Tải bản đầy đủ (.pdf) (60 trang)

Giáo trình Quản lý di sản văn hóa với phát triển du lịch: Phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (5.85 MB, 60 trang )

ChươNq III

OUY TRÌNH TỔ CHỨC VÀ OUẢN LÝ DI SẢN
VĂN HOÁ VỚI PHÁT TRIÊN d u l ịc h
9

3.1. Xác đinh di sản văn hóa

Cho đến nay, nước ta đã có khá nhiều di sản văn hóa vật thế và
di sản văn hóa phi vật thể được nhận vinh dự là di sản văn hóa thể
giới, hàng ngàn di tích cấp tỉnh và gần ba nghìn di tích lịch sử văn
hóa và danh lam thắng cảnh được xếp hạng di tích cấp quốc gia,
hơn một trăm bảo tàn g ... Những con số đó đã phản ánh sự phong
phú của các di sản văn hóa ở nước ta, nhưng con số ấy sẽ nói lên
điều gì về sự đóng góp của di sản văn hóa vào sự phát triển kinh tế
của đất nước?
Điều dễ nhận ra là ở nước ta các di sản văn hóa gắn bó mật
thiết với hoạt động du lịch, các lễ hội lớn diễn ra tại khu vực di sản
văn hóa thường thu hút được lượng khách lớn tham quan du lịch, lễ
bái, hay cầu phúc, cầu tài... Vì thế, các di sán văn hóa đã và đang
được coi là nguồn tài nguyên du lịch. Tài nguyên du lịch càng
phong phú, đặc sắc càng có sức hấp dẫn với du khách và có hiệu
quả kinh doanh du lịch cao.
Để tiến hành nghiên cứu, quản lý, bảo tồn, tơn tạo và phát triển
di sản văn hóa một cách có hiệu quả, cần phải tiến hành xác định,
phân- loại di sản văn hóa khoa học và phù họp. Di sản văn hóa gồm
nhiều loại, có hàm nghĩa rộng, phức tạp và chồng chéo, khó có thế
áp dụng tiêu chuẩn đo lường chính xác đế lượng hóa được. Do vậy,
trong khi xác định, phân loại di sản văn hóa, nhà quản lý nên thực
hiiện theo các nguyên tắc sau:
91




- Căn cứ vào thực tiễn điều tra di sản văn hóa trong năm, rồi
tiến hành xác định di sản văn hóa theo đăng cấp và phân loại
theo thuộc tỉnh (đặc điểm, tính chất, loại hình).
- Khi phân loại di sản văn hỏa cần căn cứ vào hình thức để xác
định tính chất của di sản, ngồi ra cần phân loại tầm quan
trọng, quy mô, giá trị du lịch của di sản văn hóa.
Khoản 6, điều 1 - Luật Du lịch của Inđônêxia đã xác định điểm
du lịch như sau: “Trước hết đó là vị trí có tài ngun du lịch và có
sức hấp dẫn, sức hút đối với con người. Tất cà những điều này đều
được Chính phủ xác định và quản lý. Việc xây dựng các điểm này
phục vụ cho du lịch phải được đảm bảo bốn yêu cầu: Có khả năng
thúc đẩy sự phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội tại địa phương; Đảm
bảo gìn giữ được những giá trị văn hóa, tín ngưỡng và phong tục
tập quán đang tồn tại ở địa phương; Bảo vệ được môi trường sinh
thái; Đảm bảo sự phát triển du lịch lâu dài”.
7







Khoản 8, điều 4, chương I - Luật Du lịch Việt Nam (năm 2005)
ghi: “Điểm du lịch là nơi có tài nguyên du lịch hấp dẫn, phục vụ
nhu cầu tham quan của khách du lịch” .
Khoản 1, 2, điều 24 - chương IV - Luật Du lịch V iệt Nam (năm
2005): Các điều kiện để công nhận là điểm du lịch gồm:

+ Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau được công nhận là điểm
du lịch quốc gia:
- Có tài nguyên du lịch đặc biệt hấp dẫn đổi với nhu cầu tham
quan của khách du lịch.
- Có kết cấu hạ tầng và du lịch cần thiết, khả năng đảm báo
phục vụ ít nhất một trăm nghìn lượt khách tham quan một năm.
+ Điểm du lịch có đủ các điều kiện sau được công nhận là điểm
du lịch địa phương:
- Có tài nguyên du lịch hấp dẫn đổi với nhu cầu tham quan của
khách du lịch.
92


- Có kết cấu hạ tầng và du lịch cần thiết, kha năng đám bao
phục vụ ít nhất mười nghìn lượt khách tham quan một năm.
- Cần đảm bảo tính khoa học, cũng như tính thực tiễn cho việc
quản lý, nghiên cứu và việc bảo tồn, tôn tạo, phát triến di sản có
hiệu quả.
3.2. M ơ tả di sản văn hóa

Di sản văn hóa là nguồn lực quan trọng, là cơ sở đế phát triển
du lịch. Nhưng di sản văn hóa lại có tính biến đối và suy giảm bởi
những tác động của các điều kiện tự nhiên, con người và các hoạt
động kinh tế - xã hội. Do vậy, quản lý và bảo tồn di sản văn hóa là
một nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu của mỗi địa phương,
mồi quốc gia muốn phát triển du lịch.
Công tác sưu tầm, kiểm kê một cách khoa học, toàn diện di sản
văn hóa ln là nhiệm vụ quan trọng trước nhất. Sau đó hình thành
bộ tư liệu về diện mạo, giá trị di sản đó trong từng địa phương. Đây
là việc làm vừa cấp bách, vừa lâu dài, không được lơi lỏng, vì thời

gian và các nghệ nhân cao tuổi sẽ qua đi không thể chờ đợi. Thu
thập được những thông tin này không phái là một nhiệm vụ dễ
dàng. Công việc của nhà nghiên cứu là phải phát triển kỳ năng và
kỹ thuật để có thể thu thập thơng tin một cách đầy đủ, chính xác và
quan trọng hơn cả là phải có tâm hồn, tình cảm để hiểu và cảm nhận
được những giá trị cha ông gửi gắm ẩn chứa trong các di sản văn
hóa. Sau khi nghiên cứu, họ có thể hỗ trợ ngược trở lại cho những
người đã cung cấp thông tin và cộng đồng đang lưu giữ di sản văn
hỗa, bằng việc xác lập mối liên hệ chặt chẽ giữa giới sưu tầm,
nghiên cứu và những người trực tiếp tổ chức, quản lý di sản văn hóa
tại địa phương.
Trong chương I, chúng tơi đã trình bày, khơng phải di sản vãn
hổ a nào cũng có thể trở thành sản phẩm du lịch. Bởi: “sản phấm du

93


lịch là tập hợp các dịch vụ cần thiết đế thỏa mãn nhu cầu cùa khách
du lịch trong chuyến đi du lịch” (Luật Du lịch, điều 4, khoản 10).
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu các bước mô tả một số di
sản văn hóa có thể khai thác thành sản phẩm du lịch, gồm các di sản
văn hóa vật thể và phi vật thể.

3.2.1. Mơ tả di sản văn hóa vật thể
Các di sản văn hóa vật thể gồm: Các di tích khảo cổ học; Các
di tích lịch sử văn hóa; Các di tích văn hóa tín ngưỡng; Các quần
thể di tích kiến trúc văn hóa; Hệ thống các bảo tàng, nhà lưu niệm,
bộ sưu tập; Hệ thống chợ phiên các vùng... Chúng tôi xin giới thiệu
cụ thể cách thức mơ tả một số di sản văn hóa vật thể.
3.2.1.1. Di tích lịch sử văn hóa

Với truyền thống uống nước nhớ nguồn, nhớ ơn tổ tiên, nên
nhiều di tích lịch sử gắn liền với các sự kiện lịch sử trọng đại của
đất nước cũng như cuộc đời và sự nghiệp của các danh nhân, các vị
anh hùng dân tộc đã được nhiều thế hệ người Việt Nam xây dựng
và gìn giữ tới ngày nay. Tính đến ngày 30 tháng 12 năm 2006, cả
nước ta có 1.367 di tích lịch sử được xếp hạng cấp Quốc gia. Đây là
điều kiện, nền tảng để phát triển các hoạt động du lịch về nguồn.
* Các di tích lịch sử ở nước ta bao gồm:

- Các di tích ghi dấu sự kiện chính trị quan trọng, tiêu biểu, có ý
nghĩa định hướng phát triển của đất nước, địa phương: khu di
tích Đền Hùng (Phú Thọ); Bến Bình Than (Nam Sách - Hải
Dương), nơi diễn ra Hội nghị các tướng lĩnh bàn về việc đánh
quân Ngun Mơng lần thứ hai...
- Các di tích ghi dấu chiến công chống quân xâm lược: Bạch
Đằng, Đổng Đa, Điện Biên Phủ, Đông Khê, Thất Khê (Cao
Bằng), Ải Chi Lăng (Lạng Sơn), c ầ u Hàm Rồng (Thanh Hóa),
Thành cổ Quảng Trị, Khe Sanh, Địa đạo Củ Chi...

94


- Các di tích ghi dấu những kỷ niệm: Di tích về danh nhân văn
hóa thế giới Nguyễn Trãi ở Cơn Sơn (Chí Linh - Hái Dưưng);
Khu lưu niệm nhà thơ - Danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn
Du ở Tiên Điền (Nghi Xuân - Hà Tĩnh); Khu lưu niệm nhà
nho, nhà giáo Chu Văn An (Phượng Hồng, Chí Linh - Hải
Dương); các khu di tích gắn với cuộc đời và sự nghiệp của
Chủ tịch Hồ Chí M inh (Pắc Pó - Cao Bằng, Kim Liên - Nam
Đàn - Nghệ An, Bến cảng Nhà Rồng - Thành phố Hồ Chí

M inh...), v.v...
* Các bước mơ tả di tích lich sử:
ế

- Vị trí, tên gọi, cảnh quan.
+ Xác định vị trí, diện tích lãnh thổ, tên gọi di tích.
+ Giá trị về phong cảnh.
- Lịch sử hình thành và phát triển.
- Giá trị cổ vật (cả về số lượng và chất lượng), vật kỷ niệm.
- Nhân vật được tôn thờ và những người có cơng xây dựng
trùng tu.
- Những di sản phi vật thể gắn với di sản: các phong tục tập
quán, các lễ hội, các giá trị văn h ọ c...
- Thực trạng tổ chức quản lý bảo vệ, tôn tạo và phát triển di tích.
- Thực trạng chất lượng mơi trường ở khu vực di tích.
- Giá trị được xếp hạng: Quốc tế, quốc gia, địa phương, thời
gian được xếp hạng.
3.2.1.2. D i tích văn hóa tín ngưỡng
Bàn về các di tích văn hóa tín ngưỡng, ta cỏ thể nhắc tới các di
tích với kiến trúc nghệ thuật khá đa dạng và phong phú của nước ta.
Trong đó có nhiều di tích lưu giữ nhiều giá trị về kiến trúc, mỹ
thuật, lịch sử - văn hóa.
95


* Di tích văn hóa tín ngưõTig gồm:

- C hùa: hiện nay ở nước ta có hàng nghìn ngơi chùa, tính đến
ngày 30 tháng 12 năm 2005, cả nước có 580 ngơi chùa được
xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia, trong đó

những tỉnh và thành phố có nhiều ngơi chùa được xếp hạng
danh thắng kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia là: Hà Nội
(163), Hà Tây (cũ) (134), Hưng Yên (37), Hải Dương (35),
Bắc Ninh (30), Hải Phòng (23), Nam Định (20)(l)... theo nhà
nghiên cứu Hà Văn Tấn có 42 ngơi chùa Việt Nam nổi tiếng,
mang giá trị văn hóa - lịch s ử (2).
- Đình', là ngôi nhà chung của cộng đồng làng xã Việt Nam, với
ba chức năng chính: hành chính, tín ngưỡng, văn hóa. Tính
đến ngày 30 tháng 12 năm 2005, cả nước có 874 ngơi đình
được xếp hạng di tích kiến trúc nghệ thuật Quốc gia, các địa
phương có nhiều ngơi đình được xếp hạng Di tích kiến trúc
nghệ thuật Quốc gia chủ yếu thuộc vùng châu thổ Bắc Bộ như:
H à Tây (cũ) (249), Hà Nội (181), Hải Dương (68), Hưng n
(68), Bắc N inh (46), Hải Phịng (28), Thái Bình (27), Bắc
Giang (27), Phú Thọ (2 2 )(3).
- Đền: Có nhiều kiến trúc đền đã và đang trở thành những điểm
tham quan hấp dẫn du khách đến như: đền Bạch Mã, đền
Quan Thánh, đền Đồng Nhân, đền Ngọc Son (Hà Nội); đền
Trần (Nam Định); đền Kiếp Bạc (Hải Dương); đền Nghè (Hải
Phòng); đền Vua Đinh,Vua Lê, đền Thái Vi (Ninh Bình); đền
Bà Triệu (Thanh Hóa); đền Cng (Nghệ An);

V.V..

Tính đến

ngày 30 tháng 12 năm 2005, cả nước có 257 ngơi đền được
xếp hạng di tích lịch sử văn hóa Quốc gia. Đến nay những địa

(1> Cục di sản - Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Sđd.

(2) Hà Văn Tấn, Sđd.
í3) Cục di sản - Bộ Văn hóa,Thể thao và Du lịch, Sđd.

96


phương có nhiều di tích kiến trúc đền được xếp hạng cấp
Quốc gia như: Hà Nội (32), Hưng Yên (30), Bắc Ninh (24),
Nam Định (20)...

- Nhà thờ'. Kiến trúc nhà thờ gắn liền với Đạo Thiên chúa, được
du nhập vào nước ta khoảng cuối thế ký XVỈ. các nhà thờ
ngày nay phần lớn được xây dựng vào cuối thế kỷ XIX. có
kiến trúc Gơ-tích. Hiện nay ở Việt Nam có 5.390 nhà thờ.
trong đó nhà thờ Phát Diệm (Ninh Bình), nhà thờ Đức Bà
(Thành phố Hồ Chí Minh), nhà thờ Lớn (Hà Nội), nhà thờ Phú
Nhai (Nam Đ ịnh)... là những nhà thờ lớn, những điếm du lịch
hấp dẫn của du khách.

* Các bước mơ tả di tích văn hóa tín ngưỡng
- Vị trí, tên gọi, cảnh quan
+ Xác định vị trí, diện tích lãnh thổ, tên gọi di tích.
-t- Giá trị về phong cảnh.
- Lịch sử hình thành và phát triển.
- Quy mô, kiểu, giá trị kiến trúc mỹ thuật, niên đại kiến trúc mỹ
thuật.
- Giá trị cổ vật (cả về số lượng và chất lượng), vật kỷ niệm.
- Nhân vật được tơn thờ và những người có cơng xây dựng
trùng tu.
- Những di sản phi vật thể gắn với di tích: các phong tục tập

quán, các lễ hội, các giá trị văn h ọ c ...
- Thực trạng tổ chức quản lý bảo vệ, tôn tạo và phát triển di tích.
- Thực trạng chất lượng mơi trường ở khu vực di tích.
- Giá trị được xếp hạng: quốc tể, quốc gia, địa phương, thời
gian được xếp hạng.

97


* Ví dụ: Mơ tả về ĐÌN H TRÀ CỎ

Quảng Ninh được biết đến là một trong những tính có nhiều
danh lam thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam. Trong đó cỏ khu
du lịch Trà c ổ với bãi biển trải dài hơn 15km được đánh giá là
một trong những bãi biển đẹp nhất Việt Nam và đình Trà cổ một ngơi đình khá đồ sộ và hồn tồn mang dấu ấn Việt Nam.
Đình Trà c ổ (vào thời Nguyễn có đặt thêm tên chữ cho cơng
trình là Vạn cổ từ - nghĩa là ngơi đền có từ lâu đời) thuộc xã
Trà Cổ, huyện Hải Ninh, Tỉnh Quảng Ninh. Từ thời Nguyễn
vùng này được gọi là: đạo Hải Ninh, châu Hà c ố i, xã Trà c ổ .
Được đánh giá là ngơi đình khá đồ sộ ở địa đầu đất nước và
hồn tồn mang dấu ấn nền văn hố Việt. Đình Trà cố được
xây dựng từ thời Hậu Lê năm 1462 trên một vùng đất rộng
nằm ở phía Nam phường Trà c ổ , Đình có kiến trúc kiểu chữ
Đinh (J), thờ sáu vị Thành hồng đã có cơng lập lên xã Trà Cô
(nay là phường Trà c ổ ) cách đây gần 600 năm.
Đình được xây dựng trên một khu đất rộng, bằng phẳng phù
hợp với sinh hoạt cộng đồng. Đình nằm gần sát với đường lớn
chạy từ huyện xuống bãi biển. Cơng trình được dựng hướng
Nam chếch Tây 10°, rất phù hợp với khí hậu mùa hè nóng,
hưởng gió.nồm nam và che bớt gió m ùa đơng bắc.

Kiến trúc: Gồm một tịa đại đình, được gắn thêm hậu cung
kiểu chuôi vồ, tạo nên bố cục mặt bằng của tồn bộ cơng trình
theo kiểu hình chữ Đinh. Với năm gian hai chái, đình có chiều
dài tồn bộ là 28,1 Om. Các vì kèo được kết cấu bằng bốn hàng
cột, tạồ nên chiều rộng của đình là 11,40m. Đình Trà c ổ có 48
cột gỗ lim đặt trên đá, trong đó có những cột cao gần 5m. chu
vi khoảng l,5m , các cột được giằng đan bởi những xà ngang
dọc, ở các đầu xà gồ đều chạm đầu rồng. Hai đầu hồi là hai
bức hoành phi sơn son thiếp vàng đối diện nhau: “Nam Sơn


tịnh thọ; Địa cửu thiên trường" (Nước Nam bên vững; Đât
vững trời dài). Riêng hậu cung chi vồ có chiều dài 10.30m
và rộng 6,53m. Tịa đại đình có bốn mái, hai chính hai phụ,
các vì kèo đều có chiều cao là 5,53m. cấ u trúc cúa các vì kèo
đều theo thể thức thượng rừng hạ ke, nghĩa là nứa trên cấu
trúc đỡ hồnh bằng các rường và đấu, cịn nứa dưới thi là một
đường kẻ chạy ra đến cột biên. Tuy nhiên, vì kèo và tồn bộ
nóc bị sửa chữa nhiều lần nên kết cấu và trang trí đon giản đi
nhiều. Lối cấu trúc thượng rừng hạ kẻ là lối cấu trúc gặp khá
nhiều trong các đình có niên đại thế kỷ XVII(I). Kiến trúc sàn
của đình hiện cịn được giữ khá nguyên vẹn, đặc biệt được
phân thành ba cấp cao thấp khác nhau. Lớp thứ nhất là lóp sàn
thuộc không gian được giới hạn bởi bốn cái cột cái cua hai
gian kề gian giữa (gian lòng thuyền) chúng cao cách mặt nền
đình 0,55m. Lớp thứ hai thuộc khơng gian được giới hạn với
bốn cột cái của hai gian kế tiếp hai gian trên kể từ giữa ra, cao
0,70m hon lớp sàn kia 0,15m. Lớp sàn thứ ba là không gian
được giới hạn bởi các cột cái và các cột quân. Chúng bao
quanh hai lóp sàn kia và cao 0,85m. Việc sàn đình chia nhiều

cấp đã từng gặp ở đình Chu Quyến(2)(có hai cấp). Việc phân
chia thành nhiều cấp có thể cho thấy việc hội họp vào thế kỷ
XVII vẫn có sự phân chia tơn ti, phân chia theo thế hệ.
- Trang trí mỹ thuật: Các trang trí trên thành phần kiến trúc rất
phong phú. Đề tài trang trí hầu hết là hình Rồng, được các
nghệ nhân thể hiện dưới nhiều hình mẫu, nhiều đồ án trang trí
khác nhau. Đó là những mảng Rồng ổ, cả họ nhà Rồng lớn bé,
dài ngắn khác nhau quây quần trên những tấm cốn đình, mỗi
con bố cục theo m ột kiểu dáng khác nhau trông rất sinh động.

(1’ Nguyễn Du Chi (2 0 0 1 ), Sđd, trang 261.
(2) Đình Chu Quyến thuộc xã Chu Minh, Ba Vì, Hà Tây. Đình được xây dựng
vàiocuối thế kỷ XVII.

99


Khi thì là Rồng đơi, hai con được bố cục đăng đối chầu mặt
trời với nhiều tia lửa rực rờ hoặc thay mặt trời bằng con hố
hay người cưỡi hố, ra dáng trang nghiêm mà vẫn vui. Có khi
lại được thể hiện bằng cảnh tiên cưỡi Rồng. Một đầu rồng to
với nhiều đao lửa tua tủa trên đầu và trên sừng lấp ló một tiên
nữ đang ngồi... Tuy bố cục khác nhau nhưng Rồng đều có
chung một cách điêu khắc, là Rồng mồm rộng cằm bạnh, viền
mép gập vuông, mắt tròn lồi to, mũi nở phồng và hai tai dài
vểnh, thường được cách điệu thành đao lửa.
Ngồi Rồng, cịn có Phượng cũng được điêu khắc rất sinh
động. Hình Phượng đang xòe cánh, mồm ngậm cành hoa, cồ vươn
dài. Đặc biệt tóc trên đầu được các nghệ nhân biến thành một đao
lửa dài, đuôi Phượng thường được nghệ nhân thể hiện dài đẹp thì ớ

đây lại rất ngắn mặc dù vẫn uốn lượn mềm mại.
Hình ảnh các tiên nữ, ngồi việc thể hiện trong đề tài cưỡi
Rồng hay hổ, còn được tả như đang ngồi bên cửa sổ. Nghệ nhân đã
khéo chạm thành hai lớp, lớp ngồi là một ơ cửa viền lá đề có trang
trí hoa lá, phía trong hiện lên khuôn mặt tiên nừ trái xoan, lông mày
cong, mũi thon, mồm nhỏ.
Bên cạnh những đề tài trên, trong đình cịn có hình một số con
vật được chạm với bố cục lạ. Đó là con thú bốn chân, có tai dài
vểnh cao, mồm rộng nhiều răng, người trịn lẳn, đi ngắn. Hiện
nay các nhà nghiên cứu vẫn chưa xác định được nó là lồi thú gì.
Hình ảnh lồi thú này hay thấy trong các chạm khắc kiến trúc cuối
thế kỷ XVII.
Đề tài hoa lá như: Hoa sen, hoa mẫu đơn, trú c... Xen kẽ là các ô
chữ viết theo lối cách điệu như chữ Vạn, chữ Phúc, chữ Thọ nhằm thể
hiện aò ước, niềm tin và cũng là lời cầu chúc cho tương lai tốt đẹp.
Kỹ thuật chạm khắc hết sức hoàn hảo, nghệ nhân chạm lộng với
nhiều lớp khác nhau, mỗi lớp đều thể hiện rất chi tiết, đầy đủ, trọn vẹn.
Hình khối mềm mại, uyển chuyển làm cho các hình mẫu thêm phần
sinh động, mà vẫn khơng kém phần chắc nịch khỏe khoắn.

100


- Hiện vật: Ngai thờ Thành hoàng, sắc phong. Ngoài ra là một số
hiện vật được làm vào thế kỷ XIX. Các sắc phong ở đình cũng
là những sắc phong của vua triều Nguyễn, sắc cố nhất có niên
hiệu Tự Đức 33 (1880), tiếp đó là bổn sắc phong có niên hiệu
Thành Thái 1 (1889) và một sắc phong có niên hiệu Duy tân 3
(1909). Các sắc phong đều ghi rõ tên vị thành hoàng làng:
Quảng Trạch đại vương

Ngọc Son trấn hải đại vương
Huyền Quốc Lã thái úy
K hổng Lộ Giác H ải tự thần
Linh phù bách điểm tước chi thần
■ Lễ hội đình Trà c ổ diễn ra từ ngày 30 tháng 5 đến 6 tháng 6
âm lịch hằng năm. N gày 25 tháng 5 đoàn thuyền rước từ Trà
Cổ về quê tổ Đồ Sơn. Ngày 30 tháng 5 đoàn thuyền từ Đồ
Sơn quay về đến Trà c ổ . Ngày 1 tháng 6, bắt đầu vào hội
rước V ua ra bể (còn gọi là rước vua ra miếu), với những
nghi thức rất trang trọng: một đội quân cầm vũ khí, cờ thần,
phường bát âm, bát bửu, tiếp đến là người cầm cờ vía (phải
là người cường tráng trẻ đẹp và có đạo đức được làng bầu
chọn từ cuối hội năm trước) cùng mọi người khiêng kiệu.
Sau lễ rước là cuộc thi các sản phẩm chăn nuôi trồng trọt
mà biểu thị chủ yếu là thi các chú lợn mà người ta gọi là các
Ông Voi. Các Ông Voi được các cai đám và dân làng chăm
sóc chu đáo từ nhiều tháng trước khi vào Hội. Nét độc đáo
của Lễ hội đình T rà c ổ là hội thi làm cồ, thi nấu ăn, ai nấu
ăn giỏi đều được cả làng biết đến. Ngày mồng 6, Lễ hội kết
thúc với phần biểu diễn múa bông, Trong ngày m úa bông,
người ta cầu m ong trời đất thần linh phù trợ cho đánh bắt
được nhiều cá tôm , buôn bán phát đạt, chăn nuôi, trồng cây
tươi tốt, cuộc sống ấm no.

101


- Đình Trà cổ được xếp hạng di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
do Ban quản lý di tích thuộc Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch
Quảng Ninh quản lý. Qua vài lần tu sửa vào các thời sau.

nhưng đến nay đình Trà c ổ vẫn được gìn giữ nhiều nét kiến
trúc xưa và được đánh giá là một trong khơng nhiều ngơi đình
có tuổi thọ cao. Vị trí của đình lại nằm ngay ở địa đầu biên
giới tổ quốc, hơn 300 năm qua nhưng vẫn giữ được những nét
văn hóa thuần Việt, khơng bị ảnh hưởng văn hóa ngoại biên.
3.2.1.3. Quần thể di tích kiến trúc văn hóa
* Quần thể di tích kiến trúc văn hóa gồm:

- Thành lũy: Trong các thời kỳ lịch sử ở nước có nhiều tịa
thành lũy cổ đã được xây dựng làm nơi đóng trụ sở hành
chính, hoặc có chức năng phịng thủ. Hiện còn nhiều tòa thành
vẫn giữ được các dấu tích kiến trúc, các cơng trình kiến trúc
có ý nghĩa về lịch sử, kiến trúc, mỹ thuật đã và có thể khai
thác phục vụ mục đích tham quan, nghiên cứu, giáo d ụ c...
như: Tòa thành Luy Lâu trụ sở hành chính của các quan cai trị
Trung Quốc ở và làm việc thời Bắc thuộc, hiện vẫn cịn dấu
tích tường thành ở xã Trí Quả (Thuận Thành - Bắc Ninh);
Thành nhà Mạc được xây dựng năm 1552, nằm bên bờ sơng
Lơ (Trung tâm thị xã Tun Quang); Khu di tích và tịa thành
Lam Kinh được xây dựng khá quy mơ vào năm 1428 thuộc xã
Xuân Lam (Thọ Xuân - Thanh H óa)...
- K inh đơ cổ: Các triều đại phong kiến nước ta, các vị vua đã
cho xây dựng kinh đô ở nhiều nơi. Chỉ cỏ cố đô Huế hiện cịn
bảo tồn được hơn 100 cơng trình kiến trúc có giá trị, được
UNESCO cơng nhận là di sản văn hóa thế giới. Các kinh đô
khác như c ổ Loa, Hoa Lư, Thăng Long, Tây Đô, T rà Kiệu,
Đông Dương, Trà Bàn phần lớn chỉ cịn lại dấu tích kiến trúc.
- Các đô thị và nhà cổ: Ở nước ta hiện nay cịn bảo tồn hàng
nghìn ngơi nhà cổ. Những ngơi nhà cổ được bảo tồn ngày nay
chủ yếu tập trung ở khu phố cồ Hà Nội, khu phố cổ Hội An và


102


một số vùng nông thôn Việt Nam. Theo thống kê cúa Sớ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch Hà Nội năm 2004, phố cổ Hà Nội có
859 di tích kiến trúc nhà ở, trong đó có 245 ngơi nhà cố và
614 ngơi nhà cũ có giá trị cần bảo tồn. Phố cố Hội An có tới
trên 1.000 ngơi nhà cổ cần bảo tồn, trong đó có 82 ngơi nhà
được xếp hạng di tích lịch sử đặc biệt và bảo vệ tuyệt đối.
Nước ta cũng có nhiều đơ thị cổ đã được xây dựng, nhưng đến
nay chỉ cịn 3 đơ thị cổ có giá trị về kiến trúc, lịch sư - văn
hóa, là những điểm du lịch hấp dẫn khách du lịch là phố cố Hà
Nội, phố cổ Hội An và phố Hiến.
* Các bước mơ tả quần thể di tích kiến trúc văn hóa:

- Vị trí, tên gọi, cảnh quan
+ Xác định vị trí, diện tích lãnh thổ, tên gọi di tích.
+ Giá trị về phong cảnh.
- Lịch sử hình thành và phát triển.
- Quy mô, kiểu, giá trị kiến trúc mỹ thuật, niên đại kiến trúc mỹ
thuật.
- Giá trị cổ vật (cả về số lượng và chất lượng), vật ký niệm.
• Nhân vật được tơn thờ và những người có cơng xây dựng
trùng tu.
- Những di sản phi vật thể gắn với di tích: các phong tục tập
quán, các lễ hội, các giá trị văn học...
- Thực trạng tổ chức quản lý bảo vệ, tôn tạo và phát triển di tích.
- Thực trạng chất lượng mơi trường ở khu vực di tích.
- Giá trị được xếp hạng: quốc tế, quốc gia, địa phương, thời

gian được xếp hạng.
3.2.1.4.

Hệ thống các bảo tàng, nhà lim niệm

“Bảo tàng, nhà truyền thống, lưu niệm làm nhiệm vụ nghiên
(CỨU, sưu tầm, kiện toàn, bảo quản, trưng bày và phổ biến các báu
103


vật của sưu tập hiện vật gôc vê lịch sử tự nhiên và văn hóa vật chât
và tinh thần - là những sử liệu gốc đầu tiên của kiến thức - nhằm tài
liệu hóa khoa học và các q trình phát triển của thiên nhiên và xã
hội loài người” (1).
Hiện nay, nước ta có khoảng 115 bảo tàng quốc gia, bảo tàng
các chuyên ngành và nhà truyền thống, lưu niệm trong cá nước, là
nơi sưu tập, lưu giữ những giá trị văn hóa của q khứ mà cịn là cầu
nối quá khứ với hiện tại và tương lai. Tiêu biểu như: Bảo tàng Lịch
sử Việt Nam, Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Bảo tàng Lịch sử
Quân sự Việt Nam, Bảo tàng Mỹ thuật Việt Nam, Bảo tàng Văn hóa
các dân tộc Việt Nam, Bảo tàng Hồ Chí Minh, Bảo tàng Dân tộc học
Việt Nam, đó là những bảo tàng hạt nhân của hệ thống bảo tàng Việt
Nam, có quy mơ, vị trí xứng đáng trong khu vực, quốc tế. Tuy nhiên,
các thiết chế văn hóa này hiện đang ở trong trạng thái tương đối tĩnh
trước thách thức lớn lao của thời đại bùng nổ thông tin.
* Các bước mô tả một bảo tàng, nhà lưu niệm:

- Vị trí, tên gọi, cảnh quan.
- Lịch sử hình thành và phát triển.


- Quy mô, kiểu, giá trị kiến trúc mỹ thuật, niên đại kiến trúc mỹ
thuật.
- Giá trị về hiện vật gốc (cả về số lượng và chất lượng): hiện vật
gốc thể khối, hiện vật gốc thuộc nghệ thuật tạo hình, hiện vật
gốc có chữ viết; Các hiện vật trung gian mơi giới (bản sao cùa
hiện vật gốc, được làm một cách khoa học và chính xác).
- Nhân vật được tơn thờ và những người có cơng xây dựng
trùng tu.
- Những di sản văn hóa phi vật thể gắn với bảo tàng, nhà lưu

niệm: các phong tục tập quán, các lễ hội, các giá trị văn học...

(l) Phan Khanh (1992), Bảo tàng - di tích - lễ hội, vấn đề bào vệ di sàn văn hóa
dân tộc, Nxb Văn hóa - Thơng tin, Hà N ội, tr. 66.

104


- Khoảng cách giữa vị trí của bảo tàng, nhà lưu niệm với thị
trường cung cấp khách hàng, cũng như chủng loại và chất
lượng đường giao thông các phương tiện giao thơng có thể
hoạt động.
- Khoảng cách tới các di sản văn hóa và tự nhiên du lịch khác.
- Thực trạng tổ chức quản lý báo vệ. tôn tạo và phái triến di sán.
- Giá trị được xếp hạng: quốc tế, quốc gia, địa phương, thời
gian được xếp hạng.
3.2.1.5. Chợ phiên các vùng
Bây giờ, khi những trung tâm thương mại, siêu thị, cửa hàng có
mặt ở khắp nơi thì vẫn có nhiều người nhớ và muốn tìm lại cảm
giác thú vị khi đi chợ phiên. Những phiên chợ chỉ họp vào một vài

ngày cố định trong tháng với những sản phấm đặc trưng. Chợ phiên
chứa đựng một nét văn hóa xưa khơng dễ gì qn được, là nơi gặp
gỡ tâm tình, trao dun, là nơi sinh hoạt văn hóa dân gian, cầu chúc
những điều may mắn tốt lành đến trong năm mới.
Sản phẩm thường do mọi người trực tiếp làm rồi đem ra chợ bán.
Hàng hóa lại rất phong phú. Bây giờ, phiên chợ khơng cịn rõ nét như
trước nữa nhưng dù sao nó vẫn giữ được một số nét độc đáo riêng.
Chợ phiên thường họp rất sớm, từ lúc trời còn tờ mờ sáng cho
đến quá trưa mới kết thúc. Mỗi chợ phiên đều có những sản phẩm
đặc trưng. N hư chợ phiên Văn Giang có con giống. Người từ khắp
nơi đổ về đây và chở theo nhiều con giống, từ lợn, gà, vịt, chó,
mèo... Tiếng gọi nhau í ới, tiếng mặc cả, tiếng cãi cọ... tất cả những
âm thanh đặc trưng đó làm nên một phong cách rất riêng của chợ
quê Việt Nam.
Chợ phiên mặc dù bây giờ khơng cịn giữ được nhiều nét đặc
trung như trước nhưng vẫn có sự khác biệt để tạo nên sức hấp dẫn
riêng của nó. Ngay cả phiên chính hay phiên xép cũng khác nhau.

105

'


Tuy nhiên, vần còn những phiên chợ giữ được đặc trung truyền
thống của mình như chợ Cán c ấ u (Lào Cai), chợ cách huyện Bắc
Hà chừng 18km, họp trên một ngọn đồi thoai thoải. Chợ Cán c ấ u
trước kia gần trong thị trấn Bắc Hà, nhưng cứ mồi lần nhà nước xây
cất chợ thành khang trang thì bà con lại chuyển đi nơi khác. Đó là
do tập tục từ bao đời nay, bởi với họ, chợ phiên là nơi có thể mang
bán hay mua đủ các thứ mà không cần phải xếp loại hay theo khuôn

mẫu nào, người đi chợ muốn tùy nghi bày biện hàng hóa của minh.
Chợ Cán Cấu mỗi tuần họp một lần vào ngày thứ bảy. Một bãi
chợ hoàn toàn của người dân tộc, M ông Đen, Mông Đỏ, Mông Hoa,
Giao, Tày... Từ trên cao nhìn xuống bãi chợ, khói bếp tỏa lên giữa
những lều tranh lụp xụp, với cơ man nào là người với các sắc áo
xanh đỏ, xa xa là núi đồi phủ sương lam, lác đác vài ba nhà sàn.
Phong cảnh thanh bình và hoang sơ.
Ai đã từng đến SaPa chắc khơng thể qn hình ảnh sáng thứ
Bảy người đàn ơng H ’Mơng dắt vợ cưỡi ngựa mang cái gì đó đến
chợ để bán. Chiều chủ nhật thì ngược lại, người vợ dắt con ngựa trở
về trên lưng ngựa ông chồng say rượu nằm vắt ngang. Với người
Mông đi chợ là phải say rượu, nếu chưa say thì chưa vui...
Hầu như ở mỗi địa phương trên mảnh đất Việt Nam này đều có
những phiên chợ họp vào một thời điểm nhất định nào đó trong
tháng. Bắc Ninh nổi tiếng với phiên chợ Nón, Vĩnh Phúc có phiên
chợ Lồ, rồi chợ Săn ở Hà Tây (cũ), chợ Non ở Hà Nam hoặc như
phiên chợ nổi tiếng cả nước mà mồi năm chí họp có một lần như
chợ Viềng ở Nam Định... mỗi phiên chợ đều chứa đựng m ột đặc
trưng riêng, thể hiện văn hóa của từng địa phương.
Nhiều người coi đi chợ phiên là đi chơi, đi thưởng thức chợ
chứ không nhất thiết phải mua sắm gì. Đi chợ như một nhu càu
không thể thiếu trong đời sống của mỗi người. Không hẹn m à nên.
hàng năm, vào những ngày áp Tết các chợ phiên thường tổ chức
buổi chợ cuối cùng để mọi người có thể đi sắm hàng Tết, từ mớ lạt.
106


ống giang, bó lá dong cho đến quần áo. tranh dân gian... Tất cả đều
mang đậm mùi vị của hương đồng gió nội được kết tinh từ hồn quê,
hồn đất.

Với mỗi người dân Việt Nam, chợ phiên mãi là nét văn hóa cua
một thời để nhớ, nơi chất chứa chút tâm hồn dân tộc.
* Các bước mô tả một chợ phiên:

- Vị trí, tên gọi, cảnh quan
+ Xác định vị trí, tên gọi phiên chợ,
+ Giá trị về phong cảnh.
- Lịch sử hình thành và phát triển
- Những di sản văn hóa phi vật thể gắn với chợ phiên: các
phong tục tập quán, các lễ hội, các giá trị văn h ọ c ...
- Khoảng cách tới các di sản văn hóa và tự nhiên du lịch khác.
* Ví dụ: Mô tả phiên C H Ợ VIÈNG - Tỉnh Nam Định

Đây là phiên chợ truyền thống độc đáo nằm trong khu di tích
và khơng gian văn hóa Phủ Dầy thờ thánh mẫu Liễu Hạnh - một
trong Tứ Bất Tử của Việt Nam.
Chợ Viềng (Nam Định) mỗi năm chỉ họp đúng một phiên, kéo
dài từ nửa đêm m ùng 7 đến sáng mùng 8 Tết. Lỡ một phiên chợ
V iềng là lỡ cả một năm. Vì vậy, từ nửa đêm đến tờ mờ sáng, dân
N am Định, Thanh Hóa, Hà Nam, Hà Nội, Hải Dương, Quảng Ninh,
H ải Phòng... đổ về chợ Viềng như mắc cửi để mong có lộc cho cả
măm. Thật ra Viềng không phải là tên riêng một chợ mà có tới 4,5
lkhu chợ thuộc hai chợ cùng tên Viềng của Nam Định, cùng họp một
phiên vào đêm m ùng 7 rạng sáng mùng 8 tháng giêng. Đó là hội
V iếng Phủ ở Kim Thái, huyện Vụ Bản (là chợ đã nổi tiếng trong sứ
sách, thi ca) và hội Viềng Chùa tại xã Nam Giang, huyện Nam
Trực. Người dân thường quen gọi thành chợ Viềng “2 chợ, 1 phiên”

107



cho cả năm. Theo lời người già giải thích, chợ Viềng Phủ có ý
nghĩa như chợ thần tiên trên trời (còn gọi là chợ âm phủ). Đi chợ
kết hợp với cúng bái, cầu may ở các đền, phủ.
Tầm độ 6 giờ sáng, theo cổ lệ, người dân sở tại mới mang đồ
truyền thống của phiên chợ Viềng ra bán: liềm, hái, quang, gánh,
thúng, mủng, cuốc, xẻng... Đây là những vật dụng cần thiết cho
người nông dân cầy bừa, cấy hái và chăm sóc cây trồng vật ni từ
bao đời nay. M ua một món lấy may và để vững tin rằng mình có đủ
sức khoẻ và sẽ chăm chỉ cầy sâu cuốc bầm làm giàu suốt cả năm.
Từ Viềng Phủ đến Viềng Chùa hết gần một tiếng đi xe máy,
phải vượt qua hai quãng đồng rộng mênh mông. Trước đây, Viềng
Phủ nổi tiếng là nơi hội tụ những sản phẩm thủ công nổi tiếng của
từng địa phương trong tỉnh Nam Định như đúc Tống Xá, sơn mài
Cát Đằng, hàng chạm, mộc La Xuyên, cuốc, xẻng Vân Tràng, giống
cây Mỹ Lộc, cây cảnh Nam Điền... Tuy nhiên, gần đây, các sản
phẩm này lại tập trung về Viềng Chùa.
Viềng Chùa cũng có cây cảnh, có thịt bị (hai sản phẩm khơng
thể thiếu ở chợ Viềng), nhưng đây lại là chợ có đơng người Hà Nội,
Hải Phịng về dự, vì chợ này trội hơn Viềng Phủ ở các loại hàng
hóa, nhất là đồ cổ và cây cảnh đẹp, từ những chiếc đồng hồ báo
thức Made in France được nhập vào Việt Nam cuối thế kỷ XIX,
chiếc đèn Hoa Kỳ nhập từ Hồng Kông những năm 20, phích Trung
Quốc những năm 50, nồi nhơm Liên Xô những năm 60 - 70 đến
kiềng bếp gang Thái Nguyên, liềm, hái, lưỡi cày công - nông...
không thiếu một thứ gì và giá rất rẻ.
Đi chợ xong, khách viếng thăm thường đi thắp hương làm lễ tại
Phủ Dầy và các chùa lân cận, trung tâm đạo Mầu lớn nhất Việt
Nam, với hom 20 đền và phủ.
Thú mua sắm đồ cổ ở chợ Viềng nay đã giảm nhiều. Do kinh tế

ngày một khấm khá và do tốc độ mua sắm thời hiện đại nên người

108


ta chí đơ tiên ra mua những cặp lộc bình gơm, đỉnh đơng... như một
món đồ chơi sang trong ngơi nhà tiện nghi chứ khơng đổ cơng sức
truy tìm những món đồ cổ chính hiệu như chĩnh, vại, chum, lọ, đồ
uống trà, chén, bát, ơng bình v ơ i... như trước đây nữa.
Tuy nhiên, với tinh thần “bán được là quí, mua được càng
may”, phần lớn những người đi chợ Viềng đều tìm thấy những thứ
mình cần, gắn bó với cơng việc, sở nguyện cúa mình. Cả hai chợ
mang đậm tính cầu lộc, cầu may này chỉ họp một phiên duy nhất
một ngày trong năm nhưng số lượt người đến chợ Viềng, theo ước
tính cùa Sở Văn hóa. Thể thao và Du lịch Nam Định, bằng trên một
nửa tổng số người đến chùa Hương trong 3 tháng lễ hội.
3.2.2. M ô tả di sản văn hóa ph i vật thể
Các di sản văn hóa phi vật thể gồm: Lễ hội dân gian; Các
phong tục, nghi lễ liên quan đến vòng đời (cưới xin, ma chay...);
Các phong tục, nghi lễ của cộng đồng (Tết Nguyên Đán, Rằm tháng
Giêng, Trung T hu...); Văn hóa làng bản (nghề và làng nghề thủ
cơng truyền th ố n g ...); Sinh hoạt nghệ thuật (Nhã nhạc, rối n ư ớ c..
Văn hóa ẩm thực;...
Dưới đây, chúng tôi xin giới thiệu cụ thể các bước mô tả một
số di sản văn hóa phi vật thể.
3.2.2.1. L ễ hội dân gian
Một trong những dấu ấn tạo nên sự độc đáo và đặc sắc của mỗi
vùng văn hóa là lễ hội dân gian - môi trường diễn xướng, bảo lưu và
pihát triển nhiều yếu tố văn hóa truyền thống. Trong quá trình hình
tlhành và phát triển, lễ hội dân gian đã chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi

nỉhững điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử của từng mảnh đất.
Lễ hội dân gian chủ yếu là hội làng. Bởi, nói đến sản xuất nơng
ntghiệp là nói đến nơng dân và làng xóm, một tổ chức hồn thiện và
pihổ biến nhất trong mơ hình sản xuất nơng nghiệp ở nước ta từ
trrước đến nay.
109


Trong tự nhiên, xuân - thu chỉ là hai mùa chuyến tiếp tương đối
ngắn ngủi giữa đông và hạ, giữa hai thời của chu kỳ khí hậu nóng lạnh, thì “xuân thu nhị kỳ” trong nông lịch cổ truyền, cũng là thời
buổi nông nhàn ngắn ngủi của những người nông dân quanh năm
ubán mặt cho đất, bán lưng cho trời”. Trong chu kỳ ấy, những mốc
đánh dấu các thời đoạn sản xuất là những lễ thức, nghi lễ, những
hoạt động tâm linh của con người gắn với các hoạt động trong chu
trình canh tác nơng nghiệp, là lễ hội dân gian diễn ra. Tố chức lễ hội
là một cách sử dụng thời gian nông nhàn theo mùa, theo vụ của
người dân châu thổ Bắc Bộ.
Bởi nông nghiệp là nguồn sống chính của cộng đồng thì mọi
hoạt động của con người trên mảnh đất này tất sẽ bị nghề nông chi
phối sâu sắc. Tín ngưỡng, tơn giáo chính của họ phải là những lễ
thức nơng nghiệp và hình thái sinh hoạt văn hóa cộng đồng cơ bản
của họ phải là những hội mùa.
Tuy lễ hội liên quan đến canh tác nông nghiệp rất phổ biến,
nhưng đến nay thật khó cho ai muốn tìm một lễ hội nơng nghiệp
thuần túy, bởi các lễ hội này đã được đan xen, hòa trộn với loại hình
lễ hội khác, mà có lẽ sâu đậm hon cả là lễ hội phản ánh lịch sử.
Điều kiện tự nhiên ảnh hưởng rất lớn đến văn hóa, nhưng điều kiện
xã hội và lịch sử cũng là những yếu tố quyết định, chi phối không
nhỏ đến các đặc điểm tâm lý và tính cách của người Việt ở châu thổ
Bắc Bộ. Thực tế ấy đã để lại dấu ấn đậm nét trong văn hóa của

người dân. Do vậy, họ tổ chức lễ hội vốn để phản ánh hiện thực
cuộc sống, phản ánh những ước mơ và quan điểm của con người,
nên sự đan xen, hòa quyện những yếu tổ lịch sử vào lễ hội nơng
nghiệp là tất yếu. Có thể kể tới những lễ hội như: hội Đền Hùng,
hội Hoa Lư, hội G ióng,... mà nhân dân cả nước biết đển, đều gắn
với những nhân vật lịch sử, với thần tích, truyền thuyết, lai lịch,
cơng trạng của các anh hùng.
Lễ hội dân gian được diễn ra hàng năm trong hầu hết các làng
xã và có những lễ hội lớn khơng chỉ thu hút người dân trong làng,
110


mà là dân trong vùng, liên vùng, cả nước. Theo các nhà nghiên cứu,
ở miền Bắc có 72% lễ hội trong năm diễn ra từ tháng 12 đến tháng
3 âm lịch hàng năm. Điều này rất có ý nghĩa đối với hoạt động du
lịch của nước ta, vì thời điểm này là thời điểm du lịch biền vắng
khách và du lịch lề hội cũng làm hạn chế tính mùa vụ cúa du lịch
biển, góp phần đa dạng sản phấm du lịch.
Để mơ tả một lễ hội dân gian, ta có thế thực hiện theo các bước sau:
- Xác định tên gọi của lễ hội
- Không gian diễn ra lễ hội
- Thời gian diễn ra lễ hội
Lịch sử phát triển của lễ hội, các nhân vật được tôn thờ, các sự
kiện văn hóa lịch sử gắn với lễ hội.
Quy mơ của lễ hội m ang tính quốc gia hay địa phương
Các giá trị văn hóa, phong tục tập quán diễn ra trong lễ hội, các
trò chơi dân gian, các hoạt động văn hóa nghệ thuật được tổ chức.
- Giá trị với hoạt động du lịch
Thực trạng của việc tổ chức và khai thác lễ hội phục vụ nâng
cao đời sống tinh thần của nhân dân, bảo tồn, phát huy truyền thống

văn hóa, phát triển du lịch
*

V í dụ: M ơ tả lễ hội đền Xà (làng Xà Ngọt, xã Tam G iang,

h u yện Y ên Phong, tỉnh B ắc Ninh).

Ở vùng ven sông c ầ u , tỉnh Bắc Ninh với mật độ dày đặc các
làng thờ thánh Tam Giang thì gần như mọi lễ hội nơi đây đều liên
qiuan đến hai nhân vật huyền sử này. Đền Xà thuộc làng Xà Ngọt,
x ã Tam Giang, huyện Yên Phong, tỉnh Bắc Ninh cũng là một trong
nlhững trung tâm thờ thánh Tam Giang. Theo truyền thống trước
đây, lễ hội được tổ chức từ ngày mồng 10 tháng Tư đến ngày 15
tháng Tư (Âm lịch) hàng năm. Kỷ niệm ngày hóa cua nhị vị thánh
T am Giang: Trương Hống, Trương Hát.
111


Lễ hội Đền Xà được hai làng Xà Đông và Xà Đoài cùng lo liệu.
Ngay từ đầu tháng dân làng đã họp để bầu ra những vị cai đám chịu
trách nhiệm chính trong việc tổ chức lễ hội. Cũng giống như nghi lễ
mở đầu hầu hết các lễ hội thuộc vùng châu thổ Bắc Bộ, lễ rước nước
từ sông Cầu đến đền Xà để làm lễ mộc dục và lễ gia quan diễn ra long
trọng. Sau đó là lễ rước nhị vị thành hồng tị đền Xà về đình làng. Đi
đầu đám rước là đoàn cầm cờ ngũ sắc, tiếp theo là đội kéo xe song mã
(gồm một ngựa hồng, một ngựa bạch) theo quan niệm của dân thì xe
song mã tượng trưng cho ngựa chiến của nhị vị thánh Tam Giang.
Theo sau là kiệu bát cống. Trên kiệu có đặt hòm sắc phong của các
triều đại phong kiến ban cho nhị vị Đức thánh Tam Giang. Kế đến là
phường bát âm, rồi các quan viên áo mũ chỉnh tề. Cuối cùng là dân

làng và khách thập phương tới tham dự lễ hội.
Sau khi rước bài vị thánh vào ngự trong đình, các nghi lễ được
tiến hành đầy đủ và trang nghiêm trong hai giờ. Nhưng nhắc tới lễ
hội đền Xà còn phải nhắc đến trò Bơi chải. Chải được làm bàng gồ
Chò dài khoảng 30m, bề ngang từ 80cm đến lm . Đầu và đi chải
được uốn theo hình đầu rồng và đuôi rồng. Các chàng trai tham gia
thi bơi chải phải qua một cuộc tuyển chọn kỹ lưỡng. Họ phải là trai
tân, khoẻ mạnh, biết bơi lội và đặc biệt bơi chải giỏi, gia đình phải
hịa thuận êm ấm, làm ăn phát đạt và chàng trai đó khơng mắc lỗi gì
với làng trong năm. Điểm xuất phát của cuộc thi bơi chải được bắt
đầu ở cửa đền Xà và đích đến là đầu bến đị Như Nguyệt. Chải nào
thắng sẽ được làng trọng thưởng. Chải muốn bơi nhanh phái cần sự
hịa nhịp của tồn đội. Ngồi những tay bơi, mồi chải còn phải kén
hai người (thường là bậc đàn anh, có kinh nghiệm): M ột người cầm
trống khẩu đứng ở giữa chải để giữ nhịp sao cho đều để khỏi lạc tay
chèo và một người cầm lái đứng ở cuối chải. Người này cầm cả vận
mệnh của chiếc chải trong tay, chải đi nhanh hay chậm là do nhiệm
vụ của người lái, phải giữ lái cho chải đi thẳng, phải lựa tránh
những chải khác m à vẫn vượt lên đầu, lại có lúc quay, khi lượn,
phải lựa cho chải theo lái. Với từng ấy khó khăn người cầm lái phải
đứng cho vững và luôn chú ý tới hiệu lệnh của người cầm trịch. Các
112


tay chái thì hết sức chú ý vào cuộc hơi. tay phải hơi cho đêu và tai
phai nghe tiếng trống.
Lễ hội Bơi chải ở đền Xà cũng giống như nhiều lỗ hội Bơi chải
khác ở vùng châu thổ Bắc Bộ. thường được tổ chức trong khoảng
thời gian từ tháng Ba đến tháng Năm (Ảm lịch) như: hội bơi chai ư
đình Đăm, (xã Tây Tựu, huyện Từ Liêm, thành phố Hà Nội) mở từ

mồng 9 đến ngày 12 tháng Ba, hội Bạch Hạc (thành phố Việt Trì,
tỉnh Phú Thọ) đua thuyền trên sông Lô ngày mồng 10 đến ngày 13
tháng Ba,... trùng hợp với đầu mùa mưa ở miền Bắc. đầu mùa làm
ăn ở vùng đồng mùa thuộc châu thổ Bắc Bộ ngày xưa. Hình ảnh
những tay chèo nhịp nhàng bơi trong tiếng trống, tiếng chiêng vừa
mang ý nghTa biểu trưng sức mạnh thi tài thượng võ, vừa thav thế
cho lời cầu nguyện cúa người dân về những cơn mưa dông đầu mùa
đến đúng lúc để cây lúa có thế "phất cờ mà lên”.
3.2.1.2. Nghê và làng nghê thu công truy én thơng
Việt Nam là nước có nhiều làng nghề và làng nghề thu công
truyền thống nổi tiếng. Nghệ thuật sán xuất các sản phâm. những
giá trị văn hóa, lịch sử của các làng nghề thủ cơng truyền thống có
sức hấp dẫn lớn, góp phần tạo ra sự đa dạng, đặc sắc, khả năng cạnh
tranh của sản phẩm du lịch nước ta.
Theo tiêu chí làng nghề nơng thơn Việt Nam: '‘Làng nghề là
làng có trên 30% tổng số dân tham gia sản xuất các sán phấm phi
nông nghiệp, tổng doanh thu do hoạt động sản xuất chiếm trên 50%
tổng doanh thu của cả làng".
Hiện nay cả nước có 1450 làng nghề, châu thố Bắc Bộ chiếm
67,3% , miền Trung chiếm 20.5% và miền Nam chiếm 12,2%. Gồm
6 loại hình chủ yếu: Chế biến thực phẩm và dược liệu có 197 làng
(13,59% ); Ươm tơ. dệt vải, đồ da có 173 làng (11.93%); Thủ cơng,
nnỹ nghệ, thêu ren có 618 làng (62.1%); Các nghề khác có 341 làng
(2 3 ,5 2 % )(l).

(l) Đ ặng Kim Chi, Sđd, tr. 21.

113



-

Nghề chạm khắc đá: Từ thời đồ đá cũ, cách ngày nay khoảng

30 vạn năm, những người cổ đại trên thế giới cũng như ở Việt Nam
đã bắt đầu chế tác những công cụ bằng đá thô sơ. Trái qua thời kỳ đồ
đá nhiều công cụ bằng đá cuội đã được ghè đẽo, những bức tranh
chạm khắc đá đã được tìm thấy ở các di chi thuộc nền văn hóa Hịa
Bình - Bắc Sơn. Đến thời kỳ đồ đá mới và sơ kỳ kim khí, người Việt
đã chế tác được nhiều công cụ sản xuất, đồ trang sức bàng đá tinh
xảo như rìu lưỡi xéo (Hoa Lộc - Thanh Hóa), rìu bơn, các bàn mái,
chày nghiền, vịng tay, khun tai, tượng bằng đ á ...
Vì vậy, đến nay nghề chạm khắc đá và các làng chạm khẳc đá
vẫn được bảo tồn, phát triển tại nhiều làng ở nước ta, tiêu biểu như:
Kim Chủ (Kim Môn - Hải Dương); làng Nhồi (tức An Hồng Thanh Hóa); làng Quan Khái (Hịa Hải - Đà Nằng) và rải rác ở địa
phương Ninh Bình, Thừa Thiên Huế, Biên H ò a...
- Nghề và làng nghề đúc đồng: N ghề đúc đồng xuất hiện ở

nước ta rất sớm. Các sản phẩm đồ đồng như: công cụ sản xuất,
vũ khí, đồ dùng, đồ trang sức, tượng đồng, tiêu biếu là trống
đồng Đơng Son được tìm thấy trong thời đại đồng thau cúa
nền văn hóa Đơng Sơn, Sa Huỳnh đã chứng tỏ trình độ kỹ
thuật đúng đồng tiên tiến, tinh xảo, tư duy triết học và óc thấm
mỹ tinh tế của các nghệ nhân nước ta.
Ngày nay, nghề đúc đồng vẫn được phát triển tại nhiều địa
phương ở nước ta như: làng Ngũ Xá (Hà Nội); Phường Đúc
(Huế); làng Phương Điện (Điện Bàn - Quáng Nam ); làng Trà
Đúc (Thanh H ó a)...
- N ghề và làng nghề sản xuất gốm: Việt Nam là nước có nghề


sản xuất gốm phát triển rực rỡ và lâu đời. Mồi thời kỳ, ở nước
ta lại có những loại men gốm, đồ vật gốm mới được chế tác.
Đến nay nhiều địa phương vẫn cịn bảo tồn. khơi phục được
nghề thuật sản xuất gốm truyền thống, với nhiều mầu mã độc
đáo, chất lượng, hấp dần khách du lịch như: Bát Tràng (Hà
114


Nội); Hương Canh (Vĩnh Phúc); Đông Triều (Quáng Ninh);
Thổ Hà (Bắc Giang); Biên Hòa (Đồng Nai): Thanh Hà (Hội
An); Lò Chum (Thanh H óa)...
- Nghề chạm khắc gỗ: Là đất nước có khí hậu nhiệt đới. gió
mùa, vật liệu tre gỗ sẵn có, do vậy người dân đã sáng tạo, chế
tác và không ngừng phát triển nghề và làng nghề chạm khẳc
gồ. Xây dựng và điêu khắc đinh, đền, chùa, miếu, nhà ở ...
Trong đó có thể kể đến các làng: Đồng Kỵ (Bắc Ninh); Đông
Minh (Vĩnh Bảo - Hà Nội); La Xuyên, Yên Ninh (Nam Định);
Kim Bồng (Quảng Nam); Nhị Khê (Thường T ín)...
- Nghề chế tác vàng bạc: Nghề chế tác vàng bạc còn được gọi là
nghề kim hoàn. Cái tên “kim hoàn" mãi đến thế kỷ VI mới xuất
hiện, do 3 anh em họ Trần đều là thợ giỏi: Trần Hoa, Trần
Điện, Trần Điều (Tổ nghề làng kim hồn Định Cơng (Hà Nội)
và Sài Gịn - Chợ Lớn)1 mở cửa hiệu lấy tên là "kim hoàn", về
sau các thợ vàng bạc đều gọi cứa hàng mình là "kim hoàn, sau
gọi chung cho nghề chạm vàng bạc. Nghề chạm vàng bạc ở
nước ta xuất hiện và phát triển sớm, nhưng phải từ thế kỷ VII
trở đi mới phát triển nhiều. Hiện nay, nước ta vẫn còn một số
làng nghề bảo tồn được nghệ thuật chế tác vàng bạc với nhiều
loại sản phẩm đồ trang sức, trang trí... đạt trình độ nghệ thuật
tinh xảo, hấp dẫn du khách, có thể phát triển thành các điếm du

lịch làng nghề, phố nghề.
- Nghề dệt và thêu ren: Theo truyền thuyết thì nghề dệt ở nước ta
đã phát triển khá sớm, có nhiều vị cơng chúa, ngun phi ở nước
ta có cơng trong việc phát triển, trấn hưng nghề này. Có thể kế
đến một số làng dệt như: Vạn Phúc (Hà Đông - Hà Nội); La Khê
(Hà Đông - Hà Nội); cẩm Kim (HỘI An - Đa N ằng)... Cùng với
nghề dệt lụa, nghề thêu ở nước ta cũng có từ thời kỳ đầu Công

(l) Bùi Văn V ượng, Sđd, trang 4 1 5 - 4 1 8 .

115


×