TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC DÂN
KHOA DU LỊCH KHÁCH SẠN
ĐỀ ÁN TỔNG QUAN DU LỊCH & KHÁCH SẠN
Đề tài: Đánh giá và đề xuất phát triển hoạt động kinh doanh khu nghỉ dưỡng
cao cấp (resort hotels) ở Phú Quốc
Giảng viên hướng dẫn:
Lê Thị Bích Hạnh
Họ và tên sinh viên:
Hà Thị Trang Linh
MSV:
11192808
Lớp:
POHE Quản trị Khách sạn 61
Hà Nội, tháng 12 năm 2020
MỤC LỤC
2
DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH
1. Bảng 1.1. Thống kê khách sạn được đánh sao trên địa bàn huyện Phú Quốc26
2. Bảng 1.2. Thống kê khu nghỉ đưỡng được đánh sao trên địa bàn tỉnh Kiên Giang27
3. Bảng 2.1. Thống kê khu nghỉ dưỡng cao cấp tại Phú Quốc theo quy mơ và tổng số
phịng 29
4. Bảng 2.2. Thống kê khu nghỉ dưỡng cao cấp tại Phú Quốc theo số phòng và phân loại
phòng chi tiết 30
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài:
Trong thời đại ngày nay, việc đi du lịch đã trở thành một nhu cầu
có thể coi là khơng thể thiếu trong đời sống của mỗi con người. Du lịch,
về mặt kinh tế, là một ngành cơng khiệp khơng khói, đã, đang và sẽ
tạo ra hàng triệu việc làm mỗi năm, tạo cộng ăn việc làm cho nhiều
người dân địa phương, đồng thời giúp giảm thiểu tỷ lệ thất nghiệp và
thúc đẩy nền kinh tế quốc gia tiến tới tăng trưởng,... Còn xét về mặt xã
hội, du lịch trong thời đại hướng tới cơng dân tồn cầu, đã trở thành
một cầu nối giúp cho việc giao lưu giữa các nên văn hóa trở nên cởi mở
hơn, cũng như giúp cho con người ta tiến lại gần nhau hơn.
Việt Nam, theo thống kê của Tổ chức Du lịch Thế giới của Liên
Hợp Quốc (UNWTO), đứng thứ 6 trong số 10 quốc gia có tốc độ phát
triển du lịch nhanh nhất thế giới năm 2017. Từ thứ hạng vơ cùng khả
quan này, có thể thấy rằng đất nước ta có tiềm năng khá lớn trong việc
phát triển ngành du lịch. Không chỉ giới hạn ở việc sở hữu những danh
lam thắng cảnh hùng vĩ, Việt Nam còn thu hút sự chú ý với sự đa dạng
và tính giao thoa về mặt văn hóa giữa các vùng miền và dân tộc mà ta
có thể kể đến như: văn hóa tín ngưỡng tâm linh tơn giáo, văn hóa ẩm
thực đặc sắc và vơ cùng phong phú, hay sự thân thiện, nhiệt tình và
đón tiếp nồng hậu của người dân Việt.
Là một trong những địa điểm du lịch thu hút vốn đầu tư hàng đầu
trong nước, Phú Quốc đang đứng trước nhiều cơ hội để chuyển mình,
cùng với đó là thách thức trong việc trở thành điểm đến du lịch phát
triển và hấp dẫn nhất. Với cảnh quan thiên nhiên phong phú với những
đặc sản được thiên nhiên ban tặng cùng với sức hút về mặt văn hóa,
con người, qua đó nhận về lượng khách du lịch trong và ngoài nước
tăng mạnh theo từng năm và đặc biệt là những chính sách ưu đãi dành
cho các khu nghỉ dưỡng (resort) cao cấp, Phú Quốc đã cho thấy tiềm
năng phát triển vô cùng mạnh mẽ, trở thành một thị trường đầy sức
hút với các nhà đầu tư.
Khi nói đến du lịch biển đảo, hay ở đây cụ thể hơn là Phú Quốc,
chúng ta khơng thể khơng nói đến các cơ sở kinh doanh lưu trú như
4
nhà nghỉ, khách sạn, hay khu nghỉ dưỡng. Đặc biệt, khu nghỉ dưỡng
(resort) chính là sản phẩm mang tính cao cấp hơn cả trong các loại
hình cung cấp dịch vụ lưu trú như trên. Có đến khoảng 70% số lượng
các khu nghỉ dưỡng Việt Nam tập trung ở khu vực biển, hải đảo từ
Quảng Ninh ra Phú Quốc. Ngày nay, khi Phú Quốc thu hút được nguồn
vốn đầu tư lớn đến từ nước ngồi, cùng với chính sách hội nhập kinh tế
và thúc đẩy du lịch có tính thuận lợi cao, thì tiềm năng phát triển kinh
doanh khu nghỉ dưỡng cao cấp ở Phú Quốc rất đáng được quan tâm.
Từ những lí do trên, tơi đã lấy đề tài là: “Đánh giá hoạt động kinh
doanh khu nghỉ dưỡng cao cấp (resort hotels) ở Phú Quốc” để làm chủ
đề nghiên cứu, tìm hiểu trong phạm vi đề án này.
2. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích quan trọng nhất và trước hết của nghiên cứu chính là
việc đánh giá hoạt động kinh doanh của các khu nghỉ dưỡng cao cấp ở
Phú Quốc. Cùng với đó là đánh giá các chính sách và quyết định - cơ sở
của Nhà nước cho phép hoặc tạo điều kiện thuận lợi phát triển kinh
doanh khu nghỉ dưỡng tại tỉnh Kiên Giang, cũng như đánh giá tiềm
năng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước.
3. Đối tượng nghiên cứu:
Đề án hướng tới nghiên cứu và đánh giá hoạt động kinh doanh
của các khu nghỉ dưỡng phân khúc cao cấp tại Phú Quốc, qua đó đưa
ra những biện pháp và đề xuất nhằm hướng tới khắc phục các vấn đề
cịn tồn đọng trong cơng tác kinh doanh loại hình dịch vụ lưu trú này.
4. Phạm vi nghiên cứu:
Đề án tập trung nghiên cứu trong phạm vi các khu nghỉ dưỡng tại
Phú Quốc trong khoảng thời gian từ năm 2015-2019. Các vấn đề liên
quan tới hoạt động kinh doanh khu nghỉ dưỡng cao cấp tại Phú Quốc
được đặc biệt chú trọng nghiên cứu bao gồm: cơ sở vật chất và cơ sở
hạ tầng của các khu nghỉ dưỡng cao cấp tại Phú Quốc.
5. Phương pháp nghiên cứu:
5
Phương pháp áp dụng cho đề án này bao gồm: Thống kê các số
liệu liên quan tới tiềm năng và khả năng phát triển du lịch tại địa bàn
phạm vi nghiên cứu, thống kê các số liệu liên quan tới hoạt động kinh
doanh khu nghỉ dưỡng cao cấp bao gồm: giá cả, chi phí, doanh thu,
mức độ phát triển,... Phân tích dữ liệu liên quan tới hoạt động kinh
doanh bao gồm phương thức kinh doanh, phương hướng phát triển,
thành tích kinh doanh của các khu nghỉ dưỡng... Đồng thời với đó, đề
án cịn được thực hiện bằng cách so sánh thông tin từ các nguồn tham
khảo
6. Nội dung nghiên cứu:
Với đề án “Đánh giá hoạt động kinh doanh của các khu nghỉ
dưỡng cao cấp ở Phú Quốc”, tôi xin phép trình bày nội dung của mình
thành 3 chương cơ bản bao gồm:
Chương 1: Cơ sở lý luận về khu nghỉ dưỡng và điều kiện phát triển
loại hình khu nghỉ dưỡng
Chương 2: Hiện trạng hoạt động kinh doanh khu nghỉ dưỡng ở
Phú Quốc
Chương 3: Đề xuất phát triển loại hình kinh doanh khu nghỉ
dưỡng ở Phú Quốc
6
NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ KINH DOANH KHU NGHỈ DƯỠNG
VÀ ĐIỀU KIỆN PHÁT TRIỂN KINH DOANH KHU NGHỈ DƯỠNG
1.1. Khái niệm:
1.1.1. Định nghĩa khu nghỉ dưỡng:
Dựa theo những nghiên cứu của Th.s Sơn Hồng Đức – Giảng viên ngành Quản trị
Kinh Doanh Khách sạn – Khu Nghỉ Dưỡng, trong cuốn “Quản trị Kinh Doanh Khu nghỉ
dưỡng (Resort): Lý luận và thực tiễn”, có 4 tiêu chí mà một cơ sở kinh doanh lưu trú phải
đạt được để được công nhận là một “Khu nghỉ dưỡng”:
Cung cấp cơ sở lưu trú mà qua đó, đem lại sự tận hưởng cho khách hàng cùng với
sự an toàn tuyệt đối, khơng bon chen hay ồn ào, khơng khí trong lành và ln có đội ngũ
nhân viên phục vụ và dõi theo khách từ xa và có mặt ngay khi khách cần.
Cung cấp trải nghiệm dịch vụ ẩm thực đa dạng, phong phú, cao cấp và tươi sống
mà khách chỉ có thể đạt được khi ở đây mà khó lịng có được khi ở nhà. Về các món ăn,
đặc biệt nên có yếu tố đặc trung của vùng bản địa. Trải nghiệm khám phá ẩm thực cũng là
1 trong những điều thú vị hấp dẫn các khách du lịch.
7
Cung cấp các dịch vụ giải trí, vui chơi với các mức độ từ nhẹ nhàng, trí thức cho
đến những hoạt động mang tính phiêu lưu địi hỏi sự tham gia của các cơ bắp, đòi hỏi vận
động. Xây dựng các chương trình phong phú và đa dạng, các sự kiện với thời gian linh
động để khách có điều kiện tham gia, tận hưởng trong suốt khoảng thời gian lưu trú,
tránh cảm giác nhàm chán. Các hoạt động, sự kiện diễn ra còn phải đem lại sự thư thải,
giảm căng thẳng và mang lại nguồn năng lượng tích cực cho các khách du lịch. Các hoạt
động mà khác du lịch sẽ có ấn tượng về mặt lâu dài, đây cũng là một cách tạo niềm tin,
thương hiệu và duy trì mối quan hệ, giữ chân khách hàng.
Cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, vóc dáng, làm đẹp và thư giãn cho
khách. Có thể kể đến một vài dịch vụ như: làm đẹp (Spa), dịch vụ Mát-xa (Massage),
phòng tập thể hình (Gym), các lớp thiền ngồi trời, v.v…
Ngồi những tiêu chí hữu hình của một khu nghỉ dưỡng, cịn có
những tiêu chí khơng thể thiếu khác, cũng có thể được coi là những
tiêu chí chính giúp đem lại các trải nghiệm và dịch vụ tốt nhất tới các
vị khách ghé thăm và trải nghiệm dịch vụ của các Khu nghỉ dưỡng.
Những tiêu chí trên bao gồm:
Phong cách phục vụ của đội ngũ nhân viên (Staff Service):
Do khu nghỉ dưỡng các khách hàng phải trả một chi phí cao hơn nhiều
so với một khách sạn thông thường, trong giá sản phẩm mà họ mua, có
một phần rất lớn trong đó là phí dịch vụ, nên chất lượng dịch vụ mà
các nhân viên mang tới cũng phải đạt mức cao hơn so với khách sạn
thông thường. Nhân viên không thể áp dụng một cách phục vụ với tất
cả các khách hàng, họ phải có tố chất đặc biệt để đem lại cho khách
hàng cảm giác đặc biệt nhất. Ví dụ như: nhớ được sở thích của khách,
món ăn, thức uống, loại cà phê mà họ vẫn hay uống,... Tức là nhân
viên phải ln cố gắng hết mức để làm hài lịng từng nhu cầu mang
tính cá nhân của khách, điều đó giúp cho khách hàng cảm thấy mình
ln được quan tâm, đối xử như những vị khách đặc biệt nhất. Và
không thể thiếu, đó chính là tác phong chun nghiệp, phong thái tự
tin, tế nhị và thân thiện.
Phong cách của Nhà quản lý: Nhà quản lý phải ý thức được
mối quan hệ giữa Khu nghỉ dưỡng với các môi trường tự nhiên. Đây là
một trong những tiêu chí đảm bảo cho sự phát triển bền vững của
ngành kinh doanh lưu trú nói riêng và của ngành du lịch nói chung. Đã
có nhiều hoạt động kinh daonh lưu trú ban đầu nhận được sự ủng hộ
8
mạnh mẽ của các thập khác tứ phương nhưng sau đó đã phải đứng
trên bờ vực của sự phản đối khi không ngừng hủy hoại môi trường
thiên nhiên nơi đây, gây nên sự mất mát lớn khó có thể cứu vãn.
Đây là các tiêu chí cơ bản thể hiện được một cơ sở lưu trú có thể
được gọi là “Khu nghỉ dưỡng cao cấp”, và đây cũng là những tiêu chí
cho thấy sự khác biệt cơ bản của các cơ sở lưu trú thông thường so với
một “Khu nghỉ dưỡng cao cấp” (Resort).
1.1.2. Phân loại:
Dựa vào các tiêu chí về vị trí, quy mơ, thời gian hoạt động, đối
tượng khách, yếu tố mơi trường và cách bán phịng có rất nhiều cách
để phân loại các loại hình khu nghỉ dưỡng, đề án này sẽ tập trung phân
tích và nói rõ cách phân loại các khu nghỉ dưỡng theo vị trí địa lý.
1.1.2.1. Theo vị trí địa lý:
Khu nghỉ dưỡng gần các trung tâm xuất khách: Loại hình
này được ước lượng trong khoảng 3 giờ đi xe ô tô. Đa số khách của loại
hình khu nghỉ dưỡng này là khách cuối tuần (đến vào chiều thứ sáu, rời
vào xế chiều chủ nhật). Trong các nước kinh tế phát triển, một số vợ
chồng về hưu thường chọn những địa điểm có loại hình này để thỉnh
thoảng đến nghỉ ngơi dài ngày. Các khu nghỉ dưỡng gần các trung tâm
xuất khách thường nằm ở vùng biển, núi, ao hồ hoặc ven sông, ở vùng
đồng quê... miễn là tại khu vực đó có cảnh quan đẹp, khơng khí trong
lành và tạo được cảm giác thanh bình cũng như sự hấp dẫn về mặt nào
đó cho du khách, nhưng dưới điều kiện không nằm quá xa với nơi
khách ở thường xuyên.
Khu nghỉ dưỡng vùng xa (The outback resort): Loại hình khu
nghỉ dưỡng này có đặc điểm trọng yếu đó chính là vị trí nằm xa mọi sự
ồn ào. Các lưu khách chọn nơi đây vì có những lí do đặc biệt khác nhau
nhưng khơng bao gồm sự thuận tiện trong di chuyển.
Khu nghỉ dưỡng biển: Loại hình khu nghỉ dưỡng này có nhiều ở
Phan Thiết, Nha Trang hay ngay cả Phú Quốc. Tuy nhiên, có một điểm
cần lưu ý là không phải địa điểm nào có biển cũng là nơi có thể xây
dựng khu nghỉ dưỡng (resort). Điều kiện cần cho sự xây dựng khu nghỉ
dưỡng biển chính là bãi biển phải thích hợp cho hoạt động tắm biển
9
hoặc các hoạt động thể thao dưới nước, khơng có đá ngầm hay dấu
hiệu của sự ô nhiễm, không xuất hiện bãi bùn và phải có khí hậu ấm áp
trong suốt mùa du lịch, bao gồm cả việc không xuất hiện sóng to, gió
lớn. Đây cũng chính là loại hình khu nghỉ dưỡng nằm trong phạm vi
nghiên cứu của đề án này. Một số khu nghỉ dưỡng biển có thể kể đến
tại Phú Quốc bao gồm:
Khu nghỉ dưỡng ở sông, hồ: Loại hình khu nghỉ dưỡng này u
cầu khơng gian có cảnh quan đẹp, khơng khí trong lành và hạ tầng
giao thông thuận lợi. Điều thiết yếu tiếp theo là tầm nhìn của khơng
gian ấy cần rộng thống, mặt hồ mặt sơng phải rộng để có thể cho
phép một số hoạt động thể thao nước như trượt nước, bay lượn, cheo
thuyền buồm... diễn ra. Tuy nhiên, loại hình này cũng yêu cầu những
nét sống động trên hồ, cụ thể là khách phải có được trong tay các loại
hình du lịch xanh và du lịch sinh thái. Điều đó yêu cầu các khu nghỉ
dưỡng cần phải có sự phối hợp và tận dụng các sản phẩm của địa
phương và bên ngoài khuôn viên của địa điểm kinh doanh; đồng thời
phải biết khai thác các nguyên liệu của địa phương để chế biến thành
sản phẩm ẩm thực mang đậm dấu ấn vùng, miền có thể tạo ấn tượng
khó qn trong lịng du khách. Với loại hình khu nghỉ dưỡng này, điều
cần thiết đó chính là việc khai thác tiềm năng du lịch địa phương, biến
nó trở thành sản phẩm liên kết của khu nghỉ dưỡng.
Khu nghỉ dưỡng miền núi: Loại hình khu nghỉ dưỡng trên là địa
điểm đặc biệt thích hợp cho những vị khách đến từ những thành phố,
nơi đông đúc chật trội, họ tìm đến nơi đây như một sự giải tỏa về mặt
tinh thần cũng như thả lỏng cơ thể, tiếp thêm nguồn năng lượng cho
công việc. Hoặc họ đến đây đơn thuần chỉ để thư giãn và tham quan vẻ
đẹp của miền núi, thưởng thức các đặc sản cũng như tham gia các
hoạt động ngồi trời mang tính mạo hiểm như leo núi, cưỡi ngựa và
tham quan hang động. Bởi những nơi có nhiều rừng núi, cũng là nơi
sinh sống của đa số các dân tộc ít người, bởi vậy mà các vị khách khi
đến đây sẽ có cơ hội khám phá văn hóa của người dân bản địa, mua
các vật dụng trưng bày được điêu khắc tinh xảo về làm quà tựng hay
sử dụng để bài trí trong gia đình nhằm mục đích kỉ niệm chuyến đi của
mình.
10
Khu nghỉ dưỡng trên sa mạc: Loại hình khu nghỉ dưỡng này có
lẽ cịn tương đối mới với đa số người dân tại Việt Nam do tính đặc thù
liên quan tới vùng khí hậu và vị trí địa lí. Các khu nghỉ dưỡng trên sa
mạc thường được đặt tại những xa mạc có các cảnh quan độc đáo với
các ốc đảo mát mẻ. Dù cho có sự hạn chế về điều kiện sinh hoạt do
đây là một môi trường hạn hẹp về nguồn nước, tuy nhiên với các vị
khách khi tới đây đều hài lòng với các hoạt động đặc biệt khơng một
nơi nào khác có được như cưỡi lạc đà, trượt đồi cát hay trị liệu mát xa
bằng cát nóng.
Khu nghỉ dưỡng ẩn cư (Hideaway): Loại hình khu nghỉ dưỡng
tuy còn mới mẻ ở Việt Nam, tuy nhiên tại nước ngồi, loại hình này lại
nhận được sự đón nhận vô cùng lớn của những vị khách muốn tránh xa
cuộc sống hiện tại trong một thời gian, những người gặp áp lực quá lớn
trong cuộc sống hiện tại; những người đang tìm một nơi yên tĩnh để
suy nghĩ, phát triển thêm các ý tưởng mới phục vụ cho công việc hay
đưa ra một quyết định quan trọng trong cuộc đời, những người đang
muốn bỏ những thói quen xấu, có hại và bắt đầu một lối sống lành
mạnh. Từ những nhu cầu và mục đích của các vị khách tới đây.
Khu nghỉ dưỡng casino: Loại hình khu nghỉ dưỡng trên phát triển và nổi
tiếng ở các thành phố như Las Vegas hay The Atlantic City (Mỹ), Macau (Trung Quốc).
Ở Việt Nam cũng có các khu nghỉ dưỡng có Casino nhưng chỉ cho các vị khách có hộ
chiếu nước ngồi, hiện nay ở Phú Quốc có Corona Resort & Casino đã được cấp phép
cho cả người Việt Nam và nước ngoài.
1.1.2.2. Theo mức độ đầu tư:
Khu nghỉ dưỡng “gia đình”: Các khu nghỉ dưỡng loại này
thường chỉ có số phịng dao động trong khoảng 30 phòng và thường do
người dân địa phương sở hữu và quản lý. Những thành viên trong gia
đình người dân địa phương sẽ thường là người điều hành các cơ sở lưu
trú nghỉ dưỡng loại này. Phần lớn chủ sở hữu của các khu nghỉ dưỡng
loại này thường khơng có q nhiều vốn để phát triển. Các thương hiệu
này kinh doanh chủ yếu ở mảng ăn uống và lưu trú, nếu có xuất hiện
các hoạt động khác thì cũng chỉ là kinh doanh thứ yếu hoặc kinh doanh
liên kết. Những khu nghỉ dưỡng thuộc loại hình này thường khơng có
các hoạt động vui chơi giải trí quy mơ như trong các khu nghỉ dưỡng
11
lớn, điển hình là các đơn vị nhỏ ở Mũi Né. Đặc điểm chung của các khu
nghỉ dưỡng gia đình là giá phịng tương đối rẻ, có thể thương lượng.
Khu nghỉ dưỡng trung bình: Loại hình khu nghỉ dưỡng này có
số phịng dao động trong khoảng 30 đến 100 phịng, thường được sở
hữu bởi các công ty. Tại Việt Nam, các khu nghỉ dưỡng thuộc loại hình
này thường có diện tích nằm trong khoảng 10 đến 30 hecta. Phương
tiện phục vụ lưu trú bao gồm: một số phòng như ở khách sạn, nhưng
phải rộng hơn và trần cao hơn. Tòa nhà có kiến trúc tối đa là ba tầng.
Loại hình kiến trúc thứ hai của các khu nghỉ dưỡng trung bình là các
“bungalow” – nhà gỗ một tầng. Loại hình kiến trúc thứ ba là các biệt
thự riêng lẻ, thường chiếm các vị trí tốt của khu, hướng ra cảnh quan
đẹp (như biển, núi). Cuối cùng là phòng tập thể dành bán cho các đồn
khách du lịch đơng người khơng cần tiện nghi cao cấp và Hướng dẫn
viên, Tài xế. Loại phịng này có sức chứa từ 10 đến 15 khách, thường
chỉ trang bị quạt máy. Điều đặc biệt là ở nước ngoài, đối với các khách
thuê biệt thự, bộ phận Tiếp tân sẽ gửi người đến tận nơi làm thủ tục
“Check-in”. Và khi trả phòng nhân viên sẽ trực tiếp làm thủ tục
“Express Check out”, nếu khách khơng có nhu cầu đến đại sảnh thực
hiện thủ tục.
Khu nghỉ dưỡng từ 100 phòng trở lên: Các khu nghỉ dưỡng
thuộc loại hình này tại Việt Nam thường thuộc quyền sở hữu của các
Cơng ty Cổ phần hóa, Cơng ty Liên doanh nước ngồi hay Cơng ty lớn.
Điển hình là “Hịn ngọc Việt” ở Nha Trang, chiếm một diện tích lớn trên
đảo, hay khu nghỉ dưỡng Ninh Vân trên vùng vịnh Ninh Hòa hay Sài
Gòn – Phú Quốc trên đảo Phú Quốc. Sản phẩm chính bao gốm các cơ sở
dành cho lưu trú, các cơ sở kinh doanh ăn uống và giải trí thơng
thường. Ngồi ra, loại hình khu nghỉ dưỡng trên cịn có các dịch vụ
khác như cung cấp phương tiện chun chở (Vinpearl có cáp treo vượt
biển), cịn ở Phú Quốc cho thuê tàu đi câu mực về đêm. Nhưng một
nguồn thu lớn đến từ việc tổ chức các sự kiện (Event Organization),
chăm sóc sức khỏe, sắc đẹp cho phụ nữ và việc bán hàng lưu hay cho
thuê các “shop”.
Khu nghỉ dưỡng phức hợp (Mega Resort hay Resort
Complex): Loại hình khu nghỉ dưỡng này thường được thấy tại các
cường quốc du lịch như Hoa Kỳ, Ý, Tây Ban Nha, Úc,... Nổi tiếng thế giới
12
là ở Las Vegas, Palm Spring, Hawaii... Ở Việt Nam, khu nghỉ dưỡng
phức hợp có thể tìm thấy nằm trên đảo Tuần Châu. Họ có các bãi biển
dài gần cả km, khuôn viên rộng chục km vuông với các cảnh quan tổ
chức đẹp mắt, có những cơng viên chun đề. Nhiều loại nhà hàng
phục vụ vui chơi giải trí như bay khinh khí cầu, lặn biển, đáp thuyền
đáy bằng kinh đi quan sát biển, đi câu cá...
1.1.2.3. Theo thời gian hoạt động:
Cách thức thứ ba để phân loại các khu nghỉ dưỡng đang được
kinh doanh đó chính là phân loại theo thời gian hoạt động của chúng.
Các loại khu nghỉ dưỡng phân loại theo phương thức này bao gồm: khu
nghỉ dưỡng mùa hè, khu nghỉ dưỡng mùa đông, khu nghỉ dưỡng toàn
thời gian và khu nghỉ dưỡng chỉ hoạt động vào cuối tuần (Hoạt động
trong ba ngày: Thứ sáu, Thứ bảy và Chủ Nhật) và các ngày lễ lớn.
1.1.2.4. Theo đối tượng khách:
Các loại khu nghỉ dưỡng được phân loại theo đối tượng khách bao
gồm: khu nghỉ dưỡng truyền thống, khu nghỉ dưỡng có Casino, khu
nghỉ dưỡng nằm trong quần thể di sản văn hóa, khu nghỉ dưỡng bệnh
viện (Hospital Resort), khu nghỉ dưỡng ẩn lanh (Hideaway Lodge hay
Refuge Resort) và khu nghỉ dưỡng “ẩm thực” (Gastronomic Resort).
1.1.2.5. Theo tiêu chí mơi trường:
Dựa theo hình thức phân loại thứ tư, ta có hai loại khu nghỉ dưỡng
có thể nhận diện là khu nghỉ dưỡng truyền thống và khu nghỉ dưỡng
thân thiện với môi trường (được gắn “Nhãn hiệu xanh” (Green Label); ở
Châu Âu gọi là “Lá cờ xanh” (Green Flag); ở Bắc Âu gọi là “Ánh sáng
miền bắc” (Nordic Light) và ở Thái Lan gọi là “Chiếc Lá xanh” (Green
Leaf)).
1.1.2.6. Theo cách bán:
Các khu nghỉ dưỡng còn được phân loại theo phương thức chào
bán phòng. Các phân loại của phương thức này bao gồm: khu nghỉ
dưỡng bán phòng theo cách thơng thường (như các khách sạn bình
thường khác), khu nghỉ dưỡng bán phòng theo kiểu B&B (trong tiền
phòng đã bao gồm tiền ăn sáng), ngồi ra cịn có khu nghỉ dưỡng bán
13
theo kiểu tính gộp (All Inclusive Resort) cho mỗi khách, mỗi ngày (bao
gồm tiền phòng, tiền ở, dịch vụ mát-xa, 1-2 ly cocktail.
1.1.2.7. Theo tính phức hợp:
Ở một số nơi, ngành du lịch nghỉ dưỡng phát triển mạnh, đưa đến
sự hình thành một khu nghỉ dưỡng là cả một thành phố với nhiều cơng
năng, tiện ích và dịch vụ giải trí.
1.1.3. So sánh khu nghỉ dưỡng và khách sạn:
Dưới đây là phần so sánh về các đặc điểm cơ bản nhất của khu
nghỉ dưỡng và khách sạn nhằm minh họa rõ tính chất cũng như tính
riêng biệt của loại hình cơ sở lưu trú khu nghỉ dưỡng so với loại hình cơ
sở lưu trú phổ thơng và tiêu biểu – khách sạn.
Trước hết về kiến trúc, nếu như các khách sạn tận dụng tối đa
mặt bằng và thường được xây dựng dưới dạng các tòa nhà cao tầng do
thường được đặt ở những vị trí trong thành phố, trung tâm với diện tích
đất khơng q rộng thì ngược lại, các khu nghỉ dưỡng lại chỉ tận dụng
trong khoảng 40-50% diện tích đất và những phần diện tích đất cịn lại
được sử dụng làm nơi trồng cây, trồng hoa, làm bãi cỏ. Có một điểm
khác biệt cơ bản đó chính là yếu tố thiên nhiên đặc biệt được chú ý và
coi trọng. Hình thức phịng của hai loại hình cơ sở lưu trú cũng có phần
khác biệt khi hình thức phịng khách sạn là những phòng nghỉ trong
nhà cao tầng còn với các khu nghỉ dưỡng, đó có thể là các phòng trong
khối nhà ba tầng, bungalow hoặc villa xen lẫn vườn và sân. Ngồi ra,
tên phịng khách sạn sẽ thường được đặt theo cấu trúc cơ bản bao gồm
số tầng và số thứ tự, chỉ có một số ít phịng đặc biệt được đặt tên theo
những địa danh nổi tiếng hoặc các danh nhân. Còn đối với tên phòng
của khu nghỉ dưỡng, tên phòng được đặt thường theo các mùa, các lồi
hoa, các lồi chim, thậm chí là có thể được đặt theo dựa theo chủ đề
chung của khu nghỉ dưỡng.
Về không gian lưu trú, các phong khách sạn sẽ thường có hai
khơng gian chính bao gồm phịng ngủ (được coi là không gian riêng tư)
và sảnh khách sạn, khu vực nhà hàng, spa,... (được coi là không gian
chung). Không gian chung của tồn bộ khách sạn là khơng gian khép
kín, các khách sạn sẽ có lối vào cho khách và lối vào nhân viên riêng
14
biệt để dễ dàng kiểm soát những vấn đề về an ninh. Ngược lại những
phòng, biệt thự và bungalow của khu nghỉ dưỡng sẽ thường có số
lượng các khơng gian riêng tư và khơng gian chung nhiều hơn và có
phần mở rộng hơn so với khách sạn. Với không gian riêng, ngồi phịng
ngủ thì các khu nghỉ dưỡng cịn cung cấp sân vườn trước villa, bể bơi
riêng và nhiều tiện ích khác. Khơng gian chung của khu nghỉ dưỡng
ngồi những tiện ích và cơ sở vật chất cơ bản thì cịn bao gồm: khu vui
chơi, phịng xơng hơi,... Trái với khách sạn, không gian của khu nghỉ
dưỡng là không gian mở, đối với loại khơng gian này cơng tác kiểm
sốt an ninh sẽ gặp nhiều khó khăn hơn, đặc biệt là trong tình hình
dịch bệnh như hiện tại lại càng thêm khó khăn và với việc có rào chắn,
các khu nghỉ dưỡng sẽ bị hạn chế với các phía tiếp giáp với rừng và bãi
biển.
Về phần trang trí, trong khi các khách sạn thường đề cao yếu tố
sang trọng và hiện đại thì các khu nghỉ dưỡng chú trọng hơn những
yếu tố thiên nhiên nhằm giữ lại được những nét đặc trưng của địa
phương, đây có thể coi là khác biệt cơ bản và là yếu tố quyết định vẻ
đẹp và sức hút ban đầu của khu nghỉ dưỡng.
Đối với phong cách quản trị, trong khi các khách sạn áp dụng và
cập nhật các phương tiện máy móc tiên tiến, tuân theo một quy trình
nhất định và đề cao sự tuần thủ cùng những chuẩn mực được đưa ra
thì các khu nghỉ dưỡng chỉ xây dựng “khung quản lý” và đề cao sự
“linh hoạt” cũng như sức sáng tạo ở nhân viên. Bởi vậy mà tại các khu
nghỉ dưỡng, những người quản lý sẽ có những cách thức quản lý tự
sáng tạo để áp dụng vào công việc một cách tốt nhất.
Các khách sạn có khung giờ hoạt động 24/7, trong tất cả các
ngày trong năm từ đó giúp cho nguồn lao động ở mức tương đối ổn
định, trong khi các khu nghỉ dưỡng khơng có khung giờ hoạt động liên
tục như vậy. Có những Resort chỉ hoạt động những ngày cuối tuần, hay
theo mùa vụ. Bởi vậy mà khi xem xét đến vấn đề về nhân sự và đào
tạo nhân sự thì đây ln là bài tốn khó cho các nhà quản trị khu nghỉ
dưỡng. Ngồi ra, khi nói về thời gian khách ở, có thể thấy các khách
hàng sử dụng cơ sở lưu trú là khách sạn thì sẽ ít khi dành thời gian
trong khách sạn mà họ hầu hết sẽ thường đi chơi ngoài khoảng thời
gian ngủ nghỉ, ăn uống. Còn ngược lại, với những khách hàng của các
15
khu nghỉ dưỡng, khách hầu như dành toàn bộ thời gian ở resort bởi khu
resort thường ở cách xa khu trung tâm và bao gồm nhiều hoạt động
giải trí cũng như cảnh quan xinh đẹp và mở rộng. Khách không cần ra
khỏi khn viên khu resort mà vẫn có thể thỏa mãn các nhu cầu của
mình bằng các dịch vụ được cung cấp bởi khách sạn. Điều này giúp cho
khách sạn tối đa hóa được lợi nhuận qua việc bán được nhiều dịch vụ
bổ sung. Từ đó dẫn đến sự khác biệt tiếp theo về sản phẩm giữa hai
loại hình kinh doanh cơ sở lưu trú, các khách sạn ngoài việc cung cấp
dịch vụ lưu trú, ăn uống, khách sạn cịn cung cấp các dịch vụ khác:
bar, spa, xơng hơi,… tuy nhiên những dịch vụ trên vẫn còn rất hạn chế
sự đa dạng, không như các khu nghỉ dưỡng, bên cạnh các dịch vụ
không thể thiếu như lưu trú và ăn uống, các dịch vụ bổ sung khác
nhằm thỏa mãn tối đa nhu cầu của khách hàng cũng được chú trọng
khơng kém. Khơng những đa dạng mà cịn có sinh hoạt, có thể kể đến
như: hoạt động ngồi trời, tổ chức lớp học nấu ăn, lớp Yoga và thiền,
lớp học bơi, đối lửa trại, câu cá,… đảm bảo các vị khách khơng bao giờ
cảm thấy nhàm chán và ln có hoạt động thỏa mãn được trí tị mị
của họ. Ngồi ra, các sản phẩm của khách sạn thường mang tính đại
trà, nên chỉ cần được hướng dẫn bài bản nhân viên có thể dễ dàng nắm
bắt được. Cịn với các khu nghỉ dưỡng, sản phẩm của họ sẽ đa dạng
hơn và việc đó dẫn đến yêu cầu đối với nhân viên cũng nhiều hơn.
Nhân viên phải có sự hiểu biết sâu và tường tận hơn, để tối đa hóa sự
thỏa mãn của khách hàng cũng như nâng tầm chất lượng dịch vụ.
Về nhân viên, các khách sạn thường bao gồm các bộ phận: lễ tân,
buồng phòng, ẩm thực, kỹ thuật, bảo vệ, tài chính – kế tốn, nhân sự,
thương vụ và tiếp thị. Cịn đối với khu nghỉ dưỡng, ngồi các bộ phận
giống như khách sạn, cịn có một số các nhân viên đảm nhận một số
công việc đặc biệt khác: hướng dẫn viên du lịch, huấn luận viên thể
hình, giáo viên dạy yoga, chuyên gia dinh dưỡng, bác sỹ, y tá, hoạt náo
viên và nhân viên bảo dưỡng. Đồng phục của nhân viên cũng thể hiện
một phần sự khác biệt giữa hai loại hình kinh doanh cơ sở lưu trú, khi
các nhân viên khách sạn thường được mặt đồng phục được may theo
mẫu chung, kiểu dáng mang tính trang trọng và lịch sự còn đồng phục
của các khu nghỉ dưỡng thường đề cao sự thoải mái và ít gị bó. Đồng
phục nhân viên ở resort có thể nhiều màu sắc, đi cùng với giày thể
16
thao. Điều này cũng góp phần tạo nên sự thoải mái, dễ chịu và hịa
mình với thiên nhiên của đội ngũ nhân viên cũng như khách sạn.
Khách sạn và khu nghỉ dưỡng cũng có chất lượng dịch vụ khác
nhau khi phần lớn các khách sạn phục vụ với với một quy chuẩn nhất
định trong khi chất lượng dịch vụ của các khu nghỉ dưỡng luôn được
nâng tầm, không chỉ thỏa mãn từng yêu cầu của một nhóm khách, một
phân khúc đối tượng khạch hàng, mà thỏa mãn từng cá nhân sử dụng
dịch vụ.
1.2. Lịch sử phát triển kinh doanh khu nghỉ dưỡng:
1.2.1. Trên thế giới:
Khái niệm “Khu nghỉ dưỡng” đã được loài người biết đến từ một
khoảng thời gian rất lâu về trước. Các chứng cứ lịch sử bắt nguồn từ
hơn 300 năm trước Công nguyên, tại thời La Mã – Hy Lạp. Tương tự như
các trò “Giác đấu”, khái niệm “Khu nghỉ dưỡng” đã sớm trở thành một
đinh chế trong nền văn minh của La Mã cổ. Khái niệm trên cũng có mặt
tại hịng đảo ngày nay được gọi là Anh quốc, xuyên qua châu Âu đến
tận Bắc Phi (những nơi trước kia là lãnh thổ Đế quốc La Mã). Ban đầu,
các cơ sở nghỉ dưỡng sơ khai được xây dựng tại những khu vực xung
quanh các nguồn nước khống nóng hoặc lạnh mà y học cổ thời ấy cho
rằng có khả năng chữa bệnh cho con người. Một số di tích của thời La
Mã cịn sót lại tại thành phố Bath đã cho thấy những nguồn nước này
được người La Mã gọi là “Aquaee Sulis”, các hồ tắm công cộng ở Thành phố
Carthage (xứ Tunisia, Bắc Phi); suối khống Spa (Ardennes, Bỉ) trước đó là cơ sở phục
vụ tắm suối, đến thế kỷ XVIII đã mở rộng và trở thành hai cơ sở Casino đầu tiên ở châu
Âu, lấy tên là Redoute và Vaux-Hall. Thành phố Spa vì vậy mà trở nên nổi tiếng, từ tên
một địa danh, nay đã xuất hiện trong tử điển để chỉ loại hình tắm suối khống hay tắm
trong hồ nước nóng. Thành phố Bath và Thành phố Spa sau đó đã trở thành điểm đến
quen thuộc của các bậc vua chúa, và sau đó là trào lưu của giới thượng lưu, quý tộc và tư
sản ở châu Âu thời đó. Thụy Sỹ, đất nước mạnh về du lịch nghỉ dưỡng từ thế kỷ XIX, có
các cơ sở nghỉ dưỡng ở Zurich và quanh hồ Lucerne cùng với các phòng khiêu vũ, phòng
chơi Bi-a, nhà hát,…
Cho đến năm 1863, một làng bờ biển miền Nam đất nước Pháp xinh đẹp và thơ
mộng – Monte Carlo, Monaco nổi lên với biểu tượng vùng đất “thiên đường cờ bạc” của
giới nhà giàu, với cảnh quan đẹp rực rỡ, cơng trình kiến trúc độc đáo và nghệ thuật ẩm
17
thực Địa Trung Hải phong phú. Có thể nói thể kỷ XIX mở ra thời đại cho sự phát triển
của Khu nghỉ dưỡng, khi nối tiếp các đất nước trên, đất nước Mỹ “vĩ đại” đã xây dựng
hàng tá các khu nghỉ dưỡng có diện tích hàng trăm héc ta, hàng ngàn phịng nghỉ cho
khách. Điển hình là thành phố Atlantíc City - thành phố phát triển du lịch nghỉ dưỡng đầu
tiên của nước Mỹ. Sau Chiến tranh Thế giới lần thứ 2, các khu nghỉ dưỡng mùa Đông
bước đầu xuất hiện ở Mỹ và được đầu tư, đem lại nguồn thu nhập ổn định hơn cho các cư
dân miền núi trước đó thường rơi vào hồn cảnh thất nghiệp vào mùa Đơng. Bước vào
thế kỷ XX, một loại hình khu nghỉ dưỡng mới xuất hiện, nắm bắt được thị hiếu của khách
hàng và đặc biệt là kháchhàng nhỏ tuổi, sự xuất hiện của các Công viên DisneyLand
(Califonia, 1955), DisneyWorld (Florida, 1971) đã trở thành biểu tượng đặc trưng của Mỹ
từ lúc bấy giờ.
Từ cuối thế kỷ XX, người ta thường gắn liền hai khái niệm “Resort” và “Spa” với
nhau, nhiều khu nghỉ dưỡng ghi liền “Resort & Spa” thay vì tách rời. Bởi hơn 60% khu
nghỉ dưỡng có bồn tắm khống tự nhiên hay nhân tạo.Spa khơng nhất thiết là suối khống
tự nhiên nữa, người ta có thể xây dựng các bồn ngâm mình Jacuzzi với nước nóng có trộn
các khống chất tổng hợp,có áp lực nước phun ra để mát-xa.
Với sự phát triển nhanh chóng hiện nay, các khu nghỉ dưỡng mọc lên ngày càng
nhiều, đa dạng, với chất lượng dịch vụ và giá thành tỷ lệ thuận với nhau, các khách hàng
có thể lựa chọn một nơi thích hợp để lưu trú, nghỉ dưỡng.
Vậy nên, có thể nói, từ sớm khái niệm “Nơi nghỉ dưỡng” và “ Du lịch nghỉ dưỡng”
đã sớm xuất hiện ở các nền văn minh phương Đông và phương Tây.
1.2.2 Ở Việt Nam
Khu nghỉ dưỡng du lịch cao cấp là loại hình kinh doanh lưu trú,
tưởng như có những đặc điểm tương tự như các loại hình kinh doanh
lưu trú khác như khách sạn 4-5 sao khác, nhưng lại mang tính “động”
hơn. Trước đây mặc dù Việt Nam chúng ta có rất nhiều các khách sạn
phục vụ du lịch biển đảo, hay còn gọi là “Khách sạn biển”, nhưng phải
đến khi các khu du lịch nghỉ dưỡng cao cấp thực sự bắt đầu xuất hiện
tại Việt Nam từ những năm đầu của thế kỷ 21 dọc khắp các tỉnh thuộc
địa phận duyên hải miền trung thì các nhu cầu cao cấp của khách du
lịch về khu lưu trú được đáp ứng một cách đầy đủ và toàn diện nhất. Và
Mũi Né đặc biệt nổi lên với tên gọi “ Thủ đô Resort của Việt Nam”. Bởi
vì loại hình lưu trú này chỉ mới xuất hiện tại Việt Nam, hơn một thập kỷ,
nên không phải tất cả mọi người đều nắm bắt được những sự khác biệt,
cũng như những đặc điểm kinh doanh loại hình lưu trú này so với các
18
loại hình kinh doanh lưu trú khác: khác biệt trong kiến trúc, xây dựng
cơ sở hạ tầng, trong cách bán dịch vụ, cách thức phục vụ của nhân
viên,...
1.3. Điều kiện phát triển loại hình lưu trú khu nghỉ dưỡng:
1.3.1. Điều kiện tài nguyên:
1.3.1.1. Tài nguyên thiên nhiên:
Vai trò của điều kiện tự nhiên là rất quan trọng trong loại hình lưu
trú nghỉ dưỡng là: địa hình độc đáo, khí hậu ơn hồ, tài ngun nước
phong phú và vị trí địa lý hợp lý. Nếu một khu nghỉ dưỡng được đặt ở
một vị trí địa hình đẹp với phong cảnh đẹp thì chắc chắn khách du lịch
sẽ ưa thích hơn. Trong đó những phong cảnh ở những nơi nhiều rừng,
núi, biển, đảo,… sẽ được khách du lịch yêu thích. Kết hợp cùng với điều
kiện địa hình, khí hậu cũng nắm một vai trị quan trọng để phát triển
loại hình kinh doanh resort.
Khách du lịch dù ở nơi nào trên thế giới cũng ưa chuộng một điểm
đến có khí hậu ơn hồ. Nhiều cuộc thăm dò đã chỉ ra du khách sẽ tránh
đến những nơi lạnh khắc nghiệt hoặc ẩm và nóng. Đặc biệt trong loại
hình lưu trí nghỉ dưỡng thì thường ở gần các ven biển nên khách hàng
sẽ mong muốn số ngày mưa ít trong mùa vụ du lịch và ngược lại số giờ
nắng nhiều (đặc biệt với những khách tây thích tắm nắng). Cộng với
đó, nhiệt độ trung bình trong ngày phải mát mẻ vì nhiều khách du lịch
xứ ơn đới khơng thích nghi được với khí hậu nóng ẩm khắc nghiệt của
nước ta. Quan trọng hơn cả là vị trí địa lý, trong đó vị trí địa lý bao
gồm: khu nghỉ dưỡng gần khu vực phát triển du lịch và khoảng cách
của khu nghỉ dưỡng đến các nơi nhận khách ngắn.
Điều này có ý nghĩa rất quan trọng do với nước nhận khách. Nếu
resort ở cách xa điểm nhận khách thì điều này sẽ tác động ở 2 vấn đề:
khách du lịch phải chi tiền cho việc đi lại xa và khách phải rút bớt thời
gian ở resort vì phải đi lại nhiều.
1.3.1.2. Tài nguyên nhân văn:
Giá trị lịch sử, văn hố và thành tích kinh tế và chính trị có đóng
góp quan trọng cho vùng du lịch để phát triển, một vùng hay rộng hơn
19
là một đất nước. Những giá trị trên có một sức hút rất mạnh với phần
lớn du khách với nhiều ý nghĩa khác biệt của chuyến du lịch. Đặc biệt
sức hút đó đến từ giá trị lịch sử với nhóm khách có tính tình ham học
hỏi. Cho nên những giá trị lịch sử được phân ra 2 nhóm:” Giá trị lịch sử
gắn với nền văn hoá và những giá trị lịch sử đặc biệt”. Những khách du
lịch được kéo tới nhờ những giá trị trên chắc chắn phải có nơi để nghỉ
ngơi trong q trình thăm quan. Từ đó hoạt động kinh doanh khu nghỉ
dưỡng có thể được hưởng lợi rõ rệt một cách gián tiếp qua các tài
nguyên nhân văn. Ngồi những khách đến với mục đích du lịch, cịn có
những khách đến với mục đích làm ăn, cơng việc. Đó là những khách
đến với các cuộc hội thảo, hội nghị, diễn đàn kinh tế và chính trị.
Những đối tượng này thường là những người khá giả nên họ sẽ thường
chọn những nơi cao cấp để làm nơi nghỉ ngơi. Từ đó, khu nghỉ dưỡng có
thêm được rất nhiều khách thong qua các thành tựu kinh tế, chính trị
hằng năm của đất nước.
1.3.2. Điều kiện hạ tầng:
Cơ sở hạ tầng là những thứ không chỉ của riêng tổ chức du lịch
mà còn là của cả xã hội. Những nơi như bến cảng, sân bay, đường xá,
ga tàu, công viên... là động lực thúc đẩy phát triển các hoạt động kinh
tế và xã hội. Đặc biệt với loại hình khu lưu trú nghỉ dưỡng thì đây cịn là
cơ sở giúp nâng cao chất lượng sản phẩm. Với các cơ sở hạ tầng kỹ
thuật, cánh tay đắc lực nhất vẫn là mạng lưới giao thơng tiện ích. Tiếp
theo là cơ sở vật chất kỹ thuật bậc 2 như hệ thống nước, điện hay hệ
thống viễn thong. Đây là cơ sở không thể thiếu để quyết định sự phát
triển của khu nghỉ dưỡng và còn là tiền đề tạo ra một chất lượng dịch
vụ chuyên nghiệp của resort.
1.3.3. Điều kiện cơ sở vật chất du lịch:
Cơ sở vật chất của khu du lịch có thể hiểu là nhà cửa và phương
tiện kỹ thuật trong hoạt động kinh doanh lưu trú nghĩ dưỡng như:”
resort, nhà hàng, phương tiện giao thông, khu nhà giải trí, mạng lưới
điện,.. Những vật chất kể trên có thể do vốn của nhà đầu tư cơ sở kinh
doanh lưu trú nghỉ dưỡng hoặc của khu du lịch bỏ ra xây dựng. Cho
nên sự tận dụng hiểu quả các tài nguyên đó để thoả mãn nhu cầu của
20
khách du lịch là rất quan trọng trong quá trình sản xuất và tiêu thụ sản
phẩm, cụ thể sản phẩm ở đây là loại hình lưu trú nghỉ dưỡng.
1.3.4. Điều kiện chính sách quản lý:
Các điều kiện về chính sách quản lý cụ thể như sau:
Với hiện diện của bộ máy quản lý nhà nước về du lịch (bộ máy vĩ
mô). Bộ máy gồm những thành phần sau:
Các chủ thể quản lý cấp trung ương: Các bộ, tổng cục, phòng ban
trực thực chính phủ liên quan tới du lịch (ban thư kí, ban thanh tra v.v)
Chủ thể quản lý cấp địa phương: chính quyền địa phương, sở Du
lịch
Những hệ thống trên sẽ đưa ra các thể chế quản lý (như các đạo
luật và các văn bản pháp quy dưới luật), cấc chính sách(giá cả, tỷ giá
hối đối, chính sách lớn về xã hội như giảm bớt tệ nạn trong du lịch,
v.v..) và cơ thế quản lý.
1.3.5. Điều kiện con người:
a. Nhân lực lao động trực tiếp:
Là lực lượng tham gia trực tiếp trong quá trình kinh doanh và họ
sẽ làm những chức năng cơ bản. Đội ngũ này chiếm tới hơn 85% nhân
viên khách sạn, với tỷ trọng cao như vậy nên nó là yếu tố then chốt
ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của khi nghỉ dưỡng. Những chức
vụ có thể kể tên ra như: phụ bếp, steward, phục vụ bàn, nhân viên làm
phòng,…được xếp vào trong lực lượng này.
b. Nhân lực lao động gián tiếp:
Là những người quản lý và điều hành quá trình kinh doanh của
khu nghỉ dưỡng. Đội ngũ này chiếm phần trăm không quá lớn như nhân
lực lao động trực tiếp. Để cho khu nghỉ dưỡng vận hành trơn tru thì tỉ lệ
giữa 2 lực lượng lao động trực tiếp và gián tiếp phải hợp lý. Từ đó mức
trả cơng sẽ phù hợp và khơng bị lãng phí.
21
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH KHU NGHỈ
DƯỠNG Ở PHÚ QUỐC
2.1. Tổng quan chung về du lịch Phú Quốc:
“Phú Quốc có thể được coi là hịn đảo du lịch có tính lớn nhất Việt
Nam, được đặt vị trí tại vịnh Thái Lan, thuộc huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên
22
Giang. Hòn đảo còn được gọi là là “Đảo Ngọc trên vùng biển phía Tây
Nam của Tổ quốc” và đã thu hút được rất nhiều du khách cũng như các
nhà đầu tư đến từ quốc tế. Với lợi thế cơ bản và dễ nhận biết nhất là
một nguồn tài nguyên sẵn có vơ cùng đa dạng cũng khơng kém phần
độc đáo, được hỗ trợ bởi các chính sách đầu tư và phát triển xây dựng
hạ tầng đúng hướng nên chỉ trong vòng vài năm ngắn ngủi vừa qua,
hòn đảo Phú Quốc đã chứng kiến một sự trỗi dậy mạnh mẽ để vươn lên
trở thành một trong những điểm sáng du lịch cả trong nước lẫn khu
vực. Vòa năm 2006, Phú Quốc đã có cơ hội trở thành một cái tên quen
thuộc hơn trên bản đồ du lịch quốc tế khi sự kiện Khu dự trữ quyển ven
biển và biển đảo Kiên Giang, bao gồm cả huyện Phú Quốc đã được
UNESCO chính thức cơng nhận là “Khu dự trữ sinh quyển thế giới”.”
“Trong những năm đầu tiến hành khai thác du lịch, dù sở hữu
nguồn tài nguyên có sẵn là hàng loạt những bãi biển tuy hoang sơ
nhưng đẹp hút hồn, điển hình là bãi Khem, bãi Sao, bãi Thơm hay bãi
Dài,... tuy nhiên do hạn chế về cơ sở hạ tầng, cùng với đó là sự yếu
kém trong phát triển giao thông và sự non trẻ của dịch vụ du lịch địa
phương đã dấn đến việc trong năm 2010, Phú Quốc chỉ ghi nhận được
khoảng 239.000 lượt khách đến và 5 năm sau, đến năm 2015, huyện
đảo cũng chỉ ghi nhận được sự tăng trưởng không quá lớn đối với một
đảo kinh doanh du lịch và lưu trú, khoảng 850.000 lượt khách.”
“Chỉ đến khoảng 3 năm trở lại đây, trong vòng 2017-2019, hòn
đảo Phú Quốc mới chứng kiến được những sự thay đổi và biến chuyển
thần tốc để trở thành một hòn đảo với lượt khách đến hàng tháng lên
tới con số bằng chính con số trước đó của cả năm 2010 - 239.000 lượt
khách.”
“Về lượt khách tham quan, dựa theo những số liệu thống kê của Sở
Du lịch tỉnh Kiên Giang, chỉ tính riêng trong năm 2019, tồn tỉnh Kiên
Giang đã đón tiếp 8.780.484 lượt khách cả trong nước lẫn quốc tế đến
tham quan du lịch, đánh dấu mức tăng trưởng 13,9% so với cùng kì
năm trước đó – 2018 và đạt được mức thực tế lên tới 105,8% so với kế
hoạch dự kiến năm 2019 đã đặt ra trước đó. Trong tổng số lượt khách
đó, lượt khách quốc tế đạt tới con số 713.291 lượt, tăng 19,5% so với
lượt khách cùng kì năm trước và đạt 115,5% so với kế hoạch đề ra của
năm 2019.
23
Tính đến thời điểm hiện tại, theo thống kê của Sở du lịch tỉnh Kiên
Giang, Phú Quốc đã có khoảng 430 cơ sở lưu trú, với tổng số phòng
nghỉ lên tới con số 18.351 phòng. Trong tổng số các cơ sở lưu trú, có 8
cơ sở đã được chính thức ghi nhận đạt 4 sao và 12 cơ sở lưu trú đạt
mức 5 sao. Từ số phịng, ta khơng thể khơng nói đến doanh thu du lịch.
Chỉ tính riêng năm 2019, doanh thu du lịch đã ở mức cao hơn so với
mức trung bình cả nước. Tổng số khách tham quan các khu du lịch và
các điểm du lịch của Phú Quốc cũng đạt được một con số đáng nể 4.594.670 lượt, chứng kiến mức tăng trưởng 11,4% so với cùng kì năm
trước đó. Ngồi ra, lượt khách có lưu trú cũng đạt được con số ấn tượng
8.384.607 lượt, đạt mức tăng trưởng lên tới 14,1% so với cùng kì năm
ngối.
Chỉ tính riêng Phú Quốc, lượt khách du lịch theo thống kê đã lên
tới con số 5.106.665 lượt cho năm 2019, tăng 26,9% so với cùng kì
năm 2018. Trong tổng số lượt khách du lịch ta thấy được khách quốc tế
đạt 671.896 lượt, tăng 22.7% so với cùng kì năm trước đó. Tổng doanh
thu từ du lịch đạt được con số 18.595,7 tỉ đồng, chứng kiến mức tăng
trưởng 14,7% so với cùng kì năm trước và trong đó doanh thu trực tiếp
có được từ các doanh nghiệp du lịch đã đạt tới 8.364,1 tỉ đồng, đánh
dấu mức tăng 31,2% so với cùng kì năm 2018.”
2.2. Điều kiện phát triển loại hình kinh doanh khu nghỉ
dưỡng của Phú Quốc:
2.2.1. Điều kiện tự nhiên:
2.2.1.1. Khí hậu Phú Quốc:
“Khí hậu chung của tỉnh Kiên Giang là khí hậu nhiệt đới gió mùa,
với nhiệt độ trung bình năm đạt khoảng 27-27,5 độ C; quanh năm
khơng q nóng và q lạnh. Hai mùa khơ và mưa chia tách rõ rệt, với
mùa khô từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau và mùa mưa từ tháng 5 đến
tháng 10. Phú Quốc, là một đảo nằm trong tỉnh này, cũng có dạng khí
hậu tương tự cùng những đặc điểm khí hậu khơng khác biệt so với tồn
tỉnh.
Mùa khơ: Đảo Phú Quốc chịu ảnh hưởng gió mùa Đơng Bắc có
cường độ tương đối mạnh, tốc độ gió trung bình 3,2 m/s. Khi gió Đơng
Bắc mạnh, tốc độ đạt từ 20 đến 24 m/s. Mùa khơ có độ ẩm trung bình
24
78%. Nhiệt độ cao nhất 35 độ C vào tháng 4 và tháng 5. Nhiệt độ trung
bình khoảng 27 - 28 độ C.
Mùa mưa: Đảo Phú Quốc là cửa ngõ đón gió mùa Tây - Tây Nam,
tốc độ gió trung bình 4,5 m/s. Mùa mưa mây nhiều, độ ẩm cao, từ 85
đến 90%. Lượng mưa trung bình là 414 mm/tháng. (Cả năm trung bình
là 3000 mm). Trong khu vực Bắc đảo có thể đạt 4000 mm/năm; có
tháng mưa kéo dài 20 ngày liên tục.”
2.2.1.2. Lượng mưa và nhiệt độ trung bình:
“Phú Quốc có những tháng khơ nhất từ tháng 11 đến tháng 3 khi
lượng mưa trung bình chỉ ở mức 43 mm/ tháng. Trong đó, tháng 1 và
tháng 2 là những tháng khô nhất trong năm và cũng là thời điểm phổ
biến nhất để tham quan Phú Quốc. Lượng mưa trung bình hàng năm
của hịn đảo rơi vào khoảng 190mm/ tháng, các tháng ẩm nhất sẽ có
gió mùa, từ tháng 7 đến tháng 10, với lượng mưa trung bình vào hoảng
361 mm/ tháng.
Phú Quốc có nhiệt độ trung bình rất phù hợp là 27,7 độ C (81,9 độ
F), với nhiệt độ ban ngày tối đa trung bình là 31,2 độ C và tối thiểu
trung bình là 24,6 độ C. Với nhiệt độ ln ấm áp, phu quoc là nơi hồn
hảo cho một kỳ nghỉ ở bãi biển. Nhiệt độ thấp nhất từng được ghi nhận
trước đây là 15,7 độ C vào tháng 3/2002.”
2.2.2. Điều kiện tài nguyên:
2.2.2.1. Vị trí địa lí và địa hình:
“Phú Quốc, hay cịn được gọi là Đảo Ngọc, là hòn đảo lớn nhất Việt
Nam và cũng là hòn đảo lớn nhất trong quần thể 22 đảo tại vùng biển
Phú Quốc, nằm trong vịnh Thái Lan, thuộc huyện đảo Phú Quốc (nay là
Thành phố Phú Quốc), tỉnh Kiên Giang. Tổng diện tích tồn bộ huyện
đảo là 593,05km vng, trong đó diện tích đảo Phú Quốc chiếm 574
km vuông (tương đương 56.200 ha), dài 50km. Điểm cao nhất là núi
Chúa đạt tới 603m. Địa hình thiên nhiên thoai thoải chạy từ nam đến
bắc với 99 ngọn núi đồi. Phần các vùng biển quanh đảo nơng có độ sâu
chưa đến 10 m. Tuy nhiên, cụm đảo nhỏ của cảng An Thới bị ngăn cách
hẳn với phần mũi phía nam của đảo Phú Quốc bởi một eo biển có độ
sâu tới hơn 60m.
25