Tải bản đầy đủ (.docx) (25 trang)

skkn dao duc HS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (198.14 KB, 25 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>MỤC LỤC Phần I. Mở đầu. Trang 2. I. Lý do chọn đề tài. 3. II. Mục đích nghiên cứu. 3. III. Đối tương và phạm vi nghiên cứu. 3. IV. Nhiệm vụ nghiên cứu. 4. V. Giả thuyết khoa học. 4. VI. Phương pháp nghiên cứu. 4. Phần II. Nội dung Chương I. Các cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu. 6 7. I. Cơ sở lí luận. 7. II. Cơ sở triết học. 8. III. Cơ sở tâm lí học. 9. IV. Cơ sở giáo dục học. 9. Chương II. Cơ sở thực tế và thực trạng của việc dạy học theo phương pháp. 10. phát hiện và giải quyết vấn đề trong môn vật lý 8 I. Đặc điểm tình hình nhà trường. 10. II. Thực trạng của việc dạy học theo phương pháp. 10. phát hiện và giải quyết vấn đề trong môn vật lý 8 Chương III. Các giải pháp. 11. I. Giải pháp chung. 11. II. Giải pháp cụ thể. 14. Chương IV. Kết quả đạt được. 20. Phần III. Kết luận và kiến nghị. 22.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> PHẦN I. MỞ ĐẦU.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1. Lý do khách quan Ta đã biết, thời đại ngày nay là thời đại của khoa học kĩ thuật và công nghệ thông tin đã đem lại cho loài người một khối lượng trí tuệ khoa học khổng lồ và đương nhiên tạo ra cho mỗi chúng ta nhiều vận hội mới. Tuy nhiên chúng ta sẽ phải đứng trước nhiều sự lựa chọn sàng lọc vô cùng khó khăn, sự lựa chọn có thể là duy nhất và không cho phép sai lầm. Do vậy năng lực giải quyết vấn đề của mỗi người sẽ là yếu tố quyết định tới sự tồn tại và phát triển của xã hội. Không tách ra khỏi vòng xoáy đó, ngành giáo dục đào tạo cũng phải tăng cường đổi mới cho phù hợp với sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước, cũng như đào tạo những con người mới nhằm xây dựng đất nước ngày một đi lên. Xã hội đang trên đà phát triển theo cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt thì sự phát hiện và giải quyết vấn đề nảy sinh trong thực tiễn là năng lực cần thiết cho mỗi con người. Để đáp ứng được yêu cầu thực tại đó đòi hỏi giáo dục phải đổi mới về mọi mặt. Mục tiêu của ngành giáo dục hiện nay là đào tạo những con người có khả năng lao động tự chủ, năng động sáng tạo, có năng lực giải quyết các vấn đề, tự lo được việc làm, lập nghiệp và thăng tiến trong cuộc sống. 2. Lý do chủ quan Để đạt được mục tiêu trên thì ngay từ trong các nhà trường, việc bồi dưỡng năng lực phát hiện và giải quyết vấn đề cho học sinh là hết sức cần thiết và cấp bách. Do vậy dạy học phải hướng vào việc khơi dậy, rèn luyện và phát triển tư duy bằng phương pháp dạy học sao cho học sinh được học tập tích cực, tự giác, hoạt động đó thể hiện bằng năng lực “Phát hiện và giải quyết vấn đề ” trong từng bài tập, từng tiết học. Phương pháp dạy học này có nhiều thuận lợi phù hợp với sách giáo khoa mới. Đặc trưng của bộ môn vật lý 8 rất phong phú, bao gồm nhiều bài tập từ nhận biết đến thông hiểu, nhiều bài tập giải thích rất phức tạp đòi hỏi các em phải thông hiểu các đơn vị kiến thức một cách sâu sắc, bên cạnh đó cũng có rất nhiều bài tập tính toán lôgic sâu chuỗi các đơn vị kiến thức với nhau..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Vậy, làm thế nào để luôn đặt học sinh vào tình huống có vấn đề để các em tự phát hiện và giải quyết, từ đó tìm ra các đơn vị kiến thức của bài học một cách tự nhiên. Từ những lí do trên, chúng tôi đã chọn đề tài “ Dạy học theo phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề trong môn vật lý 8” để làm đề tài nghiên cứu của mình. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Mục đích của đề tài này là đặt các em học sinh vào tình huống có vấn đề để các em tự phát hiện và giải quyết, từ đó tìm ra các đơn vị kiến thức của bài học một cách tự nhiên và đó chính là kết quả mà tôi mong muốn khi thực hiện đề tài này. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là “Dạy học theo phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề trong môn vật lý 8 ” Phạm vi nghiên cứu của đề tài là học sinh lớp 8 2, 83 trường THCS Tân Hòa Thành. Đề tài thực hiện từ tháng 8 năm 2012 đến tháng 2 năm 2013. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU Đề tài nêu và giải quyết một số vấn đề sau : Chương 1. Các cơ sở lí luận của vấn đề nghiên cứu. Chương 2. Cơ sở thực tế và thực trạng của việc dạy học theo phương pháp phát hiện và giải quyết vấn đề trong môn vật lý ở trường THCS Tân Hòa Thành. Chương 3. Các giải pháp. Chương 4. Kết quả đạt được. V. GIẢ THUYẾT KHOA HỌC Để thực hiện tốt chương trình sách giáo khoa môn vật lý lớp 8 và dạy - học theo phương pháp đổi mới đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi giáo viên phải nghiên cứu, tìm tòi để đề ra được những phương pháp giảng dạy có hiệu quả để học sinh nắm vững kiến thức bài học một cách tự nhiên, không nặng nề gò bó từ đó kết quả học tập của học sinh và chất lượng giảng dạy của giáo viên được nâng cao đáng kể..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> VI. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong quá trình nghiên cứu tôi đã sử dụng một số phương pháp sau : 1. Phương pháp điều tra 2. Phương pháp quan sát 3. Phương pháp thống kê, tổng hợp, so sánh. 4. Phương pháp thực nghiệm ..

<span class='text_page_counter'>(6)</span> PHẦN II: NỘI DUNG.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> CHƯƠNG I. CÁC CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU I. Cơ sở lí luận Cách dạy học Vật lý trong thời gian qua có những chuyển biến tích cực, tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được những yêu cầu đổi mới về phương pháp dạy học trong giai đoạn hiện nay, thể hiện ở những điểm sau: Hiện nay tình trạng “thầy đọc - trò ghi, thầy chiếu – trò chép” nhìn chung vẫn còn diễn ra trong quá trình dạy học trên lớp, có nghĩa là khi ngồi trên lớp, hoạt động trí tuệ chủ yếu của học sinh là ghi nhớ lại và tái hiện. Như vậy việc rèn năng lực tư duy, phát triển trí tuệ, ... của học sinh được xem là nhiệm vụ chủ yếu, nhiệm vụ quan trọng nhất của quá trình dạy học còn giữ vai trò rất mờ nhạt trong hoạt động thực tiễn hàng ngày của thầy và trò Giảng dạy theo lối thông báo mặc dù đã có những cải tiến, thay đổi song vẫn chỉ thay đổi cách thức thông báo cho học sinh mà thôi - tức chỉ đổi mới về hình thức, bề ngoài, còn người học vẫn tiếp thu một cách thụ động, một chiều, do đó quá trình tích luỹ thông tin được sản phẩm đào tạo là con người có một lượng thông tin với phương pháp nhận thức thụ động, bắt chước. Nhưng nội dung dạy học không chỉ là kiến thức mà thông qua nó hình thành ở học sinh năng lực tự thu nhận, xử lý, sử dụng thông tin để giải quyết các tình huống thực tế rất đa dạng. Do nhận thức vấn đề còn hình thức, nên một số người đã hiểu đơn thuần đổi mới phương pháp dạy học theo nghĩa thay cách đã làm bằng một cách làm khác, cho rằng phương pháp truyền thống là lạc hậu hoàn toàn cần thay chúng bằng cách dạy mới khác với cách dạy trước đây. Thực tế cho thấy một bộ phận học sinh giảm hứng thú đối với việc học tập trong lớp, do ảnh hưởng của nhiều luồng thông tin ở trong, ngoài nhà trường. Nếu dạy học chỉ dừng lại ở kiểu thông báo truyền thống thì khó có thể đào tạo ra sản phẩm là con người lao động làm chủ, khó thích nghi tối đa với đời sống xã hội năng động, nhiều biến đổi. Qua giảng dạy tôi thấy chất lượng môn vật lí nhìn chung còn hạn chế chưa được như mong muốn, chất lượng này thể hiện qua các đợt kiểm tra giữa,.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> cuối kì. Nguyên nhân có nhiều song một trong những nguyên nhân đó là cách dạy của thầy và phương pháp truyền thụ chưa giúp cho học sinh hứng thú học tập. Trong các môn học ở trường THCS môn vật lý là một trong số những môn học quan trọng nhất. Học vật lý là học cách nghiên cứu, giải thích các hiện tượng xảy ra trong thực tế một cách chính xác, lôgic. Học sinh được làm việc nhiều từ việc phát hiện những kiến thức mới đến việc vận dụng kiến thức vào làm bài tập thực tế . Động lực thúc đẩy học sinh hoạt động học tập tích cực là quá trình nảy sinh mâu thuẫn giữa yêu cầu, nhiệm vụ nhận thức với tri thức và kinh nghiệm sẵn có. Học sinh lớp 8 vẫn còn rất thụ động trong việc nghiên cứu kiến thức trước ở nhà mà chủ yếu là tiếp nhận kiến thưc qua bài giảng và qua phương pháp truyền thụ của giáo viên. Do đó mỗi giáo viên phải giúp học sinh tiếp thu những kiến thức mới một cách nhẹ nhàng thoải mái, tổ chức các hoạt động học tập giúp các em thấy hứng thú và tự giác tích cực độc lập trong việc tiếp thu những kiến thức mới đó. II. Cơ sở triết học. Theo triết học duy vật biện chứng, ta đã biết mâu thuẫn là động lực của sự phát triển. Người học phải là chủ thể của hoạt động nhận thức, người học phải tự ý thức được nhu cầu, hứng thú của việc học, từ đó tích cực tìm hiểu tri thức mới, tích cực tạo ra các xung đột cá nhân về nhận thức làm động lực cho sự phát triển. Như vậy, việc tập cho học sinh biết nhìn tình huống đặt ra dưới nhiều góc độ khác nhau chính là tập cho học sinh biết diễn tả cùng một nội dung dưới nhiều hình thức khác nhau, giúp tìm ra hướng mới giải quyết vấn đề. Bởi vậy lớp học phải được coi như xã hội thu nhỏ, ở đó chứa đựng những tình huống học tập, việc giải quyết các tình huống đó như là nhu cầu tất yếu của cuộc sống. Một vấn đề gợi ra cho học sinh học tập chính là mâu thuẫn giữa yêu cầu nhận thức với các tri thức và kinh nghiệm sẵn có phản ánh một cách lôgic và.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> biện chứng quan hệ bên trong giữa tri thức cũ, kĩ năng cũ với yêu cầu giải thích sự kiện mới . III. Cơ sở tâm lí học. Con người chỉ bắt đầu tư duy tích cực khi nảy sinh nhu cầu tư duy tức là khi đứng trước một khó khăn về nhận thức cần phải khắc phục.Tư duy sáng tạo luôn bắt đầu bằng một tình huống gợi vấn đề (Rubinstein-trang 435). Nguyên tắc tính tự giác là tích cực vì nó khêu gợi được hoạt động học tập và chủ thể được hướng đến, gợi động cơ trong quá trình nhận thức. Hoạt động học được coi là quá trình chủ động và tích cực của bản thân người học và là quá trình “tự điều khiển ”. Dạy cho học sinh cách khám phá, rèn luyện cho học sinh cách thức phát hiện tiếp cận và giải quyết vấn đề một cách khoa học. IV. Cơ sở giáo dục học: Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề phù hợp với nguyên tắc tính tự giác và tích cực, vì nó khêu gợi được hoạt động học tập mà chủ thể được hướng đến đích gợi động cơ trong quá trình phát hiện và đánh giá vấn đề. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề cũng biểu hiện sự thống nhất giữa kiến tạo tri thức, phát hiện năng lực trí tuệ và bồi dưỡng phẩm chất. Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề góp phần bồi dưỡng cho người học nhiều đức tính cần thiết của người lao động sáng tạo như tính chủ động, tích cực, tính kiên trì vượt khó, tính kế hoạch và thói quen tự kiểm tra. Thực tế cho thấy đã phương pháp học tập của học sinh còn thụ động và trông chờ nhiều vào các giải pháp được bày sẵn của giáo viên, phần đông chưa chủ động, tích cực tìm kiếm kiến thức, một bộ phận không nhỏ chưa hứng thú với việc học tập môn vật lí, do đó kết quả học tập còn hạn chế..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> CHƯƠNG II. CƠ SỞ THỰC TẾ VÀ THỰC TRẠNG CỦA VIỆC DẠY HỌC THEO PHƯƠNG PHÁP PHÁT HIỆN VÀ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ TRONG MÔN VẬT LÝ 8 Ở TRƯỜNG THCS TÂN HÒA THÀNH I. Đặc điểm tình hình nhà trường Trường THCS Tân Hòa Thành có cơ sở vật chất phục vụ cho việc giảng dạy tương đối tốt, có phòng bộ môn và phòng thực hành vật lý, có đồ dùng đầy đủ cho các khối lớp. Học sinh trường THCS Tân Hòa Thành có đầy đủ sách giáo khoa, sách bài tập theo yêu cầu học tập bộ môn vật lý. II. Thực trạng của việc dạy và học khi chưa thực hiện đề tài Trong quá trình dạy học, nghiên cứu sách giáo khoa và sử dụng phương pháp dạy học theo hướng phát hiện và giải quyết vấn đề tôi thấy có những thuận lợi khó khăn sau: * Thuận lợi: Nội dung chương trình ở sách giáo khoa vật lý được viết theo lôgic ²nửa mở”, hình thức đẹp, nhiều tranh ảnh và nhiều bài tập thực tế giúp học sinh tự học và tìm ra kiến thức mới một cách nhẹ nhàng, hấp dẫn đối với học sinh. Với mỗi bài sách giáo khoa còn đưa ra các câu hỏi nêu vấn đề ngay sau tên bài học, kích thích tính tò mò tư duy ở học sinh. Các em muốn tìm ra kiến thức mới nên tích cực tư duy, học tập để giải quyết vấn đề. Đồ dùng dạy học phong phú, phương tiện dạy học hiện đại, cơ sở vật chất của nhà trường ngày càng được hoàn thiện với các phòng học bộ môn với đầy đủ trang thiết bị dạy học đã giúp cho học sinh hứng thú học tập, tích cực tự giác học tập để giải quyết vấn đề. Giáo viên tích cực đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng kết hợp nhiều phương pháp giúp học sinh tích cực, tự giác học tập, tìm tòi kiến thức mới bằng hành động của bản thân hoặc thảo luận trong nhóm..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> * Khó khăn - Tồn tại Trong một lớp học còn có nhiều đối tượng học sinh, khả năng tiếp thu của các em khác nhau nên đôi lúc giáo viên chưa bao quát hết được các đối tượng. Khả năng suy luận lôgic cũng như kỹ năng làm thí nghiệm, trình bày của học sinh còn hạn chế. Giáo viên đã tích cực đổi mới phương pháp dạy học song việc đổi mới diễn ra còn chậm, nặng về thuyết trình, củng cố kiến thức ở dạng có sẵn, học sinh tiếp thu một cách thụ động, ỷ lại cho một số học sinh khá trong lớp dẫn đến chất lượng học tập chưa cao. Do tác động mặt trái của cơ chế thị trường nên một bộ phận không nhỏ cha mẹ học sinh có cái nhìn không đúng mức về việc học của con em mình, chưa thật sự quan tâm đến việc học tập của con cái dẫn đến việc buông lỏng quản lí do đó còn có một bộ phận học sinh có động cơ học tập không đúng. Thực tế về trình độ học tập của học sinh qua khảo sát đầu năm môn vật lý ở ba lớp 81, 82, 83 như sau: Số liệu. Số. Giỏi. bài kiểm. Khá. Trung bình. Yếu. Kém. SL. %. SL. %. SL. %. SL. %. SL. %. Lớp 82. tra 36. 4. 11,1. 8. 22,2. 10. 27,8. 10. 27,8. 4. 11,1. 83. 36. 3. 8,3. 8. 22,2. 12. 33,3. 8. 22,2. 5. 14,0.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> CHƯƠNG III. CÁC GIẢI PHÁP I. Các giải pháp chung Để đạt được mục tiêu đề ra là giúp học sinh tích cực học tập trong giờ học bằng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, tôi đã thực hiện một số giải pháp sau: 1. Nghiên cứu kĩ đối tượng mà mình phụ trách, phân loại học sinh bằng tìm hiểu kết quả học tập của năm trước và nhất là thông qua bài kiểm tra khảo sát đầu năm học. Từ kết quả đã có tôi phân loại học sinh theo nhóm phụ thuộc vào năng lực nhận thức của từng em để có biện pháp truyền thụ cho phù hợp. 2. Nghiên cứu kỹ nội dung chương trình, sách giáo khoa, sách tham khảo, hiểu được ý đồ của người viết sách, trước khi lên lớp dạy học tôi nghiên cứu kỹ bài dạy để xem có thể tạo ra những tình huống gợi vấn đề. Tình huống gợi vấn đề có thể xuất hiện ngay khi đặt vấn đề vào bài mới hoặc trong từng đơn vị kiến thức, từng bài tập. Khi lên lớp, giáo viên tạo ra những tình huống có vấn đề, điều khiển học sinh phát hiện vấn đề, hoạt động tự giác, tích cực, chủ động và sáng tạo để giải quyết vấn đề mà thông qua đó mà tạo tri thức, rèn luyện kỹ năng và đạt được những mục đích học tập khác. 3. Sưu tầm, nghiên cứu làm đồ dùng dạy học, sử dụng đồ dùng dạy học phong phú nhằm triển khai một số phương pháp dạy học, với mục đích giúp học sinh học tập tự giác, tích cực hoạt động bằng hoạt động cá nhân hoặc thảo luận trong nhóm nhỏ để tìm ra phương hướng giải quyết vấn đề. 4. Trong quá trình dạy học, giáo viên phải điều khiển học sinh thực hiện hoặc hoà nhập vào quá trình nghiên cứu vấn đề. Quá trình này có thể chia làm các bước: Bước 1 : Phát hiện, thâm nhập vấn đề Ở bước này học sinh được phát hiện vấn đề, một tình huống gợi vấn đề thường là giáo viên tạo ra, học sinh giải thích và chính xác hoá tình huống để hiểu đúng vấn đề được đặt ra, sau đó học sinh phát biểu vấn đề và tìm phương pháp giải quyết vấn đề. Bước 2 : Tìm giải pháp..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Bước này học sinh tìm một cách giải quyết vấn đề, sau khi đã tìm ra các giải pháp khác nhau, so sánh chúng để tìm giải pháp hợp lí nhất. Bước 3: Trình bày giải pháp. Bước này thực hiện khi học sinh đã giải quyết được vấn đề đặt ra. Ví dụ nếu vấn đề là một bài cho sẵn thì không cần phải phát biểu vấn đề mà trong khi trình bày cần tuân theo các chuẩn mực đề ra. Bước 4: Nghiên cứu sâu giải pháp Ở bước này thường là học sinh tìm hiểu khai thác ứng dụng của vấn đề được giải quyết. Trong từng bước có thể học sinh tự làm, cũng có thể do giáo viên gợi ý cho học sinh tự làm hoặc học sinh theo dõi giáo viên trình bày. 5. Các tình huống có vấn đề đưa ra cần phải tính toán đến khả năng giải quyết vấn đề của học sinh, tránh quá khó cho học sinh dễ chán nản, dự đoán trước các phương án trả lời cho học sinh, từ đó xây dựng hệ thống câu hỏi dẫn dắt để giúp học sinh tìm ra kiến thức mới. Tăng cường hoạt động học tập đa dạng của học sinh, đặc biệt là hoạt động tổ nhóm. Đi đôi với việc chuẩn bị kiến thức cho học sinh cần đánh giá kịp thời kết quả học tập của các em bằng bài tập trắc nghiệm khách quan. Dạng trắc nghiệm tôi thường sử dụng trong tiết dạy vật lí là đúng sai, nhiều lựa chọn, điền khuyết… Dạng đúng sai trong vật lí thường chỉ kết quả của một sai lệch nào đó trong kiến thức, nó không chỉ là một đáp số sai đơn thuần toán học. Viêc sử dụng trắc nghiệm vật lí, giáo viên sẽ huy động được tất cả học sinh vào bài học để các em hoạt động và củng cố kiến thức nhanh chóng. Tuy nhiên để trắc nghiệm đạt hiệu quả cao đòi hỏi phải xoáy vào những kiến thức quan trọng trong mục tiêu bài học phù hợp nhận thức học sinh, câu hỏi phải ngắn gọn chính xác, dễ hiểu, cuốn hút học sinh. Sau khi các em được củng cố kiến thức, tôi thường đưa ra các bài tập tự luận từ đơn giản đến nâng cao đòi hỏi các em vận dụng kiến thức cơ bản mới lĩnh hội được để giải quyết, các bài tập càng gần gũi với cuộc sống hàng ngày.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> càng kích thích các em, với cách làm này các em không những nắm chắc mà còn nâng cao được kiến thức của mình. II. Giải pháp cụ thể Sau đây là ví dụ cụ thể của tôi đã làm về gắn kết lí luận vào bài dạy “Sự nổi” của vật lý lớp 8. Tôi đã nghiên cứu kĩ bài dạy và xác định các mục tiêu như sau: 1.Kiến thức: Học sinh giải thích được khi nào vật nổi, vật chìm, vật lơ lửng. Nêu được điều kiện nổi của vật, biết tìm độ lớn của lực đẩy Ácsimet khi vật nổi trên mặt thoáng của chất lỏng. 2. Kỹ năng: Có kỹ năng làm thí nghiệm, phân tích hiện tượng, vận dụng giải thích hiện tượng vật nổi thường gặp trong cuộc sống. 3. Thái độ: Có thái độ nghiêm túc, trung thực, hợp tác học tập. 4. Chuẩn bị: Chuẩn bị mỗi nhóm học sinh một bình nhựa trong hoặc thuỷ tinh đựng nước, một chiếc đinh nhỏ, một lá nhôm cuốn lòng máng (cắt từ vỏ lon bia), chanh, đường, một ống nghiệm nhỏ đựng cát khô có nút kín, giẻ khô, bút dạ, bảng nhóm. Giáo viên: Một bình thuỷ tinh đựng nước, một hòn bi sắt, một hòn bi gỗ (hoặc mẫu gỗ có kích thước tương đương), một lá nhôm cuốn lòng máng. Trong ví dụ này để giúp học sinh tích cực học tập trong giờ bằng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề thì với mỗi đơn vị kiến thức trọng tâm của bài người giáo viên cần hướng học sinh đi theo các bước sau: Bước 1 : Phát hiện, thâm nhập vấn đề: - Giáo viên đặt học sinh vào tình huống có vấn đề như trong SGK: An: Tại sao khi thả vào nước thì hòn bi gỗ nổi, còn hòn bi sắt lại chìm? Bình: Vì hòn bi gỗ nhẹ hơn. An: Thế tại sao tàu bằng thép nặng hơn hòn bi thép lại nổi còn hòn bi thép lại chìm?.

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Khi đó học sinh được đặt vào tình huống có vấn đề và muốn trả lời được câu hỏi cần tìm điều kiện để vật nổi, vật chìm. Đây chính là đơn vị kiến thức trọng tâm thứ nhất của bài học. Bước 2: Tìm giải pháp: Sau khi nghiên cứu, bằng hoạt động tích cực của bản thân và của nhóm, học sinh tìm giải pháp, đó là việc tìm ra các thí nghiệm và tiến hành làm thí nghiệm để biết được điều kiện nổi của vật (đơn vị kiến thức trọng tâm thứ nhất của bài học) và tìm độ lớn của lực đẩy Ácsimet khi vật nổi trên mặt thoáng của chất lỏng (đơn vị kiến thức trọng tâm thứ hai của bài học). Bước 3: Trình bày, thực hiện giải pháp: Để tìm điều kiện để vật nổi, vật chìm cần định hướng cho học sinh đi từ các hiện tượng tương tự trong vật lý như: Tàu thuyền nổi trên mặt nước, hạt chanh trong cốc nước chanh, ….Từ đó giáo viên tổ chức tình huống học tập bằng cách làm thí nghiệm thả hòn bi sắt và hòn bi gỗ vào nước. Với sự định hướng tư duy bằng thực tế và thí nghiệm thôi thúc học sinh nảy sinh vấn đề cần giải quyết: Tại sao hòn bi sắt chìm, còn hòn bi gỗ nổi? Tư duy của mỗi cá nhân học sinh có thể cho rằng do gỗ nhẹ hơn sắt nên hòn bi gỗ nổi và hòn bi sắt chìm. Giáo viên tiếp tục định hướng: Tại sao tàu sắt nặng hơn hòn bi sắt lại nổi còn hòn bi sắt lại chìm? Rõ ràng phải có sự liên quan tới sự nổi của vật. Để giúp các em định hướng gần hơn đến kiến thức cần làm tiếp thí nghiệm với lá nhôm mỏng: Thả nhẹ lá nhôm cuốn lòng máng xuống nước, lá nhôm nổi. Nhưng khi gấp nhỏ lá nhôm lại rồi thả nhẹ xuống nước lập tức lá nhôm chìm. Học sinh nhận thức với cùng một lá nhôm khi cuốn lòng máng thì nổi, khi gấp nhỏ lại thì chìm. Từ thí nghiệm đó chứng tỏ: Điều kiện làm vật nổi hay chìm không liên quan đến vật nặng hay nhẹ. Giáo viên định hướng: Vật nằm trong lòng chất lỏng chịu tác dụng của những lực nào, phương và chiều của chúng có giống nhau không? Học sinh định hướng tư duy của mình đi tìm lực tác động lên vật nhấn chìm nhờ bài “Lực đẩy Ácsimet”. Tư duy học sinh hướng tới điều kiện liên quan đến sự nổi của vật đó là các lực tác dụng lên vật. Các nhóm học sinh sau khi được định hướng tư duy tiến hành nghiên cứu trả lời câu hỏi C2 của bài học, so sánh độ.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> lớn của trọng lượng P và lực đẩy Ácsimet từ đó diễn tả bằng lời trước lớp. Từ C2 của bài giáo viên tiếp tục định hướng: Nếu trọng lượng P của vật lớn hơn lực đẩy Ácsimet thì sao? Tương tự trọng lượng P của vật bằng lực đẩy Ácsimet và trọng lượng P của vật nhỏ hơn lực đẩy Ácsimet thì sao? Với sự định hướng đó chắc chắn học sinh nêu ra được các dự đoán lý thuyết. Vấn đề đặt ra cho học sinh: Phải xác định được phương án làm thí nghiệm kiểm tra dự đoán đó. Giáo viên yêu cầu: Với các thiết bị của nhóm làm thế nào để tạo được trọng lượng P của vật nhỏ hơn lực đẩy Ácsimet, tương tự với các trường hợp còn lại. Học sinh hợp tác nhóm thảo luận đưa ra các phương án, tín hiệu phù hợp, giáo viên lựa chọn cho học sinh phương án phù hợp nhất bằng cách thay đổi lượng cát trong ống nghiệm, yêu cầu học sinh làm thí nghiệm kiểm tra. Từ thí nghiệm học sinh khẳng định được điều kiện nổi của vật, từ đó giải thích khi nào vật nổi, vật chìm, vật lơ lửng. Giáo viên tiếp tục định hướng tư duy cho học sinh thông qua thí nghiệm tự tìm độ lớn của lực đẩy Ácsimet khi vật nổi trên mặt thoáng của chất lỏng. Bằng thí nghiệm và thảo luận nhóm học sinh sẽ kết luận được F A =d.V trong đó: d là trọng lượng riêng của chất lỏng, V là thể tích của phần vật chìm trong chất lỏng (phần chất lỏng bị vật chiếm chỗ - không phải là thể tích của cả vật). Bước 4: Nghiên cứu sâu giải pháp: Sau khi học sinh đã nắm được điều kiện vật nổi, vật chìm, công thức tính độ lớn của lực đẩy Ácsimet khi vật nổi trên mặt thoáng của chất lỏng, giáo viên đưa ra các dạng bài tập vận dụng từ đơn giản đến phức tạp, ngoài các bài trong sách giáo khoa, sách bài tập, giáo viên còn đưa ra các bài tập nâng cao và có tính thực tế. * Dạng 1 : Bài tập trắc nghiệm củng cố kiến thức Hãy chọn câu trả lời đúng trong các bài tập dưới đây: Bài 1 : Khi nào một vật nổi trên bề mặt chất lỏng? A. Trọng lượng riêng của chất lỏng lớn hơn trọng lượng riêng của vật..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> B. Trọng lượng riêng của chất lỏng nhỏ hơn trọng lượng riêng của vật. C. Khối lượng riêng của chất lỏng nhỏ hơn khối lượng riêng của vật. D. Lực đẩy Ácsimet lớn hơn trọng lượng của vật. Đáp án đúng: D Bài này giáo viên cần lưu ý cho học sinh câu A đúng chỉ khi vật đồng chất và không rỗng. Bài 2 : Khi vật nổi trên mặt thoáng chất lỏng thì lực đẩy Ácsimet được tính như thế nào? A. Bằng trọng lượng của phần vật chìm trong nước. B. Bằng trọng lượng của phần nước bị vật chiếm chỗ. C. Bằng trọng lượng của vật. D. Bằng trọng lượng riêng của nướcnhân với thể tích của vật. Đáp án đúng: B * Dạng 2 : Bài tập tự luận vân dụng thấp kiến thức. Bài 1 : Em hãy giúp Bình trả lời An trong phần mở bài, biết rằng con tàu không phải là một khối thép đặc mà có nhiều khoảng rỗng. - Hòn bi thép tuy nhẹ hơn chiếc tàu bằng thép nhưng nó có cấu trúc đặc bên trong nên trọng lượng riêng của bi lớn hơn trọng lượng riêng của nước do đó bi bị chìm. Tàu bằng sắt rất nặng nhưng lại rỗng bên trong (trong là không khí hay những vật liệu nhẹ khác) do đó nếu xét cả con tàu thì trọng lượng riêng của tàu nhỏ hơn trọng lượng riêng của nước nên tàu nổi trên mặt nước. Bài 2: Thả một hòn bi thép vào thuỷ ngân thì bi nổi hay chìm? Tại Sao? Học sinh vận dụng bảng khối lượng riêng và mối liên quan giữa khối lượng riêng và trọng lượng riêng để tìm ra trọng lượng riêng của thép là 78000N/m 3 nhỏ hơn trọng lượng riêng của thuỷ ngân là 136000N/m 3 và kết luận bi sẽ nổi. Bài 3 : Không cần làm thí nghiệm, em hãy cho biết khối lượng riêng của mỡ lớn hay nhỏ hơn khối lượng riêng của nước?.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Vận dụng kiến thức thực tế, học sinh biết mỡ luôn luôn nổi trên mặt nước, vì vậy trọng lượng riêng của mỡ nhỏ hơn trọng lượng riêng của nước và vì thế, khối lượng riêng của mỡ nhỏ hơn khối lượng riêng của nước. Bài 4 : - Vắt chanh vào cốc nước nguyên chất, hiện tượng gì xảy ra? Học sinh làm nhanh thí nghiệm và đều quan sát thấy hạt chanh to bình thường sẽ bị chìm. Từ hiện tượng này em có kết luận gì? Trả lời: Trọng lượng riêng của hạt chanh lớn hơn trọng lượng riêng của nước vắt chanh. - Thả đường vào cốc nước chanh, khuấy đều. Quan sát và cho biết hiện tượng xảy ra? Lúc này sẽ có em thấy hạt chanh khi trước chìm thì bây giờ lơ lửng, cũng có em thấy nó nổi hẳn lên. Điều này là do tỉ lệ đường các em cho vào cốc của mình là khác nhau. Từ hiện tượng này em có kết luận gì? Trọng lượng riêng của nước đường lớn hơn trọng lượng riêng của hạt chanh. Bài tập này là hiện tượng rất gần gũi trong cuộc sống hàng ngày của các em, giúp các em hứng thú và say mê tìm tòi. Giáo viên có thể đưa thêm câu hỏi kích thích sau: Vào mùa hè oi bức, bố mẹ đi làm về rất mệt mỏi, vận dụng kiến thức đã được học, làm thế nào em biết mình vừa pha xong cho bố mẹ một cốc nước chanh ngon tuyệt? Căn cứ vào sở trường của mình và quan sát hạt chanh trong cốc mà các em biết mình đã làm hài lòng bố mẹ. * Dạng 3 : Bài tập tự luận vận dụng cao kiến thức. Bài 1 : Biển “Chết” là biển nổi tiếng ở Palestin. Nước ở đây rất mặn, đến nỗi không có một sinh vật nào sống được ở đó. Phải chăng con người có thể nổi trên biển “Chết” mà không cần bơi. a) Một người có khối lượng 70 kg, thể tích 65,42 dm 3 . Tính trọng lượng riêng của người?.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> b) Người này tắm trong nước biển có khối lượng riêng 1020kg/m 3 (Tỉ lệ muối là 30g/lít). Hỏi người này nổi hay chìm? c) Người này tắm tại biển “Chết” có khối lượng riêng 1174kg/m 3 (Tỉ lệ muối là 210g/lít). Hỏi người này nổi hay chìm? Trả lời: a) 10700N/m 3 b) Trọng lượng riêng của nước biển là 10200N/m 3. Khi tắm, thể tích của người bằng thể tích của nước bị người chiếm chỗ, vì vậy có thể kết luận người bị chìm vì trọng lượng riêng của người nhỏ hơn trọng lượng riêng của nước biển. c) Ở biển “Chết” trọng lượng riêng của nước biển là 11740N/m 3 , lớn hơn trọng lượng riêng của người. Vì vậy người có thể nổi trên biển “Chết” mà không cần bơi. Bài 2 : Một vật hình trụ bằng nhựa, trôi trên nước, phần chìm trong nước có độ cao 6cm. Nếu nhúng trong cồn có khối lượng riêng 800kg/m 3 thì phần chìm trong cồn có độ cao là bao nhiêu? Lực đẩy Ácsimet trong hai trường hợp bằng nhau và bằng trọng lượng của vật. Gọi d 1, d2 là trọng lượng riêng của nước và cồn, V 1 , V2 là thể tích phần vật chìm trong nước và cồn thì: Nhằm củng cố và nâng cao kiến thức cho học sinh, lượng bài tập giáo viên đưa ra cần phong phú, nhưng để các em giải quyết hết lượng bài tập theo thiết kế của giáo viên thì các bài tập cần gần gũi kích thích trí tò mò khám phá với các em, ngoài ra giáo viên cần chú ý đến đối tượng học sinh của mình mà thiết kế bài tập dưới các hình thức cho phù hợp, có thể là đưa dưới dạng trò chơi hoặc chia nhóm để các em đều được làm việc, bài tập nâng cao có thể dành cho nhóm học sinh khá giỏi hoặc tạo tình huống có vấn đề cho các em nghiên cứu ở nhà..

<span class='text_page_counter'>(20)</span> CHƯƠNG IV. KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC Với việc áp dụng phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề như trên, tôi nhận thấy rằng học sinh coi việc học vật lý đơn giản, nhẹ nhàng và vô cùng lí thú. Trong giờ học luôn luôn có không khí học tập sôi nổi, hào hứng, các em say sưa thảo luận, tự tin đưa ra ý kiến của mình. Các em thấy mình được tôn trọng, nhiều em học yếu cũng không sợ học môn vật lý nữa, các em chủ động nắm vững kiến thức bằng việc tích cực học tập của bản thân, nhờ đó chất lượng học tập môn vật lý dần dần được nâng lên, chất lượng đó thể hiện rất rõ qua các bài kiểm tra 15 phút, kiểm tra 45 phút và kiểm tra trắc nghiệm sau mỗi giờ học. Để chứng minh tôi xin đưa ra một số kết quả sau: Kết quả khảo sát kết quả kiểm tra định kì môn vật lý 8 đầu năm Số liệu. Số. Giỏi. bài kiểm. Khá. Trung bình. Yếu. Kém. SL. %. SL. %. SL. %. SL. %. SL. %. Lớp 83. tra 36. 3. 8,3. 8. 22,2. 12. 33,3. 8. 22,2. 5. 14,0. 82. 36. 4. 11,1. 8. 22,2. 10. 27,8. 10. 27,8. 4. 11,1. Sau khi tiến hành nghiên cứu áp dụng đề tài trên lớp 8 3 còn lớp 82 để đối chứng, kết quả kiểm tra như sau: Số liệu. Số bài kiểm. Lớp 83. tra 36. 82 Số. 36 Số. liệu. bài. Lớp. kiểm. Giỏi. Khá. Trung bình. Yếu. Kém. SL. %. SL. %. SL. %. SL. %. SL. %. 5. 13,9. 12. 33,3. 17. 47,2. 2. 5,6. 0. 0. 4. 11,1. 10 27,8 14 Đầu năm TTB DTB SL % SL %. 38,9. 7 19,4 1 2,8 Sau tác đông TTB DTB SL % SL %.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> 3. 8 82. tra 36 23 63,9 13 36,1 34 94,4 2 5,6 36 22 61,1 14 38,9 28 77,8 8 22,2 Bảng thống kê tỉ lệ điểm trên trung bình và dưới trung bình của 2 lớp như sau Kết quả thu trên đây đã minh hoạ tốt cho tính khả thi và hiệu quả của việc. tổ chức tình huống dạy học trên. Qua đó có thể nói việc dạy học “ phát hiện và giải quyết vấn đề trong môn vật lý 8” là một trong những mô hình điển hình cho tư tưởng tổ chức hoá hoạt động học tập của học sinh dưới sự tổ chức, hướng dẫn của giáo viên. Như vậy việc dạy học “ phát hiện và giải quyết vấn đề trong môn vật lý 8” đã khơi dậy và phát huy khả năng tự học, nhằm hình thành cho học sinh tư duy tích cực, độc lập, nâng cao năng lực nhận thức, rèn kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm tin, hứng thú học tập cho học sinh..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.

<span class='text_page_counter'>(23)</span> I. Kết luận: Qua giảng dạy và sinh hoạt chuyên môn, qua việc nghiên cứu và sử dụng phương pháp dạy học “ Phát hiện và giải quyết vấn đề ” trong việc giảng dạy bộ môn vật lý tôi rút ra một số bài học sau: Để tổ chức tốt tình huống trong dạy học theo hướng “ Phát hiện và giải quyết vấn đề ” trong dạy vật lý lớp 8 thì ngoài việc người thầy phải nắm vững nội dung, chương trình SGK mới, mỗi giáo viên nhận thức rõ vai trò, nhiệm vụ của mình, của học sinh trong mỗi giờ học. Không được làm thay công việc của học sinh. Coi trọng hoạt động tự học của học sinh, cần đa dạng hoá hoạt động độc lập của học sinh (thực hành, làm bài tập, thảo luận) …. Người giáo viên phải biết đặt mình vào vị trí của học sinh để thấy được những khó khăn trong nhận thức, từ đó xây dựng tình huống học tập vừa sức, kích thích hoạt động nhận thức của học sinh. Coi việc đổi mới phương pháp là việc làm thường nhật của người dạy học, là những gì mà mỗi người chúng ta đang hàng ngày tìm kiếm. Muốn nâng cao chất lượng học tập của học sinh, phải quan tâm đến hoạt động nhận thức của học sinh. Trong quá trình dạy học luôn lấy học sinh làm trung tâm, lắng nghe và tôn trọng ý kiến của học sinh giúp các em học tập ngày càng tốt hơn. Kết hợp tốt các phương pháp dạy học trong một giờ dạy sao cho học sinh được hoạt động tích cực, thảo luận nhóm sôi nổi để giải quyết vấn đề trong “ Tình huống có vấn đề ” và làm xuất hiện ở các em nhu cầu giải quyết vấn đề một cách tự nguyện, hăng hái. Qua các bài học cụ thể, bằng cách thức tổ chức hoạt động của mình dần truyền cho học sinh lòng say mê, yêu thích môn học, mong muốn tự mình khám phá kiến thức. Nâng cao chất lượng sinh hoạt nhóm chuyên môn hàng tuần, bàn bạc, thống nhất phương pháp dạy, chuẩn bị đồ dùng dạy học cho các tiết học trong cả tuần tới, nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng các giờ dạy..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> Thường xuyên rèn luyện, tích cực học tập nâng cao trình độ, học hỏi kinh nghiệm của đồng nghiệp để nâng cao tay nghề, hoàn thành tốt nhiệm vụ dược giao. Những việc làm hằng ngày đó góp phần thiết thực nâng cao chất lượng dạy học nói chung, chất lượng dạy học môn vật lý nói riêng. II. Kiến nghị và đề xuất: Để nâng cao chất lượng học tập của học sinh và để đề tài thành công, tôi có một số kiến nghị và đề xuất sau: Đối với phụ huynh học sinh: Quan tâm hơn đối với việc học của con mình, phối kết hợp hài hoà với các thầy cô giáo, trang bị đầy đủ tài liệu như sách giáo khoa, sách tham khảo và thường xuyên nhắc nhở ý thức học tập của con mình. Đối với cấp trên: Tổ chức nhiều hơn nữa các buổi sinh hoạt liên cụm để các giáo viên có điều kiện chia sẻ kinh nghiệm dạy học hiệu quả. Tích cực tham mưu, dành sự quan tâm của cấp trên để cơ sở hạ tầng đạt chuẩn, học sinh có riêng phòng thực hành để thuận lợi cho việc tiếp thu kiến thức nâng cao chất lượng học của bản thân. Trên đây là những suy nghĩ và việc làm của tôi đã và đang áp dụng trong quá trình giảng dạy môn vật lý lớp 8 với mục đích giúp học sinh hứng thú học tập, nâng cao chất lượng học sinh đại trà qua đề tài: "Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. " Trong phạm vi đề tài không tránh khỏi thiếu sót. Vì vậy rất mong nhận được sự trao đổi góp ý của đồng nghiệp để tôi hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình . Tôi xin chân thành cảm ơn..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình triết học Mác – Lênin 2. Giáo trình giáo dục học đại cương 3. Sách giáo khoa vật lý 8, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 4. Sách bài tập vật lý 8, nhà xuất bản giáo dục Việt Nam 5. Sách giáo viên vật lý 8 - NXBGD năm 2005 6. Phương pháp giảng dạy vật lý ở trường phổ thông, tập 1 - NXBGD-1979 7. Phương pháp dạng bài tập vật lý – NXBGD.

<span class='text_page_counter'>(26)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×