Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Tiểu luận Cách mạng Tháng Tám kỷ nguyên mới dân tộc Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134 KB, 14 trang )

PHÂN HIỆU TRƯỜNG ĐẠI HỌC THUỶ LỢI
-----oo0oo-----

BÀI TIỂU LUẬN MÔN
LỊCH SỬ ĐẢNG
ĐỀ TÀI:

CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 – KỶ NGUYÊN MỚI CỦA
DÂN TỘC VIỆT NAM

GVHD:ThS. MAI THỊ XUÂN
Người thực hiện:
1.
2.
3.
4.

Trần Ngọc Thịnh
Trần Đinh Diệu Mi
Nguyễn Thị Ngọc Thảo
Phùng Tấn Phương
TP.HCM, ngày 13 tháng 12 năm 2020

Mục lục


2|Page


A. MỞ ĐẦU


1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trải qua lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước với những bước thăng trầm,
thịnh suy nhưng với truyền thống đoàn kết, ý chí kiên cường. Dân tộc Việt Nam đã chiến
thắng bao kẻ thù xâm lược lớn mạnh.
Từ đầu thế kỉ XIX, trong quá trình xâm chiếm, mở rộng thuộc địa của các nước tư bản
phương Tây đã để ý đến nước ta. Sau 1884, khi Triều đình nhà Nguyễn ký hiệp ước Pa-tơnốt, hoàn toàn dâng hiến nước ta cho nước Pháp. Từ đó, dưới sự thống trị của thực dân
Pháp, đã bóc lột tàn bạo, nhân dân ta chịu nhiều khổ cực, lầm than từ đó lịng thù hận sâu
sắc trong tiềm thức mỗi người ngày càng nhiều.
Sự ra đời của Đảng cộng sản Việt Nam ngày 3/2/1930, đánh dấu một bước ngoặt lịch
sử của cách mạng Việt Nam. Kể từ khi có Đảng, dân tộc ta tiếp tục giiafnh được những
thắng lợi mang ý nghĩa dân tộc và thời đại sâu sắc. Mở đầu là thắng lợi của cách mạng
Tháng Tám năm 1945.
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là một trong những sự kiện vĩ đại, là bước nhảy vọt
vĩ đại, đánh dấu một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hoá của dân tộc. Cách
mạng Tháng Tám đã phá tan hai tầng xiền xích nơ lệ của thực dân Pháp kéo dài hơn 80
năm và của phát xít Nhật đồng thời lật đổ chế độ phong kiến đô hộ hơn 1000 năm, thiết
lập nên chế độ xã hội tiến bộ với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà.
Cuộc cách mạng Tháng Tám mở ra cho dân tộc Việt Nam một kỉ nguyên mới, kỉ
nguyên của độc lập, tự do gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Để tìm hiểu sâu sắc về cuộc cách
mạng Tháng Tám 1945, và sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam, nhóm chúng
em xin chọn đề tài “Cách mạng Tháng Tám 1945 – Kỷ nguyên mới của dân tộc Việt
Nam”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

2.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của bài tiểu luận là Cách mạng tháng Tám năm 1945.
2.2 Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Khu vực Bắc Trung Bộ
-Về thời gian: Từ ngày 1-9-1939 đến ngày 28-8-1945, là thời gian trực tiếp chuẩn

bị và khởi nghĩa giàn chính quyền của nước ta.
3. MỤC ĐÍCH VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tái hiện có hệ thống và tồn diện về Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Trên cơ sở
đó, khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng Sản Việt Nam.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
3|Page


Phương pháp luận là quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, của Đảng Cộng Sản
Việt Nam và tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực cách mạng, xây dựng Đảng, vận động
quần chúng, xây dựng lực lượng vũ trang, đặc biệt là khởi nghĩa giành chính quyền trong
Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
Phương pháp lịch sử, phương pháp logic và miêu tả, phân tích, tổng hợp để tái
hiện bức tranh lịch sử về Cách mạng Tháng Tám năm 1945.
4. Ý NGHĨA ĐỀ TÀI
Cách mạng Tháng Tám 1945 là một cuộc các mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng
của giai cấp cơng nhân lãnh đạo trong đó nổi bật lên tính chất giải phóng dân tộc.
Đó là cuộc cách mạng điển hình về tinh thần chủ động, sáng tạo, biết chớp lấy thời cơ
đứng lên giải phóng.
Cách mạng Tháng Tám 1945 là bước nhảy vọt vĩ đại trong lịch sử tiến hoá của dân
tộc. Chấm dứt hơn 80 năm thống trị của thực dân Pháp và lật đổ chế độ phong kiến tồn tại
hơn một ngàn năm trên đất nước ta, khai sinh nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Nhà
nước dân chủ nhân dân đầu tiên của Đông Nam châu Á.
Cách mạng Tháng Tám thắng lợi đã phát huy và làm rạng rỡ thêm truyền thống kiên
cường bất khuất, anh dũng sáng tạo và đoàn kết nhất là ý chí kiên cường, quyết tâm của
dân tộc Việt Nam. Từ đây nước ta có độc lập chủ quyền, dân tộc ta thốt khỏi kiếp nơ lệ,
được làm chủ đất nước.

4|Page



I.

B. PHẦN NỘI DUNG
Quá trình chuẩn bị cho cuộc cách mạng Tháng Tám năm 1945
1. Cao trào cách mạng 1930-1931 và Xô Viết Nghệ Tĩnh

Trên thế giới, những năm 1929-1933 các nước tư bản chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng
kinh tế trên quy mô lớn với những hâu quả nặng nề, làm cho mâu thuẫn trong lòng xã hội
tư bản phát triển gay gắt. Phong trao cách mạng thế giới dâng cao.
Tại Đông Dương, cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới ảnh hưởng lớn đến các nước
thuộc địa và phụ thuộc, các hoạt động sản xuất đình đốn. Thực dân Pháp tăng cường bóc
lột để bù đắp những hậu quả của cuộc khủng hoảng, đồng thời tiến hàng khủng bố trắng
nhằm đàn áp cuộc khởi nghĩa Yên Bái (2-1930). Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam và đế
quốc Pháp và tay sai ngày càng gay gắt.
Việc Đảng ra đời là nhân tố quyết định và là nguyên nhân trực tiếp nổ ra cao trào cách
mạng 1930-1931, dưới sự lãnh đạo của Đảng từ tháng 1 đến tháng 4-1930 nhiều cuộc bãi
công nổ ra liên tiếp ở khắp nơi. Phong trào ngày càng lớn mạnh bắt đầu từ ngày 1-5-1930,
phong trào lan ra phạm vị cả nước. Đặc biệt ở Nghệ An và Hà Tĩnh, lực lượng cách mạng
ở nhiều huyện xã tự đứng ra quản lý lấy đời sống của mình. Đó là một kiểu chính quyền
cách mạng của nhân dân theo hình thức Xơ Viết.
Cao trào cách mạng 1930-1931 đã khẳng định đường lối cách mạng của Đảng ta đề ra
là đúng đắn, được quần chúng nhân dân đồng tình ủng hộ. Cao trào cách mạng 1930-1931
và phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh nổ ra là cuộc tổng diễn tập đầu tiên của cách mạng Việt
Nam để tiến hành giành chính quyền trong cả nước. Cao trào để lại nhiều bài học kinh
nghiệm bước đầu về cách mạng. Đó là bài học kết hợp đúng đắn nhiệm vụ chống đế quốc
và chống phong kiến, kết hợp phong trào đấu tranh của công nhân và nông dân.
2. Phong trào Dân chủ ở Đơng Dương 1936-1939
a. Hồn cảnh lịch sử


Trên thế giới, để giải quyết những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế 1929-2933,
giai cấp tư sản ở một số nước như Đức, Tây Ban Nha, Italia chủ trương dùng bạo lực đàn
áp phong trào đấu tranh trong nước và chuẩn bị phát động chiến tranh thế giới để chia lại
thị trường. Chủ nghĩa phát xít xuất hiện và nguy cơ chiến tranh thế giới đe doạ nghiêm
trọng nền hoà bình, an ninh quốc tế.
Trước tình hình đó, Quốc tế Cộng sản họp Đại hội lần thứ VII (tháng 7-1935) chống
lại nguy cơ phát xít trên tế giới. Quốc tế Cộng sản đã xác định nhiệm vụ trước mắt của
giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên thế giới là chống chủ nghĩa phát xít, chống
chiến tranh, bảo vệ dân chủ và hồ bình.
Khi đó ở Việt Nam, để thốt khỏi tình trạn khủng hoảng kinh tế và ngột ngạt về chính
trị do chính sách khủng bố trắng của thực dân Pháp gây ra, mọi tầng lớp xã hội đều mong
muốn có những cải cách dân chủ. Đảng Cộng sản ĐÔng Dương đã phục hồi sau thời gian
5|Page


đấu tranh gian khổ và tranh thủ cơ hội thuận lợi xây dựng, phát triển hệ thống tổ chứng
Đảng và các tổ chức quần chúng rộng rãi để tăng cường lực lượng cách mạng.
b. Sự lãnh đạo của Đảng

Ngày 26-7-1936, Ban Chấp hành Trung ương Đảng triệu tập Hội nghị lần thứ 2 tại
Thượng Hải (Trung Quốc) do đồng chí Lê Hồng Phong chủ trì. Hội nghị xác định cách
mạng Đông Dương vẫn là cách mạng tư sản dân quyền có nhiệm vụ phản đế và điền địa,
nhiệm vụ trước mắt là: chống phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc
địa và tay sai. Yêu cầu cấp thiết trước mắt của quần chúng nhân dân lúc này là tự do, dân
chủ, cải thiện đời sống. Hội nghị quyết định “lập Mặt trận nhân dân phản đế rộng rãi bao
gồm các giai cấp các đảng phái, các đoàn thể chính trị và tín ngưỡng tơn giáo khác nhau,
các dân tộc ở xứ Đông Dương để cùng nhau tranh đấu để địi những điều dân chủ đơn sơ”
[1].
c. Hình thức và phương thức đấu tranh


Phải triệt để lợi dụng những khả năng hợp pháp và nửa hợp pháp để tuyên truyền, tổ
chức quần chúng đồng thời củng cố và phát triển các tổ chức bí mật của Đảng. Kết hợp
với những hoạt động công khai hợp pháp và hoạt động không hợp pháp, làm cho Đảng
liên hệ chặt chẽ với đông đảo quần chúng và tổ chức đứng ra đấu tranh giành chính quyền
dân chủ. Như vậy, những vẫn đề Đảng nêu ra là hoàn toàn phù hợp với tình hình thực tiễn
lúc đó, nhờ đó mà phong trào đấu tranh của quần chúng phát triển sôi nổi.
d. Ý nghĩa lịch sử và thành quả của phong trào

Phong trào dân chủ 1936-1939, có thể coi như cuộc tổng diễn tập lần thứ hai của cách
mạng Việt Nam, chuẩn bị cho thắng lợi của cách mạng Tháng Tám 1945 vì:
Phong trào dân chủ 1936-1939, cho thấy sức sống mãnh liệt của Đảng và nhân dân ta,
sau thời kỳ thoái trào, sau đợt khủng bố tàn bạo của kẻ thù đã nhanh chóng khơi phục
được lực lượng và phát triển được phong trào trên quy mô lớn.
Phong trào dân chủ 1936-1939, do Đảng lãnh đạo đã đem lại cho nhân dân ta những
thắng lợi củ thể nhất định, đã buộc giai cấp thống trị phải thực hiện ít nhiều quyền tự do,
dân chủ và cải thiện đời sống cho nhân dân. Đây là điều hiếm có trong các nước thuộc địa
đế quốc. Qua những thắng lợi đó đã làm cho nhân dân tin tưởng và đoàn kết dưới ngọn cờ
lãnh đạo của Đảng. Nếu cao trào 1930-1931, chủ yếu là phong trào của quần chúng công
nông, phong trào 1936-1939, là phong trào cách mạng của đông đảo các lớp quần chúng
tham gia, trong đó cơng nơng là cơ sở, với nhiều hình thức hoạt động, đấu tranh phong
phú.
3. Phong trào giải phóng dân tộc 1939-1945
a. Hồn cảnh lịch sử

Ngày 1-1-1939, chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ. Tại Đông Dương và Việt Nam,
bộ máy đàn áp của thực dân Pháp được tăng cường, lệnh thiết quân luật được ban bố.
6|Page



Ngày 22-9-1940, thực dân Pháp đầu hàng và cấu kết với Nhật thống trị, bốc lột Việt Nam,
làm cho nhân dân phải chịu cảnh “một cổ hai tròng”. Pháp thực hiện nhiều biện pháp
tuyên truyền lừa bịp, phản động đồng thời thủ tiêu những quyền dân chủ, dân sinh.
Dưới hai tầng áp bức Nhật, Pháp, quyền lợi nhân dân bị cướp giật, vận mệnh dân tộc
nguy vong. Mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với đế quốc xâm lược và tay sai ngày càng
gay gắt, địi hỏi Đảng phải có đường lối chính trị phù hợp và cơng tác tổ chức chặt chẽ
thực hiện thành cơng sự nghiệp giải phóng dân tộc.
b. Sự lãnh đạo của Đảng

Ngay khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, Đảng chủ trương chuyển tồn bộ tổ
chức đảng vào hoạt động bí mật, chuyển trọng tâm về hoạt động ở vùng nông thôn, đồng
thời vẫn chú trọng các đô thị.
Tháng 11-1939, trung ương Đảng đã hợp hội nghị lần thứ 6 đã điều chỉnh chiến lược
cách mạng với nội dung: Đặ nhiệm vụ chống đề quốc tay sai, giành độc lập dân tộc lên
hàng đầu. Hội nghị quyết định thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất phản đế Đông
Dương thu hút tất cả các dân tộc, các giai cấp, đảng phái và cá nhân yêu nước ở Đông
Dương nhằm chống chiến tranh, chống bọn phát xít, đánh đổ đế quốc Pháp và tay sai,
giành lại độc lập hoàn toàn cho các dân tộc Đông Dương.
Tháng 11-1940, Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 7 họp lần thứ 7, khẳng định chủ
trương của Đảng lần thứ VI là đúng, cũng trong hội nghị này đã cử đồng chí Trường
Chinh làm bí thư trung ưởng Đảng lâm thời
Tháng 2-1941 lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào giải
phóng dân tộc Việt Nam
Tháng 5-1941, Hội nghị Trung ương Đản lần thứ 8 do lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trực
tiếp chủ trì, đã hoàn chỉnh sự thay đổi chiến lược cáhc mạng của Đảng Cộng sản Đơng
Dương. Đó là đường lỗi giải phóng dân tộc, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng
đầu.
Chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất đất nước. Ở Việt Nam thành lâp tổ
chứcViệt Nam Độc lập đồng minh, gọi tắt là mặt trận Việt Minh bao gồm các đoàn thể
cứu quốc trên cả nước.

Tháng 8-1942, Nguyễn Ái Qc lấy tên là Hồ Chí Minh với danh nghĩa là đại diện
của Việt Minh lên đường đi Trung Quốc để liên hệ tham gia đồng minh quốc tế chống
phát xít và vận động những người yêu nước ở ngoài tham gia cách mạng. Năm 1943, bản
“Đề Cương Văn Hố Việt Nam” của Đảng được cơng bố tác dụng lớn trong việc lôi cuốn
các tầng lớp tri thức, văn nghệ sĩ tham gia vào phong trào cách mạng của toàn cầu.
Được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Đông Dương, tháng 6-1944 Đang Dân chủ
Việt Nam được thành lập và Đảng này tham gia Mặt trận Việt Minh và tích cực hoạt động,
góp phần mở rộng khối đại đồn kết dân tộc. Đảng cũng tăng cường cơng tác vận động
7|Page


binh lính người Việt và người Pháp. Từ Trung ương đến các địa phương đề có Ban binh
vận.
Ngày 22-12-1944, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân được thành lập do
đồng chí Võ Ngun Giáp lãnh đạo.
Như vậy, ngồi lực lượng chính trị rộng lớn là mặt trận ViệtMinh lực lượng vũ trang
cách mạng và căn cứ địa cách mạng cũng không ngừng phát triển mạnh mẽ. Các nước đâu
đâu cũng có sự chuẩn bị cho phong trào đấu tranh. Qua các phong trào của các cuộc cách
mạng tiền thân mà Đảng ta đã có nhiều knih nghiệm cũng như sự chuẩn bị lực lượng, có
đường lỗi đúng đắn từng bước củng cố lực lượng chuẩn bị cho cuộc cách mạng Tháng
Tám giành thắng lợi.
II.

Đảng lãnh đạo thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng 8 năm
1945
1. Đảng phát động cao trào kháng nhật cứu nước, dự kiến thời cơ khởi nghĩa
giành chính quyền

Đầu năm 1945, chiến tranh thế giới thứ hai bước vào giai đoạn kết thức. Hồng qn
Liên Xơ đang truy kích phát xít Đức trên chiến trường châu Âu và giải phóng nhiều nước

Đơng Âu và tiến về Béclin. Ở Tây Âu, Anh – Mỹ mở mặt trận thứ hai, đổ quân lên đất
Pháp, tiến quân về phía Tây nước Đức.Sống chết, Nhật phải giữ lấy con đường bộ duy
nhất nối liền từ Mãn Châu, Trung Quốc xuyên qua Đông Dương xuống Đông Nam Á.
Trong khi đó qn Pháp ở Đơng Dương ráo riết chờ thời cơ chuẩn bị đánh Nhật, khôi
phục quyền thống trị của chúng.“Cả hai quân thù Nhật – Pháp đều đang sửa soạn tiến tới
chỗ tao sống, mày chết, quyết liệt cùng nhau”[2]. Trước tình thế đó buộc Nhật phải tiến
hành đảo chính Pháp để độc chiếm Đơng Dương và trừ hậu hoạ quân Pháp đánh từ sau
lưng.
Vào 20 giờ ngày 9-3-1945, Nhật chính thức đảo chính lật đổ Pháp và giữ nguyên bộ
máy cai trị của Pháp ở Đông Dương để làm tay sai cho chúng.
Giữa lúc tiếng súng Nhật đảo chính Pháp đang nổ ra, Ban Thường vụ Trung ương
Đảng đã họp ở Đình Bảng (Từ Sơn, Bắc Ninh) trong Trường Chinh chủ trì. Sau khi đánh
giá tình hình và ra chỉ thị “Nhật Phát bắn nhau và hành động của chúng ta”. Bản chỉ thị
vạch rõ:
Cuộc đảo chính của Nhật lật Pháp làm cho các điều kiện khởi nghĩa chín muồi
nhanh chóng.
• Kẻ thù chính, cụ thể, trước mặt và duy nhất của cách mạng Đông Dương lúc này
là phát xít Nhật.
• Nhanh chóng phát động cao trào phát động chống Nhật, cứu nước với các hình
thức đấu tranh chính trị, vũ trang, kinh tế, văn hố, tun truyền. Thực hiện khởi
nghĩa từng phần, giành chính quyền từng bộ phận, chuẩn bị mọi điều kiện để tiến
tới tổng khởi nghĩa.


8|Page


Chỉ thị dự kiến thời cơ thuận lợi để tiến hành khởi nghĩa giành chính quyền đó là
khi qn Đồng minh kéo vào Đông Dương đánh Nhật, Nhật chống đỡ, phía sau
sơ hở. Hoặc cách mạng Nhật bùng nổ, chính quyền cách mạng của nhân dân Nhật

ra đời. Hoặc Nhật bị mất nước như Pháp năm 1940, quân đội viễn chinh Nhật
hoang mang, mất tinh thần. Tuy nhiên, không được trơng chờ, ỷ lại vào bên
ngồi, mà phải chủ động nắm bắt thời cơ và phải dựa vào sức mình là chính.



Do bọn phát xít Nhật thẳng tay vơ vét bóc lột, đã gây ra một nạn đói khủng khiếp đã
cướp đi gần hai triệu đồng báo chết đói. Xuất phát từ lợi ích của quần chúng. Đảng đã kịp
thời đề ra khẩu hiệu “Phá kho thóc, giải quyết nạn đói”. Khẩu hiệu đó đã lơi kéo hàng
triệu quần chúng, nhất là nông dân đứng lên chống Nhật, giành lấy chính quyền về tay
nơng dân.
2
Đảng lãnh đạo tồn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, đưa
cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945 đến thắng lợi
Từ giữa tháng 3-1945, cách mạng Việt Nam đã nhanh chóng trở thành cao trào. Trong
cao trào đó nổi lên những nét lớn:
Chiến tranh du kích lan rộng ra tồn quốc.
Khởi nghĩa từng phần giành chính quyền từng địa phương, nhiều căn cứ lớn ra
đời, khu giải phóng được thành lập.
• Phá kho thóc của Nhật, giải quyết nạn đói, đồng thời hình thành phong trào cách
mạng quần chúng rộng lớn.
• Phát động chiến tranh du kích, khởi nghĩa từng phần giành chính quyền bộ phận,
mở rộng căn cứ địa cách mạng, thành lập chính quyền địa phương là nét điển
hình và sáng tạo của Đảng trong lãnh đạo và tổ chức lực lượng tiến lên tổng
khởi nghĩa giành chính quyền ở nước thuộc địa phong kiến như nước ta.



Đến giữa tháng 8-1945, cách mạng đã có thế và lực rộng rãi ở khắp nơng thơn và đơ
thị, bao gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang chuẩn bị cho cuộc tổng khởi nghĩa.

Chính phủ Nhật đã đầu hàng Liên Xơ và các nước Đồng minh vô điều kiện. Quân
Nhật ở Đông Dương bị tê liệt hồn tồn, chính phủ bù nhìn Trần Kim Trọng hoang mang
cực độ.
Vào nửa cuối tháng Tám năm 1945. Trước tình hình trên, Hội nghị Đảng Cộng sản
Đông Dương họp ở Tân Trào, do lãnh tụ Hồ Chí Minh và Tổng bí thư Trường Chinh chủ
trì. Từ ngày 13 đến 15 tháng 8 đã khẳng định thời cơ tốt đã đến cho ta giành chính quyền
độc lập. Đảng chủ trương nhanh chóng phát động tồn dân đứng lên Tổng khởi nghĩa,
quyết tâm giành lấy chính quyền từ tay phát xít Nhật.
Ngày 16 và 17-8-1945, tại Tân Trào, Quốc dân Đại hội họp, nhiệt liệt ủng hộ chủ
trương tổng khởi nghĩa của Đảng và thơng qua 10 chính sách của Việt Minh; quyết định
lập Uỷ ban dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Ngay sau Quốc
dân Đại hội, Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước đứng lên giành chính
9|Page


quyền: “Giờ quyết định của vận mệnh dân tộc đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy
đem sức ta mà giải phóng cho ra…Chúng ta khơng thể chậm trễ. Tiến lên! Tiến lên! Dưới
lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên”[3].
Tin phát xít Nhật đầu hàng lan truyền nhanh chóng khắp nước. Mệnh lệnh khởi nghĩa
của Uỷ ban dân tộc phải phóng và lời kêu gọi cả nước đứng lên tổng khởi nghĩa của chủ
tịch Hồ Chí Minh vang khắp đất nước. Các địa phương Tuyên Quang (14-8), Hà Nội (198), Huế (23-8), Sài Gòn (25-8) khởi nghĩa thắng lợi đã có tác dụng rất lớn thúc đẩy các
tỉnh xung quanh đứng lên khởi nghĩa. Ngày 28-81945, tổng khởi nghĩa kết thức với tỉnh
cuối cùng là Hà Tiên (Kiên Giang). Cuộc tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 đã thành
cơng trên cả nước chỉ trong vịng nửa tháng.
Ngày 2-9-1945, tại Quảng Trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc
Bản Tun ngơn độc lập tuyên bố với quốc dân đồng bào và thế giới nước Việt Nam dân
chủ Cộng hoà ra đời. “Tất cả các dân tộc trên thế giới đề sinh ra bình đẳng, dân tộc nào
cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”… “Nước Việt Nam có quyền
hưởng tự do và độc lập và thực sự đã thành một nước tự do và độc lập. Toàn thể dân Việt
Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự

do, độc lập ấy”[4].
III. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và bài học kinh nghiệm
1. Nguyên nhân thắng lợi
a. Nguyên nhân chủ quan

Cách mạng Tháng Tám thành công do nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân
quan trọng, có ý nghĩa quyết định, đó là sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt, khôn khéo của
Đảng; là sự vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin trong điều kiện lịch sử cụ thể
của nước ta một cách đúng đắn, độc lập, tự chủ và sáng tạo có phương pháp; chiến lược,
chiến thuật cách mạng thích hợp và linh hoạt. Tổng khởi nghĩa Tháng Tám là đỉnh cao
của 15 năm đấu tranh của toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua ba cao trào cách
mạng lớn: Cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh (1930 - 1931), cao trào dân chủ (1936 - 1939), cao
trào cứu nước trong chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945). Qua đấu tranh gian khổ,
với nhiều hy sinh to lớn, Đảng ta đã từng bước trưởng thành về chính trị, tư tưởng và tổ
chức, xây dựng được lực lượng xung quanh mình, giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, phân hóa lực lượng kẻ thù, xác định kẻ thù chính, kẻ thù cụ thể trước
mắt để có sách lược khơn khéo tập hợp lực lượng.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám là sự vận dụng thời cơ cách mạng chín muồi,
lực lượng cách mạng đã được chuẩn bị chu đáo cộng với sự lãnh đạo sáng suốt tài tình
của Đảng, chớp đúng thời cơ lịch sử ngàn năm có một, biết sử dụng lực lượng cách mạng
đúng lúc, kết hợp chính trị và vũ trang, lấy lực lượng chính trị của nhân dân giữ vai trị
quyết định, kết hợp nơng thơn và thành thị, kết hợp các hình thức đấu tranh hợp pháp và
không hợp pháp, từ thấp lên cao, từ khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành
10 | P a g e


thắng lợi hồn tồn, đó chính là ngun nhân chủ yếu đưa cuộc Tổng khởi nghĩa Cách
mạng Tháng Tám đến thắng lợi.
Tinh thần yêu nước, ý chí quật cường của các tầng lớp nhân dân ta không chịu
sống mãi kiếp nô lệ của người dân mất nước, nghe theo tiếng gọi của Đảng, quyết vùng

lên đánh đổ bọn đế quốc, phát xít cướp nước, bọn vua quan phong kiến, tay sai bán nước.
Cuộc Tổng khởi nghĩa năm 1945 là thành tựu tuyệt vời của tinh thần, ý chí, trí tuệ của con
người Việt Nam. Tinh thần, trí tuệ ấy xuất hiện từ buổi đầu lịch sử dân tộc, đã được nâng
lên một tầm cao mới sau 15 năm đấu tranh quật cường dưới sự lãnh đạo của một Đảng
Mác – Lênin chân chính. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: "Chính họ đã đặt lợi ích của Đảng,
của cách mạng, của dân tộc lên trên hết, đã tin tưởng sâu sắc vào tương lai của Đảng, của
dân tộc, đã hy sinh tất cả, đem xương máu vun tưới cho cây cách mạng, cho nên cây cách
mạng đã khai hoa, kết quả tốt đẹp như ngày nay". Đó cũng là một nguyên nhân quan
trọng để đưa cuộc cách mạng chúng ta đến thành công.
b. Nguyên nhân khách quan

Đảng ta tiến hành cuộc cách mạng Tháng Tám trong bối cảnh quốc tế thuận lợi; đó
là việc qn đội Liên Xơ và đồng minh đã đánh bại phát xít Đức, Ý, Nhật, thắng lợi đó đã
tạo điều kiện cho các lực lượng bị áp bức, u hịa bình và các lực lượng tiến bộ trên thế
giới có điều kiện để giành thắng lợi khi biết lợi dụng được thời cơ ngàn năm có một này.
Trong bối cảnh ở nước ta, quân Pháp bị Nhật hất chân, quân Nhật lại bị Hồng quân Liên
Xô và quân đồng minh đánh cho bại trận, đang hoang mang cao độ và đang tan rã, quân
đội các nước đồng minh chưa kịp vào Đông Dương giải giáp quân đội Nhật.
2. Ý nghĩa lịch sử

Đối với Việt Nam, Cách mạng Tháng Tám năm 1945 là bước nhảy vọt vĩ đại, đánh
dấu một cuộc biến đổi cực kỳ to lớn trong lịch sử tiến hoá của dân tộc, đã đập tan sự
thống trị của thực dân Pháp trong 87 năm, lật nhào chế độ quân chủ hàng nghìn năm và
ách thống trị của phát xít Nhật, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà, Nhà nước dân
chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á. Nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ trở
thành người dân của nước độc lập, tự do, đứng lên làm chủ vận mệnh của mình.
Cách mạng Tháng Tám đã chọc thủng khâu yếu nhất trong hệ thống thuộc địa của chủ
nghĩa đế quốc, mở ra thời kỳ suy sụp, tan rã của chủ nghĩa thực dân cũ trên toàn thể giới,
cổ vũ nhân dân các dân tộc thuộc địa đấu tranh tự giải phóng mình, giành độc lập tự do.
Nói về ý nghĩa lịch sử vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí

Minh viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam có thể tự hào, mà giai
cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: lần này là lần
đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng
mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành cơng, đã nắm chính quyền tồn quốc”.
Đối với thế giới, Cách mạng Tháng Tám cổ vũ mạnh mẽ phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức. Với thắng lợi này, Đảng và nhân dân đã góp
11 | P a g e


phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin về cách mạng giải
phóng dân tộc ở một nước thuộc địa nửa phong kiến. Thắng lợi đó chứng tỏ rằng, trong
thời đại ngày nay, cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở một nước thuộc địa, do
toàn dân nổi dậy, dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác-Lênin với đường lối đúng đắn, có
thể giành thắng lợi.
3. Bài học kinh nghiệm

Thứ nhất, về đường lối chiến lược. Giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc, kết hợp đúng
đắn hai nhiệm vụ chống đế quốc là chủ yếu, nhiệm vụ chống phong kiến phải phục tùng
nhiệm vụ chống đế quốc, phải thực hiện từng bước với những khẩu hiệu thích hợp.
Thứ hai, về xây dựng lực lượng. Xây dựng khối liên minh cơng-nơng-trí thức vững
chắc làm cơ sở để xây dựng và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất rộng rãi. Việt Minh là
một điển hình thành cơng của Đảng về huy động lực lượng toàn dân tộc lên trận địa cách
mạng đã tạo ra sức mạnh áp đảo, toàn dân nổi dậy trong cao trào kháng Nhật cứu nước,
tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
Thứ 3, về phương pháp cách mạng. Kiên quyết dùng bạo lực cách mạng và biết sử
dụng bạo lực cách mạng một cách thích hợp để đập tan bộ máy nhà nước cũ, lập ra bộ
máy nhà nước của dân, do dân và vì dân. Bạo lực của Cách mạng tháng Tám được sử
dụng một cách thích hợp ở chỗ kết hợp chặt chẽ lực lượng chính trị với lực lượng vũ
trang, kết hợp nổi dậy của quần chúng với tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng ở
cả nơng thơn lẫn thành thị, trong đó địn quyết định là các cuộc nổi dậy ở Hà Nội, Huế,

Sài Gịn; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang; kết hợp tất cả các
hình thức đấu tranh kinh tế và chính trị; hợp pháp, nửa hợp pháp và không hợp pháp của
quần chúng, từ thấp đến cao, từ một vài địa phương lan ra cả nước, từ khởi nghĩa từng
phần tiến lên tổng khởi nghĩa, dần dần làm biến đổi lực lượng so sánh giữa ta và địch, tạo
ưu thế áp đảo, đập tan bộ máy nhà nước của giai cấp thống trị.
Lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù: mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và chủ
nghĩa đế quốc phát xít; mâu thuẫn giữa chủ nghĩa đế quốc và thế lực địa chủ phong kiến;
mâu thuẫn trong hàng ngũ nguỵ quyền, các hạng tay sai của Pháp và của Nhật. Kết quả
của việc lợi dụng đó đã làm cơ lập cao độ được bọn đế quốc phát xít và bọn tay sai phản
động làm cho cách mạng có thêm lực lượng dự bị hùng hậu đông đảo, làm cho Cách
mạng tháng Tám giành được thắng lợi nhanh gọn, ít đổ máu. Nắm vững thời cơ, chớp
đúng thời cơ được coi là nghệ thuật lãnh đạo cách mạng Tháng Tám, dự đoán thời cơ mau
lẹ kịp thời, kiên quyết và khôn khéo khi thời cơ xuất hiện.
Thứ tư, Về xây dựng Đảng. Xây dựng Đảng cách mạng tiên phong vững mạnh, thống
nhất ý chí và hành động, trung thành vơ hạn với dân tộc và giai cấp, có đường lối đúng
với đội ngũ cán bộ đảng viên kiên cường được tôi luyện trong đấu tranh cách mạng.
C. PHẦN KẾT LUẬN
12 | P a g e


Trong công cuộc xây dựng đất nước và chống giặc ngoại xâm. Tồn Đảng, tồn dân ta
vơ cùng tự hào về những thành tựu to lớn mà chúng ta đã đạt được của cách mạng nước ta
dưới sự lãnh đảo của Đảng và Bác Hồ.
Ngày nay, Đảng đã trở thành Đảng cầm quyền, cả nước từng bước đi lên chủ nghĩa xã
hội với đặc điểm lớn nhất từ một nước có nên sản xuất nhỏ tiến lên Chủ nghĩa xã hội bỏ
qua Tư bản chủ nghĩa, vì thế nhiệm vụ của nhân dân ta phải gánh chịu rất nặng nề, khó
khăn, gian khổ. Để lãnh đạo nhân dân ta làm được việc đó, Đảng “phải lấy dân làm gốc”,
phải ln gìn giữ và phát triển mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhân dân.
Thực tiễn đấu tranh cách mạng và sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa đã khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố hàng

đầu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Khi nắm chính quyền, Đảng càng
có điều kiện sử dụng sức mạnh Nhà nước để đấu tranh với các thế lực đi ngược lại lợi ích
dân tộc, lợi ích nhân dân, hiện thực hóa mục tiêu, lý tưởng tốt đẹp của mình. Vai trị lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội đã được thực tiễn đất nước khẳng định, phù hợp
với nguyện vọng, ý chí của nhân dân.
Kỷ niệm 75 năm Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh mùng 2-9 trong bối cảnh toàn
Đảng, toàn dân, toàn quân ta thi đua lập thành tích chào mừng đại hội đảng bộ các cấp
tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, chúng ta càng hiểu rõ hơn giá
trị của Cách mạng Tháng Tám; nhận thức đầy đủ trách nhiệm của thế hệ hôm nay trong
việc vận dụng và phát triển những bài học kinh nghiệm quý giá của Cách mạng Tháng
Tám, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 75 năm qua vào sự nghiệp đẩy mạnh
cơng nghiệp hóa, hiện đai hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vì mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Tồn tập, tập 6, Nhà xuất bản Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.144.
[2] Ngọn cờ giải phóng, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội, 1995, tr 46.
[3] Hồ Chí Minh: Tồn tập, tập 3, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2011,
tr.596.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đảng toàn tập, tập 7, Nhà xuất bản chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr 434-437.

13 | P a g e


14 | P a g e




×