty xung phong cầm càng lái pháo. Khi dây tời chính bị đứt, pháo lao nhanh và khó điều khiển, pháo thủ Ty bị càng pháo đánh bật ra, Tô Vĩnh Diện vẫn bám lấy càng, điều khiển hướng lao của pháo, bất chấp nguy hiểm lấy thân mình đẩy càng pháo vào vách núi cho pháo dừng lại, Tô Vĩnh Diện hy sinh..

<span class='text_page_counter'>(47)</span> Ngày 7 tháng 5 năm 1955, Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trao tặng Huân chương quân công hạng nhì, Huân chương chiến công hạng nhất và được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1956. Hiện nay, mộ Tô Vĩnh Diện nằm ở khu đặc biệt của nghĩa trang Điện Biên cùng với mộ của 3 anh hùng nổi bật khác trong trận Điện Biên Phủ là Phan Đình Giót, Bế Văn Đàn,Trần Can. Anh Tô Vĩnh Diện (1924 - 1953) quê ở xã Nông Trường, huyện Triệu Sơn (Xưa là huyện Nông Cống) tỉnh Thanh Hóa. Anh sinh ra trong một gia đình nghèo, từ 8-10 tuổi anh phải đi ở cho gia đình địa chủ, chụi đựng bao cảnh áp bức, bất công.Tháng 7 năm 1949, anh xung phong vào bộ đội và hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ được giao, là một Đảng viên ưu tú của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong chiến dịch Điện Biên Phủ, khi đó anh là khẩu đội trưởng pháo phồng không của đại đội 827, tiểu đoàn 394, trung đoàn 367. Vào tháng 3 năm 1953 Tô Vĩnh Diện cùng đồng đội kéo pháo ra đến đoạn “dóc chuối”, lúc đó anh và pháo thủ Ty xung phong cầm càng lái pháo, trong lúc kéo pháo lên dốc thì dây tời chính bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc và khó điều khiển, pháo thủ Ty bị càng pháo đánh bật ra, bất chấp nguy hiểm Tô Vĩnh Diện vẫn bám lấy càng pháo và điều khiển hướng lao của pháo, anh đã lấy thân mình đẩy càng pháo vào vách núi làm cho pháo dừng lại. Anh đã hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ nhưng đã để lại trong lòng mỗi người Việt Nam lòng ngưỡng mộ một vị anh hùng gan dạ, dũng cảm.Anh được nhà nước trao tặng huân chương quân công hạng nhì, huân chương chiến công hạng nhất và được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân năm 1956. Tô Vĩnh Diện sinh năm 1924, dân tộc Kinh, quê ở xã Nông Trường, huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hoá. Đồng chí nhập ngũ tháng 7 năm 1949. Khi hy sinh, đồng chí là Tiểu đội trưởng pháo cao xạ 37 ly thuộc Đại đội 827, Tiểu đoàn 394, Trung đoàn 367. Tô Vĩnh Diện sinh trưởng trong một gia đình nghèo, lên 8 tuổi đã phải đi ở cho địa chủ. Suốt 12 năm đi ở, đồng chí phải chịu bao cảnh áp bức bất công. Năm 1946, đồng chí tham gia dân quân ở địa phương. Năm 1949, đồng chí xung phong đi bộ đội. Trong học tập công tác, đồng chí luôn thể hiện tinh thần gương mẫu đi đầu, lôi cuốn đồng đội noi theo. Trong hành.

<span class='text_page_counter'>(48)</span> quân chiến đấu, đồng chí đã cùng đồng đội bền bỉ vượt qua khó khăn, chấp hành nghiêm chỉnh các mệnh lệnh, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tháng 5 năm 1953, quân đội ta thành lập các đơn vị pháo cao xạ để chuẩn bị đánh lớn. Đồng chí Tô Vĩnh Diện được điều về làm tiểu đội trưởng một đơn vị pháo cao xạ. Trong quá trình hành quân cơ động trên chặng đường hơn 1000 km tới vị trí tập kết để tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ, đồng chí luôn luôn gương mẫu làm mọi việc nặng nhọc, động viên giúp đỡ đồng đội kéo pháo tới đích an toàn. Trong lúc kéo pháo qua những chặng đường khó khăn nguy hiểm, đồng chí xung phong lái để bảo đảm an toàn cho khẩu pháo. Trong lúc kéo pháo cũng như lúc nghỉ dọc đường, Tô Vĩnh Diện luôn luôn nhắc đồng đội chuẩn bị chu đáo và tự mình đi kiểm tra tỉ mỉ đường dây kéo pháo, xem xét từng đoạn đường, từng cái dốc rồi phổ biến cho anh em để tránh những nguy hiểm bất ngờ xẩy ra. Kéo pháo vào đã gian khổ, hy sinh, kéo pháo ra càng gay go ác liệt, đồng chí đã đi sát từng người, động viên giải thích nhiệm vụ, giúp anh em xác định quyết tâm cùng nhau khắc phục khó khăn để đảm bảo thắng lợi.. Qua 5 đêm kéo pháo ra đến dốc Chuối, đường hẹp và cong rất nguy hiểm. Tô Vĩnh Diện cùng đồng chí Ty xung phong lái pháo. Nửa chừng dây tời bị đứt, pháo lao nhanh xuống dốc, đồng chí vẫn bình tĩnh giữ càng, lái cho pháo thẳng đường. Nhưng một trong bốn dây kéo pháo lại bị đứt, pháo càng lao nhanh, đồng chí Ty bị hất xuống suối. Trong hoàn cảnh hiểm nghèo đó, Tô Vĩnh Diện hô anh em: “Thà hy sinh, quyết bảo vệ pháo” và đồng chí buông tay lái xông lên phía trước, lấy thân mình chèn vào bánh pháo, nhờ đó đơn vị kịp ghìm giữ pháo dừng lại. Tấm gương hy sinh vô cùng anh dũng của đồng chí Tô Vĩnh Diện đã cổ vũ mạnh mẽ toàn đơn vị vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, chuẩn bị chiến đấu và chiến đấu thắng lợi..

<span class='text_page_counter'>(49)</span> Tô Vĩnh Diện đã được tặng thưởng một Huân chương Chiến công hạng nhất. Ngày 7 tháng 5 năm 1955, Tô Vĩnh Diện được Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà truy tặng Huân chương Quân công hạng nhì và được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang..

<span class='text_page_counter'>(50)</span>

×