Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (98.82 KB, 3 trang )
<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>
<b>PHẦN I</b>
<b>VỆ SINH HỌC THỂ DỤC THỂ THAO</b>
<b>BÀI 2</b>
<b>MỘT SỐ NGUYÊN TẮC VỆ SINH CHUNG TRỌNG TẬP LUYỆN VÀ</b>
<b>THI ĐẤU TDTT</b>
<b>MỤC TIÊU</b>
- Nắm vững nguyên tắc vệ sinh của khởi động, trọng động và hồi phục để
vận dụng vào trong quá trình tập luyện và thi đấu thể thao.
- Vận dụng vào việc sắp xếp các bài tập khởi động chung, khởi động
chuyên môn cho phù hợp với từng nội dung giảng dạy.
<b>NỘI DUNG</b>
<b>1. Nguyên tắc vệ sinh của khởi động :</b>
<i><b>1.1. Ý nghĩa và tác dụng của khởi động :</b></i>
Khởi động là quá trình chuẩn bị cho cơ thể bước vào tập và thi đấu, làm cho
cơ thể nhanh chóng thích nghi với vận động. Nội dung khởi động phải phù hợp
với các nội dung trong phần trọng động.
Khởi động bao gồm khởi động chung và khởi động chuyên môn :
- Khởi động chung : nhằm tăng cường các chức năng cơ thể như : tăng
cường khả năng hưng phấn của hệ thần kinh trung ương, của hệ vận động, tăng
cường trao đổi chất, điều hòa thân nhiệt (làm ấm cơ thể) và các chức năng thực
vật như hơ hấp, tuần hồn, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển cơ thể từ trạng thái
- Khởi động chuyên môn : tạo nên tình trạng hưng phấn thích hợp nhất ở
các phần của hệ vận động tham gia vào các hoạt động sắp tới. Các động tác
trong khởi động chuyên môn cần phải phù hợp với các động tác sắp tập trong
buổi tập luyện về mặt phối hợp động tác, kết cấu biên độ, nhịp độ, sức mạnh. Đó
là phần diễn tập của các hoạt động sắp tới.
Phần khởi động chung đối với các mơn thể thao có thể tương tự như nhau,
nhưng phần khởi động chuyên môn phải phù hợp với các hoạt động sắp tới của
từng môn thể thao.
<i><b>1.2. Nguyên tắc vệ sinh của khởi động :</b></i>
- Tất cả mọi người tham gia tập luyện đều phải tiến hành khởi động. Khởi
động đầy đủ cả khởi động chung lẫn khởi động chun mơn.
Trình độ tập luyện càng cao càng cần phải chú ý khởi động cho tốt, tránh
khởi động qua loa. Khởi động hợp lý sẽ góp phần cho thi đấu tốt, đạt thành tích
cao, hạn chế chấn thương.
đột ngột. Nên tập chung khởi động các động tác linh hoạt toàn thân, các động
tác làm dẻo khớp.
- Thời gian khởi động tùy thuộc vào môn thể thao, vào điều kiện mơi
trường, vào trình độ thể lực và trạng thái trước vận động của người tập.
Thông thường, khởi động kéo dài từ 10-30 phút. Tốt nhất là theo dõi cảm
giác, khi thấy xuất hiện mồ hôi (nghĩa là cho đến khi cơ thể điều nhiệt đã được
chuẩn bị sẵn sàng để bước vào vận động), người cảm thấy hưng phấn, thở khoan
- Cần phải tiến hành liên tục giữa khởi động chung và khởi động chuyên
môn. Khởi động không được gây ra hưng phấn quá mức và nhất là không được
gây ra mệt mỏi. Vì vậy, khối lượng vận động ở phần khởi động phải phù hợp với
từng cá nhân.
Khoảng cách thời gian từ khi kết thúc khởi động đến khi bắt đầu hoạt động
vào khoảng từ 3-8 phút là thích hợp nhất (nếu khởi động thật kĩ thì khoảng thời
gian này là 12-15 phút). Thường thì trong thực hành TDTT, khoảng thời gian
này có thể kéo dài. Trong trường hợp này, trước khi xuất phát, VĐV cần làm
thêm vài động tác đặc trưng cho hoạt động sắp tới.
<b>2. Nguyên tắc vệ sinh phần trọng động :</b>
Trọng động là phần cơ bản của buổi tập, là phần tập chung nhiều sức lực
nhất, yêu cầu chất lượng tập luyện cao, cơ thể phải nổ lực lớn để hoàn thành
nhiệm vụ vận động. Trong giai đoạn này thường xảy ra chấn thương, do đó cần
phải tập chung chú ý.
<i>* Những nguyên tắc vệ sinh chung của trọng động :</i>
Để có thể tham gia được phần trọng động cần chú ý :
- Cần kiểm tra y học trước cho người tập (nhất là trước thi đấu).
- Tuân thủ các nguyên tắc tập luyện.
- Không thi đấu ”non ” .
- Coi trọng các nguyên tắc về vệ sinh ăn uống trong tập luyện. Trong lúc tập
không được uống quá nhiều nước và nhất là không được uống các loại nước
- Không nên nghỉ giữa quãng quá lâu.
- Trong buổi tập cần tập trung toàn tâm, toàn ý vào từng động tác, từng chi
tiết nhỏ của bài tập.
- Tránh tư tưởng cay cú, nóng vội, coi trong việc bảo hiểm trong tập luyện.
- Tùy theo đặc thù kỹ thuật của từng môn thể thao mà đề ra các biện pháp
để phòng chấn thương.
<i>* Đối với huấn luyện viên và giáo viên TDTT :</i>
- Nắm vững các kiến thức về Sinh lý học TDTT, y học TDTT và tâm lý thể
thao.
<b>3. Nguyên tắc vệ sinh hồi phục</b>
Hồi phục là phần không thể thiếu trong tập luyện và thi đấu.
Sau khi ngưng hoạt động, để cơ thể trở về trạng thái bình thường trước vận
động thì các cơ quan, các hệ cơ quan phải trải qua một q trình biến đổi để đưa
cơ quan đó trở về trạng thái trước vận động. Các biến đổi như vậy được gọi là
quá trình hồi phục. Trạng thái cơ thể khi các q trình hồi phục cịn đang diễn ra
gọi là trạng thái hồi phục.Trong trạng thái hồi phục, cơ thể đào thải các sản
phẩm trao đổi chất sinh ra trong vận động, phục hồi năng lượng các chất dinh
dưỡng và các men đã tiêu hao trong thời gian vận động cơ.
Thực hiện tốt quá trình hồi phục, cơ thể vận động viên mau chóng trở lại
bình thường và hạn chế được các chấn thương, bệnh tật có thể xảy ra trong q
Khơng tơn trọng quá trình hồi phục sẽ gây tác hại cho cơ thể, làm suy
nhược cơ thể và phát sinh một số chứng bệnh khác.
Như vậy, phần hồi phục là phần nối tiếp của buổi tập luyện. Thực hiện tốt
phần hồi phục là ngun tắc vệ sinh TDTT cơ bản, có tính chất bắt buộc.
<i>* Nguyên tắc vệ sinh phần hồi phục:</i>
- Sắp xếp chế độ tập luyện và chế độ sinh hoạt của vận động viên một cách
khoa học, hợp lí.
- Tất cả những người tham gia tập luyện và vận động viên, sau khi kết thức
buổi tập đều phải thực hiện tốt phần hồi phục sau vận động.
- Nội dung hồi phục rất đa dạng, tuy nhiên cần chú ý đến các yêu cầu sau :
Các động tác thực hiện trong phần hồi phục cần nhẹ nhàng, có sự phối
hợp toàn thân, đặc biệt chú ý đến thả lỏng cơ bắp và thở sâu.
- Các biện pháp, phương pháp hồi phục được sử dụng sau cho phù hợp, ưu
tiên hồi phục cơ bắp, trả nợ oxi và tạo cảm giác thoải mái sau tập luyện để bước
vào giai đoạn nghỉ ngơi.
Có thể chia các biện pháp hồi phục ra làm 3 nhóm chính là :
+ Các biện pháp sư phạm ;
+ Các biện pháp tâm lý ;
+ Các biện pháp y, sinh học.
Ba nhóm này có liên quan mật thiết với nhau, mỗi nhóm lại có các biện
pháp cụ thể phụ thuộc vào đặc tính của các yếu tố tác động đến cơ thể.