GVHD: ĐINH THỊ THU OANH
BỘ CÔNG THƯƠNG
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ
TP.HỒ CHÍ MINH
KHOA NGOẠI THƯƠNG
ﻲ.. ﻲ.. ﻲ
ĐỀ TÀI
NGUYÊN CỨU MƠI TRƯỜNG VĂN HĨA CỦA
MYANMAR VÀ RÚT RA BÀI HỌC KINH NGHIỆM KHI
HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Ở MYANMAR
Môn: QUẢN TRỊ KINH DOANH QUỐC TẾ
Giảng Viên: ĐINH THỊ THU OANH
Lớp: LT22F001
Nhóm 2
GVHD: ĐINH THỊ THU OANH
PHỤ LỤC
I.
TỔNG QUAN VỀ MYANMAR........................................................................................................3
II. CÁC YẾU TỐ VĂN HĨA CỦA MYANMAR..................................................................................4
1. Tơn giáo..............................................................................................................................................4
1.1. Phật giáo.....................................................................................................................................4
1.2. Thiên chúa giáo..........................................................................................................................5
1.3. Hồi giáo.......................................................................................................................................5
2. Ngôn ngữ............................................................................................................................................6
3. Giá trị và thái độ................................................................................................................................6
4. Phong tục và cách cư xử....................................................................................................................7
4.1. Trang phục..................................................................................................................................7
4.2. Đặt tên.........................................................................................................................................8
4.3. Việc hiếu, hỉ.................................................................................................................................8
4.4. Giao thông...................................................................................................................................8
5. Thẩm mỹ.............................................................................................................................................9
5.1. Ăn trầu........................................................................................................................................9
5.2. Thoa Thanakha........................................................................................................................10
6. Giáo dục............................................................................................................................................11
7. Những yếu tố văn hóa khác.............................................................................................................11
7.1. Ẩm thực.....................................................................................................................................11
7.2. Nghệ thuật.................................................................................................................................12
7.2.1. Văn học..............................................................................................................................12
7.2.2. Âm nhạc.............................................................................................................................13
7.2.3. Nghề truyền thống............................................................................................................14
7.3. Lễ hội.........................................................................................................................................18
8. Văn hóa doanh nghiệp.....................................................................................................................23
III. MƠI TRƯỜNG KINH TẾ TẠI MYANMAR................................................................................25
1. Ưu đãi cho các nhà đầu tư...............................................................................................................26
2. Thuận lợi và khó khăn khi đầu tư vào Myanmar..........................................................................31
2.1. Thuận lợi:..................................................................................................................................31
2.2. Khó khăn...................................................................................................................................32
IV. BÀI HỌC KINH NGHIỆM KHI ĐẦU TƯ TẠI MYANMAR......................................................33
Nhóm 2
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
I. TỔNG QUAN VỀ MYANMAR.
(Quốc kỳ)
Tênđầyđủ:
Vị trí địa lý:
Thủ đơ:
Đứng
đầunhànước:
Thể chế chính trị:
Thành viên của các
tổ chứcquốctế:
Diệntích:
Khí hậu:
Tàingun:
Nhóm 2
(Quốc huy)
Cộng hịa Liên bang Myanmar.
Thuộc Đơng Nam Á là một quốc gia hình kim cương kéo
dài 925km từ Đông sang Tây và 2.100 km từ Bắc vào Nam.
Ởphía đơng, Giáp biên giới với Trung Quốc, Lào và Thái
Lan, Bangladesh và Ấn Độ ở phía bắc và Ấn Độ Dương ở
phía Tây và phía Nam.
Nay Pyi Taw, là thủ đơ hành chính, từ tháng 1/2006, trước
đó là Yangon.
Tổng thống Htin Kyaw (30/3/2016), Phó Tổngthống:
Myint Swe, và Henry Van Thio.
Cộng hòa đại nghị
UNESCO, WHO, UN, WTO, ADB, ILO, IMFv…v
676.578 km2
Nhiệt đới gió mùa, mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 9, mùa
khơ từ tháng 12 đến tháng4.
Dầu khí, gỗ xẻ, thiếc, kẽm, đồng, vonfram, chì, than đá, đá
vơi, đá quí, khí tự nhiên, thủy năng,…
3
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
Dânsố:
Mật độ dân số:
Tuổi thọ
trungbình:
Tiền tệ:
Dântộc:
Quốc khánh:
Hệ thống pháp
luật:
53.504.245 (Tháng 10/2017), chiếm 0,73% dân số thế giới.
82 người/km2
64,9 tuổi.
đơn vị tiền tệ Kyat (K) – phát âm là “chat”, gồm có các
mệnh giá: 5000K, 1000K, 500K, 200K, 100K, 50K, 20K,
10K, 5K và 1K; 1Kyat = 100 Pyat.
Burman (68%), Shan (9%), Karen (7%), Rakhine (4%),
Mon (2%) và các dân tộc khác chiếm 10%.
04/01/1948
Dựa trên thông luật của Anh
Lịch sử hình thành Myanmar
Myanmar có một bề dày lịch sử dài, rực rỡ và tương đối phức tạp. Người Miến - dân
tộc đông nhất ở Myanma hiện đại - không phải là những chủ nhân đầu tiên của Myanma.
Trước khi người Miến di cư tới và lập nên các triều đại, từ thế kỷ thứ 2 TCN người
Pyu từ Vân Nam đã tới sinh sống dọc châu thổ sông Irrawaddy; thế kỷ thứ 4 CN, người
Pyu đã thành lập các vương quốc xi theo phía Nam Myanma hiện đại như Pyay. Xa
hơn về phía Nam là người Môn, di cư từ vương quốc Hariphunchai và vương
quốc Dvaravati ở phía Đơng đến định cư, thành lập các vương quốc dọc vùng bờ biển hạ
Miến vào đầu thế kỷ thứ 9.
Người Miến di cư tới thượng lưu châu thổ sông Irrawaddy đầu thế kỷ thứ 9 từ vương
quốc Nam Chiếu. Họ đã thành lập vương quốc Pagan (1044–1287), vương quốc này lần
đầu tiên đã thống nhất được vùng châu thổIrrawaddy và bình định được các vùng ngoại
biên.
Ngơn ngữ Miến và văn hóa của nó dần thay thế Pyu và Môn trong suốt giai đoạn này.
Sau sự sụp đổ của triều đại Pagan năm 1287 bởi quân xâm lược Mông Cổ, vương quốc
này bị chia nhỏ thành các vương quốc Ava, vương quốc Hanthawaddy, vương quốc
Arakan và liên minh các tiểu quốc Shan. Các vương quốc này ln kìm hãm lẫn nhau
bằng các liên minh bất định, gây chiến với nhau liên miên.
Vào nửa cuối thế kỷ 16, triều đại Toungoo (1510–1752) đã tái hợp nhất đất nước và lập
ra đế chế lớn nhất trong lịch sử Đông Nam Á, tuy nhiên nó chỉ tồn tại trong 1 giai đoạn
ngắn ngủi. Các vua Toungoo đã đưa ra các cải cách về hệ thống hành chính và kinh tế,
điều này đã đưa đến giai đoạn ổn định, thái bình, và thịnh vượng cho vương quốc vào thế
kỷ 17 và đầu thế kỷ 18.
Vào cuối thế kỷ 18, triều đại Konbaung đã khôi phục lại vương quốc, tiếp tục những
cải cách của triều Toungoo, điều này mang lại quyền lực thống trị với các vùng lãnh thổ
xung quanh, và đã sản sinh ra nhà nước văn hiến bậc nhất tại Đông Nam Á. Vương triều
Konbaung trong quá trình phát triển đã gây chiến với tất cả các nước láng giềng. Cuối
cùng vương quốc bị biến thành thuộc địa của Đế quốc Anh sau 6 thập kỷ xung đột.
Nhóm 2
4
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
Sự thống trị của người Anh mang lại những biến đổi mạnh mẽ và dai dẳng lên xã hội,
kinh tế, văn hóa, hành chính, lối sống của người dân. Thực dân Anh đã cố tình đưa ra
những khác biệt giữa các nhóm tộc người nhằm gây chia rẽ, chính vì thế kể từ sau khi
độc lập năm 1948 đã rơi vào cuộc nội chiến dai dẳng nhất mà đến nơi vẫn chưa hòa giải
hết được.
Năm 1988, Cuộc nổi dậy 8888 đẩy đất nước tới bờ vực cách mạng. Để đối phó,
Tướng Saw Maung tiến hành một cuộc đảo chính. Ơng thành lập Hội đồng Khơi
phục Trật tự và Luật pháp Liên bang (SLORC). Myanmar quay trở lại quốc hiệu
Liên bang Myanmar. Năm sau, quốc hiệu bằng tiếng Anh đổi từ Union of Burma
thành Union of Myanmar. Năm 1989, thiết quân luật được ban bố sau những cuộc
biểu tình rộng lớn. Các kế hoạch bầu cử Quốc hội đã hoàn thành ngày 31 tháng 5
năm 1989. Năm 1990, lần đầu tiên các cuộc bầu cử tự do được tổ chức trong vịng
30 năm. Liên đồn Quốc gia vì Dân chủ, đảng của bà Aung San Suu Kyi, thắng 392
trong tổng số 485 ghế, nhưng các kết quả của cuộc bầu cử đã bị SLORC huỷ bỏ và
họ từ chối giao lại quyền lực. SLORC đổi tên Miến Điện (Burma) thành Myanmar
năm 1989. Dưới sự lãnh đạo của Than Shwe, từ năm 1992 chính quyền quân sự đã
tiến hành các thoả thuận ngừng bắn với các nhóm du kích thiểu số. Năm 1992,
SLORC tiết lộ các kế hoạch thành lập một hiến pháp mới thông qua Hội nghị Quốc
gia, bắt đầu ngày 9 tháng 1 năm 1993. Năm 1997, Hội đồng Khôi phục Trật tự và
Luật pháp Liên bang được đổi tên thành Hội đồng Hịa bình và Phát triển Liên bang
(SPDC). Ngày 23 tháng 6 năm 1997, Myanmar được chấp nhận gia nhập Hiệp hội
các quốc gia Đông Nam Á. Hội nghị Quốc gia tiếp tục được triệu tập và hỗn lại.
Nhiều đảng chính trị lớn, đặc biệt Liên đồn Quốc gia vì Dân chủ, đã bị trục xuất và
có ít tiến bộ đã được hồn thành. Ngày 27 tháng 3 năm 2006, hội đồng quân sự đã di
chuyển thủ đô đất nước từ Yangon tới một địa điểm gần Pyinmana, đặt tên chính
thức cho nó là Naypyidaw, có nghĩa "vùng đất của những ơng vua". Năm 2010,
quốc hiệu của Myanmar đổi thành Cộng hòa Liên bang Myanmar (tiếng Anh:
Republic of the Union of Myanmar).
II. CÁC YẾU TỐ VĂN HĨA CỦA MYANMAR.
1. Tơn giáo
Myanmar có nhiều tơn giáo khác nhau, trong đó đạo Phật chiếm 89,3% số dân;
Thiên chúa giáo 5,6%; đạo Hồi 3,8%; đạo Hindu 0,5%; các tôn giáo khác như Do thái
giáo, Đa thần giáo, Vật linh giáo,... chiếm khoảng 0,8% số dân. Mọi cơng dân
Myanmar được tự do tín ngưỡng, tùy theo tơn giáo khác nhau nhưng dân chúng vẫn
sống hịa bình, bằng chứng là những kiến trúc của tôn giáo khác nhau cùng được xây
dựng và tôn trọng tại những thành phố lớn.
1.1. Phật giáo.
Người dân Myanmar sùng đạo Phật, tại bất kỳ thành phố, thị xã nào đều có ít nhất
Nhóm 2
5
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
một ngôi chùa và một tu viện phật giáo. Đạo Phật có ảnh hưởng rất lớn ở Myanmar,
cuộc sống của người dân không tách rời các nghi lễ Phật giáo. Mùa chay Phật giáo
cũng được ghi trên lịch của Myanmar là ba tháng mùa mưa, tương đương với thời
gian từ tháng 7 đến tháng 10 dương lịch. Trong thời gian đó có các hoạt động ăn chay,
cưới xin, chuyển nhà thường được hoãn lại. Trong các tín đồ Phật giáo ở Myanmar có
99% là người Miến, Shan và Karen. Cả nước Myanmar có khoảng 500.000 sư nam và
sư nữ (tnag và ni). Đạo Phật ở Myanmar theo dòng Theravada, là Phật gáo nguyên
thủy – tức dịng Phật giáo Tiểu thừa, giáo phái Nam Tơng. Sự tu hành của các sư cũng
giống như Phật giáo tại Thái Lan, Lào, Xri Lanca, Campuchia: các sư không ở chùa
mà ở thiền viện, buổi sáng hằng ngày đi khất thực, không ăn chay và chỉ được ăn từ
khi mặt trời mọc đến trước 12h trưa, sau 12h trưa đến sáng hôm sau tuyệt đối không
được ăn. Dưới thời thủ tướng Ne Win, Phật giáo tại Myanmar từng được đưa vào
Hiến pháp là quốc đạo, nhưng các chính quyền quân sự Myanmar tiếp theo đã xóa bỏ
điều khoản này để đảm bảo công bằng về tôn giáo. Cả nước Myanmar có hàng vạn
đền, chùa, Tháp, nằm rải rác trên khắp đất nước. Vì vậy, cũng như Campuchia,
Myanmar cịn được gọi là đất nước Chùa tháp. Chùa tháp tập trung nhiều nhất ở thành
phố Bagan, gồm khoảng hơn 4000 đền, chùa, tháp lớn nhỏ trên diện tích khoảng
40km2.Nhiều chùa, tháp được xây dựng từ đầu thế kỷ nguyên Bagan (thế kỷ XI).
Nhiều chùa tháp của Myanmar thường được xây trên các đỉnh núi cao hơn mặt nước
biển hàng nghìn mét để cất giữ, bảo quản xá lợi Phật và các Phật tích khác. Các ngọn
tháp cất giữ xá lợi Phật là những cấu trúc liền khối hình nón với một căn phòng chứa
báu vật ở bên dưới. Khu nền bao quanh ngọn tháp là nơi dành cho hành khách hương
cầu nguyện, thiền định, tụng kinh hay dâng hương. Những kiến trúc Phật giáo khác
gồm có: tượng Phật – được dựng ngồi trời hay dưới một mái che, Phật đường – là
nơi tổ chức thuyết pháp và các buổi lễ. Ở lối vào những ngơi đền, chùa lớn thường có
nhiều quầy bán hoa tươi, cành lá, nến, vàng thếp, những chiếc dù, quạt nhỏ bằng giấy
màu để dâng lên Đức Phật. Giày dép của khách thập phương phải bỏ bên ngoài mỗi
khi bước chân vào đền, chùa. Myanmar cũng có rất nhiều thiền viện – là nơi ở của các
nhà sư. Các Phật tử trong và ngoài nước thường tới thiền viện để tỏ lịng kính trọng và
dâng đồ bố thí, cúng dường như thức ăn, tiền bạc, áo cà sa và vật dụng cho các sư.
Phật tử có thể lưu lại cả tuần, cả tháng, cả năm trong thiền viện để học thiền, nghe
thuyết pháp hay nghiên cứu Phật pháp. Nhiều nghi lễ tơn giáo, trong đó có lễ thụ giới
và lễ dâng cà sa,… được tổ chức rất trang trọng tại các thiền viện. Một số khu vực
trong thiền viện cấm phụ nữ không được lui tới. Vào các kỳ nghỉ hè hằng năm, học
sinh từ 6 đến 16 tuổi cũng tập trung ở đây làm lễ xuống tóc, đổi áo và dự một khóa tu
khoảng 1 tháng để học các giới luật, nghe thuyết pháp và tu thiền. Chùa Shwedagon
(chùa vàng) ở Yangon là chùa tháp lớn nhất và đẹp nhất Myanmar, được hình thành từ
2.500 năm trước và được các triều đạo phong kiến Miến Điện tu bổ, mở rộng dần.
Chùa Shewdagon tọa lạc trên một quả đồi cao, rộng, trên đỉnh tháp gắn nhiều kim
cương, hồng ngọc, bích ngọc và các loại đá quý, chùa được dát vàng nên lấp lánh
dưới ánh mặt trời vào ban ngày và ánh điện về ban đêm. Ở Yangon cịn có chùa Phật
nằm, chùa Phật ngọc, chùa tóc Phật, chùa răng Phật, v.v.. rất độc đáo. Chùa Kyaikhtyo
Nhóm 2
6
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
ở bang Môn là kỳ quan có một khơng hai trên thế giới. Chùa được xây trên tảng đá
lớn màu vàng chênh vênh trên vách núi cao trơng rất ngoạn mục. Myanmar có nhiều
học viện Phật giáo ở các thành phố lớn, nơi đã và đang đào tạo các sư có trình độ cao
về Phật học. Myanmar cịn có trường đại học Phật giáo quốc tế tại Yangon, dành cho
sinh viên từ nhiều nước như Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc, Xri Lanca, Nêpan,
Thái Lan, Campuchia, Lào,.. đến học miễn phí từ bậc đại học đến tiến sĩ.
1.2. Thiên chúa giáo
Thiên chúa giáo lần đầu tiên gia nhập Myanmar khoảng đầu thế kỷ XVII, hiện
chiếm khoảng 5,6% số dân Myanmar. Phần lớn tín đồ thiên chúa giáo là người Keren,
Chin, Kachin, và người Miến theo Thiên chúa giáo dòng Baptis. Những thùa sai
Thiên chúa giáo hoạt động rất tích cực từ thời thuộc địa cho đến giữa những năm
1960, họ thành lập các trường học, bệnh viện và các trung tâm cứu trợ xã hội. Sau
năm 1962, những cơ sở này bị chính quyền Myanmar quốc hữu hóa.
1.3. Hồi giáo
Đạo Hồi tại Myanmar chiếm 3,8% số dân và chủ yếu tập trung ở bang Rakhine,
phía tây Myanmar. Người hồi giáo dòng Rohingya sống chủ yếu ở các quận
Maungdau, Buthidaung và Rathedaung – bang Rakhine. Từ nhiều năm nay, những
khu vực này vẫn thường xảy ra xung đột quyết liệt giữa các giáo phái với nhau, đặc
biệt là tín đồ Hồi giáo dịng Rohingya với tín đồ Thiên chúa giáo và Phật giáo.
Các tôn giáo khác gồm Do thái giáo, Đa thần giáo, Linh vật giáo,... chiếm khoảng
0,8% số dân Myanmar.
2. Ngôn ngữ
Tiếng Miến Điện hay tiếng Myanmar thuộc nhóm Tạng – Miến là ngơn ngữ chính
thức ở Myanmar, về mặt ngơn ngữ học có liên quan tới tiếng Tây Tạng và tiếng Trung
Quốc. Đây là tiếng mẹ đẻ của người Myanmar, người Rakhine. Tiếng Myanmar được
dùng như là tiếng mẹ đẻ của 32 triệu người trên thế giới và là ngôn ngữ thứ hai của các
dân tộc thiểu số ở Myanmar.
Tiếng Myanmar có thể được phân thành hai loại: Loại "chính thống" thường thấy
trong văn bản, báo chí và truyền thanh, loại thứ hai là văn ngôn thường thấy trong hội
thoại hàng ngày. Chữ viết trong tiếng Myanmar có nguồn gốc từ chữ viết của tiếng
Mơn, Nó được viết bằng ký tự gồm các chữ hình trịn và nửa hình trịn. Bảng chữ cái
này được phỏng theo ký tự Môn, ký tự Môn được phát triển từ ký tự nam Ấn Độ trong
thập niên 700.
Những văn bản sớm nhất sử dụng ký tự được biết tới từ thập niên 1000. Ký tự này
cũng được sử dụng để viết chữ Pali, ngôn ngữ thiêng liêng của Phật giáo Tiểu thừa.
Ký tự Miến Điện cũng được dùng để viết nhiều ngôn ngữ thiểu số khác, gồm Shan,
nhiều thổ ngữ Karen và Kayah (Karenni); ngồi ra mỗi ngơn ngữ cịn có thêm nhiều
ký tự và dấu phụ đặc biệt khác.
Tiếng Myanmar sử dụng nhiều từ thể hiện sự kính trọng và phân biệt tuổi tác. Xã
Nhóm 2
7
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
hội Myanmar truyền thống rất nhấn mạnh tầm quan trọng của giáo dục. Bên trong các
ngôi làng, giáo dục do các giáo sĩ truyền dạy thường diễn ra trong các ngôi chùa. Giáo
dục trung học và giáo dục cao đẳng/đại học thuộc các trường của chính phủ.
3. Giá trị và thái độ.
Tơn kính tăng ni (tiếng Myanmar gọi là Sangha) và người già, quan tâm để trẻ em
là tập quán của người Myanmar. Khi tiếp xúc với các nhà sư, không nên bắt tay mà
chắp tay chào. Khi thăm các đền chùa và các khuôn viên tơn giáo khác của Phật giáo,
thì phải để đầu trần và đi chân đất, không đội mũ, đi giày dép, đi tất, không được mặc
quần sock, áo phông quá mỏng, váy quá ngắn vào đền chùa, cá biệt có nơi không cho
phép phụ nữ đến gần bàn thờ và trực tiếp thắp hương, không được đến gần đụng chạm
vào những vật linh thiêng trong Chùa hay Tháp Phật hoặc chổ dành riêng cho các Sư
cầu nguyện tụng kinh.Phụ nữ không được đụng chạm đến các Vị Sư tu hành, khi cúng
dường nên để 1 chiếc khăn trên tay mình vào đồ vật để tay mình khơng chạm vào
được các Sư Thầy.Cung tiến vào Hịm cơng đức là tự nguyện và tùy tâm của mọi
người.
Theo phong tục Myanmar, cần bỏ giày dép trước khi bước vào nhà. Chào nhau
kèm với một nụ cười là tập quán phổ biến của người Myanmar. Ý thức giữ gìn bản
sắc dân tộc: vẫn ln mặc trang phục truyền thống khi ra đường. Con người Myanmar
hiền hóa, dễ mến và chân thật, đặc biệt người Myanmar rất cảm tình với người Việt.
Con người Myanmar được biết đến với sự thân thiện, cần cù và rộng lượng, có lẽ là vì
họ học theo giáo lý đạo Phật hình thành nên tính cách con người có đạo đức tốt.Người
Myanmar rất sợ chuyện ngoại tình dẫn đến ly hơn vì họ cảm thấy chuyện đó rất xấu
hổ.
Để trở thành người đẹp, ngay từ lúc lên 5 tuổi, người con gái phải có một dây đai
thắt lưng, sau đó là thêu 30 cái thắt lưng nữa. Khi chọn người con gái để thành gia
thất, độ to nhỏ của vòng bụng người con gái cũng là một trong những tiêu chuẩn quan
trọng đối với người con trai Myanmar.
Người dân Myanmar rất yêu chim chóc và thiên nhiên. Con trâu cũng được trọng
vọng. Gặp phải một chú trâu trên đường, bất kể già trẻ trai gái đều phải nhường
đường cho chú trâu ấy qua trước. Với khoảng 90% dân số Myanmar là Phật tử. Vậy
nên họ rất giàu Phật tính. Người Myanmar giàu tâm. Tâm họ luôn mở rộng vô biên.
Khắp nơi thấy có các nhà nghỉ Resting house. Người ta làm ra để ai mệt thì nghỉ.
Những ngơi nhà cơng cộng này nhiều lắm và luôn rất sạch. Người Myanmar giàu sự
chăm lo nơi cơng cộng để những bình nước, có nắp đậy, có cốc để uống khắp nơi.
Trên các lối đidọc theo các con đường leo lên núi, lên chùa. Đây là những người dân
địa phương, những người xung quanh tự nguyện làm việc này.
Khi đi thăm các làng bản nơng thơn, miền núi, nên tìm hiểu trước và thể hiện sự
tôn trọng đối với truyền thống và tập quán của địa phương. Khi quay phim chụp ảnh
người dân địa phương, thì nên tránh các hình ảnh ghi lại sự yếu kém lạc hậu của họ,
cần tìm hiểu quy định về thời gian, địa điểm được chụp ảnh nếu có, nên xin phép
người được chụp ảnh, quay phim.
Nhóm 2
8
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
4. Phong tục và cách cư xử
4.1. Trang phục.
Chính phủ của Myanmar khuyên khích người dân nơi đây giữ gìn bản sắc dân tộc.
Do đó Myanmar được mọi người biết đến vì sự riêng biệt, đặc trưng về trang phục
cũng như phong tục ở nơi đây.
Trang phục truyền thống của Myanmar là Longchy dành cho nam (một loại xà
rơng may kín quấn vào chính giữa) với áo sơmi hoặc Taipon (áo truyền thống) cịn nữ
thì mặc Thummy gần giống với váy Lào, Thái. Tất cả đều đi dép như dép Lào. Cả
nam lẫn nữ chỉ đi giày khi mặc Âu phục.
4.2. Đặt tên.
Người Myanmar không đặt tên theo dòng họ mà là đặt tên theo ngày sinh trong
tuần lễ, mỗi ngày trog tuần tượng trưng cho một linh vật, đó là: Phượng, Hồ, Nghê,
Voi, Thỏ, Chuột, Rắn. Cách xưng hô gắn liền vào tên, tức là thêm một mạo từ đặt ở
phía trước tên của mình, để chỉ ra giới tính, tuổi tác, thân phận và địa vị.Namthanh
niên và trẻ nhỏ tự xưng là “mao” (em trai) như biểu thị sự khiêm tốn. Đối với người
ngang vai hay anh thì thay “mao” bằng “gua”, đối với bề trên, thay “mao” bằng “u”
tức là chú, bác. Phụ nữ thì thêm “daw”, nghĩa là chị, cơ, bà. Theo thống kê, người
Myanmar thường dùng không quá 100 chữ để đặt tên, dùng những chữ này kết hợp lại
với nhau sao cho dễ gọi là được, vì vậy ở Myanmar có rất nhiều người trùng tên. Để
dễ phân biệt, thơng thường trước hoạc sau tên có thêm cơ qn, cơ quan, nghề nghiệp,
chức vụ.
4.3. Việc hiếu, hỉ.
Nhóm 2
9
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
Lễ cưới ở Myanmar khá cầu kỳ. Hai họ phải chọn vợ chồng một vị quan chức
hoặc doanh nhân phù hợp (thành đạt,hạnh phúc, có đủ con trai, con gái) quàng vòng
hoa thơm vào cổ cô dâu, chú rể tại lễ cưới để lấy may mắn và đeo nhẫn cưới cho họ
chung thủy với nhau trọn đời. Tiếp đó, người chủ trì hơn lễ đọc giới thiệu tiểu sử cô
dâu, chú rể, các loại khách mời biết. Tùy điều kiện kinh tế mà lễ cưới tổ chức tiệc
mặn hay ngọt, nhưng nhất thiết phải có ca nhạc dân tộc. Khách mời được dự một phần
lớn đều gửi quà mừng bằng hiện vật, một số ít gửi quà mừng bằng tiền. Quà mừng
cưới được trưng bày ở vị trí trung tâm phịng cưới làm tăng thêm sự sang trọng của lễ
cưới. Nếu khách hàng ứng tiền thì phải bội số của 100. Hiến pháp Myanmar quy định
chế độ hôn nhân một vợ một chồng. Nhà nước khơng giới hạn số lượng con của mỗi
gia đình. Tỷ lệ hôn nhân ở Myanmar thuộc loại thấp nhất trong các nước Đơng Nam
Á. Phụ nữ Myanmar được quyền bình đẳng trong xã hội như nam giới (trừ lĩnh vực
tôn giáo) và thường được xử “ưu tiên” về tài sản khi vợ chồng ly hôn.
Tang lễ ở Myanmar được cử hành đơn giản, gia chủ mời các sư đến tụng kinh cho
linh hồn người q cố siêu thốt, sau đó làm lễ hỏa táng. Khách đến dự đám tang
không phúng viến tiền mà gửi đồ lễ (quần áo, vật dụng cho các sư), để sau đó gia chủ
cúng dường vào chùa. Phong tục Mianma không chôn người chết (địa táng) mà thiêu
xác (hỏa táng), vì vậy ở Myanmar hầu như khơng có nghĩa địa của các tín đồ Thiên
chúa giáo. Trong các gia đình Myanmar chỉ có bàn thờ phật, khơng có bàn thờ gia
tiên.
4.4. Giao thơng
Trước năm 1948, Myanmar áp dụng luật giao thông của Anh – đi bên trái đường.
Sau khi giánh được độc lập, Myanmar áp dụng luật chung của thế giới – đi bên phải
đường. Tuy nhiên, Chính phủ Myanmar cho phép lưu hành cả ơ tô tay lái trái và ô tô
tay lái phải. Luật giao thông được người dân Myanmar thực hiện rất nghiêm chỉnh dù
khong có mặt cảnh sát giao thơng. Cảnh sát giao thơng chỉ xuất hiện khi đèn tín hiệu
bị trục trặc, hoặc xảy ra tai nạn giao thông.
5. Thẩm mỹ
5.1. Ăn trầu
Myanmar là dân tộc ăn trầu nhiều nhất thế giới. Già, trẻ, lớn, bé, nam, nữ… ai
cũng ăn. Đường phố nhiều chỗ đỏ nước trầu. Người Myanmar rất thích thoa một lớp
vơi màu lên má. Có người bảo để làm đẹp, kẻ thì nói để giữ da và chống gió, người lại
nói để cầu Phật.
Cũng giống như người Việt Nam, người Myanmar cũng có tục ăn trầu. Văn hóa
nhai trầu là một nét văn hóa thú vị. Cũng khởi nguồn từ nơng nghiệp nhưng Myanmar
khơng bị hiện đại hóa quá nhiều như những đất nước Đông Nam Á hàng xóm vì thế
mà miếng trầu dân dã xuất hiện ở khắp mọi nơi trên đất nước này,từ nông thôn đến đô
thị,thế hệ già hay tầng lớp trẻ tuổi…tất cả đều xem nhai trầu như một thói quen đã vơ
hình ngấm vào cuộc sống thường nhật của họ. Dù ở bất cứ lứa tuổi nào, đàn ông, đàn
bà, trẻ già trai gái,… họ đều nhau trầu. Vì thế mà ghé đến nơi xứ sở nơi đây bạn
Nhóm 2
10
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
chẳng khó khăn mà bắt gặp hình ảnh người dân nơi đây nhai trầu. Họ lôi trầu ra nhai
bất cứ khi nào rảnh rỗi, một cô gái đang bán hàng nhai trầu, một cụ già ngồi dệt vải
nhau trầu, đi làm đồng họ nhai trầu, chơi cờ cũng nhai trầu, thậm chí dừng đèn đỏ họ
cũng mang trầu ra nhai. Cách ăn trầu của họ cũng khác, nó phụ thuộc vào thói quen
của từng người. Có người khi ăn trầu, họ nuốt ln nước trầu, có người thì khơng, họ
nhổ bỏ.
Nếu bạn thấy trên đường phố hay ngay trong những khách sạn sang trọng có
những bãi nước trầu đỏ ngắt thì đừng lấy làm ngạc nhiên. Chuyện một người nào đó
bất giác nhổ toẹt một bãi nước trầu giữa phố hãy coi đó là điều bình thường. Có thể
điều đó là khơng được hợp về sinh cho lắm. Chuyện ăn trầu ở nơi đây được xem như
việc nhiều người hút thuốc lá vậy đó, họ nhai trầu để giải khy, đàn ơng ở Myanmar
họ thích ăn trầu hơn là hút thuốc lá.
Do tập tục ăn trầu mà trầu khơng cũng là một hình thức kinh doanh của người dân
nơi đây. Đến nơi đây bạn sẽ thấy có nhiều tiệm bán trâu cau, có thể là bán trầu chưa
têm hoặc là bán trầu đã têm ở khặp mọi nơi. Thơng thường thì người dân nơi đây
thường tụ tập tại những quán bán trầu ngoài vỉa hẻ, uống nước, nhai trầu đơi khi là
đàn hát và trị chuyện với nhau.
Nếu như ở Việt Nam thì miếng trầu có cau, có trầu khơng cịn cách tạo ra miếng
trầu người Myanmar thì khác. Trầu của họ chỉ có một lá trầu phết vơi lỗng, thêm
chút thuốc lào, một miếng hột cây bản địa mà thôi, họ không dùng cau chung với trầu.
Ở Myanmar có hẳn một khu phố chuyên bán trầu với lượng khách vào ra mua bán rất
đông, đó là con phố ở Nay Pyi Taw, họ cịn chuyên phân phối trầu cau cho đại lý nữa.
Ăn trầu là một nét đẹp của người Myanmar, nó gắn liền với người dân nơi đây
vậy, họ ăn trầu để để giải khuây, để thơm miệng. Việc ăn trầu cũng làm sạch răng…
Tuy nhiên, việc loang lổ những bãi nước trầu đỏ choét ở nhiều nơi, cũng không được
đẹp mắt và hợp vệ sinh cho lắm.
5.2. Thoa Thanakha.
Thanakha là tên của một loại cây họ gỗ, được coi là đặc sản của đất nước, và
được trồng rất nhiều, đây là một nguyên liệu làm đẹp phổ biến của phụ nữ Myanmar
và làm nên nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Myanmar. Khi chế biến bột Thanakha,
người ta cắt thân cây thành các khúc và mài vào miếng đá có thấm nước. Phần bột
được mài ra này sẽ được sử dụng để bơi lên da mặt.
Thanakha là một nét văn hóa đặc trưng của dân tộc Myanmar và hằng ngày, trên
đường phố Yangon, Madalay hay thủ đô mới Nay Pyi Taw, người ta dễ dàng bắt gặp
trên... má các cô gái Myanmar. Đó là lớp bột trắng bơi lên má, mũi. Thậm chí người ta
có thể dùng bột ấy vẽ họa tiết khi dùng cho trẻ em.
Myanmar là 1 đất nước Đơng Nam Á có khí hậu nắng nóng khắc nghiệt quanh
năm, làn da bản chất của họ là nâu tối, lại đa phần là người dân lao động, họ thường
phải tiếp xúc trực tiếp với nắng gắt, nhưng làn da họ vẫn mịn màng, săn chắc và hiếm
nguời có mụn, điều này được biết do người dân Myanmar sử dụng Thanakha - nét văn
hóa đặc trưng của dân tộc Myanmar.
Nhóm 2
11
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
Thanaka đã được sử dụng bởi phụ nữ Miến Điện trong hơn 2000 năm. Nó có mùi
hương thơm hơi tương tự như gỗ đàn hương, được người Myanmar áp dụng cho
khuôn mặt như 1 truyền thống, 1 nét văn hóa đặc trưng.
Thanakha có một bề dày truyền thống quan trọng trong lịch sử Myanmar. Loại mỹ
phẩm này được sử dụng không chỉ trong cuộc sống thường ngày, mà còn được dùng
trong các dịp lễ nghi để thể hiện ngôi thứ, địa vị xã hội của những người phụ nữ. Vào
thời Myanmar còn ở chế độ quân chủ, các cung tần và thị nữ trong triều đình hằng
ngày đã phải dành ra nhiều giờ đồng hồ để chuẩn bị trước thanakha cho hoàng gia
Myanmar sử dụng, bởi vậy có thể nói Thanakha vẫn cịn tồn tại và lưu truyền về sau.
Loại thanakha màu sáng và nâu nhạt có điểm xuyết các hạt bụi vàng nhỏ li ti được
những phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu Myanmar sử dụng và được coi là loại
thanakha quý và đẹp nhất. Những cơng chúa trong hồng cung thường được dùng loại
thanakha có pha lẫn với bụi vàng lấp lánh để trang điểm. Tầng lớp bình dân thường
dùng loại thanakha có pha lẫn với những phấn hoa màu vàng của loại hoa gant gaw.
Đây là lồi hoa có hương thơm rất quyến rũ. Ngày nay, người dân Myanmar vẫn sử
dụng phấn của loài hoa này để làm thanakha.
Thanakha cũng được dùng trong những nghi lễ tôn giáo. Tại chùa Mahamuni
Buddha, một ngôi chùa được coi là thiêng liêng nhất ở Mandalay, Myanmar, hằng
sáng thường diễn ra nghi lễ rửa mặt cho Phật bằng những chiếc khăn tẩm thanakha.
Buổi lễ nào cũng có đơng người đến dự. Sau khi nghi lễ rửa mặt cho Phật kết thúc,
chiếc khăn đó sẽ được tặng cho những người đến dự làm kỷ vật cầu may. Một nghi lễ
khác được tổ chức tại Sittwe, thủ phủ bang Rakhine vào đêm giao thừa trước Ngày
Tết Té nước mừng năm mới ở Myanmar. Vào buổi tối giao thừa, các cô gái trẻ bắt đầu
nghiền vỏ cây thanakha để làm thành một loại kem mịn, trong khi các chàng trai nhảy
múa và chơi các nhạc cụ. Khi Thanakha được chế biến xong, tất cả mọi người kéo
nhau đến những ngơi chùa gần đó để làm lễ rửa mặt cho Phật.
6. Giáo dục.
Sau khi giành lại độc lập, chính phủ Myanmar rất coi trọng phát triển ngành giáo
dục. Bên trong các ngôi làng, giáo dục do các giáo sĩ truyền dạy thường diễn ra trong
các ngôi chùa. Giáo dục tiểu học miễn phí. Ở trường trung học giảng dạy bằng tiếng
Miến, ngữ thứ hai là tiếng Anh.Giáo dục trung học và giáo dục cao đẳng/đại học
thuộc các trường của chính phủ. Chất lượng đào tạo của các trường đại học Myanmar
thuộc nhóm đầu thế giới.Có hai trường đại học ở Răng-gun và Man-đa-lay; ngồi ra
cịn có các trường cao đẳng chuyên ngành: nghệ thuật, âm nhạc, sân khấu cấp quốc
gia. Có một viện võ bị quân sự.
Tỷ lệ biết đọc biết viết chính thức của dân số trưởng thành (từ 15 tuổi trở lên) ở
Myanmar năm 2017 là 93,14%. Tỷ lệ người Myanmar biết tiếng Anh rất cao. Học
sinh được học tiếng Anh ngay từ phổ thông cơ sở. Hầu hết các công chức, doanh nhân
Myanmar đều sử dụng tiếng Anh thành thạo.
7. Những yếu tố văn hóa khác.
Nhóm 2
12
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
7.1. Ẩmthực
Ẩm thực Myanmar bị ảnh hưởng nhiều từ ẩm thực Ấn Độ, Trung Quốc, Thái, và
các nền văn hóa ẩm thực của các dân tộc thiểu số khác. Ở Myanmar gạo là thực phẩm
chính và chiểm 75% trong các bữa ăn của người dân Myanmar. Bữa ăn của họ ln
kèm theo các món thịt, súp, cá, salad và rau nấu theo cách riêng của người Myanmar .
Đồ ăn của họ gần giống Thái Lan nhưng nhiều dầu, cay và mặn hơn.Mỳ và bánh mì
cũng là các món thường thấy. Ẩm thực Myanmar thường sử dụng tôm, cá, patê cá lên
men, thịt lợn và thịt cừu. Thịt bị, bị coi là món cấm kỵ, rất hiếm được sử dụng. Các
món cà ri, như masala và ớt khô cũng được dùng. Mohinga, thường được coi là món
quốc hồn Myanmar, gồm nước luộc cá trê có gia vị cà ri và hoa đậu xanh, miếnvà
nước mắm. Các loại quả nhiệt đới thường dùng làm đồ tráng miệng. Các thành phố
lớn có nhiều phong cách ẩm thực gồm cả Shan, Trung Quốc và Ấn Độ.
Ở Myanmar thường sử dụng các loại bàn có hình trịn và thấp, ln phải ngồi trên
sàn hoặc trên chiếu để thưởng thức các món ăn, ngay cả khi bàn phải có hình dạng và
tiêu chuẩn quốc tế để có thể sử dụng trong tất cả các gia đình và nhà hàng thì bàn ăn
bàn ăn cũng cần phải có kích cỡ để có thể tiếp hết tất cả các món ăn trên bàn. Tất cả
các món ăn đã sẵn sàng sẽ tốt hơn là phục vụ các món ăn riêng biệt và liên tục, nếu
trong bữa ăn mà khơng có món khai vị cùng với rượu vang thì cũng đồng nghĩa với
việc thiếu sự hiếu khách tại bữa ăn. Những gì mà thực khách chờ đợi là nước uống
hay một cốc nước chè xanh.
Khi tất cả các món ăn đã được dọn trên bàn có thể bắt đầu ăn bằng cách lấy
những phần nhỏ vào bát của mình, thơng thường thì người dân Myanmar ăn bằng tay
nhưng các món ăn đó vẫn có những chiếc thìa đi kèm để giữ tay trái ln sạch cịn
riêng đối với món súp thì được để trong một chiếc bát lớn và mọi người sẽ cùng chia
sẻ với nhau. Bữa ăn tối sẽ đặc biệt hơn khi sau mỗi bữa ăn người dân Myanmar
thường để dư lại một chút cơm mới như là một dấu hiệu của sự mong muốn. Cơm và
cà ri luôn được ăn cùng nhau chứ khơng dùng riêng biệt, cịn món súp thì có thể ăn
bất cứ khi nào thùy theo ý thích của mọi người. Khi kết thúc bữa ăn thực khách sẽ
được tráng miệng bằng nước trà lá, nước trái cây hay trà xanh.
Để tôn trọng, những người dùng bữa lớn tuổi nhất luôn được phục vụ trước khi
những người khác bắt đầu; kể cả khi những người lớn tuổi vắng mặt, miếng cơm đầu
đầu tiên được xới ra để riêng để bày tỏ sự tôn trọng đối với bố mẹ, một phong tục
được gọi là u cha, nghĩa đen là phục vụ đầu tiên).
Người Myanmar chỉ ăn hai bữa trong ngày vào lúc 9g sáng và 17g, bữa trưa ăn
nhẹ. Trên mâm cơm của người Myanmar thường có rau, tơm, cá. Họ cho rằng nếu
thiếu tơm cá thì họ ăn không ngon miệng. Người Myanmar không ăn cơm bằng đũa,
trước mặt mỗi người là một chậu nước, trước khi ăn họ phải rửa sạch tay, rồi dùng tay
không bốc cơm ăn.
Người Myanmar ăn bằng tay phải, viên cơm thành các viên nhỏ bằng đầu ngón
tay và trộn với các loại sốt trước khi ăn. Đũa và thìa kiểu Trung Quốc được sử dụng
để ăn các món mì, mặc dù mì kiểu salad thường được ăn bằng thìa bình thường. Dao
Nhóm 2
13
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
và dĩa hiếm khi được sử dụng tại nhà nhưng luôn được cung cấp cho khách và có mặt
tại nhà hàng và khách sạn. Đồ uống thường không được phục vụ cùng bữa ăn, thay
vào đó họ thường có một bánh canh hoặc consomme được phục vụ trong một bát
chung. Ngoài bữa ăn, các thức uống Myanmar gồm các loại trà xanh nhạt.
7.2. Nghệ thuật
7.2.1. Văn học.
Văn học Myanmar chịu ảnh hưởng rất lớn bởi Phật giáo, những tác phẩm văn học
đầu tiên của Myanmar chủ yếu là những tác phẩm tôn giáo được khắc trên đá, có niên
đại vào thời kỳ Pagan, thế kỷ XI.
Từ sau thế kỷ XV, Myanmar mới xuất hiện những thư bản chép tay trên lá cọ hay
giấy. Văn học trong thời kỳ này chủ yếu liên quan tới những câu chuyện Jataka do
Đức Phật kể cho các môn đệ và trả lời các câu hỏi của họ, thường được thể hiện bằng
những vở kịch hay thơ. Những tác phẩm về luật pháp hay lịch sử thì viết bằng văn
xi.
Văn học cổ điển Myamar phát triển hưng thịnh qua 2 thời kỳ lớn:
Thời kỳ đầu kéo dài 300 năm từ năm 1450 – 1750 ra đời và tồn tại một thể loại
văn vần (gọi là Pyo) và 4 thể loại thơ (gọi là Mongun, Eigyin, Tola, Yadu) với các chủ
đề chủ yếu kể chuyện về Phật giáo, ca ngợi vua chúa, truyền thống vinh quang của
Hoàng tộc, các chiến dịch quân sự, miêu tả cảnh đẹp thiên nhiên…
Thời kỳ thứ hai từ năm 1750 trở đi với sự xuất hiện thêm thể loại sử thi (gọi là
Yagan) kể lại những huyền thoại Mon, huyền thoại Ấn Độ và thể loại thơ hát (gọi là
Bole) được sáng tác và biểu diễn theo yêu cầu của cung đình.
Văn chương cổ điển của Myanmar thường viết theo lối văn hoa mĩ với câu cú cầu
kỳ, dài dịng kể về những chuyện thần bí có nguồn gốc từ trong cung đình của các vị
quốc vương.Sau cuộc xâm lăng Thái Lan năm 1767, kịch và tiểu thuyết Thái Lan
được giới thiệu vào Myanmar, tạo nên nguồn kích thích phát triển nền văn học thế
tục.
Kể từ khi Myanmar rơi vào ách thống trị của người Anh, văn học Myanmar bắt
đầu chịu ảnh hưởng của văn hóa phương Tây. Việc du nhập nghề in ấn cũng ảnh
hưởng nhiều đến văn học – lĩnh vực trước đó chỉ có lượng độc giả rất hạn chế. Nhờ
cơng nghệ in ấn mà những vở kịch cung đình được cơng chúng thưởng thức rộng rãi,
họ không chỉ được xem biểu diễn trên sân khấu mà còn được đọc trên giấy. Cuốn tiểu
thuyết đầu tiên của Myanmar là bản phóng tác một tác phẩm của Alexander Dumas –
“Bá tước Monte Cristo” trong khung cảnh của Myanmar.
Nền văn học hiện đại của Myanmar bắt đầu từ thập kỷ 30 thế kỷ XX sau khi
trường Đại học tổng hợp Yangon được thành lập. Một xu hướng mới trong văn học –
gọi là phong trào Khitsan (đương đại) đã xuất hiện với những nhà văn sử dụng phong
cách văn chương đơn giản, rõ ràng và phong cách đó hiện vẫn đang tiếp tục tồn tại ở
Myanmar.
Văn học hiện đại của Myanmar vẫn nổi bật với các tác phẩm tơn giáo; đồng thời
có nhiều tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ, truyện thiếu nhi và tác phẩm dịch từ văn học
Nhóm 2
14
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
nước ngoài. Các tiểu thuyết nổi tiếng chủ yếu là tiểu thuyết tình yêu lãng mạn và tiểu
thuyết võ hiệp.
Các giải thưởng văn học của Myanmar được trao hàng năm. Nhiều nhà văn nổi
tiếng là những viên chức hưu trí, một số đã và đang giảng dạy tại các trường đại học.
Hầu hết các nhà văn đều coi viết văn là nghề tay trái, họ chỉ viết trong thời gian rảnh
rỗi.
Văn học Myanmar chịu ảnh hưởng rất lớn của Phật giáo do Phật giáo chính thống
cấm những câu chuyện hư cấu, nên nền văn học Myanmar có nhiều tác phẩm thuộc
thể loại người thật việc thật. Tuy vậy, q trình thực dân hóa của Anh đã đem tới
Myanmar nhiều thể loại truyện viễn tưởng rất phổ biến ngày nay. Thơ là một nét rất
đáng chú ý và có nhiều thể loại độc nhất vơ nhị trong văn học nước này.
Thời kỳ cai trị thuộc địa của Anh cũng đã để lại một số ảnh hưởng phương Tây
trong kiến trúc Myanmar. Đây là đặc điểm dễ nhận thấy nhất tại các thành phố lớn của
Myanmar.
Nhiều dân tộc thiểu số, đặc biệt là người Karen ở phía Đơng Nam và người Kachin,
người Chin sống ở phía Bắc và Tây Bắc, theo Thiên chúa giáo nhờ công của các nhà
truyền giáo.
Trong kho tàng văn hóa truyền thống Myanmar, âm nhạc dân gian, múa dân gian
đã và đang trở thành một tài sản vô cùng quý giá đối với người dân nước này.
7.2.2. Âm nhạc.
Âm nhạc truyền thống Myanmar rất đặc sắc với dàn nhạc truyền thống Myanmar
bao gồm một bộ trống, một bộ cồng chiêng, những chuông tre, và những nhạc cụ hơi,
gồm hne - cho âm thanh rất cao, sáo cùng chũm chọe.
Một bộ trống lớn có tới hai mươi mốt chiếc, cịn bộ trống nhỏ thì có chín chiếc.
Bộ cồng gồm mười chín chiếc. Đơi khi, thay cho bộ cồng là bộ chiêng tứ giác, nó
gồm dàn chiêng treo trên một chiếc khung hình chữ nhật và thêm một vài chiếc
chiêng
tròn.
Trong nền âm nhạc dân gian, đàn Saung-gauk là một loại đàn đặc trưng nhất của
Myanmar. Đàn Saung-gauk có hình dáng giống như chiếc thuyền và thường được
đệm cho các bài hát cổ. Muốn chơi được loại nhạc cụ này điêu luyện và có hồn, các
nhạc cơng phải luyện tập ít nhất trong vịng 10 năm. Vì lẽ đó, các nhạc cơng chơi
thành cơng loại đàn này ở Myanmar khơng có nhiều và khoản đầu tư cho tập luyện
cũng khơng hề ít.
Ngồi ra, Myanmar cịn có một số nhạc cụ dân tộc tiêu biểu khác khá ấn tượng
như Sidaw (trống đại) dùng trong những dịp lễ trọng đại, ozi (trống có hình chiếc vị)
và dobat (trống cơm) dùng trong hội làng, bonshay (chiếc trống dài) và bongyi (trống
cái) dùng trong hội mùa và hội xuống đồng.
Không chỉ ấn tượng với nền âm nhạc dân gian, những điệu múa cổ truyền của
Myanmar cũng rất độc đáo. Nghệ thuật múa của nước này đã có từ thời đại tiền - Phật
giáo, khi việc thờ cúng nat (thần linh) luôn kèm theo việc nhảy múa. Các vũ điệu rất
sôi nổi và đòi hỏi người biểu diễn phải thực hiện những cử động rất khó giống như
Nhóm 2
15
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
làm
xiếc.
Ngoài ra, vũ điệu Myanmar cũng rất đoan trang, các vũ công nam nữ không khi nào
chạm vào nhau. Những người mới học trước hết sẽ được dạy múa ka-bya-lut, một vũ
điệu truyền thống căn bản.
Có một vũ điệu hết sức thú vị trong đó các vũ công làm những động tác như
những con rối. Chính vì thế mà người ta nói rằng vũ điệu của người Myanmar là sự
bắt chước kịch rối, thể loại sân khấu đã có thời thay thế cho những vũ cơng thật. Nữ
vũ cơng chính mặc trang phục cung đình, áo khoác tay dài, vạt rộng thắt eo; longyi
dài phấp phới theo những bước chân. Vũ cơng nam chính ăn mặc như hồng tử,
longyi lụa, áo khốc và chít khăn trắng. Các vai khác gồm tiểu đồng, binh lính,
zawgyi (pháp sư) và nat (thần linh).
Yein, vũ điệu nổi tiếng trong Lễ hội Nước, với các vũ công, thường là nữ, ăn mặc
giống nhau và thực hiện những động tác như nhau, cịn hna-par-thwa là màn múa đơi.
Điệu múa con voi, trong Lễ hội Múa Voi được tổ chức tại Kyaukse, gần Mandalay,
với những vũ cơng đội những hình nộm voi bằng bìa.
Điệu múa anyein là kết hợp điệu múa đơn với anh hề lupyet xen vào chọc cười
giữa màn diễn, châm chọc những sự kiện đương thời và những chủ đề khác. Đôi khi
hai hay nhiều vũ công lần lượt biểu diễn với gươm giáo hay những loại trống lớn nhỏ.
Các điệu múa của người thiểu số thường là các màn múa thành nhóm, trong đó các
nam nữ thanh niên nhảy múa với nhau.
7.2.3. Nghề truyền thống.
Panbe (nghệ thuật của người thợ rèn)
Nghệ thuật Panbe (black smith) là ủ sắt trong lị cho nóng để thực hiện các cơng
việc cho dễ dàng. Các nghệ nhân làm các vật dụng từ trục xe bị, dao, kéo, búa, rìu,
cái cuốc, cuốc hai đầu và nhiều vật dụng khác dùng để trang trí nghệ thuật và phục vụ
cuộc sống. Nghề rèn là nghề truyền thống của Myanmar nổi lên trong những năm đầu
của thời kỳ Bagan (thế kỷ 11) và nó đã được cải thiện trong giai đoạn giữa Bagan Ava
và Yadanapon. Nghề rèn truyền thống của Myanmar. Từ khu vực Inlay đã nổi tiếng
trong giai đoạn Yadanapon nghề thợ rèn đều có nhiều người làm. Những đồ dùng như
áo giáp quân sự, vũ khí, cái cuốc, thứ cuốc hai đầu, gươm , giáo,… nghề thợ rèn
truyền thống của Myanmar là rất nổi tiếng ở Đông Nam Á và là một trong những kỳ
quan của nghệ thuật thế giới.
Nhóm 2
16
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
Nghệ thuật điêu khắc (Panbu)
Nghệ thuật điêu khắc (Panbu) là một trong những nghề sản xuất và thiết kế hoa
văn làm bằng gỗ hoặc ngà voi. Các nghệ nhân tạo hình của con người và động vật và
thiết kế các họa tiết. Điêu khắc truyền thống của Myanmar nổi lên trước thời gian
Bagan và nó được cải thiện ở giữa Bagan Era. Điêu khắc cơ sở của Myanmar là phục
vụ cho tôn giáo của Phật giáo đến từ miền Nam Ấn Độ vào thế kỷ thứ 11. Các tác
phẩm điêu khắc gỗ của các thời kỳ Bagan và Ava đã bị mất trong những hồn cảnh
khác nhau và chỉ có một số ít được để lại ngày hôm nay. Một tác phẩm điêu khắc gỗ
nổi bật thuộc thời kỳ Bagan là một ở cổng cũ của chùa Shwesigone tại Nyaung-U.
Những ai muốn xem tác phẩm điêu khắc gỗ của Yatanapon (Mandalay) hoặc thời gian
Yadanapon du khách có thẻ đi những chuyến hành hương Myanmar qua những nơi
sau đây:
Tu viện Mandalay
Tu viện Bakaya. Inwa
Điêu khắc truyền thống của Myanmar có tác phẩm điêu khắc gỗ điêu khắc bằng
đá và thạch điêu khắc nhưng tác phẩm điêu khắc gỗ nhiều hơn sẽ được nhìn thấy
trong nhiều nghệ thuật và cửa hàng thủ công mỹ nghệ ở nhiều thành phố Du lịch
Myanmar. Các tác phẩm điêu khắc gỗ được yêu thích của nhiều người trong thế giới
này qua ngày.
Nghệ thuật trạm khắc Vàng Bạc (Pantain)
Nhóm 2
17
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
Nghệ thuật trạm khắc vàng bạc là một nghề dành cho các doanh nghiệp làm đồ
vàng hoặc bạc. Trạm khắc bạc là nghệ thuật làm cho đồ đạc dùng để ăn uống như cốc
chén, bát, đĩa,... Trạm khắc Vàng là nghệ thuật làm đồ trang sức, khuyên tai, vòng tay,
nhẫn đeo tay. Nghệ thuật truyền thống và hàng thủ công sáng tạo nghệ thuật của vàng,
bạc và pha lê của Myanmar thuộc thể loại nghệ thuật cao cấp. Nghệ thuật trạm khắc
vàng bạc đã có ở Myanmar hơn 1200 năm qua và xét về tay nghề của bạc thuộc về
những năm đầu nó thực sự là một niềm tự hào của Myanmar.
Nghệ thuật đúc đồng (Pantin)
Nghệ thuật Đúc đồng là một công việc sản xuất vật liệu bằng đồng hoặc đồng
thau. Các nghệ nhân làm cho chiêng bằng đồng hình tam giác và bát đồng cho nhà sư.
Những món đồ như khay, nồi đồng, chén bát, chiêng, chuông và chiêng nhỏ bằng
đồng. Nghề truyền thống đúc đồng của Myanmar nổi lên trước khi kỳ Bagan và nó
được cải thiện trong Bagan và Ava. Mỗi ngơi chùa ở Myanmar đều có chng.Những
chiếc chng hình tam giác phải xoay khi đánh và chúng có âm thanh rất ngọt ngào
và du. Ngồi ra cịn có cồng chiêng, được đánh giá cao là cồng chiêng dùng trong
buổi tối. Kích thước khác nhau và hình dạng của những chiếc chuông cũng khác nhau.
Tất cả không thể nhầm lẫn với thiết kế riêng biệt của Myanmar. Hiện nay, chúng được
Nhóm 2
18
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
làm phổ biến để bán cho du khách làm kỷ niệm với nhiều trọng lượng và kích thước
khác nhau từ nhỏ đến lớn.
Nghệ thuật thiết kế hoa của thợ Nề (thợ xây)
Nghệ thuật dùng vữa điêu khắc có nghĩa là một nghề thủ cơng vừa thiết kế hoa
trang trí nhẹ nhõm với vữa. Các nghệ nhân làm cho số liệu của sư tử, rồng và thiết kế
hoa với vữa. Myanmar khắc bằng vữa truyền thống nổi lên trước thời gian Bagan và
nó được cải thiện trong Bagan, Ava, Amarapura và kỳ Yadanapon. Theo các ghi chép
lịch sử. Cơng trình Vữa rất nổi tiếng trong thời kỳ Bagan. Cơng trình Vữa kỳ Bagan
có trang trí chi tiết. Các cành lá và chồi mặc dù ít nhưng trông rất đẹp. Những nụ và
hoa được tạo thành chùm ở trung tâm của cổng thông tin tại U-Kin danke là duy nhất
ở hiện tại. Các tòa nhà lớn chính nó là một tác phẩm nghệ thuật để chỉ sự ngưỡng mộ
của chúng.
Nghệ thuật điêu khắc đá.
Nghệ thuật điêu khắc đá là điêu khắc nghệ thuật trên các loại đá. Các nghệ nhân
làm những hình ảnh cực kỳ sống động và chắc chắn như tượng đức phật, trụ cột, con
voi, con hươu, những tảng đá tròn. Điêu khắc đá là một nghành nghệ thuật quan trọng
quan trọng của Myanmar xét về phương diện mỹ thuật cho đến ngày nay vẫn là niềm
tự hào và vinh dự của người dân Myanmar. Có những trung tâm điêu khắc hay hội
thảo về điều khắc đá ở Yangon, Mandalay và các thị trấn khác trong nước. Nhưng
Nhóm 2
19
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
phần lớn ở các hãng phim đang tập trung ở Mandalay. Cơng trình rất tốt đẹp của nghệ
thuật điêu khắc đá là để được nhìn thấy ở mảng mô tả cuộc đời của Đức Phật tại
Ananda, Bagan. Hoa được thiết kế trong nội thất của cổng có thơng tin tại KyawkkuU min, Naung-U Nanhpaya. Bức tường Myinkapa partraying 550 Phật tử sinh-câu
chuyện tại Puhtotawkyi, Amarapura và hình ảnh tuyệt vời tại Kyauktawkyi ở chân đồi
Mandalay.
Nghệ thuật sơn mài
Nghệ thuật Panyun (sơn mài) có nghĩa là một nghề thủ cơng trong đó sản xuất vật
liệu làm từ tre, gỗ và màu sơn. Nghệ nhân sơn mài sản xuất Bát khất thực, bát cho nhà
sư, cốc uống nước, hộp trầu, và hộp đựng thuốc lá. Đất nước Myanmar có nghệ thuật
sơn mài truyền thống nổi lên trong những năm đầu của thời kỳ Bagan. Ở Myanmar
phong cách vẽ sơn mài truyền thống có nguồn gốc từ nhiều câu chuyện về cuộc đời
của Đức Phật. Các sản phẩm sơn mài truyền thống Myanmar có đặc trưng của một
màu đất nung độc đáo với những cảnh từ tiền thân sự tồn tại trước đây của Đức Phật,
khắc và sau đó điền vào với sắc tố màu xanh lá cây. Nhiều loại sản phẩm sơn mài
đang có sẵn chẳng hạn như hộp, bình, khay, bát và thậm chí cả bàn cà phê.
7.3. Lễ hội
Lễ hội Năm Mới – Thingyan (4 ngày).
Mở đầu năm mới là ngày hội té nước (thingyan) - ngày hội năm mới, là sự kiện đầy
quan trọng và hết sức ý nghĩa đối với người dân Myanmar. Đây là ngày hội của cả nước,
được tiến hành vào mùng một tết âm lịch Miến (tương đương với tuần thứ hai của tháng
tư dương lịch Lễ hội rơi vào tuần thứ hai của tháng tư hàng năm và kéo dài ba hoặc bốn
ngày). Cũng như ở Việt Nam, ngày đầu năm mới, người dân Myanmar sẽ mặc trên người
bộ quần áo đẹp nhất, trang trí nhà cửa thật tươi đẹp bằng nhiều màu sắc rực rỡ. Trước
ngày lễ, người ta loan tin về những điều dự báo của các nhà chiêm tinh về việc Ngọc
hoàng (Tingiamin) sẽ hiện ra như thế nào. Rằng, nếu khi xuống hạ giới, Ngọc hồng cầm
ngọn giáo thì năm đó có chiến tranh, nếu cầm bình nước thì năm đó sẽ mưa nhiều, cầm
bó đuốc và chiếc gậy thì sẽ được mùa, cịn ngài cưỡi con Naga thì sẽ mưa lớn, cưỡi con
rồng Galơng thì sẽ bão to, tay mà cầm đèn thì năm đó sẽ nóng… Khơng khí của đất nước
Nhóm 2
20
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
Myanmar như được nóng lên với những lời tiên tri tốt lành của một năm mới đang đến.
Trong ngày hội nước, người ta được phép dội nước lên người thân và cả khách qua
đường, trừ các nhà sư. Nó có ý nghĩa rửa sạch những dơ bẩn đã tích tụ trong suốt một
năm qua và đón chào năm mới với sự thanh khiết của thân tâm. Khơng ai lẩn trốn trong
ngày hội này, vì họ quan niệm rằng: quần áo càng ướt bao nhiêu thì sẽ càng được may
mắn bấy nhiêu. Các nhà nghiên cứu về văn hóa Myanmar cho biết: theo người dân đất
nước này thì tưới nước sẽ rửa sạch tội lỗi và những nhọc nhằn trong năm cũ, chờ đợi
hạnh phúc và những trận mưa quý giá đem đến mùa màng bội thu. Là quốc gia Phật giáo,
trong ngày hội thingyan, người dân Myanmar đến chùa rất đông. Họ đến để chúc mừng
các vị sư, rồi kéo ra sân chùa tắm cho các tượng Phật. Trong ngày đầu năm mới, họ
thường tiến hành phóng sinh. Phong tục này chúng ta cũng thấy xuất hiện ở nhiều nước
Đông Nam Á khác. Người dân mở cửa các lồng chim, thả cá xuống sơng; ngồi đồng,
người ta tháo cày cho những con trâu già… Họ sẽ làm nhiều việc thiện, ban phát những
điều tốt lành cho những sinh linh.
Các nhà nghiên cứu về văn hóa Myanmar cho biết, thingyan nghĩa là nhiều hoa,
nhiều trò vui, những tiếng cười; trong ngày đó, người dân Myanmar mong ước những
điều tốt lành và điều tất nhiên là nhiều nước. Thần thoại của người Miến kể rằng: khi thế
giới khơng cịn sự sống và rơi vào trong bóng tối, Tingiamin, vị vua của người Nat, đã
mang mặt trời, mặt trăng đến cho người Nat để chiếu sáng mặt đất vào ban ngày và ban
đêm. Nhờ đó, sự sống đã quay trở lại với sự xuất hiện của con người, các lồi thú và cây
cối sinh sơi. Khi mọi việc xong xuôi, vị vua của người Nat đã giã từ loài người và hứa
quay trở về trái đất vào một ngày đầu năm mới với những điều tốt lành.
Lễ hội mừng năm mới Thingyan
Trước đây, trong đêm giao thừa, mọi người chuẩn bị nước thơm được nấu từ các loại
hoa, lá khác nhau bỏ vào trong bát hoặc chum nước và đặt trước nhà trong suốt thời gian
lễ hội. Mỗi ngày là một loại nước nấu bằng một loại lá khác nhau. Ngày nay, người ta
khơng cịn dùng nước thơm nữa mà người ta dùng những vòi nước máy xịt bay tung tóe.
Những người đi đường đều được xịt ướt đẫm, mọi chuyện buồn phiền không vui và
những bụi bẩn của năm cũ sẽ khơng cịn và năm mới sẽ được đón nhận bằng sự thanh
Nhóm 2
21
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
tịnh của thân và tâm.
Lễ hội chùa
Chùa Shwedagon – một trong những ngôi chùa vĩ đại và thiêng liêng nhất tại
Myanmar. Chùa là nơi tổ chức lễ hội Shwedagon hàng năm, đây là một sự kiện văn
hóa tâm linh truyền thống rất quan trọng ở Myanmar. Lễ hội này thật sự rất có ý nghĩa
và có ảnh hưởng lớn đến nếp sống tâm linh của người dân nơi đây.
Lễ hội được diễn ra trong vòng nửa tháng với nhiều hoạt động, nghi thức, nghi lễ
truyền thống mang đậm nét Phật giáo. Lễ hội Chùa vàng Shwedagon ở Yangon thật sự
là sự kết hợp hài hịa giữa Phật giáo và lễ hội văn hóa dân gian truyền thống của dân
tộc Myanmar.
Lễ hội chùa Shwedagon
Lễ hội được mở màn với đoàn diễu hành vào buổi sáng với hàng ngàn người tham
gia trong trang phục truyền thống, đi chân trần nhiễu quanh các ngôi tháp, điện của
trong quần thể chùa. Tiếng cồng ở khắp các góc điện của chùa Shwedagon đều đồng
loạt gióng lên hịa cùng với tiếng tụng kinh trầm hùng của hàng trăm Tăng sĩ, tạo nên
một không gian tâm linh vô cùng thiêng liêng, màu nhiệm.
Bên ngồi khn viên của chùa là khơng gian vui chơi giải trí với một số các tiết
mục văn nghệ, bao gồm các chương trình múa rối truyền thống và các vũ công biểu
diễn các điệu múa cổ truyền. Bên cạnh đó cịn có khu vực ẩm thực, hội chợ, nơi trưng
bày và buôn bán hàng thủ công mỹ nghệ và thực phẩm từ khắp nơi trên đất nước.
Lễ hội âm nhạc truyền thống Myanmar.
Chúng ta sẽ được thưởng thức nền âm nhạc truyền thống Myanmar rất đặc sắc với
dàn nhạc truyền thống gồm: một bộ trống, một bộ cồng chiêng, những chuông tre, và
những nhạc cụ hơi, gồm hne – cho âm thanh rất cao – và sáo cùng chũm chọe. Một bộ
trống lớn có tới hai mươi mốt chiếc, cịn bộ trống nhỏ thì có chín chiếc. Bộ cồng gồm
mười chín chiếc. Đơi khi, thay cho bộ cồng là bộ chiêng tứ giác, nó gồm dàn chiêng
treo trên một chiếc khung hình chữ nhật và thêm một vài chiếc chiêng tròn. Trong nền
âm nhạc dân gian, đàn Saung-gauk là một loại đàn đặc trưng nhất của Myanmar. Đàn
Saung-gauk có hình dáng giống như chiếc thuyền và thường được đệm cho các bài hát
cổ xưa.
Nhóm 2
22
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
Lễ hội âm nhạc truyền thống
Đến với miền đất Phật Myanmar du khách không chỉ ấn tượng với nền âm nhạc
dân gian, những điệu múa cổ truyền của Myanmar cũng rất độc đáo. Nghệ thuật múa
của nước này đã có từ thời đại tiền – Phật giáo, khi việc thờ cúng nat (thần linh) luôn
kèm theo việc nhảy múa. Các vũ điệu rất sôi nổi và đòi hỏi người biểu diễn phải thực
hiện những cử động rất khó giống như làm xiếc. Ngồi ra vũ điệu Myanmar cũng rất
đoan trang, các vũ công nam nữ không khi nào chạm vào nhau trong khi múa.
Lễ hội Phaung Daw U
Một trong những lễ hội quan trọng và phổ biến nhất tại Myanmar, đặc biệt là ở
tỉnh Shan là Phaung Daw U, là lễ hội được tổ chức vào khoảng cuối tháng 9 hoặc đầu
tháng 10 nhằm tỏ lịng tơn kính với Đức Phật.
Lễ hội Phaung Daw U
Hàng loạt các con thuyền đầy màu sắc diễu hành từ làng này sang làng khác xung
quanh hồ Inle. Trong đó nổi bật nhất là chiếc xà lan với hình dạng con chim vàng biểu
trưng cho thần thoại Myanmar, bên trong chở năm tượng Phật nhỏ của ngôi chùa
Paung Daw U nổi tiếng.
Lễ hội Phaung Daw U được kéo dài trong 18 ngày và kết thúc vào khoảng giữa
tháng mười, sau chuyến hành trình trên hồ. Thời điểm này đang vào cuối mùa mưa,
Nhóm 2
23
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
thời tiết rất mát mẻ và lý tưởng dành cho du khách muốn đến tham dự lễ hội, cũng
như khám phá cuộc sống vô cùng thú vị của người dân vùng hồ Inle.
Ngày hội đốt đèn vào tháng mười, tương đương với Tết Trung thu ở Việt Nam,
đốt đèn để chào đón Phật tổ trở về từ niết bàn. Ngày hội này kéo dài ba ngày, nhà nhà
đều đốt đèn, đốt pháo.
Cịn có ngày hội lớn khác là ngày hội độc lập của Myanmar vào ngày 4-1 hằng
năm.
Những điều kiêng kỵ trong cuộc sống:
- Ở Myanmar, người ta vẫn còn sống sâu sắc với quan niệm trọng nam khinh nữ. Ở một
số những ngôi chùa thiêng liêng, họ thường cấm phụ nữ vào và cấm đến gần các tượng
Phật. Người phụ nữ ở nơi đây, không được đứng ở khu vực dành cho đàn ông, không
được dát vàng lên những vật thiêng liêng ở trong chùa. Có lẽ, người phụ nữ ở nơi đây,
họ “thiệt thòi” hơn nhiều phụ nữ ở những đất nước tiến bộ. Con người ở nơi đây, họ
còn kiêng kị đến mức phụ nữ không được phép gối đầu lên cánh tay của người đàn
ơng vì theo họ nếu phụ nữ mà gối đầu lên cánh tay của đàn ông sẽ làm cho người đan
ống đó mất đi sức mạnh, tinh thần và cả sự minh mẫn nữa.
- Trong một số chùa linh thiêng cầm phụ nữ không được đến gần tượng phật, không
được đứng vào khu vực dành cho đàn ông, không được dát vàng vào các vật linh
thiêng trong chùa, thậm chí cịn kiêng kỵ đến mức phụ nữ không được được gối đầy
lên cánh tay đàn ông, vì như vậy người đàn ơng sẽ mất đi sức mạnh, tinh thần khơng
cịn minh mẫn.
- Người Myanmar coi đỉnh đầu là nơi thể hiện sự tơn trọng, vì vậy người khác không
được dùng tay chạm vào đầu họ, ngay cả những đứa trẻ rất đáng yêu cũng không nên
xoa đầu chúng. Với đồng nghiệp, không thể bá vai bá cổ, một cách suồng sã. Khi biếu,
tặng đồ cho người già, khơng được dùng tay phải vì tay phải bị xem là những người
không sạch sẽ.
- Người Myanmar quan niệm hướng đông thể hiện sự may mắn, tốt đẹp. Họ cho rằng
phương đơng là nơi tìm kiếm được sự thanh tịnh của nhà Phật. Điều đó lý giải tại sao
âm thờ phật trong gia đình thường được đặt sát bức tường phía đơng của gian phịng
chính, Vì vậy khi ngủ, dầu nhất định phải quay về hướng đồng, không được quay về
hướng tây, vì đó là sự bơi nhọ Đức Phật và sẽ gặp phải những điều bất hạnh. Người
Myanmar cho rằng phía đơng là nơi chứa đựng sự chết choc. Trong quá khứ, quốc
vương Myanmar đã ra lệnh chém đầu nhiều tù nhân ở cổng thành tây, cho nên khi ngủ
khơng thể quay đầu về phía tây. Họ xem phía đơng và phía nam là hướng quan trọng,
hướng tây và hướng bắc là hướng phụ, do vậy khi mọi người trong nhà cùng ngồi họp
hành hoặc tiếp khách, vị trí ngồi của chủ nhà là phía đơng hoặc nam.
- Khoảng 30% phụ nữ Myanmar ở thành phố lớn không xây dựng gia đình. Trong cơng
sở lên tới 50%. Vì vậy khi giao tiếp, không nên hỏi thăm phụ nữ về gia đình, chồng
con.
Nhóm 2
24
GIẢNG VIÊN: ĐINH THỊ THU OANH
- Người Myanmar không chấp nhận ơm hơn thể hiện tình cảm nơi cơng cộng. Việc hất
cằm hay dùng chân để ra hiệu bị coi là rất mất lịch sự. Sát sinh cũng là điều kiên kỵ ở
Myanmar, điều này càng được tôn trọng đối với các tín đồ phật giáo. Người
Myanmarkhi đi chợ khơng mua gia cầm, tơm, cá, gia súc,… cịn sống mà đều mua thịt,
cá, gia cầm đã được làm sẵn. Khá nhiều người Myanmar kiêng ăn thịt trâu, bị vì họ
cho rằng trâu, bò là bạn thân thiết của con người, cùng con người vất vả làm ra lương
thực. Ăn thịt chó là điều tối kỵ và ghê sợ đối với người Myanmar.
8. Văn hóa doanh nghiệp
Các nhà đầu tư đã quen thuộc với văn hóa châu Á sẽ khơng ngạc nhiên khi thấy
rằng ở Myanmar, nhiều người không đưa ra câu trả lời trực tiếp. Người ta thường nói
"có" dù khơng thực sự đồng ý, và ít khi nói "khơng", do nói "khơng" thường đồng
nghĩa với việc đối đầu với người khác. Vậy làm thế để biết khi nào thì câu trả lời "có"
thật sự nghĩa là "có"? Bạn nên sử dụng cách sau: khi yêu cầu người khác làm gì đó,
bạn nên đặt ra thời hạn và ngày tháng nhất định. Ví dụ, khi bạn hỏi "Bạn có muốn gặp
chúng tơi khơng?" thì sẽ thường được trả lời "Tất nhiên, bất cứ khi nào tơi có thời
gian". Câu trả lời như thế này rất mơ hồ và khiến bạn không chắc chắn ngụ ý thực sự
của người trả lời là gì.Thay vào đó, hãy thử hỏi những câu hỏi như thế này: "Bạn có
thể gặp chúng tơi vào Thứ 3 ngày 15/10 lúc 15:00 giờ được không?". Đặt ra một giờ
hẹn chính xác sẽ giúp bạn hiểu được đối phương có thực sự đồng ý gặp bạn hay
khơng. Nếu câu trả lời là "Tôi sẽ kiểm tra lại lịch" hoặc "Tơi sẽ báo lại với bạn sau"
thì có nghĩa là đối phương khơng muốn hẹn với bạn. Thay vì nói thẳng "Tơi khơng
muốn đi", người ta sẽ trả lời lệch đi để giữ phép lịch sự. Thậm chí điều này rất phổ
biến giữa bạn bè và người quen, họ thường nói "Thỉnh thoảng ghé nhà tơi chơi nhé"
hoặc "Bữa sau chúng ta cùng đi ăn trưa nhé" nhưng thật ra họ khơng có ý như vậy.
Bên cạnh đó, bạn cũng nên thường xuyên nhắc nhở người có hẹn với bạn. Nếu
bạn hẹn đối phương một tuần trước đó, đừng ngạc nhiên nếu đối phương không đến
cuộc hẹn. Bạn nên gọi điện cho đối phương một hoặc hai ngày trước cuộc hẹn để biết
đối phương có đi hay khơng. Bạn sẽ thường xuyên thấy nhiều người đã hoàn toàn
quên về cuộc hẹn trước đó hoặc khơng có ý định đến cuộc hẹn. Tóm lại, ln xác
nhận lại các cuộc hẹn của bạn khi ở Myanmar.
Do người Myanmar rất ngại nói "khơng", nên phương thức nói tránh thường được
sử dụng tại Myanmar. Nếu bạn là một người thẳng thắn thì bạn phải mất khá nhiều
thời gian để quen với cách giao tiếp trên của người Myanmar. Sẽ tốt hơn nếu bạn nói
"Chúng ta cần phải cải thiện hơn" thay vì nói thẳng "Kyaw Thein, bạn làm việc tệ
quá". Nếu có một người trong bộ phận bán hàng của bạn gặp khó khăn, nên nói "Bộ
phận bán hàng đang thực sự gặp khó khăn". Mọi người trong bộ phận đó và trong
cơng ty đều biết ai là người đang gặp khó khăn. Để giải quyết việc một người khơng
hồn thành trách nhiệm cơng việc, bạn góp ý riêng với người này. Khiển trách họ
trước mặt những người khác là một sỉ nhục lớn trong văn hóa châu Á.
Nhóm 2
25