Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Chat luong doi ngu bao cao vien cap huyen o tinh Thanh Hoa giai doan hien nay - bản in.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (442 KB, 99 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

QUÁCH VĂN PHÚC

CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN CẤP HUYỆN
Ở TỈNH THANH HÓA GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH: XÂY DỰNG ĐẢNG VÀ CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC
Mã số: 8310202

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS. TRƯƠNG THỊ THÔNG

HÀ NỘI - 2020


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn
là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn
đầy đủ theo quy định.
TÁC GIẢ

Quách Văn Phúc


MỤC LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCV



:

Báo cáo viên

TTM

:

Tuyên truyền miệng

Nxb

:

Nhà xuất bản


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Trang
Biểu đồ 2.1: Cơ cấu giới tính của đội ngũ báo cáo viên cấp huyện ở
tỉnh Thanh Hoá năm 2019
Biểu đồ 2.2: Cơ cấu độ tuổi của đội ngũ báo cáo viên cấp huyện ở

39

tỉnh Thanh Hố năm 2019
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu trình độ chun môn của đội ngũ báo cáo viên

40


cấp huyện ở tỉnh Thanh Hố năm 2019
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu trình độ lý luận chính trị của đội ngũ báo cáo viên

43

cấp huyện ở tỉnh Thanh Hoá năm 2019

44


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cơng tác tư tưởng là một bộ phận cấu thành đặc biệt quan trọng trong
tồn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng, có vai trò đi trước, mở đường cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Cấu trúc của công tác
tư tưởng gồm ba bộ phận. Trong đó, cơng tác tun truyền, cổ động là bộ
phận giữ vai trị xung kích trên mặt trận tư tưởng, với nhiệm vụ truyền bá kịp
thời, rộng rãi chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của
Nhà nước đến nhân dân; cổ vũ, động viên tinh thần sáng tạo cách mạng của
nhân dân thực hiện thắng lợi chủ trương, đường lối của Đảng...
Trong công tác tuyên truyền và cổ động, tuyên truyền miệng (TTM) là
một trong những hình thức đặc biệt, được thực hiện bằng lời nói qua giao tiếp
trực tiếp. TTM được thực hiện bởi đội ngũ báo cáo viên (BCV) do cấp ủy
thành lập, lãnh đạo, tổ chức và chỉ đạo nhằm phổ biến quan điểm, đường lối
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thơng tin thời sự, chính sách
đến cán bộ, đảng viên và nhân dân; giải đáp những vướng mắc trong nhận
thức, nắm bắt, phản ánh kịp thời tình hình tư tưởng, nguyện vọng của quần
chúng cho các cấp ủy; đấu tranh, phản bác các quan điểm, luận điệu sai trái,

xuyên tạc của các thế lực thù địch trên lĩnh vực tư tưởng - văn hóa.
Chất lượng của đội ngũ BCV là yếu tố có tính quyết định đến chất lượng
và hiệu quả của cơng tác TTM. Trong bối cảnh tình hình thế giới, khu vực và
trong nước có những diễn biến phức tạp, khó lường; sự bùng nổ thơng tin tồn
cầu và sự nở rộ của các trang mạng xã hội đã làm cho cuộc đấu tranh tư tưởng
trên mặt trận tuyên truyền ngày càng phức tạp và trở nên cấp bách thì việc
nâng cao chất lượng đội ngũ BCV có tác động trực tiếp đến chất lượng, hiệu
quả của công tác tuyên truyền, cổ động và góp phần nâng cao chất lượng công
tác tư tưởng của Đảng.


2
Thanh Hoá là một trong những tỉnh lớn của cả nước, nằm ở Bắc Trung
Bộ, cách Thủ đô Hà Nội 150km về phía Nam. Địa hình của Thanh Hóa có đủ
các dạng từ núi cao đến đồi trung du, đồng bằng, đồng chiêm trũng, bãi bồi,
cồn cát, ruộng vùng ven biển, các đảo ven bờ và ngoài khơi. Dân số của tỉnh
hiện nay là 3,64 triệu người. Với những điều kiện đó, Thanh Hóa được coi là
hình ảnh thu nhỏ của nước Việt Nam, có vị trí quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội, an ninh - quốc phòng của đất nước.
Những năm vừa qua, việc xây dựng và tổ chức đội ngũ BCV các cấp ở
tỉnh Thanh Hóa đã đạt được những kết quả tích cực, hoạt động của đội ngũ
BCV đã góp phần đưa nền tảng tư tưởng, các chủ trương, đường lối của Đảng
và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với cán bộ, đảng viên và nhân dân.
Tuy nhiên chất lượng đội ngũ BCV, nhất là đội ngũ BCV cấp huyện còn nhiều
hạn chế như: số lượng đông nhưng chưa thực sự mạnh, phương thức hoạt
động vẫn nặng về thông tin từ trên xuống, chưa chú trọng đến đối thoại; một
số BCV năng lực còn hạn chế, chưa được đào tạo về kỹ năng, nghiệp vụ; nội
dung tuyên truyền chưa thật sự toàn diện, thiếu sắc bén, định hướng thông tin
chậm... đã ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả công tác tưởng của các đảng
bộ huyện trong tỉnh.

Do đó, phân tích và tìm hiểu để đưa ra giải pháp nâng cao chất lượng đội
ngũ BCV cấp huyện là yêu cầu cấp bách cả về lý luận và thực tiễn để nâng
cao chất lượng cơng tác tư tưởng của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa hiện nay.
Với các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “Chất lượng đội ngũ báo cáo
viên cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay” làm luận văn thạc sĩ
chuyên ngành Xây dựng Đảng và Chính quyền nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Cơng tác TTM và hoạt động BCV nói chung, chất lượng đội ngũ BCV
nói riêng ln nhận được sự quan tâm, nghiên cứu của nhiều nhà lãnh đạo,
các cấp ủy Đảng và các nhà khoa học từ Trung ương đến cơ sở. Cho đến nay,


3
đã có nhiều đề tài cấp Nhà nước, nhiều luận văn, luận án, hội nghị, hội thảo
khoa học, bài viết đăng trên các sách, tạp chí bằng các cách tiếp cận khác
nhau với nội dung phong phú và đa dạng đề cập đến vấn đề này:
2.1. Đề tài khoa học và sách
- Lương Khắc Hiếu (chủ nhiệm đề tài) (2003), “Nâng cao năng lực hoạt
động thực tiễn của đội ngũ báo cáo viên ở Hà Nội hiện nay” [23].
Đề tài đã nêu ra thực trạng đội ngũ BCV ở Hà Nội và hoạt động của họ,
từ đó có những kiến nghị và giải pháp thích hợp, có thể vận dụng vào việc
phát huy vai trò của đội ngũ BCV trong hoạt động TTM trên địa bàn Hà Nội
và ở nước ta hiện nay.
- Ban Tuyên giáo Trung ương (2019), “Tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ
tuyên truyền miệng” [10].
Tài liệu này đã cung cấp một cách có hệ thống những nội dung cơ bản về
nghiệp vụ của công tác TTM và hoạt động BCV, bao gồm cả chỉ đạo và tổ
chức quản lý đối với đội ngũ BCV, tuyên truyền viên.
- Lương Khắc Hiếu (2008), “Giáo trình Nghệ thuật phát biểu miệng” [24].
Tác giả đã đề cập đến những nội dung cơ bản của phát biểu miệng gồm

cơ sở tâm lý - sư phạm; phương pháp, thao tác, kỹ năng TTM; những ưu thế
và hạn chế của phát biểu miệng. Công tác rèn luyện, tu dưỡng, xây dựng đội
ngũ BCV, tuyên truyền viên, gồm vấn đề về tâm lý - sư phạm, những phẩm
chất, năng lực, uy tín của cán bộ TTM. Cách để chuẩn bị bài phát biểu và
chứng minh trong phát biểu; ngơn ngữ và q trình phát biểu miệng.
- Ngô Văn Thạo (chủ biên) (2008), “Nghiệp vụ Tuyên giáo” [48].
Tác giả đã làm rõ những khái niệm cơ bản như: tuyên truyền, TTM và
BCV; những yếu tố tác động đến hiệu quả tuyên truyền. Cuốn sách đã nêu
những nội dung cơ bản trong quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước về
lĩnh vực tuyên truyền.


4
2.2. Luận án, luận văn
- Đinh Thị Mai, Luận án Tiến sĩ “Kỹ năng tuyên truyền bằng lời tư
tưởng Hồ Chí Minh về đạo đức của báo cáo viên”[36].
- Lê Mai Trang, Luận án Tiến sĩ “Đổi mới công tác tuyên truyền của
Đảng đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay” [54].
- Nguyễn Thị Hiền, Luận văn Thạc sĩ “Công tác tư tưởng của đảng bộ
thành phố Thanh Hóa trong giai đoạn hiện nay” [22].
- Nguyễn Thanh Bình, Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng đội ngũ báo cáo
viên của đảng bộ tỉnh Vĩnh Long giai đoạn hiện nay” [13].
- Phan Thị Thanh Thúy, Luận văn Thạc sĩ “Chất lượng đội ngũ báo cáo
viên của các huyện ủy ở Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn hiện nay” [50].
2.3. Các cơng trình khoa học đăng trên các tạp chí.
- Nguyễn Chí Mỳ, “Một số suy nghĩ đổi mới phương pháp tuyên truyền
miệng hiện nay” [39].
Trong bài viết này, tác giả đã nêu ra một số vấn đề đang nổi lên về đổi
mới phương pháp TTM như: nâng cao năng lực nắm đối tượng, chú ý tới
những vấn đề mà đối tượng quan tâm khi tuyên truyền; quán triệt sâu sắc sự

thống nhất giữa lời nói với niềm tin của BCV trong phương pháp tuyên tuyền;
tăng cường đối thoại trong TTM; chuẩn bị chu đáo cho buổi báo cáo, nói
chuyện; chăm lo đầu tư trang thiết bị, cơ sở vật chất, kỹ thuật và có chính
sách đãi ngộ hợp lý để thu hút, động viên BCV.
- Trần Quang Nhiếp, “Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền miệng
trong thời kỳ mới” [41].
Tác giả cho rằng, tình hình thế giới và trong nước hiện nay có những
biến đổi nhanh chóng và phức tạp. Do đó, để đáp ứng tốt u cầu, nhiệm vụ
của cơng tác TTM trong tình hình mới, BCV cần quan tâm rèn luyện một số
lĩnh vực thuộc về chuyên môn, nghiệp vụ của BCV, nâng cao trách nhiệm của
BCV, như: làm chủ nội dung trong cơng tác TTM; có phương pháp sư phạm,


5
biết tích cực hóa các q trình nhận thức của người nghe để cuốn hút họ khi
báo cáo; công tác tổ chức, điều khiển hoạt động trong buổi báo cáo chặt chẽ,
nghiêm túc, khoa học.
- Lương Ngọc Vĩnh, “Nâng cao chất lượng công tác tuyên truyền của
Đảng trong thời kỳ mới” [59].
Tác giả cho rằng, bước vào thời kỳ đổi mới, cơng tác TTM có nhiều
thuận lợi nhưng cũng phải đối mặt khơng ít khó khăn, thách thức. TTM đang
phải cạnh tranh với hoạt động quảng cáo, giải trí, các hoạt động truyền đạo
của các tôn giáo lớn, phải trực tiếp đấu tranh chống các hoạt động phản tuyên
truyền của các thế lực thù địch, trong điều kiện đời sống tinh thần của xã hội
đang ngày càng đa dạng, phức tạp.
- Lương Khắc Hiếu, “Kỹ năng tạo lập, duy trì và tái lập sự chú ý của
người nghe trong tuyên truyền miệng” [27].
Tác giả đã phân tích, chỉ rõ những kỹ năng cơ bản để mỗi BCV có thể
học tập, vận dụng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của mình. Đó là: một số
kỹ năng tạo lập sự chú ý khi bắt đầu phát biểu; một số kỹ năng thu hút và duy

trì sự chú ý ở người nghe trong quá trình tiến hành TTM; một số kỹ năng khôi
phục và tăng cường sự chú ý.
Cho đến nay, đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về cơng tác
tư tưởng của Đảng nói chung, cơng tác TTM và hoạt động của đội ngũ BCV
nói riêng, tuy nhiên chưa có cơng trình nào đề cập trực tiếp một cách có hệ
thống hoặc nghiên cứu chuyên sâu về lý luận và thực tiễn về chất lượng đội
ngũ BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa. Tác giả sẽ kế thừa và tiếp thu có
chọn lọc một số cơng trình nghiên cứu của các nhà khoa học có liên quan để
tập trung nghiên cứu và làm rõ chất lượng đội ngũ BCV cấp huyện ở tỉnh
Thanh Hóa giai đoạn hiện nay. Từ đó, đề xuất phương hướng và những giải
pháp nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa
từ nay đến năm 2030.


6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục đích của luận văn
Trên cơ sở luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng đội
ngũ BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay, luận văn đề xuất
phương hướng và những giải pháp để góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ
BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa từ nay đến năm 2030.
3.2. Nhiệm vụ của luận văn
Nghiên cứu làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn về chất lượng đội ngũ BCV
cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
Khảo sát, đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ BCV cấp huyện ở
tỉnh Thanh Hóa từ năm 2015 đến năm 2020.
Đề xuất phương hướng và những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng
đội ngũ BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa từ nay đến năm 2030.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn.
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn đặt ra về chất
lượng đội ngũ BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu, khảo sát chất lượng đội ngũ BCV cấp
huyện ở tỉnh Thanh Hóa từ năm 2015 đến năm 2020; phương hướng và những
giải pháp chủ yếu có giá trị đến năm 2030.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn được nghiên cứu và thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về công tác cán bộ, công tác tư tưởng, công tác TTM và lực lượng BCV.
5.2. Cơ sở thực tiễn của luận văn
Thực trạng chất lượng đội ngũ BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
2015-2020, các báo cáo về hoạt động BCV và thực tế nghiên cứu của tác giả.


7
5.3. Phương pháp nghiên cứu của luận văn
Luận văn sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chủ nghĩa duy vật lịch sử và các phương pháp cụ thể như: lịch sử và lôgic,
khảo sát, tổng hợp, phân tích, so sánh, gắn lý luận với thực tiễn, điều tra xã
hội học và đặc biệt coi trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Đóng góp về mặt khoa học và ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
6.1. Đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Góp phần làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn về chất lượng đội ngũ BCV
cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
Từ phân tích thực trạng để xác định nguyên nhân, những vấn đề đặt ra và
xác định tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh
Hóa hiện nay.
Đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ

BCV cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo
cho cơng tác xây dựng đội ngũ cán bộ nói chung, xây dựng đội ngũ BCV cấp
huyện nói riêng; đồng thời phục vụ hoạt động chun mơn của các Trung
tâm chính trị cấp huyện ở tỉnh Thanh Hóa và ở Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
nội dung luận văn được kết cấu thành 3 chương, 6 tiết.


8
Chương 1
CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ BÁO CÁO VIÊN CẤP HUYỆN
Ở TỈNH THANH HÓA - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC
TIỄN
1.1. KHÁI QUÁT VỀ CÁC HUYỆN, THỊ XÃ, THÀNH PHỐ VÀ ĐỘI NGŨ
BÁO CÁO VIÊN CẤP HUYỆN Ở TỈNH THANH HĨA.

1.1.1. Khái qt về tỉnh Thanh Hóa và cấp huyện của Đảng bộ tỉnh
Thanh Hóa giai đoạn hiện nay.
1.1.1.1. Khái quát về đặc điểm tự nhiên, lịch sử, văn hóa, kinh tế - xã
hội tỉnh Thanh Hóa
- Vị trí địa lý và đặc điểm tự nhiên:
Tỉnh Thanh Hoá nằm ở cực Bắc Miền Trung, có vĩ độ từ 19°33'B đến
20°30'B, kinh độ từ 104°Đ đến 106,30°Đ, cách Thủ đô Hà Nội 150km về phía
Nam. Phía Bắc giáp với ba tỉnh: Sơn La, Hồ Bình, Ninh Bình với chiều dài
địa giới là 175km; phía Nam giáp tỉnh Nghệ An với chiều dài địa giới hơn
160km; phía Tây giáp tỉnh Hủa Phăn (nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào)

với chiều dài địa giới hơn 192km, phía Đơng giáp Vịnh Bắc Bộ. Với tổng
diện tích đất liền là 11.168km², vùng thềm lục địa rộng 18.000km², Thanh
Hóa là một trong những tỉnh lớn của cả nước. Chiều rộng theo hướng Bắc Nam là gần 100km (theo chiều đường thẳng gần bờ biển). Đường chéo của
lãnh thổ lớn nhất là từ điểm cực Tây Bắc đến điểm cực Nam dài hơn 200km.
Thanh Hoá là tỉnh có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, giữ vai trị kết
nồi vùng đồng bằng Sơng Hồng, Tây Bắc và Bắc Trung Bộ. Thanh Hóa có đủ
các dạng địa hình: trung du, miền núi, đồng bằng, ven biển và vùng thềm lục
địa. Ở mỗi vùng có thế mạnh khác nhau và có điều kiện liên kết để phát triển
một nền kinh tế toàn diện.
Vùng trung du miền núi có diện tích tự nhiên bằng ⅔ diện tích tự nhiên
toàn tỉnh. Ba mặt bắc - tây - nam là núi rừng trùng điệp, hiểm yếu, phía bắc và


9
phía nam núi rừng xuyên thẳng ra biển. Vùng trung du là những dãy đồi đất
liền kề xen kẽ vói miền núi có diện tích tự nhiên khoảng 500km². Trong vị thế
chiến lược chung của cả tỉnh, trung du miền núi là khu vực trọng yếu chung
về quốc phòng - an ninh, là địa bàn có nhiều điều kiện về phát triển kinh tế.
Núi đồi của Thanh Hóa được chia thành hai hệ thống. Hệ thống bắc sông
Mã là núi đá vơi tiếp nối của dãy Hồng Liên Sơn và kết thúc bằng dãy Tam
Điệp, có độ cao giảm dần từ 1.500m đến 100m. Hệ thống nam sông Mã gồm
các dãy phiến thạch, sa thạch, granit chạy từ Quan Sơn, Mường Lát sang Như
Xuân, Tĩnh Gia (giáp Nghệ An) có độ cao trên dưới 1.000m. Vùng đồi trung
du cao không quá 40 thuộc một phần diện tích các huyện: Hà Trung, Thạch
Thành, Cẩm Thủy, Ngọc Lặc, Như Thanh... Núi đồi của Thanh Hóa hàm chứa
nhiều tài ngun, khống sản.
Vùng đồng bằng Thanh Hóa rộng khoảng 3.100 km², bằng 1/5 diện tích
đồng bằng Bắc Bộ do phù sa của hệ thống sông Mã, sông Chu và một số con
sông khác trong tỉnh tạo thành, có độ nghiêng 0,28 - 0,35m/km². Trong vùng
đồng bằng có một số núi đá vơi và đồi phiến thạch xen kẽ, ven biển có các

vùng đất cồn xô cao từ 3 - 8m do cát tạo thành. Từ rất sớm, đồng bào các dân
tộc trong tỉnh đã tạo nên những cánh đồng phì nhiêu, phát triển một nền nông
nghiệp đa dạng, phong phú làm cho vùng châu thổ trở thành kho lương thực
nuôi sống các thế hệ người xứ Thanh, đóng góp to lớn cho sự cơng cuộc dựng
nước và giữ nước của dân tộc.
Bờ biển Thanh Hóa dài 102km, dọc theo bờ biển là các cửa sơng; có
những vùng đất đai rộng lớn thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản và phát
triển công nghiệp, dịch vụ kinh tế biển. Vùng thềm lục địa rộng và có những
hịn đảo lớn (đảo Nẹ, đảo Mê...). Biển là kho tài nguyên vô giá về kháng sản,
hải sản, danh lam thắng cảnh mở ra khả năng to lớn phát triển kinh tế, nhất là
khai thác hải sản, du lịch. Biển cịn có vị trí chiến lược quan trọng. Cư dân
ven biển Thanh Hóa đã khơng ngừng lao động sáng tạo khai thác tiềm năng


10
của biển, đóng góp xứng đáng vào cơng cuộc dựng nước và giữ nước.
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa, thời tiết, khí hậu Thanh Hóa có
những nét giống miền Bắc, giống miền Trung và có những nét đặc thù của
Thanh Hóa. Mùa đơng lạnh, ít mưa, có sương giá, sương muối. Mùa hè nóng,
mưa nhiều, có gió tây khơ nóng; với hai mùa gió thịnh hành: gió bắc và gió
đơng bắc vào mùa đơng; gió tây và tây nam vào mùa hè.
- Đặc điểm về kinh tế:
Trong giai đoạn 2011 - 2019, Thanh Hóa là tỉnh có tốc độ tăng trưởng
kinh tế cao, đạt mức bình quân hơn 10%/năm, đứng đầu các tỉnh Bắc Trung
Bộ và thuộc nhóm dẫn đầu cả nước. Năm 2019, quy mô nền kinh tế tăng 3,9
lần so với năm 2010; tổng sản phẩm bình quân đầu người (GRDP) đạt 2.325
USD, tăng 2,9 lần so với năm 2010; thu ngân sách tăng nhanh; từng bước trở
thành một cực tăng trưởng mới ở vùng Bắc Trung Bộ. Cơ cấu kinh tế chuyển
dịch theo hướng dịch vụ và cơng nghiệp là chủ đạo; trong đó, cơng nghiệp trở
thành ngành trụ cột với hạt nhân là Khu kinh tế Nghi Sơn; du lịch hướng tới

trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Sản xuất nông, lâm nghiệp, thủy sản giai đoạn 2016-2020 phát triển tồn
diện. Tích tụ, tập trung đất đai đạt kết quả bước đầu, sản xuất hàng hóa quy
mơ lớn, cơng nghệ cao được hình thành và phát triển; thu hút đầu tư vào lĩnh
vực nông nghiệp đạt kết quả tích cực, đã có các dự án quy mô lớn được triển
khai thực hiện. Tốc độ gia tăng về giá trị sản xuất tồn ngành bình qn đạt
3%/năm, giá trị sản xuất năm 2020 đạt trên 29 nghìn tỷ đồng, gấp gần 1,2 lần
so với năm 2015.
Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng trong giai đoạn 2016-2020 phát triển
mạnh, đóng góp lớn vào tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Giá trị sản xuất tăng
trưởng đột phá, bình quân hằng năm tăng khoảng 21%, năm 2020 dự kiến đạt
trên 151 nghìn tỷ đồng, cao gấp 2,6 lần năm 2015, đứng đầu các tỉnh Bắc
Trung Bộ. Đã hoàn thành và đưa vào hoạt động nhiều cơ sở công nghiệp mới,


11
đặc biệt là Liên hợp Lọc hóa dầu Nghi Sơn; triển khai xây dựng một số dự án
quy mô lớn, tạo tiền đề cho tăng trưởng kinh tế của tỉnh. Các sản phầm cơng
nghiệp chủ lực đều duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Các ngành công nghiệp sử
dụng nhiều lao động được quan tâm phát triển, góp phần tạo việc làm, tăng
thu nhập cho lao động.
Dịch vụ phát triển khá, nhiều lĩnh vực khởi sắc, tốc độ tăng giá trị sản
xuất giai đoạn 2016-2020 đạt trên 9%/năm. Thương mại nội địa phát triển
mạnh theo hướng hiện đại, văn minh; tổng mức mua bán lẻ hàng hóa và
doanh thu dịch vụ tăng gần 14%/năm, dự kiến năm 2020 đạt gần 120 nghìn tỷ
đồng, đứng thứ 7 cả nước về quy mô thị trường. Hạ tầng các khu, điểm du
lịch được quan tâm đầu tư theo hướng hiện đại, cùng với chất lượng dịch vụ
được nâng cao, tạo nên sức hấp dẫn mới. Dịch vụ vẫn tải phát triển đa dạng;
vận chuyển hàng hóa, hành khách, xếp dỡ hàng hóa qua cảng đều duy trì tốc
độ tăng trưởng khá, vận tải hàng khơng phát triển mạnh. Dịch vụ tài chính,

ngân hàng tiếp tục phát triển, vốn huy động tăng gần 18%/năm. Chất lượng
dịch vụ bưu chính, viễn thơng được nâng cao, mở rộng vùng phục vụ.
- Đặc điểm về lịch sử, văn hố - xã hội:
Là một trong những chiếc nơi hình thành dân tộc Việt Nam, xứ Thanh đã
lưu lại nhiều dấu ấn đậm nét về lịch sử và văn hóa. Tại Núi Đọ (Thiệu Hóa)
đã tìm ra những cơng cụ của thời kỳ đồ đá cũ - dấu vết của người cổ xưa cách
đây 30 vạn năm. Bên cạnh đó, qua khai quật khảo cổ tại các di chỉ ở Núi
Quan Yên, Núi Nuông đã phát hiện thấy nhiều bằng chứng để khẳng định
Thanh Hóa là nơi sinh sống của người nguyên thuỷ. Đặc biệt, tại di chỉ hang
Con Moong cịn phát hiện nhiều vết tích chứng kiến các giai đoạn phát triển
liên tục của con người từ cuối thời kỳ đá cũ sang thời đại đá mới. Tại Đông
Sơn, cũng đã phát hiện nhiều di chỉ tiêu biểu của thời đại đồng thau - tương
ứng với thời kỳ các vua Hùng dựng nước.
Trong thời đại các vua Hùng, Thanh Hóa thuộc bộ Cửu Chân nước Văn


12
Lang. Trong thời kỳ nhà Đinh và tiền Lê là Châu Ái. Nhà Lý đặt là phủ Thanh
Hóa, nhà Trần đổi thành lộ Thanh Hóa rồi trấn Thanh Hóa. Nhà Hồ đổi thành
phủ Thiền Xương, nhà Lê đổi thành Thanh Hoa thừa tuyên. Nhà Nguyễn đổi
thành tỉnh Thanh Hóa. Từ khi xã hội Việt Nam hình thành cho đến nay, về tên
gọi tuy có khác nhau, nhưng về mặt hành chính Thanh Hóa ln ổn định và
chưa có những thay đổi lớn về cương vực, lãnh địa.
Thanh Hóa cịn là vùng đất sản sinh nhiều anh hùng hào kiệt làm rạng
danh không chỉ riêng cho xứ Thanh mà là niềm tự hào của cả dân tộc, như:
Triệu Thị Trinh, Lê Hồn, Lê Lợi, Lê Thánh Tơng, Đào Duy Từ... Trong lịch
sử đấu tranh giành và giữ độc lập dân tộc, đây luôn là căn cứ, là hậu phương
của các cuộc khởi nghĩa, các phong trào đấu tranh lớn. Đồng thời, Thanh Hóa
cũng là nơi phát tích của nhiều triều đại trong lịch sử phong kiến nước ta.
Trong quá trình dựng nước và giữ nước, nhân dân Thanh Hóa đã được hun

đúc tinh thần vượt qua gian khổ, khắc phục khó khăn, cần cù dũng cảm, giàu
lòng yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất trong chiến đấu. Những truyền
thống đó góp phần khẳng định xứ Thanh là một vùng “Địa linh nhân kiệt”.
Các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và cơng nghệ, y tế, văn hóa,
thể thao, thông tin và truyền thông đều phát triển tương đối toàn diện, an sinh
xã hội được chăm lo; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh
không ngừng được cải thiện. Giai đoạn 2016-2020, tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực
thành thị giảm từ 3,6% xuống 3,1%; tỷ lệ hộ nghèo giảm bình quân hàng năm
là 2,56%. Công tác giáo dục được coi trọng, giáo dục mũi nhọn đạt được kết
quả cao, từ 2016 đến 2019, đạt 16 huy chương tại các kỳ thi Olympic quốc tế,
khu vực (08 HCV, 05 HCB và 03 HCĐ); tại các kỳ thi học sinh giỏi THPT tồn
quốc, Thanh Hóa ln đứng trong nhóm dẫn đầu cả nước. Chất lượng khám,
chữa bệnh được nâng lên; cơ sở vật chất cho y tế được quan tâm đầu tư, nhân
lực y tế được chú trọng; giai đoạn 2016-2020 đã đầu tư và đưa 07 bệnh viện
mới vào hoạt động; thành lập mới một số khoa và đã ứng dụng, chuyển giao


13
thành công nhiều kỹ thuật mới, phức tạp tại các bệnh viện tuyến tỉnh.
- Đặc điểm về hành chính, dân cư và quốc phịng, an ninh:
Trong lịch sử, Thanh Hố là địa phương tương đối ổn định mặt địa giới
hành chính. Tính đến tháng 12 năm 2019, tồn tỉnh có 27 đơn vị hành chính,
trong đó có: 24 huyện, 01 thị xã, 02 thành phố, với 559 xã, phường, thị trấn.
Trong 27 đơn vị hành chính của tỉnh Thanh Hóa, có: 11 huyện miền núi
(Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hóa, Thường Xuân, Bá Thước, Như Thanh,
Như Xuân, Lang Chánh, Ngọc Lặc, Thạch Thành, Cẩm Thủy); 10 huyện, thị
xã, thành phố đồng bằng (Thọ Xuân, Yên Định, Vĩnh Lộc, Triệu Sơn, Thiệu
Hóa, Đơng Sơn, Nơng Cơng, Thanh Hóa, Hà Trung, Bỉm Sơn); 6 huyện, thị
xã, thành phố ven biển (Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Sầm Sơn, Quảng
Xương, Nghi Sơn).

Các huyện miền núi của tỉnh Thanh Hóa hiện nay có 163 xã và 12 thị
trấn. Có 7 huyện nghèo thuộc Chương trình 30a, gồm có 102 xã, 7 thị trấn.
Trong đó, có 71 xã thuộc Chương trình 135 (giai đoạn 2016-2020); diện tích
của 7 huyện là 593.048 ha (chiếm 53% diện tích tồn tỉnh); có 106.083 hộ,
453.512 khẩu, trong đó: có 18.412 hộ nghèo (chiếm 17,36%), 20.963 hộ cận
nghèo, (chiếm 19,76%); có 83.012 hộ và 360.799 khẩu dân tộc thiểu số,
chiếm 78,25% số hộ, trong đó: có 17.235 hộ nghèo dân tộc thiểu số, chiếm
93,6% số hộ nghèo, 18.525 hộ cận nghèo dân tộc thiểu số, chiếm 88,37% số
hộ cận nghèo; cơ cấu GRDP: nông nghiệp 33,2%, công nghiệp 21,0%, dịch
vụ là 45,9%; thu nhập bình quân đầu người đạt trên 25 triệu đồng. Đến ngày
7-3-2018, huyện Như Xuân đã thoát khỏi huyện nghèo thuộc Chương trình
30a, được Thủ tướng Chính phủ công nhận theo Quyết định 275/QĐ-TTg.
Các huyện, thị xã, thành phố vùng đồng bằng của tỉnh Thanh Hóa hiện
nay có 194 xã, 26 phường và 12 thị trấn. Trong 10 đơn vị hành chính vùng
đồng bằng đã có 4 huyện được Thủ tướng Chính phủ cơng nhận là đơn vị đạt
chuẩn nông thôn mới bao gồm: huyện Yên Định, huyện Thọ Xuân, huyện


14
Vĩnh Lộc và huyện Đông Sơn. Riêng đơn vị thành phố Thanh Hóa, mặc dù là
đơ thị nhưng cũng có 14 xã, năm 2019 cũng đã được Thủ tướng Chính phủ
quyết định của cơng nhận hồn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới.
Các huyện, thị xã, thành phố vùng ven biển của tỉnh Thanh Hóa hiện nay
có 124 xã, 24 phường và 04 thị trấn. Trong đó, có 30 xã thuộc chương trình,
dự án, các xã bãi ngang ven biển theo Quyêt định số 131/QĐ-TTg, ngày 2501-2017 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh sách các xã đặc
biệt khó khăn vùng bãi ngang ven biển và hải đảo giai đoạn 2016-2020. Trong
6 đơn vị cấp huyện vùng ven biển, có 3 đơn vị đã được Thủ tướng Chính phủ
cơng nhận là đơn vị đạt chuẩn nơng thơn mới bao gồm: huyện Quảng Xương,
huyện Hoằng Hóa và huyện Nga Sơn.
Tính đến ngày 01/4/2019, dân số Thanh Hóa có 3.640.128 người, là tỉnh

có đơng thứ ba tồn quốc chỉ sau Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Trong
đó nữ giới là 1.824127 người (chiếm 50,11%); về dân số theo nhóm dân tộc,
người Kinh chiếm 81,7% dân số tồn tỉnh, cịn lại là các dân tộc khác (Thái,
Mường, Dao, Thổ, Mông, Khơ Mú…). Mật độ dân số của tỉnh là 328
người/km², xếp thứ 28/63 tỉnh, thành trong cả nước. Dân số sống ở khu vực
thành thị chiếm 14,7%; khu vực nông thôn chiếm 85,3%. Số dân sống ở khu
vực miền núi chiếm 25,1%.
Dân cư ở tỉnh Thanh Hóa phân bố khơng đồng đều theo các đơn vị hành
chính và giữa đồng bằng và miền đồi núi. Ở các thành phố, thị xã, thị trấn ven
biển, ven sông là những nơi tập trung đơng dân cư, trong khi đó ở các vùng
núi thì dân cư thưa thớt hơn. Theo Niên giám Thống kê năm 2014 của tỉnh
Thanh Hóa, mật độ dân số của tỉnh là 314 người/km².
Riêng thành phố Thanh Hố có mật độ là 2.384 người/km², các huyện
Hậu Lộc, Hoằng Hố, Quảng Xương có mật độ trên 1.100 người/km². Trong
khi đó tại các huyện miền núi như Mường Lát, Quan Sơn, Quan Hố có mật
độ thấp, chỉ từ 39 người đến 46 người/km². Nguyên nhân chính của sự phân


15
bố dân cư chênh lệch trên đây là do sự phân bố không đều của tài nguyên
thiên nhiên, hệ thống các cơ sở kinh tế - xã hội, hệ thống cơ sở hạ tầng phục
vụ đời sống và cả lịch sử cư trú. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên năm 2014 ước tính
0,53%. Thanh Hóa là tỉnh có dân số trẻ, số người từ 15 tuổi trở lên chiếm
2.209,5 người (năm 2014). Tỷ lệ người trong độ tuổi lao động cũng cao hơn
so với vùng Bắc Trung Bộ.
Trong những năm qua, tiềm lực quốc phòng, an ninh của tỉnh được tăng.
cường; bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo thuận lợi. cho
phát triển kinh tế - xã hội. Chủ quyền biên giới, vùng biển được giữ vững, khu
vực. phòng thủ cấp tỉnh, cấp huyện được xây dựng ngày càng vững chắc. Đầu
tư cho quốc phòng - an ninh ngày càng tăng; phát triển kinh tế được gắn chặt

với. bảo đảm quốc phòng - an ninh. Công tác quân sự địa phương, xây dựng
lực lượng bộ đội thường trực, dự bị động viên, dân quân tự vệ, tuyển quân,
bồi dưỡng kiến thức quốc phòng hàng năm đều đạt kế hoạch. An ninh chính
trị, an ninh kinh tế, an ninh tư tưởng - văn hóa, an ninh tôn giáo, dân tộc được
bảo. đảm, trật tự xã hội được giữ vững. Các vụ việc phức tạp về an ninh trật
tự xảy ra trên địa bàn được giải quyết kịp thời, hiệu quả, dứt điểm, khơng để
hình thành điểm nóng.
1.1.1.2. Khái quát về đảng bộ cấp huyện của tỉnh Thanh Hóa hiện nay
Theo Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam được thơng qua tại Đại hội đại
biểu tồn quốc lần thứ XI (tháng 01-2011): Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng
sản Việt Nam được lập tương ứng với hệ thống tổ chức hành chính của Nhà
nước. Hệ thống tổ chức của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay được chia
thành 4 cấp gồm: cấp Trung ương, cấp tỉnh và tương đương, cấp huyện và
tương đương, tổ chức cơ sở đảng. Các đảng bộ cấp huyện và tương đương cịn
có cách gọi khác là các đảng bộ cấp trên cơ sở được thành lập ở các huyện, thị
xã, thành phố thuộc tỉnh. Đây là các tổ chức đảng trực thuộc Ban Chấp hành
đảng bộ cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Cơ quan lãnh đạo của các


16
đảng bộ cấp huyện là đại hội đại biểu đảng bộ, giữa hai kỳ đại hội đảng bộ cơ
quan lãnh đạo là ban chấp hành đảng bộ huyện (cấp ủy cấp huyện).
Hiện nay, Đảng bộ tỉnh Thanh Hố có 31 đảng bộ trực thuộc, gồm: 02
đảng bộ thành phố (Thanh Hóa, Sầm Sơn), 02 đảng bộ thị xã (Bỉm Sơn, Nghi
Sơn), 23 đảng bộ huyện và 04 đảng bộ tương đương cấp huyện (Cơng an,
Qn sự, Bộ đội biên phịng, Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh). Tồn tỉnh
có 1.467 tổ chức cơ sở đảng, trong đó có 958 đảng bộ cơ sở (559 đảng bộ xã,
phường, thị trấn), 509 chi bộ cơ sở; có 28 đảng bộ bộ phận; có 9.893 chi bộ
trực thuộc đảng bộ cơ sở với 229.424 đảng viên [53].
Ngày 02-8-2019, Ban Bí thư khóa XII của Đảng đã ban hành Quy định

số 202 - QĐ/TW về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và mối quan hệ công tác
của cấp uỷ, ban thường vụ, thường trực cấp uỷ cấp huyện. Trong đó đã xác
định rõ chức năng, trách nhiệm và nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy cấp
huyện. Cụ thể:
* Về chức năng và trách nhiệm của cấp ủy cấp huyện:
Chức năng: lãnh đạo thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ cấp mình,
các chủ trương, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quyết định, kết luận của cấp
trên và chính sách, pháp luật của Nhà nước; đề xuất, kiến nghị với cấp uỷ
cấp tỉnh những vấn đề có liên quan đến sự lãnh đạo của cấp uỷ cấp tỉnh đối
với địa phương.
Trách nhiệm: cấp uỷ cấp huyện chịu trách nhiệm trước cấp uỷ, ban
thường vụ, thường trực cấp uỷ cấp tỉnh; đảng bộ và nhân dân trên địa bàn về
tình hình mọi mặt của địa phương và những quyết định của mình.
* Về nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy cấp huyện:
Thứ nhất, lãnh đạo, chỉ đạo việc quán triệt, cụ thể hoá các chủ trương,
biện pháp triển khai tổ chức thực hiện nghị quyết đại hội đảng bộ cấp mình
Quyết định chương trình làm việc, chương trình kiểm tra, giám sát tồn khố


17
và hàng năm; quy chế làm việc của cấp uỷ, ban thường vụ cấp uỷ và uỷ ban
kiểm tra cấp uỷ cấp mình.
Thứ hai, lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai và tổ chức sơ kết, tổng kết việc
thực hiện các nghị quyết của cấp uỷ cấp mình; các chủ trương, nghị quyết, chỉ
thị, quy định, quyết định, kết luận của cấp trên. Xác định nhiệm vụ trọng tâm,
đột phá, các chương trình, đề án, dự án trọng điểm. Tổ chức triển khai thực
hiện thí điểm các chủ trương, mơ hình mới theo chỉ đạo của cấp trên.
Thứ ba, định hướng hoặc quyết định theo thẩm quyền những vấn đề về
xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị và cơng tác tổ chức cán bộ, công
tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng theo quy định của Điều lệ Đảng.

Thứ tư, lãnh đạo chính quyền địa phương thực hiện chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn quản lý nhà nước theo quy định của pháp luật. Định hướng
những vấn đề quan trọng để Hội đồng nhân dân quyết định. Xác định mục
tiêu, phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu trong kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội trung hạn và dài hạn; định kỳ xem xét, cho ý kiến về tình hình
phát triển kinh tế - xã hội và định hướng nhiệm vụ tiếp theo...
Thứ năm, lãnh đạo, chỉ đạo đổi mới công tác dân vận, công tác dân tộc,
công tác tôn giáo; chăm lo đời sống và phát huy quyền làm chủ của nhân dân;
xây dựng khối đoàn kết toàn dân; tạo sự đồng thuận trong xã hội. Lãnh đạo,
tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội
phát huy vai trò giám sát và phản biện xã hội, tham gia góp ý xây dựng Đảng,
xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh theo quy định của Bộ Chính trị.
Thứ sáu, quyết định theo thẩm quyền các vấn đề liên quan đến quản lý
tài chính, tài sản của đảng bộ; xem xét, cho ý kiến về cơng tác tài chính đảng
hằng năm và cuối nhiệm kỳ.
Thứ bảy, xem xét, cho ý kiến về những công việc mà ban thường vụ đã
giải quyết giữa hai kỳ hội nghị của cấp uỷ; quyết định các vấn đề quan trọng
do ban thường vụ cấp uỷ trình.


18
Ngồi ra, cấp ủy cấp huyện cịn thực hiện một số nhiệm vụ khác theo chỉ
đạo của cấp trên.
Trong các đảng bộ cấp huyện và tương đương của tỉnh Thanh Hóa, Đảng
bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh là đảng bộ cấp trên cơ sở khơng có
chính quyền cùng cấp. Các đơn vị trực thuộc gồm: các tổ chức cơ sở đảng là
đơn vị sở, ngành trực thuộc Tỉnh uỷ và Uỷ ban nhân dân tỉnh; các đảng bộ
doanh nghiệp trực thuộc Khối Thương mại, Khối Giao thông công chính và
một số tổ chức đảng trong các doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài. Cấp
ủy ở Đảng bộ Khối Cơ quan và Doanh nghiệp tỉnh có những chức năng,

nhiệm vụ riêng so với cấp ủy ở các đảng bộ huyện, thị xã, thành phố.
1.1.2. Khái quát về đội ngũ báo cáo viên cấp huyện ở tỉnh, thành phố
1.1.2.1. Quan niệm về đội ngũ báo cáo viên cấp huyện
* Quan niệm về “đội ngũ”:
Thuật ngữ đội ngũ là cụm từ được dùng khá rộng rãi trong các tổ chức xã
hội như: đội ngũ cán bộ, công chức; đội ngũ y, bác sĩ; đội ngũ trí thức... Do
đó, khái niệm đội ngũ cũng có nhiều quan niệm và cách hiểu khác nhau. Có
thể hiểu “Đội ngũ là khối đơng người được tập hợp và tổ chức thành một lực
lượng có quy củ” [35, tr.400]; hay cũng có thể hiểu “Đội ngũ là tập hợp một
số đơng người có cùng chức năng hoặc nghề nghiệp” [35, tr.400].
Tuy có nhiều cách hiểu khác nhau nhưng các quan điểm đó đều có điểm
chung, thống nhất: đội ngũ là nhóm người được tổ chức và tập hợp thành một
lực lượng để thực hiện một hoặc nhiều chức năng và có thể cùng hay khơng
cùng nghề nghiệp nhưng có cùng một mục đích nhất định.
Từ các cách hiểu nêu trên, có thể quan niệm: Đội ngũ là tập thể đơng
người có cùng lý tưởng, cùng mục đích và làm việc theo sự chỉ huy thống nhất,
có chương trình, kế hoạch, gắn bó với nhau về lợi ích vật chất và tinh thần.
* Quan nhiệm về “báo cáo viên”:


19
Báo cáo viên là thuật ngữ xuất hiện từ rất sớm. Trước đây, V.I. Lênin cho
rằng, BCV là tổ chức các nhóm (đội) cán bộ dùng phương pháp TTM là chính
để tuyên truyền và giáo dục quần chúng đấu tranh cách mạng. Từ đó, Người
cho rằng cấp ủy các cấp trong Đảng phải xây dựng và tổ chức các nhóm cán bộ
phụ trách công tác tuyên truyền. Đồng thời chỉ rõ, cấp ủy cần phải giao nhiệm
vụ cho một số ủy viên tổ chức các nhóm tuyên truyền để thực hiện công tác
tuyên truyền ở các thành phố, địa phương mà cấp ủy đó phụ trách.
Theo Đại Từ điển tiếng Việt, “Báo cáo viên là người trình bày báo cáo
trước một hội nghị đông người” [60, tr.238]; “Người làm công tác tuyên huấn,

chuyên đi báo cáo, truyền đạt nghị quyết” [60, tr.238]. Như vậy, theo cách
hiểu này thì BCV là thuật ngữ dùng để chỉ tất cả những người trình bày báo
cáo trước các hội nghị có nhiều người tham gia do cơ quan Nhà nước, các tổ
đoàn thể, các tổ chức xã hội nghề nghiệp và các tổ chức kinh tế hoặc trong
các tổ chức tự nguyện khác của quần chúng nhân dân…
Theo sách 350 thuật ngữ xây dựng Đảng:
“Báo cáo viên là người được cử làm công tác tuyên truyền miệng
trong cơ quan đảng, nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ
chức xã hội, lực lượng vũ trang; có năng lực trực tiếp lĩnh hội và
truyền tải thơng tin về tình hình mọi mặt trong nước và thế giới;
tuyên truyền, giải thích chủ trương của Đảng, chính sách và pháp
luật của Nhà nước, các nhiệm vụ của địa phương, ngành để cán bộ,
đảng viên và nhân dân hiểu rõ, tin tưởng, làm theo nhằm củng cố
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng và nhân dân, làm thất bại âm mưu
phá hoại về chính trị, tư tưởng của các thế lực thù địch và các phần
tử xấu, giữ vững sự ổn định về chính trị, tư tưởng, hoàn thành
thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [55, tr.58-59].
Trong nhiều văn bản do Ban Tuyên giáo Trung ương ban hành, Đảng ta
đã quy định về chức danh BCV. Ngày 03-8-1997, Ban Bí thư Trung ương đã


20
ban hành Chỉ thị số 14-CT/TW, trong đó chỉ rõ: “Báo cáo viên, tuyên truyền
viên là lực lượng tuyên truyền miệng, có nhiệm vụ tuyên truyền, giáo dục và
hướng dẫn về tư tưởng, hành động cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân
dân theo đường lối, quan điểm của Đảng” [1]. Chỉ thị này đã xác định BCV là
chức danh dùng để chỉ về những người sử dụng lời nói trực tiếp nhằm thơng
tin, tun truyền và phổ biến nền tảng tư tưởng của Đảng và chính sách, pháp
luật của Nhà nước cho cán bộ, đảng viên và nhân dân dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo trực tiếp của cấp ủy các cấp.

Như vậy, BCV là một chức danh do Đảng ta quy định và hoạt động cụ
thể theo sự hướng dẫn của Ban Tuyên giáo Trung ương, trừ một bộ phận
BCV. chuyên trách là cán bộ trong một số cơ quan chức năng và những cán
bộ, đảng viên đã nghỉ chế độ được cấp ủy lựa chọn. Hiện nay, đa số các đồng
chí BCV thường hoạt động theo chế độ kiêm nhiệm và được hưởng một số
chế độ, chính sách theo quy định hiện hành của Đảng và Nhà nước.
Ngày 07-6-1997, Thường vụ Bộ Chính trị khóa VIII đã ban hành Thơng
báo số 71-TB/TW, trong đó nêu rõ phải: “Thường xuyên và kịp thời cung cấp
thông tin cho đảng viên và báo cáo viên để mọi đảng viên đều có thể tiến
hành tuyên truyền miệng ở mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng” [14].
Từ các cách hiểu nêu trên, có thể quan niệm: Báo cáo viên của Đảng là
chức danh dùng để chỉ những người làm công tác tun truyền miệng; lực
lượng nịng cốt, chủ lực trong cơng tác tuyên truyền miệng, được cấp ủy lựa
chọn để Ban Thường vụ ra quyết định công nhận theo những tiêu chuẩn nhất
định và giao cho Ban Tuyên giáo của cấp ủy quản lý, chỉ đạo; được gọi là
người phát ngôn, thơng tin chính thức của Đảng.
* Quan niệm về “đội ngũ báo cáo viên cấp huyện”:
Trên cơ sở những phân tích nêu trên, có thể quan niệm: Đội ngũ báo
cáo viên cấp huyện là tập hợp những người do Ban Chấp hành đảng bộ cấp
huyện lựa chọn, Ban Thường vụ cấp ủy cấp huyện ra quyết định công nhận,
đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Tuyên giáo cấp huyện để thực hiện


×