Tải bản đầy đủ (.docx) (27 trang)

SKKN LOP 5 DAT GIAI B CAP THI XA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.45 MB, 27 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>A. ĐẶT VẤN ĐỀ Vui chơi là một hoạt động không thể thiếu được của con người ở mọi lứa tuổi, đặc biệt là ở lứa tuổi Tiểu học. Bởi lẽ, nó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của lứa tuổi này. Vui chơi không những giúp cho các em được rèn luyện thể lực, rèn luyện các giác quan mà nó còn tạo cơ hội cho các em được giao lưu với nhau, được hợp tác với bạn bè, đồng đội trong nhóm, tổ.Thông qua đó, các em sẽ dần hoàn thiện những kĩ năng giao tiếp. Giao tiếp là kĩ năng được đặt ra hàng đầu trong mục tiêu của môn Tiếng việt bậc Tiểu học nói chung và của môn Tiếng việt ở lớp 5 nói riêng. Điều đó chứng tỏ: hoạt động vui chơi là hoạt động hỗ trợ cho việc học. Là một giáo viên trực tiếp đứng lớp, tôi nhận thấy nếu kết hợp sử dụng hình thức trò chơi trong học tập môn Tiếng Việt sẽ mang lại hiệu quả cao. Bởi vì : - Nó là một hình thức hoạt động học tập, tạo ra bầu không khí dễ chịu, thoải mái trong lớp học , làm cho học sinh tiếp thu kiến thức tích cực tự giác, trong tâm trạng hồ hởi, vui tươi. - Giúp học sinh rèn luyện, củng cố, tiếp thu kiến thức đồng thời, phát triển vốn kinh nghiệm mà các em đã được tích lũy trong cuộc sống thông qua hoạt động chơi. - Phát triển tư duy nhanh nhạy, óc sáng tạo, xử lí nhanh các tình huống khi tham gia trò chơi. - Phát huy năng lực cá nhân, rèn tính hòa nhập cộng đồng, nâng cao năng lực hợp tác, đồng thời giáo dục ý thức tổ chức kỉ luật, có tính đồng đội khi tham gia trò chơi học tập. Tóm lại, trò chơi không chỉ là phương tiện mà còn là một phương pháp giáo dục, một phương pháp dạy học. Trò chơi học tập cùng lúc đáp ứng cả hai nhu cầu của học sinh- nhu cầu vui chơi và nhu cầu học tập. Trò chơi học tập tạo nên hình thức “chơi mà học, học mà chơi” đang được khuyến khích ở trường Tiểu học. Nhiều trẻ em không thích học vì cho rằng học tập là một công việc vất vả mệt mỏi. Nhưng tâm lí đó rất dễ dàng bị xua tan nếu đến lớp học các em được tham gia, được chứng kiến những trò chơi học tập đầy sức thú vị. Vậy làm thế nào để tổ chức.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> được các trò chơi học tập thật sự hiệu quả trong những giờ Tiếng việt. Đó là điều tôi luôn suy nghĩ, tìm tòi nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài “Làm thế nào để thiết kế và vận dụng trò chơi học tập môn Tiếng việt ở lớp 5 đạt hiệu quả”. B. NỘI DUNG I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ: 1. Cơ sở lý luận: Bài tập Tiếng Việt trong sách giáo khoa lớp 5 bao giờ cũng nhằm hình thành cho học sinh một đơn vị kiến thức hay rèn luyện cho học sinh một kĩ năng sử dụng kiến thức tiếng Việt đã học vào một tình huống cụ thể. Mỗi bài tập thường chỉ đề cập đến một khía cạnh của nội dung bài học từ mức độ thấp đến mức độ cao nhằm rèn luyện các thao tác tư duy cho học sinh. Ví dụ: Tiết Luyện từ và câu bài “Luyện tập thay thế từ ngữ để liên kết câu”Sách Tiếng Việt 5, tập 2, trang 86. * Bài 1: Trong đoạn văn sau, người viết đã dùng những từ ngữ nào để chỉ nhân vật Phù Đổng Thiên Vương ( Thánh Gióng ) ? Việc dùng nhiều từ ngữ thay thế cho nhau như vậy có tác dụng gì ? Bước đầu bài tập chỉ yêu cầu học sinh nhận biết những từ ngữ chỉ nhân vật Phù Đổng Thiên Vương có trong đoạn văn (mức độ biết). Sau đó phải nêu được tác dụng của việc thay thế từ ngữ (mức độ hiểu). Như vậy, thông qua bài tập 1, học sinh được rèn kĩ năng tư duy ở mức độ thấp đó là : Biết- hiểu. * Bài 2: Hãy thay thế những từ ngữ lặp lại trong hai đoạn văn sau bằng đại từ hoặc từ ngữ đồng nghĩa. Sang bài tập 2, học sinh phải xác định được từ ngữ được lặp lại trong hai đoạn văn và dùng từ ngữ khác để thay thế. Như vậy mức độ yêu cầu của bài tập cao hơn, học sinh phải biết cách vận dụng từ ngữ để thay thế (mức độ vận dụng) và thay thế cho phù hợp, làm cho đoạn văn hay hơn (mức độ phân tích). Muốn đạt được điều đó thì ngoài việc biết cách vận dụng học sinh còn phải biết phân tích xem việc.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> dùng từ ngữ nào là phù hợp nhất để đoạn văn trở nên hay hơn. Thông qua bài tập 2, học sinh được rèn kĩ năng tư duy ở mức độ cao hơn đó là: Vận dụng- phân tích. Bài tập 3: Viết một đoạn văn ngắn kể về một tấm gương hiếu học, trong đó có sử dụng phép thay thế từ ngữ để liên kết các câu. Yêu cầu của bài tập là học sinh phải tạo ra được một đoạn văn mới có sử dụng phép thay thế từ ngữ để liên kết các câu (mức độ tổng hợp). Ngoài ra, học sinh còn phải biết cách đánh giá sản phẩm của mình và của bạn xem có đúng yêu cầu đề bài hay không ( mức độ đánh giá). Thông qua bài tập 3, học sinh sẽ được rèn luyện kĩ năng tổng hợp- đánh giá. Đây là kĩ năng tư duy ở mức độ rất cao và khó đối với học sinh Tiểu học. Hầu như hệ thống bài tập Tiếng việt nào ở lớp 5 cũng là một sự luyện tập để giúp học sinh nắm vững một dơn vị kiến thức Tiếng việt hoặc rèn luyện một kĩ năng sử dụng tiếng Việt, rèn luyện các thao tác tư duy. Để kiến thức đến với học sinh một cách nhẹ nhàng, giáo viên cần phải biến kiến thức đó thành những trò chơi hữu ích thông qua chơi mà học. Để làm được điều này, trò chơi học tập phải mang được nội dung của bài tập, phải rèn được kĩ năng sử dụng tiếng Việt, phải rèn luyện các thao tác tư duy từ mức độ thấp đến mức độ cao theo yêu cầu của bài tập. 2. Thực trạng Trong nhiều năm qua, mặc dù đã thực hiện đổi mới phương pháp dạy học môn Tiếng việt nhưng một số giáo viên vẫn còn mang nặng tâm lý đây là môn học chính nên trong quá trình giảng dạy họ rất chú trọng việc truyền thụ kiến thức với mục đích giúp học sinh học tốt môn này. Việc sử dụng trò chơi học tập đối với một số giáo viên còn là hình thức hoặc có sử dụng trò chơi thì cũng ở mức gượng ép, miễn cưỡng thiếu sự đầu tư. Mặc khác, một số giáo viên khi sử dụng trò chơi học tập còn chưa chọn lọc kỹ, không có tác dụng phục vụ mục tiêu của bài học một cách thiết thực nên việc tổ chức trò chơi chưa đạt hiệu quả. Thực tế cho thấy, vẫn còn một số đối tượng học sinh thụ động, tự ti, chưa mạnh dạn tham gia vào các hoạt động học tập..

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Trước thực trạng đó, tôi thiết nghĩ, mình cần phải thay đổi một cách thức dạy học mới sao cho học sinh hứng thú, say mê và tích cực chủ động hơn khi học Tiếng Việt. Nếu được như thế, những kĩ năng giao tiếp ở các em sẽ ngày càng hoàn thiện và phát triển. Chính vì vậy, việc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng việt là hết sức cần thiết trong việc thực hiện đổi mới phương pháp dạy học. II. MỘT SỐ NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN: Học sinh tiểu học luôn thích thú những điều mới lạ. Vì vậy, để mỗi giờ học Tiếng Việt hấp dẫn, thu hút học sinh, đòi hỏi người giáo viên phải luôn luôn sáng tạo trong việc vận dụng những trò chơi học tập cũ, đồng thời tìm tòi, nghiên cứu để thiết kế những trò chơi học tập mới. 1. Vận dụng trò chơi học tập vào giảng dạy Tiếng việt: Qua nhiều năm giảng dạy ở tiểu học đặc biệt là lớp 5, tôi đã sử dụng rất nhiều trò chơi học tập trong dạy Tiếng việt như : trò chơi ô chữ, bingô, đôminô,…Ngoài ra, trong năm học này, được bồi dưỡng các kĩ thuật dạy học mới, đã cung cấp cho tôi thêm nhiều ý tưởng để thiết kế các trò chơi học tập và vận dụng vào giảng dạy nhằm phát triển các kĩ năng sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp của học sinh. Trò chơi có tác dụng tích cực trong việc tổ chức giờ học nhẹ nhàng, sinh động, mang lại hiệu quả cao. Vì vậy, khi vận dụng cần lưu ý một số điểm sau :. a. Các yêu cầu khi vận dụng: - Khi sử dụng trò chơi trong dạy học Tiếng việt ở Tiểu học, giáo viên cần lựa chọn trò chơi đảm bảo các tiêu chuẩn: dễ chơi (có luật chơi rõ ràng, dễ hiểu), phục vụ cho mục tiêu của bài học, có tính giáo dục cao, phù hợp với không gian lớp học, phù hợp với vật chất hiện có. Nói cách khác, để tăng tính khả thi và hiệu quả, tổ chức trò chơi môn Tiếng việt phải mang ý nghĩa giáo dục trí tuệ, phù hợp với tâm lí lứa tuổi học sinh, phù hợp với điều kiện thời gian, điều kiện vật chất của trường lớp và hấp dẫn học sinh. - Giáo viên cần phải nghiên cứu kĩ mục tiêu của bài tập vì nó quyết định việc chọn trò chơi cho phù hợp. Ví dụ : Tiết luyện từ và câu: “Từ đồng nghĩa” , Sách Tiếng Việt 5, tập I, trang 8. Bài tập 2 : Tìm những từ đồng nghĩa với mỗi từ sau đây : đẹp, to lớn, học tập..

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Bài tập không yêu cầu học sinh nhận diện các từ đồng nghĩa cho sẵn ( mức độ hiểu - biết ) mà mức độ yêu cầu của bài tập cao hơn, học sinh phải tự nghĩ ra những đồng nghĩa phù hợp với từ đã cho ( mức độ vận dụng - phân tích ). Vì vậy, đối với bài tập này chỉ phù hợp với những trò chơi như : ong đi tìm tổ hoặc tổ chức chơi dưới hình thức thi đua giữa 3 dãy để tìm từ chứ không phù hợp với trò chơi “Tìm bạn”. Nếu vận dụng trò chơi “Tìm bạn” đối với bài tập này là vô tình đã làm giảm mục tiêu của bài tập sai yêu cầu. Vì trò chơi “Tìm bạn” chỉ tổ chức được khi từ ta cho sẵn, học sinh chỉ việc di chuyển và tìm bạn mang từ phù hợp chứ học sinh không tự nghĩ ra từ. - Giáo viên cần phải nắm được khả năng của từng học sinh để việc phân nhóm chơi hợp lí. Nói chung, cần chọn hình thức nào lôi cuốn được đông đảo học sinh tham gia nhất. - Khi vận dụng các trò chơi trong học tập Tiếng Việt, người giáo viên nên hoạch định trước việc sử dụng những phương tiện nào để nâng cao hiệu quả của trò chơi. Có thể gồm : + Phương tiện theo nội dung trò chơi quy định (Ví dụ như các trang phục cho các nhân vật sắm vai. Loại phương tiện này thường được sử dụng trong phân môn Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn...giúp học sinh tái hiện lại nội dung câu chuyện hay nội dung bài đọc ) + Phương tiện phục vụ cho việc đánh giá (Ví dụ như : Bảng đúng / sai, mặt khóc/ mặt cười …) + Phương tiện vật chất là phần thưởng cho đội thắng cuộc như các phiếu khen tặng, một bông hoa điểm thưởng…Học sinh sẽ rất thích thú khi chơi thắng cuộc sẽ được thưởng. Nó là động lực để các em tham gia trò chơi nhiệt tình, năng động hơn. - Mục tiêu của trò chơi học tập là cung cấp kiến thức và rèn kĩ năng, do đó: + Sau mỗi trò chơi, giáo viên cần gợi ý để học sinh rút ra các nội dung, kĩ năng mà các em đã học được qua trò chơi. + Việc đánh giá tổng kết trò chơi có thể giao cho học sinh tự nhận xét, đánh giá và tổng kết dưới sự dẫn dắt, gợi ý của giáo viên để phát huy tối đa khả năng của.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> các em, giúp học sinh rèn luyện óc suy luận, kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp, từ đó các em sẽ trở nên tự tin, mạnh dạn hơn. - Ngoài ra, khi tổ chức các trò chơi học tập cho học sinh, giáo viên cũng cần lưu ý đến điều kiện cơ sở vật chất của trường lớp, thời gian khi chơi và sức khỏe của học sinh. b. Cách vận dụng : Có rất nhiều cách phân loại trò chơi học tập :  Theo mục đích sử dụng : - Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức. - Trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức. - Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy.  Theo yêu cầu rèn kĩ năng : - Nghe - Nói - Đọc - Viết  Theo phân môn : - Luyện từ và câu - Tập làm văn - Chính tả - Kể chuyện - Tập đọc Để việc vận dụng có hiệu quả, trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi xin trình bày các trò chơi được phân loại theo mục đích sử dụng và theo phân môn: b1. Các trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức: Trò chơi hái quả, trò chơi tìm bạn, trò chơi tập trung…… + Ví dụ: Sử dụng trò chơi “ Tập trung” khi dạy bài “ Từ đồng nghĩa”, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 7. Trò chơi được vận dụng khi tìm hiểu bài. * Mục tiêu: - Giúp học sinh bước đầu hiểu được thế nào là từ đồng nghĩa..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Khơi gợi sự tập trung chú ý để tìm tòi kiến thức mới. * Chuẩn bị: Đây là khâu khá quan trọng, khâu này quyết định đến 90% việc tổ chức trò chơi có thành công hay không. Chính vì thế giáo viên phải thực hiện một số việc sau đây: - Chuẩn bị các đồ dùng phục vụ để tổ chức trò chơi. Đối với trò chơi này, giáo viên cần phải chuẩn bị: 1 bộ thẻ ghi các cặp từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau ( có thể lấy từ ngữ liệu cần phân tích trong phần nhận xét của bài học ở sách giáo khoa. ). - Chuẩn bị hệ thống câu hỏi dẫn dắt sau khi kết thúc trò chơi để học sinh rút ra được thế nào là từ đồng nghĩa ,đồng nghĩa hoàn toàn và đồng nghĩa không hoàn toàn. - Xác định rõ các bước tiến hành trò chơi. * Tiến hành : - Hai bộ thẻ từ được đính lên bảng lớp ( đặt úp thẻ xuống theo 2 dãy). - Giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi . Mỗi đội cử 2 bạn đại diện lật thẻ và oẳn tù tì để giành quyền lật trước. - Đại diện mỗi đội 2 bạn lần lượt lật hai thẻ từ ở mỗi dãy lên và trình bày với lớp đây có phải là một cặp thẻ phù hợp hay không. Nếu hai thẻ từ tạo thành một cặp thẻ từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau thì người chơi được giữ cặp thẻ. Nếu hai thẻ không phù hợp, người chơi đặt úp hai thẻ này vào lại chỗ cũ. - Trò chơi kết thúc khi tất cả các cặp thẻ đồng nghĩa được xác định. Đội thắng cuộc sẽ là đội có nhiều cặp thẻ đồng nghĩa nhất. * Lưu ý : - Giáo viên cần phải cân nhắc thật kĩ số lượng thẻ từ để thời gian chơi không quá dài, làm mất sự tập trung chú ý của học sinh. Thời gian tiến hành tốt nhất là khoảng 5 phút. Sau đó giáo viên sử dụng hệ thống câu hỏi dẫn dắt học sinh hình thành kiến thức trong vòng 5 phút tiếp theo là hợp lí. Thời gian còn lại nên dành cho việc luyện tập hình thành kĩ năng. - Giáo viên phổ biến cách chơi càng rõ ràng bao nhiêu thì việc tiến hành chơi càng đỡ mất thời gian bấy nhiêu..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> - Cần chú ý đến màu sắc của thẻ từ và độ lớn của chữ ghi trên thẻ từ sao cho phù hợp, gây được sự chú ý của học sinh, học sinh ngồi cuối lớp vẫn có thể nhìn thấy được. - Trò chơi này cũng có thể vận dụng khi dạy bài ‘’ Từ trái nghĩa’’. Cách tổ chức như trên nhưng chỉ cần thay đổi ngữ liệu ghi trên thẻ từ. b2. Các trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức: Trò chơi tìm bạn, trò chơi câu cá, trò chơi thả thơ, trò chơi sắm vai, trò chơi ô, trò chơi tập trung … + Ví dụ: Vận dụng trò chơi “Ô” vào phân môn Tập làm văn bài : “Luyện tập tả người”, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 132 . * Mục tiêu: - Giúp học sinh phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, giúp cho các tiết tập làm văn miệng trở nên lí thú hơn với học sinh. - Tập cho học sinh làm quen với cách làm việc theo nhóm, nói trong nhóm. * Chuẩn bị : - Giáo viên phải phân loại học sinh để việc phân nhóm có sự chủ định. Đối với trò chơi này , tốt nhất là một nhóm chơi chỉ nên có từ 4- 6 em và phải đủ trình độ. - Chuẩn bị bảng trò chơi Ô hình rắn kích thước A0, các bộ thẻ hình, xúc xắc, các vòng nhựa tròn hoặc ngựa đủ cho số nhóm đã phân.. Tiết học Môn Tập Làm văn: “Luy ện tập tả người ” - Lớp 5/2 -Trường Tiểu học Ninh Thượng.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> * Tiến hành : - Các nhóm học sinh nhận một bảng trò chơi Ô, bộ ảnh chụp, các vòng nhựa màu khác nhau đủ cho các em trong nhóm và một xúc xắc. - Các nhóm đặt úp bộ ảnh chụp vào vị trí nơi đặt bộ thẻ hình trên bảng trò chơi Ô. - Tất cả các em trong nhóm cùng đặt các chấm nhựa tròn của mình vào vị trí bắt đầu. Trong nhóm, lần lượt từng em đổ xúc xắc. - Tùy theo số trên mặt xúc xắc mà em này sẽ di chuyển vòng nhựa của mình theo số các vòng tròn nhỏ trên bảng trò chơi Ô sau cho phù hợp. Nếu vòng nhựa của em vào vòng tròn màu đỏ lớn, em sẽ lấy một ảnh theo thứ tự từ trên xuống của bộ ảnh. - Em này xem ảnh và đặt 2-3 câu về người hoặc cảnh trong ảnh. Cả nhóm cùng xem ảnh và nhận xét câu miêu tả của bạn. - Sau khi thực hiện xong, em đặt ảnh chụp vào vị trí dưới cùng của bộ thẻ. Nếu vòng nhựa của em vào các vòng tròn nhỏ thì em hết lượt đi. - Trò chơi sẽ kết thúckhi tất cả các em trong nhóm cùng về đến đích hay tất cả các ảnh đã được học sinh xem và miêu tả hết. * Lưu ý : - Trò chơi này có thể vận dụng ở nhiều phân môn khác nhau như : Kể chuyện, chính tả , luyện từ và câu, tập đọc ( đọc hiểu ), tập làm văn, chỉ cần thay đổi bộ thẻ hình hoặc câu hỏi ở nơi đặt thẻ. - Mục tiêu của trò chơi sẽ thay đổi khi ta vận dụng trò chơi này ở những phân môn khác nhau. Ngoài ra chúng tôi sử dụng trò chơi “Xe lửa” để dạy dạng bài này. Ví dụ bài: Viết một đoạn văn ngắn nói về một loại cây mà em thích. * Mục tiêu: Giúp HS phát triển vốn từ ngữ miêu tả cây cối, đặc biệt là từ tả đặc điểm. Giúp cho tiết Tập làm văn trở nên lý thú hơn đối với học sinh. * Chuẩn bị: - Hình tàu lửa gồm đầu tàu và 6 toa đã được cắt rời..

<span class='text_page_counter'>(10)</span> - Bút lông viết bảng * Tiến hành: - Bước 1: Các nhóm nhận đồ dùng - Bước 2: Các nhóm thảo luận chọn một loại cây mà mình thích. Từng thành viên trong tổ sẽ nêu lên hình dáng của cây ấy có gì nổi bật ( thân, cành, lá, hoa, quả…); ích lợi của cây đối với con người. Thư ký sẽ ghi tên loại cây của nhóm mình vào đầu tàu, còn từng toa tàu sẽ ghi ý các bạn nêu về tả hình dáng, ích lợi của cây và cảm nghĩ của mình đối với cây như thế nào.Sau đó các nhóm sẽ sắp xếp các ý vừa ghi thành 1 đoạn văn tương đối hoàn chỉnh. Lúc ấy sẽ tạo thành một đoàn tàu lửa..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> - Bước 3: Đại diện các nhóm trình bày bài của nhóm mình, giáo viên hướng dẫn học sinh nhận xét về cách dùng từ, cách diễn dạt, cách dùng dấu câu và bố cục của đoạn văn có đủ ba phần không. Nhóm nào ghép được đoàn tàu nhanh và sắp xếp ý thành đoạn văn hay thì nhóm đó thắng cuộc. b3. Các trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy: Trò chơi truyền điện, trò chơi tập trung, trò chơi tìm bạn, trò chơi thi viết câu ghép, trò chơi những hình ảnh biết nói… + Ví dụ: Vận dụng trò chơi: “truyền điện.” Thời điểm chơi cuối tiết Tập đọc – học thuộc lòng hoặc tiết ôn tập học thuộc lòng. * Mục tiêu : - Rèn kĩ năng đọc trôi chảy, diễn cảm bài thơ. - Rèn khả năng tập trung suy nghĩ cao độ. - Rèn phản xạ nhanh, nhạy. - Tạo hứng thú và không khí sôi nổi trong học tập. * Chuẩn bị : - Học sinh hai nhóm A & B ngồi quay vào nhau (hoặc đứng thành hai hàng đối diện) * Tiến hành : - Giáo viên nêu tên bài thơ sẽ đọc truyền điện, nêu cách chơi: hai nhóm bắt thăm (hoặc oẳn tù tì) để giành quyền đọc trước. - Đại diện nhóm đọc trước (nhóm A) đọc câu đầu tiên của bài thơ rồi chỉ định thật nhanh (truyền điện), một bạn bất kì của nhóm kia (nhóm B), bạn được chỉ định đọc tiếp câu thơ thứ 2 của bài. - Nếu đọc thuộc được chỉ định một bạn của nhóm A đọc tiếp câu thơ thứ 3, cứ như vậy cho đến hết bài. * Lưu ý : - Trường hợp học sinh được “truyền điện” chưa thuộc, các bạn nhóm đối diện sẽ hô từ 1 đến 5. Nếu không đọc được phải đứng yên tại chỗ (bị điện giật). Lúc đó.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> học sinh A1 chỉ tiếp học sinh B2… Nhóm nào có nhiều người phải đứng (bị điện giật) là nhóm thua cuộc. - Ta có thể vận dụng trò chơi này để kiểm tra kiến thức ở nhiều phân môn khác nhau như: Tập đọc, chính tả, luyện từ và câu. Vận dụng như thế nào là tùy vào từng bài, tùy vào mục đích và nội dung cần kiểm tra, củng cố. - Mỗi một trò chơi đều có thể vận dụng với mục đích sử dụng khác nhau. Chẳng hạn như trò chơi “Tập trung’’ được vận dụng để dẫn dắt học sinh hình thành kiến thức mới như đã giới thiệu ở phần trên nhưng đồng thời cũng có thể vận dụng để rèn kĩ năng thực hành, củng cố kiến thức hoặc ôn tập tổng hợp kiến thức. Điều ấy còn phụ thuộc vào mục tiêu của từng bài tập. Tóm lại, viêc vận dụng trò chơi học tập trong môn Tiếng Việt là rất cần thiết. Thông qua trò chơi, các kĩ năng đọc, viết, nghe, nói được rèn luyện, đồng thời kích thích khả năng ứng xử ngôn ngữ của học sinh, rèn luyện tư duy linh hoạt và tác phong nhanh nhẹn , tháo vát , tự tin cho học sinh. Tuy nhiên, việc vận dụng trò chơi học tập phải luôn đi kèm với việc sáng tạo thiết kế ra trò chơi mới bởi học sinh Tiểu học luôn ham thích những cái mới lạ. 2. Thiêt kế trò chơi học tập : - Ngoài vận dụng, giáo viên phải biết thiết kế hoặc chuyển đổi một số trò chơi để giảng dạy. Khi thiết kế thì cần : * Xác định rõ mục tiêu của bài tập để chọn trò chơi phù hợp. - Việc xác định yêu cầu của bài tập rất quan trọng, mục tiêu của bài tập là cơ sở để lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp. Một bài tập có thể tạo nên những trò chơi khác nhau. Ví dụ : Bài tập 2 tiết Chính tả SGK/ 46 . Tìm các tiếng có chứa uô, ua trong bài văn “ Anh hùng Núp tại Cu-ba”. Mục tiêu của bài tập là giúp học sinh nhận diện được các tiếng có chứa vần uô, ua. Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung : Xếp các tiếng trong tập hợp sau thành 2 nhóm, một nhóm gồm các tiếng có vần uô và một nhóm gồm các tiếng có vần ua. Nếu yêu cầu của bài tập chỉ là tìm từ có tiếng chứa vần uô hoặc ua thì mục.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> tiêu của bài tập sẽ là mở rộng vốn từ. Khi đó ta có thể tổ chức trò chơi có nội dung : tìm từ chứa tiếng uô và ua dưới hình thức thi đua giữa hai dãy. * Tiến hành thiết kế trò chơi Giáo viên tiến hành thiết kế trò chơi có hình thức chơi rõ ràng (người chơi, cách chơi…), nội dung thực hiện trò chơi phải đảm bảo nội dung bài tập của Sách giáo khoa hoặc bổ sung thêm nội dung tùy vào việc xác định mục tiêu bài tập cần rèn của giáo viên. Đồng thời thông qua đó rèn những kĩ năng cần thiết cho học sinh. Một nội dung trò chơi có thể được tổ chức bằng nhiều hình thức khác nhau. Ví dụ : Nội dung trò chơi xếp các từ trong tập hợp sau thành hai nhóm : một nhóm gồm các từ chỉ người, cơ quan, tổ chức thực hiện công việc bảo vệ trật tự- an ninh, một nhóm gồm các từ chỉ hoạt động bảo vệ trật tự, an ninh hoặc yêu cầu của việc bảo vệ trật tự, an ninh. Ta có thể có các hình thức tổ chức chơi như sau :  Trò chơi chung sức. Giáo viên phát cho mỗi nhóm một tờ giấy. Theo lệnh của giáo viên, từng nhóm bàn bạc với nhau để thực hiện yêu cầu của trò chơi. Khi nhóm đã thống nhất thì ghi kết quả vào giấy. Ghi xong, dán tờ giấy của nhóm lên bảng lớp. Giáo viên sẽ tính điểm các nhóm theo hai chuẩn : Chuẩn chính xác và chuẩn nhanh nhẹn.  Trò chơi thi tài. Đơn vị chơi bây giờ là cá nhân. Từng em nhận yêu cầu của trò chơi và ráng sức tự mình giải quyết yêu cầu của trò chơi. Giáo viên sẽ tìm điểm thi đua cho cá nhân.  Hai người ba chân. Đây là biến tướng của trò chơi tiếp sức. Cứ 2 em trong nhóm phải dùng dây buộc chân trái của mình với chân phải của một bạn khác. Hai bạn sẽ chỉ hoạt động được ba chân. Từng cặp hai em phải đi bằng ba chân lên bảng để thực hiện thao tác xếp từ theo nhóm. * Tiến hành làm các đồ dùng phục vụ trò chơi : Để tổ chức được các trò chơi thì cần phải có những đồ dùng phục vụ nên khi thiết kế các trò chơi, người giáo viên cần phải làm thêm các đồ dùng dạy học.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> phục vụ cho trò chơi đó. Đồ dùng dạy học cần phải đảm bảo được tính thẩm mỹ và khoa học. Sau đây là một số trò chơi mà tôi đã thực hiện : 2.1. Trò chơi theo mục đích sử dụng: a. Trò chơi dẫn dắt học sinh tiếp cận tri thức :  Trò chơi “Thi viết vế đối’’ Trò chơi được vận dụng vào phân môn Luyện từ và câu, bài : “Dùng từ đồng âm để chơi chữ”,Tiếng Việt 5, tập 1, trang 61. * Mục tiêu : Giúp học sinh : - Nhận biết cách sử dụng từ đồng âm để chơi chữ. - Khơi gợi sự tập trung chú ý của học sinh khi học kiến thức mới. * Chuẩn bị :. - Các mảnh vải hoặc giấy ghi một vế câu đối như sau : Bán Chè Bán Xôi Không Bán nước. Đầu Bàn Đầu Ghế Chẳng Đầu Hàng. - Hệ thống câu hỏi khai thác 2 từ đồng âm ‘’ bán nước’’; “ đầu hàng’’ để học sinh nhận biết cách sử dụng từ đồng âm để chơi chữ. * Tiến hành: - Giáo viên treo một vế câu đối “ bán chè bán xôi không bán nước’’ lên bảng và nêu yêu cầu. - Chia nhóm học sinh thảo luận viết vế đối phù hợp. - Nhóm nào viết xong câu đối nhanh và đúng theo yêu cầu là nhóm thắng cuộc. * Lưu ý : - Từng từ trong vế đối phải đảm bảo đúng từ loại với từ trong vế ra. Ví dụ : “ bán’’ là động từ thì từ đối với nó cũng phải là một động từ; “ chè’’ là danh từ thì từ đối cũng phải là danh từ..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> - Từng từ trong vế đối phải có nghĩa hoặc trái ngược, hoặc bổ sung cho từ trong vế ra. Ví dụ : “ bán’’ thì đối với nó phải là “ mua’’…. - Học sinh có thể tạo vế đối khác, miễn là đảm bảo đối được ý mà dùng được từ đồng âm. Giáo viên dùng ngữ liệu đó để khai thác bài. - Giáo viên cần quy định thời gian chơi để đảm bảo thời gian thực hành các bài tập trong SGK. - Số mảnh vải hoặc giấy tùy thuộc vào số nhóm mà giáo viên chia. b. Các trò chơi rèn kĩ năng thực hành và củng cố kiến thức :  Trò chơi ‘’Chọn ô số ‘’ Trò chơi được vận dụng vào phân môn Tập làm văn, bài : “Luyện tập tả người”, Tiếng Việt 5, tập 1, trang 132. * Mục tiêu : Giúp học sinh : - Phát triển vốn từ ngữ miêu tả người, đặc biệt là các từ miêu tả về ngoại hình. - Phát triển kĩ năng trình bày. * Chuẩn bị : - Một bộ ảnh chụp nhiều người ở các độ tuổi, giới tính, nơi chốn khác nhau có đánh số từ 1 đến n ( n là số ảnh chuẩn bị được ). - Bảng phụ có kẻ sẵn ô số như sau :. BỘ ẢNH EM BÉ GÁI. 1. 2. 3. 4. 5. 6. 7. 8. 9. BẠN CÙNG TUỔI. CÔ GIÁO.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> BÀ CỤ. EM BÉ TRAI. CÔ CA SĨ. *Tiến hành: - Giáo viên gọi một học sinh lên bảng tham gia trò chơi ( khuyến khích học sinh xung phong ). - Học sinh được gọi lên chọn một số bất kì trên bảng phụ. Sau đó giáo viên (hoặc cử một học sinh khác ) dán bức ảnh có số tương ứng lên bảng, người chơi có nhiệm vụ miêu tả về người trong ảnh ( từ 2-3 câu ). - Giáo viên gọi tiếp một số học sinh khác tham gia trò chơi ( số lượng phụ thuộc vào thời gian dành cho trò chơi. ) - Khi trò chơi kết thúc, giáo viên và cả lớp bình chọn người chơi miêu tả hay nhất. Học sinh nào có số phiếu bình chọn nhiều nhất sẽ là người thắng cuộc. * Lưu ý : - Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn luyện từ và câu bài : “Nối các vế câu ghép bằng quan hệ từ”. Giáo viên chỉ cần thay thế các ảnh chụp bằng những phiếu yêu cầu như : Em hãy đặt câu có sử dụng cặp từ quan hệ nguyên nhân-kết quả; Điều kiện – kết quả ; Tương phản… - Giáo viên có thể thay đổi hình thức chơi bằng cách chia số học sinh trong lớp thành 3 dãy thi đua với nhau.  Trò chơi ‘’Đếm số cánh hoa ‘’ Trò chơi được vận dụng để củng cố lại kiến thức của bài chính tả ở sách Tiếng Việt 5, tập 1 , trang 87..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Bài tập 3 : Thi tìm nhanh :  Các từ láy âm đầu l.  Các từ láy vần có âm cuối ng . * Mục tiêu : Giúp học sinh : - Ôn lại cách viết những từ ngữ có tiếng chứa âm đầu l và âm cuối ng. - Nhằm để khắc phục lỗi chính tả n/l , n/ng. * Chuẩn bị : - Nhiều miếng bìa cắt theo hình cánh hoa ( hình 1a ) - Vẽ trực tiếp lên một tờ giấy to 2 vòng tròn làm hai nhị hoa. Trong mỗi nhị hoa ghi : các từ láy âm đầu l ; các từ láy vần có âm cuối ng.( hình 1b ) Các từ láy âm đầu l. Hình 1a : Cánh hoa. Các từ láy vần có âm cuối ng. Hình 1b : Nhị hoa. * Tiến hành: - Giáo viên chia học sinh thành nhiều nhóm chơi tùy theo số bộ nhị hoa và cánh hoa chuẩn bị được. - Khi trò chơi bắt đầu, các nhóm chơi có nhiệm vụ ghi từ theo yêu cầu vào các cánh hoa ( mỗi cánh hoa chỉ ghi một từ ) rồi dán vào nhị hoa cho phù hợp. - Sau 5-7 phút, giáo viên hô : “ Dừng chơi !”. Nhóm nào dán được nhiều cánh hoa đúng và đẹp sẽ thắng cuộc. * Lưu ý : - Trò chơi này còn có thể vận dụng vào phân môn luyện từ và câu ở các bài : Từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, ôn tập về từ loại …chỉ cần thay đổi yêu cầu ghi trên nhị hoa. - Khi kết thúc trò chơi, để khắc sâu kiến thức của bài, giáo viên có thể yêu cầu học sinh đặt câu với một vài từ tìm được và chuẩn bị sẵn các phiếu khen thưởng để động viên các em..

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Tương tự cách thiết kế trò chơi trên, tôi đã nghiên cứu và vân dụng khi dạy Luyện từ và câu bài: “Mở rộng vốn từ: Bảo vệ môi trường” ( Tuần 12- TV5/ 116) Bài tập 2: Ghép tiếng bảo với mỗi tiếng sau đẻ tạo thành từ phức và hiểu nghĩa của từ đó: đảm, hiểm, quản, tàng, toàn, tồn, trợ, vệ * Mục tiêu : Giúp học sinh : - Biết tìm từ đồng nghĩa với từ đã cho theo yêu cầu . - Nắm được nghĩa một số từ. * Chuẩn bị : - Dùng giấy màu để cắt các cánh và nhị hoa để tạo một nhành hoa ( hình 1a ) - Vẽ trực tiếp lên một tờ giấy to 2 vòng tròn làm hai nhị hoa. Trong mỗi nhị hoa ghi : bảo .( hình 1b ). ( hình 1a ). ( hình 1b ). * Tiến hành: - Giáo viên chia học sinh thành nhiều nhóm chơi tùy theo số cánh hoa đã chuẩn bị - Khi trò chơi bắt đầu, các nhóm chơi có nhiệm vụ ghi từ theo yêu cầu vào các cánh hoa ( mỗi cánh hoa chỉ ghi một từ ) . - Sau 2 phút, giáo viên hô : “ Dừng chơi !”. Nhóm nào được nhiều cánh hoa có chứa từ đúng và đẹp sẽ thắng cuộc. c. Trò chơi nhằm ôn tập tổng hợp và rèn óc tư duy :  Trò chơi “Xem ai nhớ nhất”.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Trò chơi thường được vận dụng vào các bài ôn tập củng cố kiến thức đã học ở phân môn Luyện từ và câu. Cụ thể là bài : “ Ôn tập về dấu câu ( dấu phẩy )”, bài tập 1, Tiếng Việt 5, tập 2, trang 124. * Mục tiêu : Giúp học sinh : - Củng cố , khắc sâu kiến thức về tác dụng của dấu phẩy. - Rèn luyện khả năng tập trung, chú ý. - Rèn luyện các kĩ năng tư duy bậc cao như : phân tích- tổng hợp. * Chuẩn bị : - Bộ bìa gồm 3 thẻ ghi các chữ A, B, C ( mỗi thẻ 1 màu ) tương ứng với các tác dụng của dấu phẩy :  A : Ngăn cách các bộ phận cùng chức vụ trong câu.  B : Ngăn cách trạng ngữ với chủ ngữ và vị ngữ.  C : Ngăn cách các vế câu trong câu ghép. - Một số thẻ từ ghi các câu học sinh cần phân tích :  Khi phương đông vừa vẩn bụi hồng, con họa mi ấy lại hót vang lừng.  Thế kỉ XX là thế kỉ giải phóng phụ nữ, còn thế kỉ XXI phải là thế kỉ hoàn thành sự nghiệp đó.  Hoa hồng vừa đẹp, vừa thơm… * Tiến hành: - Giáo viên chia học sinh thành các đội chơi theo dãy bàn. Phát cho mỗi học sinh một bộ thẻ chữ. - Khi giáo viên đọc và dán một thẻ ghi câu cần phân tích tác dụng của dấu phẩy lên bảng thì học sinh phải chọn một thẻ chữ tương ứng để giơ lên. Ví dụ, giáo viên đưa thẻ ghi câu đầu tiên thì học sinh phải giơ thẻ chữ B mới đúng. - Sau mỗi một câu ( một lượt chơi ), giáo viên hoặc 1 học sinh được cử làm trọng tài sẽ đếm số người trả lời đúng ở mỗi đội. - Khi trò chơi kết thúc, giáo viên sẽ thống kê số học sinh làm đúng ở các lượt chơi. Đội nào có số người trả lời đúng nhiều nhất, đội đó thắng cuộc. * Lưu ý :.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> - Để kiến thức về tác dụng của dấu phẩy được khắc sâu hơn, sau mỗi lượt chơi, giáo viên yêu cầu học sinh phân tích cấu tạo của từng câu ghi trong thẻ. - Trò chơi này còn có thể vận dụng được vào rất nhiều bài ở phân môn Luyện từ và câu, nhằm củng cồ các kiến thức đã học như : củng cố kiến thức về từ đồng âm,từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ trái nghĩa; củng cố kiến thức về cách nối các vế câu ghép; củng cố kiến thức về cách liên kết các câu trong bài…chỉ cần ta thay đổi các thẻ ghi các bài tập tương ứng. 2.2. Trò chơi theo phân môn: Định hướng việc dạy học Tiếng việt ở Tiểu học được thể hiện qua các yếu tố của quá trình dạy học như: hệ thống ngữ liệu, bài tập, hình thức tổ chức học tập (trong đó hình thức tổ chức trò chơi), phương tiện dạy học,..Tổ chức trò chơi Tiếng việt cũng nên bám sát định hướng tích hợp hiện nay. Xây dựng trò chơi học tập Tiếng việt dựa theo tích truyện dân gian là một trong những cách làm tăng tính tích hợp của nội dung bài học. Việc dựa vào những truyện cổ dân gian có trong bài Tập đọc, Kể chuyện,.. hoặc những truyện quá quen thuộc mà học snh đã nghe kể hoặc đã đọc để tạo nên trò chơi thường có tác dụng tích hợp rất tự nhiên, hiệu quả cho việc cung cấp kiến thức rèn luyện kĩ năng kết hợp với vốn hiểu biết thực tế của học sinh. Chính vì thế mà tôi đã nghiên cứu một vài trò chơi học tập Tiếng việt dựa theo tích truyện dân gian ở một số phân môn sau: a. Phân môn Luyện từ và câu: - Trò chơi “ Chim sẻ giúp cô Tấm”: Từ tích truyện Tấm Cám, có thể xây dựng trò chơi “Chim sẻ giúp cô Tấm” dành cho các bài tập nhận diện, phân loại từ đơn, từ láy , từ ghép; phân loại từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại; phân loại các loại từ trong một đoạn văn thành động từ, tính từ, quan hệ từ; phân loại câu đơn, câu ghép... - Mục đích chơi: Củng cố kiến thức, kĩ năng về cấu tạo từ, phân loại theo cấu tạo ( hoặc từ phân loại theo nghĩa của yếu tố mang nghĩa, câu phân loại theo chức năng của vị ngữ, theo cấu tạo,...).

<span class='text_page_counter'>(21)</span> - Chuẩn bị: Các thẻ chữ ghi các từ đơn, từ láy, từ ghép ( hoặc câu Ai là gì? Ai làm gì? Ai thế nào?. Chọn 2 hoặc 3 đội chơi, mỗi đội gồm 4-5 học sinh. Tuỳ theo số lượng đội chơi mà chuẩn bị số bộ thẻ chữ, - Cách tiến hành: Các thẻ chữ để lẫn lộn được xem là gạo, thóc, đỗ mụ dì ghẻ trộn lẫn bắt Tấm phải nhặt. Các thành viên trong đội sẻ đóng vai những chú sẻ được Bụt sai xuống giúp dỡ cô Tấm nhặt thóc ra thóc, gạo ra gạo, đỗ ra đỗ. Nhặt như vậy là đã phân loại các từ theo cấu tạo ( hoặc phâi loại theo chức năng vị ngữ...). Các đội cùng chơi trong khoảng thời gian nhất định. Đội nào phân loại nhanh và đúng nhất thì đội đó thắng cuộc. Ví dụ: Khi dạy bài Luyện từ và câu: “ Ôn tập các kiểu câu” tuần 35 Tiếng việt 5 tập 2 ta có thể sử dụng trò chơi này và có thể vận dụng vào dạy ở những bài khác. - Trò chơi: “ Dâng núi chống lụt”. Từ truyền thuyết Sơn Tinh Thuỷ Tinh có thể xây dựng trò chơi “ Dâng núi chống lụt” cho những bài tập làm giàu vốn từ, nhận diện từ ngữ, câu... - Mục đích chơi: Tạo sự thi đua giữa các đội, xem đội nào nhanh hơn, chính xác hơn trong việc nhận diện, sưu tầm các từ ngữ, câu cần học. - Chuẩn bị: Chọn 2 hoặc 3 đội chơi, mỗi đội gồm 4-5 người, đứng cùng vị trí như nhau. Mỗi đội xem như những chàng Sơn Tinh đang làm nhiệm vụ dâng núi, chiến đấu với Thuỷ tinh. - Cách tiến hành: Khi quản trò nêu nhiệm vụ nhận diện hay sưu tầm từ câu mỗi thành viên trong đội chơi phải nêu một đáp án. Với mỗi kết quả đúng, các “chàng Sơn Tinh” của đội lại được đứng cao thêm một bậc, giống như trong truyện. Kết quả nhóm nào đứng cao hơn là nhóm chiến thắng, xứng danh những “chàng Sơn Tinh” nhân hậu chiến thắng Thuỷ Tinh tàn bạo. b. Phân môn Chính tả: - Trò chơi “Khắc nhập” hoặc “Khắc xuất”: Nội dung học tập sẽ thú vị hơn nếu giáo viên dựa trên tích truyện “Cây tre trăm đốt” để xây dựng trò chơi “Khắc nhập” hoặc “Khắc xuất” cho học sinh. - Mục đích chơi: Củng cố cho học sinh kĩ năng kết hợp và chia tách các đơn vi Tiếng việt..

<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Chuẩn bị: Chọn hai hoặc ba đội chơi, mỗi đội gồm 4 - 5 người. Mỗi thành viên trong đội là một anh Khoai ( anh nông dân nghèo, tốt bụng) - Cách tiến hành: Các phụ âm, vần, thanh; các từ, các câu... được xem là những đốt tre mà Bụt tặng cho anh nông dân tốt bụng. Khi quản trò hô “Khắc nhập”! Các đội chơi phải ghép những yếu tố ngôn ngữ lại sao cho ra tiếng, từ, câu có nghĩa. Đội nào ghép nhanh nhất, đúng nhất các đơn vị Tiếng việt là đội chiến thắng, tạo được nhiều cây tre trăm đốt, giúp anh mồ côi trở thành người hạnh phúc nhất. - Ngược lại khi cần phân tích âm tiết thành các bộ phận, phân cắt ranh giới từ trong câu, tách câu thành các vế, tách đoạn thành câu... chúng ta có thể xây dưng trò chơi “Khắc xuất” tương tự như cách tổ chức nói trên. - Cách tổ chức các trò chơi này tôi đã được vận dụng vào bài tập chính tả: Lương Ngọc Quyến, Tuần 2 - Tiếng việt 5 Tập 1 hoặc bài tập chính tả: “Người mẹ 51 đứa con”, Tuần 17 -Tiếng việt 5 Tập 1. c. Phân môn Tập đọc, Tập làm văn, Kể chuyện: - Trò chơi “Tập làm Quan lớn”. - Các bài Tập đọc lớp 5: Thái sư Trần Thủ Độ (Tuần 20-Tiếng việt 5, Tập 2) hoặc bài Trí dũng song toàn (Tuần 20-Tiếng việt 5, Tập 2),... nếu chúng ta không thiết kế trò chơi học tập thì hiệu quả giờ dạy của giáo viên không cao. Qua thực tế tôi đã thiết kế trò chơi như sau: Sau khi tìm hiểu bài, từ nội dung của bài Tập đọc học sinh đã nắm được từng hành động, lời nói của từng nhân vật. Tôi đã cho học sinh đóng vai diễn lại đoạn đối thoại trong bài. - Mục đích chơi: Rèn kĩ năng đọc diễn cảm, biết phân biệt được lời các nhân vật. - Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị (hoặc học sinh): các mũ quan, nón quân, bộ râu, áo lọng, bàn án thư... chọn 3 hoặc 4 đội chơi mỗi đội gồm 4 – 5 người..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Phần chuẩn bị trang phục của Lớp 5/2 -Trường Tiểu học Ninh Thượng - Cách tiến hành: Cho các học sinh trong nhóm chọn vai tự mặc trang phục cho mình phù hợp với nhân vật, các thành viên trong nhóm sẽ thi nhau diễn theo nhân vật mình đã sắm vai. Các đội chơi trong khoảng thời gian nhất định, đội nào diễn tốt, lựa chọn trang phục phù hợp, đội đó được chiến thắng. - Khi dạy Tập làm văn bài “Tập viết đoạn đối thoại” Tuần 25, 26 - Tiếng việt 5, Tập 2. Bài tập 2: Dựa vào đoạn trích “Xin Thái sư tha cho”( Tuần 25) “ Giữ nghiêm phép nước” ( Tuần 26), em hãy viết và đọc phân vai màn kịch trên. - Mục đích chơi: Học sinh biết viết và diễn tốt các lời đối thoại nhân vật trong màn kịch. - Cách chơi: Tôi cũng tiến hành như trên.. Tiết học Môn Tập Làm văn: “Tập viết đoạn đối thoại” - Lớp 5/2 -Trường Tiểu học Ninh Thượng. Ở phân môn Tập làm văn, nhất là các tiết “Tập viết đoạn đối thoại” kể cả giáo viên và học sinh đều rất lo ngại nhưng giáo viên chịu khó thiết kế trò chơi một chút sẽ đem lại hiệu quả cao hơn: học sinh biết viết và diễn màn kịch tốt hơn. - Khi dạy phân môn Kể chuyện, thường là phân môn rèn kĩ năng kể theo lời của nhân vật trong câu truyện, trau dồi cách diễn đạt giàu trí tưởng tượng qua thay.

<span class='text_page_counter'>(24)</span> đổi ngôi kể. Luyện trí nhớ và khả năng dùng từ ngữ chính xác, diễn đạt sáng ý va làm nổi bật ý nghĩa câu chuyện, nên chúng ta có thể vận dụng tương tự trò chơi này vào thi “Kể chuyện theo lời nhân vật”. Chúng ta vẫn dùng những “cái mũ” phù hợp với nhân vật có thể kết hợp với trang phục và đạo cụ đơn giản để hoá trang cho giống với đặc điểm của nhân vật trong câu truyện như: Bộ quần áo nâu, mái tóc bạc, bộ râu... để hoá trang. - Chỉ cần một chút sáng tạo, một chút thiết kế trò chơi ngay trong không gian lớp học sẽ làm các em đỡ căng thẳng hơn rất nhiều, tạo cho các em hứng thú và niềm vui trong học tập. Cứ mỗi khi các em được đội cái “mũ Quan”, đeo “râu Quan”, “mặc chiếc áo lọng”... các em đều có sự chăm chú theo dõi. Những đôi mắt ánh lên niềm vui thích thú, rồi bất chợt “ào ạt xung phong” muốn tham gia học tập. Em được chỉ định thì “hồ hởi”, em không được thì “xuýt xoa”, rồi những tràn vỗ tay rộ lên cỗ vũ, tạo một không khí học tập thân thiện. Chính vì thế mà chất lượng giờ dạy ở phân môn Tiếng việt được nâng cao, các đối tượng học sinh nhất là học sinh yếu đều hứng thú học tập. 3. Kết quả của việc vận dụng sáng kiên: - Trong thời gian tiến hành vận dụng các trò chơi học tập vào thực tế giảng dạy môn Tiếng việt ở Tiểu học, tôi nhận thấy, không khí trong những giờ học trở nên sôi nổi hơn, học sinh rất tích cực, các em chuyển từ thụ động sang chủ động chiếm lĩnh kiến thức, thích thú với những hình thức học tập mới lạ. Ngoài ra, những kĩ năng sử dụng Tiếng việt trong giao tiếp của các em phát triển vượt bậc. Những học sinh giỏi thì ngày càng tự tin, năng động, có trách nhiệm cao trong việc học tập còn những học sinh thụ động thì trở nên tích cực hơn, bắt đầu biết chia sẻ, hợp tác với các bạn để hoàn thành nhiệm vụ học tập. - Về phía bản thân tôi, tôi cảm thấy nhẹ nhàng hơn, không còn mệt mỏi khi truyền thụ kiến thức cho học sinh. Vì kiến thức được các em tiếp thu một cách chủ động tích cực thông qua trò chơi. Kĩ năng vận dụng trò chơi của tôi linh hoạt hơn, thành thạo hơn. Tôi có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc lựa chọn trò chơi sao cho phù hợp nhất , đảm bảo rèn đúng kĩ năng cho học sinh theo mục tiêu bài tập. Từ đó khả năng sáng tạo được nâng lên một bước, giúp cho cho tôi thiết kế được nhiều.

<span class='text_page_counter'>(25)</span> trò chơi học tập một cách nhanh nhạy hơn và vận dụng được nhiều phân môn khác nhau. - Trong thời gian đầu vận dụng trò chơi học tập vào môn Tiếng việt, tôi đã tiếp nhận được rất nhiều ý kiến thắc mắc, lo âu từ phía phụ huynh học sinh vì thấy trong tập vở của con em mình không ghi chép nhiều, không có bài tập về nhà. Tôi đã giải thích cụ thể từng trường hợp. Qua một thời gian, phụ huynh thấy được các em trở nên nhanh nhẹn hơn, thích thú hơn khi đến trường và đặc biệt là các em thích học môn Tiếng việt hơn. Việc sử dụng trò chơi học tập trong tiết học chính là tạo ra một môi trường học tập mà học sinh có thể tích cực chủ động hơn. Các em mạnh dạn tham gia các hoạt động. Từ đó, kĩ năng giao tiếp được phát triển. Sự say mê học tập của các em là nguồn động viên thúc đẩy tôi phải luôn vận dụng các trò chơi học tập vào tiết học, đồng thời luôn tìm tòi, nghiên cứu, thiết kế các trò chơi mới để lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Là một giáo viên mỗi chúng ta đều phải luôn luôn xác định là dạy cho ai? dạy như thế nào? Niềm hạnh phúc của tôi trong năm học này là đã làm cho học sinh không còn lo sợ môn Tiếng việt nữa. Mỗi khi đến môn Tiếng việt, em nào cũng phấn khởi, hứng thú học tập, không còn nặng nề, giờ học diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên, thoải mái. Chính vì vậy tôi đã “gặt hái” được chất lượng môn Tiếng việt của lớp như sau ( lớp 1 buổi) : Giai đoạn KSĐN GHK I CHK I. Giỏi 5. Khá 14. Trung bình 8. Yếu 2. TB 27. 17,2 % 13. 48,3 % 14. 27,6 % 2. 6,9 % 0. 93,1% 29. 44,8 % 17. 48,3 % 12. 8,9 % 0. 0 0. 100 % 29. 58,6 %. 41,4 %. 0. 0. 100 %.

<span class='text_page_counter'>(26)</span> * Khi vận dụng các trò chơi học tập cần lưu ý một số điều sau đây : - Trò chơi học tập phải có luật chơi rõ ràng, đơn giản, dễ nhớ, dễ thực hiện, không đòi hỏi thời gian dài cho việc huấn luyện. - Trò chơi cần diễn ra trong một thời gian hợp lí, phù hợp với tất cả các đối tượng học sinh. - Sử dụng đúng lúc, đúng chỗ các trò chơi học tập sẽ có tác dụng rất tích cực, kích thích hứng thú học tập giúp tiết học đạt hiệu quả cao. - Không lam dụng trò chơi học tập, biến cả tiết học thành tiết chơi hoặc tổ chức quá nhiều trò chơi trong tiết học dễ gây cho học sinh sự mệt mỏi. - Tránh lặp đi lặp lại trò chơi học tập trong tiết học, sẽ không hấp dẫn học sinh, không thu hút học sinh. * Khi thiết kế các trò chơi học tập cần lưu ý : - Sáng tạo trên cơ sở phù hợp với mục tiêu bài học cũng như đặc trưng của từng phân môn. - Việc làm đồ dùng phục vụ cho trò chơi phải đảm bảo tính khoa học, thẩm mỹ, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi tiểu học. - Vật liệu thiết kế trò chơi phải dễ tìm, dễ làm, rẻ tiền, được sử dụng nhiều lần và đa năng. C. KẾT LUẬN Chất lượng học tập môn Tiếng việt của học sinh Ninh Thượng có phần hạn chế hơn học sinh ở Thị xã, do ý thức tự giác học tập và điều kiện học tập chưa cao. Nhưng vì lương tâm, trách nhiệm của người thầy - vì chất lượng học sinh vùng nông thôn - vì tương lai của con em chúng ta đã tạo cho tôi những nguồn động lực mạnh mẽ để tìm tòi và thiết kế trò chơi học tập nhằm nâng cao chất lượng học tập môn Tiếng việt, để các em không bị “ thua thiệt”. Đó chính là nền móng cho những mầm non văn học trỗi dậy và vươn lên xanh tốt. Những biện pháp mà tôi trình bày trên đây là những gì tôi đã nghiên cứu và áp dụng. Tôi đã báo cáo, đề xuất kinh nghiệm này đến Ban giám hiệu nhà trường.

<span class='text_page_counter'>(27)</span> và được lãnh đạo nhà trường động viên các giáo viên trong trường vận dụng cũng đã đem lại kết quả cao trong môn Tiếng việt. Tôi mong rằng những kinh nghiệm ít ỏi này được phổ biến rộng rãi hơn nữa trong toàn thị xã và tỉnh nhà đồng thời cũng mong nhận được nhiều ý kiến đóng góp từ phía các cấp quản lý giáo dục và các bạn đồng nghiệp để tôi có thêm nhiều kinh nghiệm trong công tác giảng dạy của mình. Tôi xin chân thành cám ơn!. Ninh Thượng, ngày 22 tháng 3 năm 2011 Người thực hiện. Hà Thị Tuyết Nhung.

<span class='text_page_counter'>(28)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×