BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
BÀI TẬP HỌC KỲ
MƠN:
KHOA HỌC ĐIỀU TRA TỘI PHẠM
ĐỀ BÀI: 04
“Chứng minh ngun tắc pháp chế trong hoạt động khám xét,
hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra”
HỌ VÀ TÊN
MSSV
NHĨM
LỚP
Hà Nội, 2021
MỤC LỤC
ĐẶT VẤN ĐỀ......................................................................................................1
NỘI DUNG...........................................................................................................1
I. Khái quát chung về nguyên tắc pháp chế trong hoạt động khám nghiệm,
hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra...........................................................1
II. Nội dung nguyên tắc pháp chế trong hoạt động khám xét, hỏi cung bị
can và thực nghiệm điều tra...............................................................................2
1. Nguyên tắc pháp chế trong hoạt động khám xét.......................................2
2. Nguyên tắc pháp chế trong hoạt động hỏi cung bị can.............................4
3. Nguyên tắc pháp chế trong hoạt động thực nghiệm điều tra...................6
III. Một số phương hướng hoàn thiện đảm bảo nguyên tắc pháp chế trong
hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra.......................8
KẾT LUẬN..........................................................................................................9
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................11
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra là những biện pháp
điều tra trong hoạt động tố tụng hình sự, giúp cho cơ quan chức năng có thể tìm
ra và làm sáng tỏ những vụ án. Mỗi hoạt động đều có tính chất nghiệp vụ riêng
nhưng vẫn phải tn theo những ngun tắc nhất định, trong đó bao hàm cả
ngun tắc pháp chế, mà cụ thể ở đây là ngun tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Để làm rõ vấn đề này, em xin chọn đề tài 04: “Chứng minh ngun tắc pháp
chế trong hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra” làm
bài tập học kỳ của mình. Mặc dù đã cố gắng tìm hiểu nhưng bài làm sẽ khơng
tránh khỏi thiếu sót. Do đó, em rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy/
cơ để bài làm thêm hồn thiện. Em xin chân thành cảm ơn!
1
NỘI DUNG
I. Khái qt chung về ngun tắc pháp chế trong hoạt động khám nghiệm,
hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra
Trong khoa học pháp lý nước ta, pháp chế xã hội chủ nghĩa được nghiên
cứu từ nhiều góc độ khác nhau cho nên có nhiều định nghĩa khác nhau. Tuy
nhiên, qua những kết quả nghiên cứu có thể thấy, dù được định nghĩa như thế
nào đi nữa thì bản chất và nội dung của pháp chế đều có điểm cốt lõi tương tự
nhau, đó là các tác giả của chúng đều đề cập đến u cầu, địi hỏi pháp luật phải
được tơn trọng và thực hiện một cách tự giác, nghiêm minh, đầy đủ, thống nhất
trong bộ máy nhà nước và ở ngồi xã hội.
Theo từ điển tiếng Việt, ngun tắc được hiểu là “điều cơ bản định ra,
nhất thiết phải tn theo trọng mọi việc làm”. “Pháp chế là sự tn thủ của
cơng dân, của các tổ chức, cơ quan đối với pháp luật hiện hành”1. Pháp chế xã
hội chủ nghĩa là ngun tắc hoạt động được đặt ra đối với mọi tổ chức, cơ quan
và là ngun tắc xử sự của cơng dân. Pháp chế xã hội chủ nghĩa là một chế độ
đặc biệt mà khi cơ quan tiến hành tố tụng hoạt động đều phải tơn trọng và thực
hiện một cách nghiêm chỉnh, triệt để và chính xác.
Do đó, ngun tắc pháp chế trong hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và
thực nghiệm điều tra được thể hiện ở hai khía cạnh: Một là, các quy định của
pháp luật là cơ sở pháp lý cho hoạt động khám nghiệm, hỏi cung bị can và thực
nghiệm điều tra của cơ quan điều tra; Hai là, hành vi tơn trọng, thực hiện pháp
luật của cơ quan điều tra khi tiến hành hoạt động khám nghiệm, hỏi cung bị can
và thực nghiệm điều tra.
Từ những vấn đề trên, ta có thể suy ra rằng: “Ngun tắc pháp chế trong
hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra là việc các cá nhân,
cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động điều tra tn theo những quy định của
1 Lê Minh Tâm chủ biên (2008), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật của Đại học luật Hà Nội, NXB Cơng
an nhân dân, tr.195
2
pháp luật hiện hành, vận dụng triệt để những quy định của pháp luật, sử dụng
những biện pháp phù hợp để bảo vệ quyền và lợi ích tốt nhất của nhân dân cũng
như tìm ra được sự thật của vụ án hình sự và vụ việc có tính hình sự”.
II. Nội dung ngun tắc pháp chế trong hoạt động khám xét, hỏi cung bị
can và thực nghiệm điều tra
Có thể thấy rằng, trong hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực
nghiệm điều tra đều có một ngun tắc chung giống nhau là nghiêm chỉnh tn
theo pháp luật nhưng khi cụ thể hóa ra thì lại có sự khác nhau về nội dung. Đây
chính là yếu tố chứng minh trong hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực
nghiệm điều tra có chức ngun tắc pháp chế.
1. Ngun tắc pháp chế trong hoạt động khám xét
Ngun tắc pháp chế trong hoạt động khám xét được thể hiện qua 04
ngun tắc sau: Chỉ được tiến hành khám xét khi có căn cứ theo qui định của
pháp luật; Phải tn thủ những qui định của Luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
ra lệnh khám xét; Khi tiến hành khám xét phải tn theo những quy định của
pháp luật về trình tự, thủ tục khám xét các đối tượng cụ thể; Trong q trình
khám xét, những người thi hành lệnh khám xét khơng được có những hành vi
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự, nhân phẩm của cơng dân2.
Những ngun tắc này thể hiện cụ thể những nội dung sau:
Chỉ được tiến hành khám xét khi có căn cứ theo qui định của pháp luật:
Ngun tắc pháp chế được thể hiện thơng qua hai khía cạnh là quy định
của pháp luật về căn cứ để tiến hành khám xét và hành vi, ý thức tn theo quy
định này của cơ quan điều tra. Căn cứ để tiến hành khám xét được quy định tại
Điều 192 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Cụ thể là những tài liệu, chứng cứ mà cơ
quan điều tra thu thập được thơng qua các hoạt động điều tra hoặc các biện pháp
2 Giáo trình Khoa học điều tra hình sự (2017), Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. Cơng an nhân dân, Hà Nội,
tr.151 153
3
trinh sát. Các tài liệu này phải được kiểm tra, xác minh, đảm bảo đáng tin cậy.
Qua những tài liệu đó, có đủ cơ sở để nhận định rằng ở những nơi định khám xét
đang cất giấu các vật chứng, đồ vật, tài liệu có liên quan đến vụ án hoặc ở đó có
đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn, xác chết hoặc các phần của nó, người bị bắt
cóc.
Việc chỉ khám xét khi có căn cứ theo pháp luật là để bảo đảm về quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, chỗ ở, nơi làm việc, địa điểm, phương tiện, tai
liệu, đồ vật, thư tín, điện tín, bưu kiện, bưu phẩm, dữ liệu điện tử của con người
khơng bị xâm phạm một cách bất hợp pháp. Khi có căn cứ khám xét, nghi phạm
sẽ khơng thể chống cự hay từ chối, từ đó đảm bảo được sự thuận tiện trong cơng
tác điều tra.
Phải tn thủ những quy định của Luật tố tụng hình sự về thẩm quyền
ra lệnh khám xét:
Có thể thấy rằng yếu tố pháp chế đã bộc lộ rõ trong ngun tắc này, đó là
việc tn thủ theo quy định của luật chun ngành nhất định. Việc đặt ra những
quy phạm pháp luật về thẩm quyền khám xét đã mang lại tính ổn định, khơng bị
lạm quyền hay chồng chéo thẩm quyền. Thẩm quyền ra lệnh khám xét trong các
trường hợp (bình thường và khơng thể trì hỗn) được quy định chặt chẽ và cụ
thể trong Điều 193 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015. Vì vậy, trong mọi trường hợp,
việc khám xét chỉ được tiến hành khi có lệnh của những người có thẩm quyền
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, "có thể tiến hành khám người mà khơng
cần có lệnh trong trường hợp bắt người hoặc khi có căn cứ để khẳng định người
có mặt tại nơi khám xét giấu trong người những đồ vật, tài liệu cần thu giữ"3.
Đây là những trường hợp ngoại lệ.
Khi tiến hành khám xét phải tn theo những quy định của pháp luật về
trình tự, thủ tục khám xét các đối tượng cụ thể:
3 khoản 3, Điều 194 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015
4
Giống như hai ngun tắc trên, tính pháp chế ở đây vẫn được thể hiện qua
khía cạnh phải tn theo quy định của pháp luật. Trình tự, thủ tục khám xét được
quy định tại các điều 194 đến 200 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015. Nhà làm
luật đã dựa trên tình hình thực tế để đưa ra những quy định phù hợp về trình tự
thủ tục khám xét nhằm loại bỏ được sự thiếu minh bạch khi khám xét. Việc tn
theo ngun tắc này sẽ tạo được tính chun nghiệp, logic và thống nhất trong
cách làm việc.
Trong q trình khám xét, những người thi hành lệnh khám xét khơng
được có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài sản, danh dự,
nhân phẩm của cơng dân:
Đây là ngun tắc mang tính bảo đảm về quyền con người. Ngun tắc
pháp chế ln hướng đến bảo vệ lợi ích tốt nhất của con người. Việc cơ quan
điều tra khơng được có những hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, tài
sản, danh dự, nhân phẩm của cơng dân đã thể hiện được rõ về ngun tắc pháp
chế trong hoạt động khám xét. Từ ngun tắc này, nhà làm luật đã cụ thể hóa ra
những quy phạm pháp luật phù hợp để việc tn thủ pháp luật một cách cụ thể
hơn, đó là quy định tại Điều 194 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
2. Ngun tắc pháp chế trong hoạt động hỏi cung bị can
Giống như hoạt động khám xét, trong hoạt động hỏi cung bị can cũng
hàm chứa ngun tắc pháp chế, đó là những ngun tắc: Tn thủ những quy
định cụ thể của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục triệu tập bị can, trình tự tiến
hành hỏi cung bị can về việc lập biên bản hỏi cung bị can; Bảo đảm và tơn
trọng các quyền hạn tố tụng của bị can; Những vấn đề cần đưa ra giải thích,
giáo dục bị can phải bảo đảm đúng pháp luật, đúng đường lối, chính sách của
Đảng và Nhà nước; Khơng được áp dụng những biện pháp thu thập lời khai trái
pháp luật như mớm cung, dụ cung, bức cung và dùng nhục hình, kể cả nhục
hình biến tướng.4 Ngun tắc pháp chế được thể hiện như sau:
4 Giáo trình Khoa học điều tra hình sự (2017), Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. Cơng an nhân dân, Hà Nội,
tr.85
5
Tn thủ những quy định cụ thể của Bộ luật tố tụng hình sự về thủ tục
triệu tập bị can, trình tự tiến hành hỏi cung bị can về việc lập biên bản hỏi cung
bị can:
Hoạt động hỏi cung bị can phải được tiến hành theo những trình tự, thủ
tục luật định. Từ ngun tắc pháp chế này, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã
cụ thể hóa thành những điều luật, các điều 182,183, 184 Bộ luật Tố tụng hình sự
năm 2015. Tn thủ ngun tắc này sẽ hạn chế được sự xáo trộn giữa các lời
khai, gây khó khăn cho q trình điều tra.
Bảo đảm và tơn trọng các quyền hạn tố tụng của bị can được quy định:
Bị can là đối tượng bị nghi có liên quan đến vụ án. Mặc dù vậy họ vẫn
được hưởng những quyền của mình theo pháp luật quy định. Ngun tắc pháp
chế được thể hiện ở chỗ pháp luật quy định quyền mà bị can được hưởng và cơ
quan điều tra phải tơn trọng và đảm bào những quyền này. Quyền và nghĩa vụ
của bị can được quy định tại khoản 2, 3 Điều 60 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015.
Những vấn đề cần đưa ra giải thích, giáo dục bị can phải bảo đảm đúng
pháp luật, đúng đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước:
Trong hoạt động hỏi cung bị can, nếu bị can chống đối khơng khai báo
hay khai báo gian dối thì theo ngun tắc, người lấy lời khai sẽ thực hiện những
biện pháp cảm hóa giáo dục, giải thích rõ cho bị can hiểu lợi ích của việc khai
báo thành thật. Đây là ngun tắc pháp chế cần được sử dụng một cách khéo léo
mới mang lại hiệu quả cao.
Khơng được áp dụng những biện pháp thu thập lời khai trái pháp luật
như mớm cung, dụ cung, bức cung và dùng nhục hình, kể cả nhục hình biến
tướng.
Trên thực tế đã xảy ra một vài trường hợp bức cung, dùng nhục hình bởi
một số điều tra viên có tính tiêu cực. Bộ luật Tố tụng hình sự đã quy định đây là
hành vi vi phạm pháp luật và có chế tài xử lý (khoản 5 Điều 183 Bộ luật Tố tụng
6
hình sự 2015). Tn thủ ngun tắc này sẽ loại bỏ được tính tiêu cực trong hoạt
động hỏi cung bị can, đảm bảo được quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, sức
khỏe của bị can.
3. Ngun tắc pháp chế trong hoạt động thực nghiệm điều tra
Thực nghiệm điều tra là một biện pháp điều tra được quy định trong Bộ
luật Tố tụng hình sự, có mục đích thu thập, kiểm tra chứng cứ, kiểm tra các giả
thuyết điều tra phục vụ việc điều tra và xử lý vụ án hình sự. Vì vậy, thực nghiệm
điều tra chỉ được tiến hành trong khn khổ và theo trình tự thủ tục do pháp luật,
mà chủ yếu là luật tố tụng hình sự quy định.5 Ngun tắc pháp chế trong hoạt
động thực nghiệm điều tra là: Khơng được xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự,
gây ảnh hưởng đến sức khỏe của những người tham gia việc thực nghiệm điều
tra; Khơng được gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tập thể, cơng dân khi
tiến hành thực nghiệm điều tra; Khơng được gây ảnh hưởng xấu tới phong tục
tập qn, đạo đức, điều kiện sinh hoạt bình thường của nhân dân nơi tiến hành
thực nghiệm điều tra; Tiến hành thực nghiệm điều tra phải đảm bảo đúng trình
tự, thủ tục do luật tố tụng hình sự quy định.6 Nội dung được thể hiện như sau:
Khơng được xâm phạm đến nhân phẩm, danh dự, gây ảnh hưởng đến
sức khỏe của những người tham gia việc thực nghiệm điều tra:
Ngun tắc này cũng chính là quy định tại khoản 2 Điều 204 Bộ luật tố
tụng hình sự 2015. Điều này thể hiện rõ mối quan hệ của pháp luật với ngun
tắc pháp chế. Trong hoạt động thực nghiệm điều tra, yếu tố con người là yếu tố
quan trọng quyết định xem hoạt động thực nghiệm đó có thành cơng hay khơng.
Chính vì vậy, việc đảm bảo nhân phẩm, danh dự, sức khỏe của những người
tham gia việc thực nghiệm điều tra là rất quan trọng.
Khơng được gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tập thể, cơng dân
khi tiến hành thực nghiệm điều tra:
5 Giáo trình Khoa học điều tra hình sự (2017), Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. Cơng an nhân dân, Hà Nội,
tr.178 – 179
6 Giáo trình Khoa học điều tra hình sự (2017), Trường Đại học Luật Hà Nội, NXB. Cơng an nhân dân, Hà Nội,
tr.179
7
Thực nghiệm điều tra thường được tiến hành trong khơng gian ngồi xã
hội, nơi đã diễn ra vụ án, đã có thể bị biến dạng. Khi tiến hành thực nghiệm cần
tiến hành dựng lại hiện trường nên có thể ảnh hưởng đến tài sản, vật chất của
người khác. Ngun tắc này đặt ra để bảo đảm rằng sẽ khơng có hành vi gây
thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, tập thể, cơng dân, bởi hành vi này là vi phạm
pháp luật.
Khơng được gây ảnh hưởng xấu tới phong tục tập qn, đạo đức, điều
kiện sinh hoạt bình thường của nhân dân nơi tiến hành thực nghiệm điều tra:
Có nhiều vụ án đã xảy ra lâu rồi mới bị phát hiện, hiện trường vụ án đã bị
thay đổi hồn tồn, ví dụ như đã có người dân khác xây nhà sinh sống,… khi
tiến hành thực nghiệm điều tra rất khó để dựng lại ngun trạng của hiện trường.
Khi tiến hành thực nghiệm khơng tránh khỏi việc có thể ành hưởng đến sinh
hoạt bình thường của nhân dân. Do đó, tn thủ ngun tắc này sẽ tránh được
những tranh chấp khơng đáng có cũng như tránh giảm uy tín và phong cách làm
việc của cơ quan điều tra.
Tiến hành thực nghiệm điều tra phải đảm bảo đúng trình tự, thủ tục do
luật tố tụng hình sự quy định:
Thực nghiệm điều tra là một biện pháp điều tra có tính hình thức cao vì
phải dựa theo những tình tiết, lời khai của bị can, nhân chứng làm căn cứ tạo
dựng hiện trường. Do đó cần phải tn theo trình tự, thủ tục nhất định để đạt
được mục đích hiệu quả nhất. Ngun tắc pháp chế ở đây được thể hiện việc
tn thủ các quy định về trình tự thủ tục khi thực nghiệm điều tra tại Điều 204,
205 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015.
III. Một số phương hướng hồn thiện đảm bảo ngun tắc pháp chế trong
hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra
Ngun tắc pháp chế có trong hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và
thực nghiệm điều tra đã giúp cơ quan điều tra thực hiện hoạt động một cách hiệu
8
quả. Tuy nhiên, để các hoạt động này đạt được những hiệu quả tốt nhất thì cần
phải có những biện pháp bảo đảm phù hợp.
Thứ nhất, ngun tắc pháp chế có mối quan hệ mật thiết với nhau. Pháp
luật là cơ sở của pháp chế, pháp chế góp phần bổ sung và hồn thiện pháp luật.
Pháp luật có tính bắt buộc và cưỡng chế, do đó, để ngun tắc pháp chế được
hồn thiện thì việc hồn thiện hệ thống pháp luật là cần thiết. Hiện nay, trong hệ
thống pháp luật vẫn cịn những quy định chưa rõ ràng, mang tính tranh cãi, gây
khó khăn trong việc thực hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm
điều tra. Ví dụ như quy định về việc khám xét người cần phải xét đến yếu tố
cùng giới tính. Tuy nhiên hiện nay đã xuất hiện rất nhiều người có giới tính thứ
ba mà pháp luật lại chưa quy định cụ thể về vấn đề này, gây vướng mắc trong
hoạt động khám xét người. Chính vì vậy, hồn thiện hệ thống pháp luật sẽ góp
phần hồn thiện ngun tắc pháp chế trong hoạt động khám xét, hỏi cung bị can
và thực nghiệm điều tra.
Thứ hai, đối tượng thực hiện ngun tắc này chính là những thành viên
được đào tạo qua nhiều cấp bậc, có nhiều hiểu biết trong cơ quan điều tra. Tuy
nhiên, vì một số vấn đề ích kỷ của cá nhân mà khơng ít điều tra viên, kiểm sát
viên khơng thực hiện nghiêm chỉnh ngun tắc pháp chế trong hoạt động khám
xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra. Chính vì thế, cần đặt ra vấn đề giáo
dục đạo đức, giáo dục nghiệp vụ một cách chặt chẽ để đào tạo ra những nhân lực
tốt nhất phục vụ cho hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều
tra đạt đúng mục đích và có hiệu quả tốt nhất.
Thứ ba, yếu tố đảm bảo về kinh tế là yếu tố khơng thể thiếu để bảo đảm
cho việc thực hiện xây dựng hệ thống pháp luật cũng như trong việc thực hiện
hoạt động khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra diễn ra thuận lợi
nhất. Điều kiện cơ sở vật chất trong hoạt động điều tra cũng rất quan trọng, ví dụ
như mua sắm các vật dụng thực nghiệm điều tra, máy quay, máy in ấn… Ngồi
ra cũng cần một khoản kinh tế để bồi dưỡng nghiệp vụ, nâng cao nhận thức cho
9
điều tra viên, kiểm sát viên nhằm tạo ra nhân lực tốt nhất. Khi đảm bảo được
yếu tố về nhân lực tốt, điều kiện vật chất tốt thì việc thực hiện ngun tắc pháp
chế chắc chẵn sẽ có hiệu quả cao.
KẾT LUẬN
Ngun tắc pháp chế là một ngun tắc khơng thể thiếu trong hoạt động
khám xét, hỏi cung bị can và thực nghiệm điều tra. Việc thực hiện tốt ngun tắc
pháp chế sẽ mang lại hiệu quả tốt góp phần làm sáng tỏ vụ án, minh oan cho
người vơ tội, địi lại cơng bằng cho bị hại và trừng phạt thích đáng người có
tội./.
10
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Luật Tố tụng Hình sự năm 2015;
2. Giáo trình Khoa học điều tra hình sự (2017), Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB. Cơng an nhân dân, Hà Nội;
3.
Lê Minh Tâm chủ biên (2008), Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật
của Đại học luật Hà Nội, NXB Công an nhân dân.
11