TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC
----
Võ Trần Khánh Vy
NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ GIỚI
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
TẠI THỊ XÃ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
TP Hồ Chí Minh - 2018
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA TÂM LÝ HỌC
----
Võ Trần Khánh Vy
NHẬN THỨC VỀ VAI TRÒ GIỚI
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ
TẠI THỊ XÃ LONG KHÁNH, TỈNH ĐỒNG NAI
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Tâm lý học
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
ThS. Đinh Thảo Quyên
TP Hồ Chí Minh - 2018
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong xã hội ngày nay, vấn đề về giới luôn là vấn đề được xã hội chú trọng
đến, những quan điểm, nhận thức về vai trị của từng giới là những nội dung có
vai trò quan trọng nhất. Theo tài liệu “Giới, việc làm và đời sống gia đình” do
tác giả Nguyễn Thị Hịa chủ biên cho rằng: “Quan điểm, nhận thức về giới có
liên quan đến vấn đề bình đẳng giới. Ở nước ta, từ trước đến nay Đảng và Nhà
nước rất quan tâm đến vấn đề giải phóng phụ nữ. Quyền bình đẳng giữa nam và
nữ đã được ghi nhận trong bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ
cộng hịa ban hành năm 1946. Từ đó đến nay, phụ nữ Việt Nam đã đạt được
nhiều bước tiến bộ trên con đường tiến tới bình đẳng, tự do, phát triển. Tuy nhiên
trong điều kiện một nước còn kém phát triển về mặt kinh tế và văn hóa, ảnh
hưởng của những tư tưởng tập quán lạc hậu cũ của đầu óc gia trưởng còn nặng
nề nên người phụ nữa còn chịu nhiều sự thiệt thịi, xét trên quan điểm sự bình
đẳng về giới trong hoạt động xã hội và trong sinh hoạt gia đình. Vì vậy, ở Việt
Nam, việc nhấn mạnh đến quan điểm về giới và sự phát triển là rất cần thiết và
phù hợp với yêu cầu của đông đảo quần chúng”.
Trên thực tế, vẫn còn sự xuất hiện của những định kiến xã hội về vai trò của
nam và nữ giới. Chúng ta có thể bắt gặp đâu đó, trong những lời nói, những hành
vi ứng xử, các phương tiện truyền thông,… những quan niệm dựa trên khuôn
mẫu giới tính truyền thống. Trong khi xã hội đang hướng vào các hoạt động vì
sự bình đẳng nam nữ, vì sự tiến bộ của phụ nữ, thì những quan niệm rập khn
này lại là suy nghĩ của khơng ít phụ nữ, được phụ nữ dùng để đánh giá hành vi
của nam giới và hành vi của chính mình.
2
Luật Bình đẳng được Quốc hội thơng qua ngày 29/11/2016 dù đã được tuyên
truyền, giáo dục nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, trở ngày. Một trong những trở
ngại lớn nhất đó là vấn đề nhận thức về vai trị giới hiện nay. Hạn chế trong nhận
thức về giới sẽ dẫn đến những bất bình đẳng và định kiến về giới… Điều đó rất
nguy hiểm, vì nó sẽ gây thiệt hại và cản trở sự tiến bộ, sự tham gia của cả nam và
nữ vào quá trình phát triển của xã hội.
Lứa tuổi học sinh THCS - hay còn gọi là lứa tuổi thiếu niên, đây là lứa tuổi
phát triển đầy biến động của đời người và cũng chính là lứa tuổi quan tâm nhiều
hơn đến việc tìm hiểu vai trị và chuẩn mực về giới. Sự nhận thức và thể hiện bản
sắc giới tính chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố: Sinh học, cha mẹ, thầy cô, truyền
thông, bạn bè và sự tích cực của bản thân. Chính vì vậy, nhận thức của các em về
vai trò giới ở độ tuổi này có thể ảnh hưởng đến sự phát triển sau này. Do đó, để
định hướng cho các em nhận thức về vai trò giới theo các quan điểm hiện đại
hơn, không bị ảnh hưởng bởi những định kiến về giới của xã hội cũ, chúng ta cần
phải tìm hiểu, nghiên cứu những suy nghĩ, nhận thức về giới của các em ở lứa
tuổi này, đặc biệt là những em học sinh THCS ở các tỉnh thành do các em ít được
tiếp xúc với những thông tin, quan niệm hiện đại, vẫn còn bị ảnh hưởng từ định
kiến về giới.
Với những lý do đã được trình bày, người nghiên cứu nhận thấy được tầm
quan trọng của việc xác định được, biết được những quan điểm, nhận thức về
giới của học sinh THCS là quan trọng vì nó góp phần vào việc đưa ra giải pháp
để giúp các em tiếp cận với những quan điểm hiện đại hơn, nhất là học sinh ở
những khu vực chưa có đầy đủ điều kiện để tiếp thu. Từ đó, người nghiên cứu
quyết định chọn đề tài “Nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS tại thị
xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai” để tìm hiểu về những suy nghĩ, nhận thức của
3
học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai về vấn đề được quan tâm
hiện nay.
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nhận thức về vai trị giới của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh,
tỉnh Đồng Nai.
3. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu
- Khách thể: Học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai
- Đối tượng: Nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS
4. Giả thuyết nghiên cứu
Nhận thức về vai trò giới của học sinh THCS tại thị xã Long Khánh, tỉnh
Đồng Nai cịn có sự ảnh hưởng bởi một số định kiến.
Có sự khác biệt trong nhận thức về vai trò giới của học sinh nam và học sinh
nữ.
Có sự khác biệt trong nhận thức về vai trị giới của học sinh có học vấn của
cha mẹ khác nhau.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Hệ thống hóa cơ sở lý luận về các khái niệm công cụ như: giới, vai trò giới,
nhận thức, nhận thức về vai trò giới, đặc điểm tâm lý của học sinh THCS.
- Khảo sát, tìm hiểu nhận thức về vai trị giới của học sinh THCS tại thị xã
Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
6. Phương pháp nghiên cứu
6.1 Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Nội dung nghiên cứu:
4
+ Phân tích, tổng hợp và đánh giá những cơng trình nghiên cứu của các tác giả
về giới, các vấn đề liên quan đến định kiến giới, quan điểm, nhận thức về vai trị
giới.
+ Xác định khái niệm cơng cụ và các khái niệm có liên quan: giới, vai trị giới,
nhận thức về giới, lứa tuổi học sinh THCS, nhận thức về vai trò giới của học sinh
THCS.
+ Dựa vào kết quả tổng hợp các nghiên cứu trong và ngoài nước, phần lý
thuyết chung của đề tài, người nghiên cứu sẽ lựa chọn các yếu tố khảo sát như:
nhận thức của học sinh THCS về vai trò giới trong xã hội, trong gia đình.
6.2 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
6.2.1 Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
- Dựa trên cơ sở lý luận về nhận thức về giới của học sinh THCS để thiết kế
bảng khảo sát
- Gửi bảng khảo sát đến giảng viên hướng dẫn nhằm lấy ý kiến và chỉnh sửa
- Phát bảng khảo sát thăm dò thử nghiệm đến 1 nhóm học sinh để chỉnh sửa
phù hợp
- Hồn thiện bảng khảo sát
- Phát bảng khảo sát chính thức và thu số liệu
6.2.2 Phương pháp thống kê toán học
Sử dụng phần mềm SPSS phiên bản 16.0 để xử lý các số liệu thu được từ
phiếu khảo sát và phân tích theo các nhiệm vụ nghiên cứu và trình bày kết quả
nghiên cứu dưới dạng bảng biểu.
5
7. Giới hạn đề tài
7.1 Nội dung
- Nhận thức của học sinh THCS
- Đề xuất giải nhằm nâng cao nhận thức phù hợp với xã hội hiện nay.
7.2 Thời gian: từ tháng 9/2017 - đến tháng 4/2018
7.3 Địa điểm: Nghiên cứu được tiến hành ở học sinh của 3 trường THCS tại
trung tâm thị xã Long Khánh, tỉnh Đồng Nai.
6
NỘI DUNG
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1 Lịch sử nghiên cứu đề tài
Vào đầu những năm 90 thế kỷ XX, qua giao lưu và hội nhập, các lý thuyết
nữ quyền từng bước được truyền bá vào Việt Nam và sự truyền bá này ngày
càng mạnh mẽ và đa dạng. Xem xét quá trình và xu hướng nghiên cứu Giới ở
Việt Nam thời gian qua, có thể thấy có ba thời kỳ tương đối rõ rệt. Thời kỳ thứ
nhất là 5 năm đầu của thập niên cuối thế kỷ XX, thời kỳ thứ hai là 5 năm cuối
thế kỷ và thời kỳ thứ ba là những năm đầu của thế kỷ XXI. Hai thời kỳ sau, việc
nghiên cứu và truyền bá về giới nói riêng và phong trào giải phóng phụ nữ ở
nước ta nói chung chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của hai sự kiện quan trọng. Đó là
Cương lĩnh hành động Bắc Kinh và các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
Thời kỳ thứ nhất nghiên cứu và truyền bá về giới ở nước ta được triển khai
rất sôi nổi, phong phú và rộng khắp. Điều thú vị là mặc dù một lý thuyết được du
nhập từ phương Tây vào nước ta nhưng hầu như nó khơng gặp bất cứ một sự kỳ
thị, phê phán và cản trở nào đáng kể. Thời kỳ đầu, có nhiều hội thảo, lớp tập
huấn, dịch, in, phát hành tài liệu và nhiều dự án nghiên cứu về giới được triển
khai với sự tài trợ của các chính phủ và các tổ chức phi chính phủ nước ngồi.
Đó là những hoạt động hướng vào tun truyền và phổ biến một cách chung nhất
quan điểm giới cả lý thuyết và thực hành dưới sự bảo trợ và tham dự của các tổ
chức và chuyên gia nước ngoài. Các đối tượng được hướng tới đầu tiên là nhà
nghiên cứu, cán bộ hội phụ nữ, cán bộ lãnh đạo chính quyền và đồn thể, cán bộ
dự án, nhà báo, giảng viên đại học… Công tác học tập, đào tạo, phổ biến quan
điểm giới được diễn ra theo ba hướng: thứ nhất, các chuyên gia nước ngoài vào
nước ta tổ chức hội thảo, tập huấn tại chỗ; thứ hai, các chuyên gia của Việt Nam
7
được tài trợ tham gia các hội thảo, lớp tập huấn, học tập và nghiên cứu ở nước
ngoài; và thứ ba, biên soạn, dịch thuật, xuất bản tài liệu, sách báo về giới và lý
thuyết nữ quyền.
Cùng với công tác học tập, đào tạo và truyền bá quan điểm giới, các đề tài,
dự án nghiên cứu về phụ nữ, gia đình, dân số, kinh tế hộ, sở hữu đất đai, đời
sống của các nhóm phụ nữ: nơng dân, cơng nhân, ngư dân, tiểu thương… cũng
được tiến hành nghiên cứu theo quan điểm giới, được tài trợ tài chính và sự tư
vấn, hướng dẫn trực tiếp của các chuyên gia nước ngoài về giới. Những nghiên
cứu đầu tiên theo quan điểm giới mặc dù có kết quả cụ thể về nội dung nhưng
thực chất chỉ là những nghiên cứu mang nặng tính chất thực hành lý thuyết,
chứng minh sự đúng đắn của lý thuyết giới và phát giác sự “mù giới” của các
nền văn hóa, sự khuyết tật của các bảng giá trị truyền thống… Có thể đánh giá
việc nghiên cứu giới ở những năm đầu cơ bản vẫn hướng về mục tiêu học tập,
phổ biến và truyền bá quan điểm giới là chính.
Với cách làm như thế, chỉ sau vài năm đầu thập niên 90 thế kỷ XX, quan
điểm giới đã thu hút sự quan tâm của xã hội và nhanh chóng được truyền bá rộng
rãi ở nước ta. Tuy nhiên, với cách làm mang tính tự phát và chưa có kế hoạch, lộ
trình chưa được kiểm sốt chặt chẽ nên cùng với sự du nhập quan điểm giới và
những lý thuyết nữ quyền tiến bộ, phù hợp với sự phát triển bền vững và ổn
định, hầu như mọi lý thuyết nữ quyền đều được truyền bá vào Việt Nam. Đặc
biệt, nhiều chuyên gia khi tập huấn và đào tạo về giới đã gán ghép nhầm lẫn ý
kiến của các trường phái nữ quyền khác nhau cũng như đã không thể phân biệt
được quan điểm của phụ nữ trong phát triển, phụ nữ và phát triển, giới và sự phát
triển.
Thời kỳ thứ hai của nghiên cứu và truyền bá giới ở nước ta được thực hiện
trên cơ sở phát huy những thành tựu đã đạt được, công tác nghiên cứu và đào tạo
8
về giới bước sang một giai đoạn mới. Đây chính là thời kỳ tiến hành thực hiện
Cương lĩnh hành động Bắc Kinh và thực hiện các mục tiêu phát triển thiên niên
kỷ. Nhằm khắc phục những hạn chế của thời kỳ đầu nghiên cứu về giới, trước
hết, nhiều cán bộ được cử đi đào tạo ở nước ngoài với nhiều hình thức khác
nhau, nhất là đào tạo thạc sỹ và tiến sỹ về các lĩnh vực giới và liên quan đến giới.
Đây chính là sự chuẩn bị nhân lực quan trọng cho đội ngũ nghiên cứu và đào tạo
về giới trong tương lai. Các nghiên cứu lý thuyết quan điểm giới, quan điểm nữ
quyền và lý thuyết nghiên cứu phụ nữ được đầu tư và đẩy mạnh. Những nghiên
cứu lý thuyết này, một mặt, nhằm giới thiệu một cách đầy đủ và toàn diện lịch sử
phong trào nữ quyền ở phương Tây, những trường phái nữ quyền cơ bản – nguồn
gốc và ảnh hưởng của nó đến phong trào phụ nữ cũng như các ngành khoa học
xã hội và nhân văn, phụ nữ học và sự hình thành quan điểm giới và vai trị của
nó đối với thực tiễn cuộc sống và các ngành khoa học xã hội ở các nước phát
triển…
Vào những năm cuối thế kỷ, vấn đề giới đã trở nên quen thuộc ở nước ta. Về
khoa học, quan điểm giới, lý thuyết nữ quyền và khoa học nghiên cứu về phụ nữ
của các nhà hoạt động vì phụ nữ ở các nước phương Tây phát triển đã được phổ
biến rộng rãi ở nước ta. Các lớp tập huấn về giới không chỉ dành cho những nhà
nghiên cứu, các cán bộ dự án hay các nhà quản lý và lãnh đạo bậc cao nữa mà đã
dành cho các cán bộ chính sách, cán bộ dự án của các ban, ngành, đồn thể, cán
bộ cơ sở và đơng đảo phụ nữ và nam giới cả ở nông thôn và thành thị. Các
nghiên cứu khoa học ở mọi lĩnh vực của đời sống xã hội đều được thực hiện với
xu thế chủ đạo giới hay còn được gọi là lồng ghép giới. Những nghiên cứu
hướng tới xây dựng chính sách phát triển kinh tế – xã hội, văn hóa – giáo dục,
sức khỏe và dân số – kế hoạch hóa gia đình cũng như các dự án, chương trình
điều tra cơ bản theo quan điểm giới ở tầm vĩ mô chính là xu hướng chủ đạo và
9
những thành tựu nổi bật, những bước tiến bộ vượt bậc của nghiên cứu giới ở Việt
Nam.
Thời kỳ thứ ba của nghiên cứu và truyền bá giới ở Việt Nam được bắt đầu
từ những năm đầu thế kỷ XXI và về thực chất nó là sự tiếp tục những cố gắng
cũng như những thành tựu của hai thời kỳ trên. Có thể khẳng định, sau 10 năm
được truyền bá vào Việt Nam, quan điểm giới đã thực sự làm thay đổi nhận thức,
thái độ và hành vi của nhiều người Việt Nam đối với các vấn đề phụ nữ, bình
đẳng, hội nhập và phát triển. Xu thế tồn cầu hóa đang ngày càng tác động đến
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, sự chủ động và tích cực của Việt Nam trong
hội nhập quốc tế, những thành tựu to lớn và tồn diện của cơng cuộc đổi mới
mang lại đang mở ra những cơ hội và thách thức cho sự phát triển của mọi người
Việt Nam nói chung và phụ nữ nói riêng. Trong bối cảnh đó, để đáp ứng kịp thời
những đòi hỏi thực tiễn của sự nghiệp giải phóng phụ nữ, nghiên cứu về giới ở
nước ta đã có một bước phát triển mới.
Theo tác giả Vũ Mạnh Lợi trong bài viết “Một số quan điểm lý thuyết về giới
trong nghiên cứu gia đình”, có lẽ một trong những vấn đề gây nhiều tranh cãi
nhất về các dàn xếp trong gia đình, vai trị của nam và nữ, người trẻ tuổi và
người già, các quan hệ của họ trong gia đình, và các hàm ý của những dàn xếp
này đối với các tổ chức xã hội khác là mức độ mà theo đó các dàn xếp trong gia
đình phụ thuộc vào cấu tạo sinh học của nam và nữ, và mức độ mà theo đó các
quan hệ gia đình bị quy định bởi các yếu tố xã hội và văn hóa. Những người theo
quyết định luận sinh học cho rằng chọn lọc tự nhiên “đã cấy” vào con người ý
muốn truyền cho đời sau các gen của mình và phần nhiều, có thể là hầu hết, hành
vi được kích thích bởi xung lượng sinh học bên trong này (innate impulse) để
thấy được mã di truyền của mình tồn tại. Họ lập luận rằng, những khác biệt giữa
nam và nữ trong các vai trò xã hội, cấu trúc thứ bậc xã hội, trong các quan hệ
10
quyền lực, phân cơng lao động, v.v.. trong gia đình và giữa gia đình và xã hội
rộng lớn hơn có thể quy về những khác biệt đã được chương trình hóa về mặt
sinh học giữa hai giới tính như những khác biệt giữa nam và nữ về các chiến
lược tái sinh sản, các hóc mơn, kích thước và hình dạng của não bộ, các nhịp
sống theo thời gian trong ngày, đồng hồ sinh học liên quan đến các thời kỳ phát
triển trong chu trình sống,...
Theo quan điểm này, sự thống trị của nam giới và tính thụ động của nữ giới,
tính hơn hẳn về trí tuệ và khả năng nhận thức tốt hơn của nam giới, khả năng
tình cảm đặc biệt của phụ nữ, v.v.. là những sản phẩm tự nhiên của một, hoặc là
sự kết hợp của một số yếu tố như các chiến lược tái sinh sản của nam và nữ,
những đặc điểm đặc thù về giới tính của các hóc mơn và mức của các hóc mơn
này, kích thước và hình dạng của não bộ, phân hóa chức năng theo các bán cầu
đại não (lateralization), và các phẩm chất sinh học khác. Theo quyết định luận
sinh học, những hành vi như ngoại tình, hiếp dâm, sự loạn luân, phân biệt chủng
tộc, sự hy sinh vì người khác, các dàn xếp trong gia đình, sự gia trưởng, sự
khơng chung thủy của nam giới, sự bài ngoại, sự thống trị người khác, sự chọn
lọc bạn đời,.. tất cả đều có nguồn gốc từ di sản sinh học của con người. Lối lập
luận này đôi khi đi xa tới mức coi các quá trình sinh học là những yếu tố chính
quyết định trật tự xã hội hiện hành, rằng sự bất bình đẳng giữa nam và nữ là
khơng tránh khỏi, và "sự loại trừ phụ nữ khỏi các vai trò chính sách chủ yếu là
hiện tượng có tính chất quốc tế, và có tính chất giống lồi"
Đối lập với quan điểm quyết định luận sinh học, nhiều nhà khoa học xã hội
đã chỉ ra tầm quan trọng hàng đầu của văn hóa và sự học hỏi có tính xã hội. Điều
đặc biệt đáng chú ý là thực tế có một số lượng lớn các nghiên cứu so sánh các
nền văn hóa và bên trong mỗi nền văn hóa đã cho thấy sự biến thiên lớn trong tổ
chức gia đình-điều khó có thể được giải thích bằng quan điểm sinh học đơn giản
11
hóa. Những bằng chứng nhân chủng học xã hội đã cho thấy có nhiều xã hội mà ở
đó phụ nữ không lệ thuộc vào đàn ông, cùng tham gia một cách bình đẳng với
đàn ơng trong phân cơng lao động; ở đó việc phụ nữ lựa chọn bạn đời và chủ
động khởi xướng hành vi tình dục là "một thực tế phổ biến".
Tương phản một cách sắc nét với cách tiếp cận sinh học xã hội là quan điểm
của các học giả theo thuyết nữ quyền. Xuất phát điểm của các lý thuyết nữ quyền
là gia đình khơng phải là một thiết chế có tính tất yếu về sinh học. Trái lại, đó là
một thiết kế xã hội, một hệ tư tưởng, một hệ thống mang tính thiết chế của các
quan hệ xã hội và các ý nghĩa văn hóa (Epstein, 1988; Thorne, 1982; Collier và
đồng nghiệp, 1982). Những học giả nữ quyền xem sinh học chỉ như "một phạm
vi của các năng lực, một lý thuyết về "tính tiềm năng sinh học" (Epstei, 1988: 6).
Những khác biệt giữa nam và nữ thể hiện ở hành vi xã hội của họ, trí tuệ, đạo
đức, tình cảm,.. khơng mấy là hậu quả của các yếu tố sinh học mà chính là sản
phẩm được tạo ra bởi văn hóa và các can thiệp xã hội từ vật liệu sinh học thô
(Epstein,1988: Thorne, 1982). Vì vậy, khái niệm phù hợp trong việc phân tích
gia đình, những khác biệt và tương đồng giữa nam và nữ cần phải là khái niệm
giới (gender) chứ không phải giới tính (sex). Hệ thống gia đình hiện tồn đã được
tạo ra bởi con người, và nó được tạo ra theo cách thức đã mang lại rất nhiều lợi
thế cho nam giới với cái giá làm giảm quyền của phụ nữ. Những người theo
thuyết nữ quyền xem quyền lực của nam giới đối với phụ nữ như nguồn gốc của
sự bất bình đẳng giới trong gia đình và ngồi xã hội. Họ lập luận rằng việc kiểm
soát quyền lực cho phép nam giới tạo ra một diện rộng các vai trò của nam giới
và thu hẹp đáng kể những lựa chọn dành cho phụ nữ. Kết quả là những địa vị có
lợi nhất trong cấu trúc xã hội đã được giữ riêng cho nam giới. Việc phân chia vai
trò được xem như điểm mấu chốt trong khung lý thuyết của phái nữ quyền. Họ
cho rằng bất bình đẳng giới trong gia đình cần phải được giải thích dưới dạng sự
12
phân cơng các vai trị giới mà đến lượt mình chỉ có thể hiểu được "bằng việc
chúng ta đã ni dạy con cái như thế nào, bằng sự phân công lao động theo giới
tính, bằng các định nghĩa văn hóa về cái gì là thích hợp đối với mỗi giới, và bằng
các sức ép xã hội mà chúng ta đặt lên mỗi một trong hai giới"
Vấn đề giới là một phạm trù xã hội, chịu ảnh hưởng của những hoàn cảnh xã
hội khác nhau nên có tính lịch sử cụ thể, thay đổi theo không gian và thời gian.
Những đặc trưng về giới như cách ứng xử giữa giới nam và giới nữ, các đối xử
với giới nam và giới nữ, sự phân công giữa họ trog lao động xã hội và lao động
gia đình, sự hưởng thụ vật chất và văn hóa, lối sống, nếp sống của họ, thậm chí
cách ăn mặc, trang điểm,… đều chịu ảnh hưởng của những nét đặc trưng văn hóa
riêng biệt, và khơng phải giống nhau cho mọi đàn ông hay mọi đàn bà trên Thế
Giới.
Những đặc trưng về giới đã thay đổi nhiều, ngày xưa khác này nay, ở nước
này khác nước kia, không phải bẩm sinh và cố định. Chúng chịu ảnh hưởng của
những nền văn hóa khác nhau, văn hóa phương Đơng khác văn hóa phương Tây,
tín ngưỡng, phong tục, tập quán ở Việt Nam khác với các nước láng giềng Đông
Nam Á,… các vấn đề dân tộc, giai cấp, tầng lớp xã hội đều là những yếu tố có
ảnh hưởng quan trọng đến vấn đề giới.
Nghiên cứu về giới trong gia đình, tác giả Nguyễn Thị Thu Hồng (2014) với
đề tài “Thực trạng cha mẹ phân biệt đối xử theo giới tính của con ở một số gia
đình huyện Gị Công, tỉnh Tiền Giang” đã cho thấy: cha mẹ vẫn còn phân biệt rất
rõ ràng về vai trò của con trai và con gái đối với những vấn đề của gia đình. Các
nội dung được cha mẹ đồng ý với tỷ lệ cao là:
- Chỉ có con trai mới có thể thời cúng, giữ hương hảo cho tổ tiên và con gái
khơng thể chủ trì được các buổi lễ trên, giải quyết các việc lớn trong gia đình”
13
- Con gái nhất thiết phải biết các công việc nội trợ, cịn con trai có thể khơng
biết.
- Con gái khó có thể giúp đỡ cha mẹ về mặt tài chính sau khi đã lập gia đình
nhưng con trai có thể làm được
- Chỉ con trai mới là chỗ dựa vững chắc cho cha mẹ khi về già
- Khi chia tài sản cho các con, cha mẹ nên chia tài sản cho con trai nhiều hơn.
Về sự cần thiết của việc học đối với con trai, con giá, các nội dung được đồng
ý với tỷ lệ trên 50%:
- Nếu gia đình khơng có đủ điều kiện cho tất cả các con cùng đi học thì nên
cho con trai đi học thay vì con gái.
- Con trai thì cần học đến nơi đến chốn nhưng con gái không nhất thiết phải
như thế.
- Con gái học nhiều rồi không nhờ vả được gì vì nó phải lấy chồng
- Con gái học nhiều cũng khó làm được gì vì cịn phải lo cho gia đình nó sau
này
- Con trai cần ưu tiên việc học hơn con gái nên gia đình đầu tư cho con trai
nhiều hơn.
Về trách nhiệm của con trai, con gái trong cơng việc gia đình:
- Cơng việc “Đi chợ, nấu ăn” và “chăm sóc em, ơng bà” được đa số lựa chọn
là việc của con gái với tỷ lệ cao.
- Các công việc cả trai và gái cùng làm: “Buôn bán”, “làm vườn”, “làm
ruộng”, “chăn nuôi”
Đa số các bậc cha mẹ có sự phân biệt trong nhận thức về vai trò của con trai
và con gái trong các vấn đề gia đình, các cơng việc quan trọng trong gia đình,
14
cha mẹ thường để cho con trai làm chủ và cho rằng những công việc nội trợ
trong nhà là việc của riêng con gái.
Trong nhận thức của cha mẹ về việc học của con cái, cha mẹ vẫn cho rằng
con trai cần học hơn là con gái. Vì thế ln tạo điều kiện, cơ hội và đầu tư hơn
cho con trai trong việc học.
Đối với trách nhiệm của các con trong cơng việc gia đình, cha mẹ vẫn cho
rằng cơng việc nội trợ, chăm sóc ơng bà, em nhỏ trong gia đình là việc dành
riêng cho con gái, các cơng việc cịn lại thì cả hai con đều phải làm.
Theo tác giả Nguyễn Mạnh Tưởng (2016) trong bài báo “Triết lí về con người
và nhận thức về giới”: Trong hướng tiếp cận con người (cả nam và nữ), triết học
macxit đã chú ý đến cả 2 mặt: Tự nhiên (sinh học) và xã hội. Các Mác viết:
“Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hịa những mối quan hệ
xã hội” mà nhận thức về giới (giới nam và giới nữ) là bộ phận quan trọng của
quá trình nhận thức về con người. Với tư cách con người, nam và nữ có những
điểm tương đồng và khác biệt ấy. Nhưng với tư cách giới, nhận thức chỉ hướng
vào tìm kiếm những khác biệt giữa nam và nữ, nguyên nhân của những khác biệt
và đề ra giải pháp giải quyết những khác biệt để đạt tới sự bình đẳng.
Trong phần nghiên cứu của tác giả Đỗ Hoàng (2006) ở bài báo “Thực trạng
định kiến đối với vai trò của nam giới và phụ nữ trong gia đình”: có 74.9% số
người được hỏi cho rằng: Chồng cần là người chịu trách nhiệm chính về kinh tế
trong gia đình, 21.6% số người còn lại cho rằng vợ chồng chịu trách nhiệm như
nhau trong việc phát triển kinh tế gia đình. Theo giải thích thì khơng thể để phụ
nữ làm trụ cột kinh tế được vì điều đó sẽ làm cho người phụ nữa mất đi sự dịu
dàng và sự phụ thuộc vào chồng sẽ giảm đi. Hơn nữa, nếu một người chồng
khơng đảm đương được vai trị là trụ cột gia đình, thì anh ta hồn tồn mất đi
15
quyền năng của người đàn ơng trong gia đình: “Khi đó, người chồng thấy bất lực
yếu đuối, làm cho người chồng thấy mình bị mất quyền lực trong gia đình” (Nam - 46 tuổi). Cũng theo cách lặp luận này, nếu để phụ nữa đóng vai trị chính
về kinh tế, thì trong mắt phụ nữ, nam giới sẽ khơng cịn được coi trọng. Chính từ
phía phụ nữ, đa số người được hỏi cũng khẳng định điều này: Họ cảm thấy khó
khăn để có thể coi trọng người chồng khơng thể gánh vác vai trò là trụ cột về
kinh tế. Những tư tưởng này đã khiến nhiều nam giới không muốn và khơng thể
dời bỏ hình ảnh vai trị trụ cột kinh tế gia đình của mình, mặc dù trong thực tế
hiện nay, trong những hoàn cảnh khác nhau, nhiều người đã khơng cịn gánh
được trách nhiệm đó.
Vai trị thực tế của người chồng và người vợ trong gia đình hiện nay đã có
nhiều thay đổi. Phụ nữ đang được tạo điều kiện để tham gia vào các hoạt động xã
hội. Xã hội cũng đòi hỏi nam giới tham gia các cơng việc gia đình. Tuy nhiên,
quan niệm về vai trị trụ cột kinh tế của nam giới lại chưa được cởi bỏ. Nghiên
cứu của Liebenman (1956) cho ta thấy một cơ chế có thể đem lại những thay đổi.
Vai trị mới đòi hỏi hành vi mới, Hành vi mới này sẽ làm nảy sinh những thái độ
mới. Vì thế, khi cá nhân được đặt vào những vai trị mới (ví dụ: nam giới làm
cơng việc nội trợ) thì sẽ nảy sinh những thái độ chống lại những định kiến khơng
cịn phù hợp.
1.2. Cơ sở lý luận về nhận thức về vai trị giới của học sinh THCS:
1.2.1. Giới tính và giới
Giới tính (sex): Một thuật ngữ được các nhà khoa học xã hội và các nhà sinh
học dùng để chỉ một phạm trù sinh học. Trong ý nghĩa đó, nam và nữ khác nhau
về mặt sinh học, tạo nên hai giới tính: nam và nữ
Những khác biệt căn bản về giới tính:
16
- Hình dạng bên ngồi của cơ thể: nam giới cao hơn, nặng hơn, thể lực mạnh
hơn phụ nữ.
- Khác nhau về cấu tạo nhiễm sắc thể, hormone, về cơ thể học
- Khác nhau về chức năng sinh học, tạo nên vai trị của giới tính: ví dụ phụ nữ
mang thai, sinh con và cho con bú bằng sữa mẹ.
Những sự khác nhau về cơ thể đã là cơ sở cho một số lý thuyết về sự khác
biệt giới tính về mặt tâm lý. Tuy nhiên, chúng ta không thể đơn giản kết luận
rằng sự khác biệt về sinh học sẽ tất yếu dẫn đến những khác biệt về tâm lý, và
đặc biệt là về năng lực và vai trò trong xã hội của hai giới.
Giới (gender) là một thuật ngữ xã hội học bắt nguồn từ môn Nhân loại học
nghiên cứu về vai trò, trách nhiệm và quyền lợi mà xã hội quy định cho nam và
nữ, bao gồm việc phân chia lao động, các kiểu phân chia, các nguồn và lợi ích.
Giới đề cập đến các quy tắc tiêu chuẩn theo nhóm tập thể chứ khơng theo mục
đích cá nhân. Vai trò giới được xác định theo văn hóa, khơng theo khía cạnh sinh
vật học và có thể thay đổi theo thời gian, theo xã hội và các vùng địa lý khác
nhau. Khi mới sinh ra, chúng ta có sẵn đặc tính giới. Những đặc tính giới mà
chúng ta có được là do chúng ta học được từ gia đình, xã hội và nền văn hóa của
chúng ta.
Theo PGS.TS Lê Thị Quý (2009) trong Giáo trình xã hội học giới: có thể
định nghĩa ngắn gọn: Giới là quan hệ xã hội giữa nam và nữ và cách thức mối
quan hệ đó được xây dựng nên trong xã hội.
Theo TS. Nguyễn Mạnh Tưởng (2008) Triết lí về con người và nhận thức
giới: Giới dùng để chỉ các đặc điểm, vai trò và mối quan hệ xã hội giữa nam và
nữ. Các đặc điểm giới là các đặc điểm xã hội của nam và nữ, do đó chúng có thể
thay đổi dưới tác động của các yếu tố xã hội. Ví dụ: ở nơi này, phụ nữ có đặc
17
điểm là phụ thuộc vào nam giới về mặt kinh tế và chỉ là người thưc hiện các
quyết định do nam giới đưa ra nhưng ở nơi khác là phụ nữ quyết định cùng nam
giới các vấn đề của cuộc sống.
Theo TS. Thái Thị Ngọc Dư (2013): Giới là một phạm trù khoa học xã hội,
được sử dụng để nói về các vai trò, thái độ và giá trị của giới tính do các cộng
đồng xã hội gán cho. Như vậy giới được xác định trong mối quan hệ giữa nam và
nữ về quyền lực, vị trí xã hội và phân cơng lao động. Những tính chất của quan
hệ giới được tạo dựng qua q trình lịch sử, có tính xã hội, khơng cố định mà có
thể thay đổi qua thời gian, có thể khác nhau trong những bối cảnh văn hóa, xã
hội khác nhau.
Theo Tài liệu Hướng dẫn về bình đẳng giới cho các ấn phẩm của UNESCO
(2012), giới đề cập đến vai trò và trách nhiệm của nam giới và phụ nữa được tạo
ra trong gia đình, xã hội và nền văn hóa của chúng ta. Khái niệm giới cũng liên
quan tới những mong đợi về đặc điểm, khả năng và những hành vi, ứng xử của
cả phụ nữ và nam giới (nữ tính và nam tính)
* Trong nghiên cứu của tác giả Võ Thị Tường Vy (1999): Sự khác biệt giữa
nam và nữ về mặt tâm lý:
Giữa nam và nữ cũng có những khác biệt rõ rệt về tâm lý:
- Cảm giác ở nữ thường rất nhạy cảm với màu sắc và âm thanh.
- Tri giác ở nữ nhạy hơn với những sự vật hiện tượng rực rỡ, gây ấn tượng
mạnh.
- Hứng thú ở nam và nữ khơng giống nhau, nam thích hoạt động địi hỏi sự
vận động mạnh như thể dục..., và khơng thích các mơn xã hội như sử, địa, văn ....
Ngược lại, nữ thì lại thường thích các mơn xã hội. Hoạt động trong thời gian rỗi
của các em nữ ít đa dạng hơn nhưng quan tâm đến nhau hơn, có tổ chức hơn. Trò
18
chơi của các em gái không ồn ào, thường gắn với thiên nhiên, với sinh hoạt thẩm
mỹ. Còn các em trai lại thích trị chơi vận động, ồn ào hơn.
- Tình cảm của hai giới cũng có những khác biệt. Tình mẫu tử là đặc trưng
cho tình cảm nổi bật ở phụ nữ. Ngay từ nhỏ, các em gái đã thể hiện nhu cầu về
sự chăm sóc một ai đó. Phong cách sống của phụ nữ đượm màu sắc tình cảm
thường gắn liền với chức năng làm vợ, làm mẹ. Phụ nữ đa cảm, dễ xúc động và ít
kiềm chế xúc động hơn nam. Xã hội cũng dễ chấp nhận điều đó, trong khi đó, lại
địi hỏi nam giới phải chế ngự cảm xúc của mình.
- Tình cảm của nam và nữ cũng khác nhau: phụ nữ trội hơn nam giới về tính
cẩn thận và tỷ mỹ khi thực hiện một cơng việc nào đó. Nữ giới thường cần cù
kiên nhẫn, dễ thích ứng với hồn cảnh hơn nam giới. Phụ nữ chịu đựng sự cô
đơn tốt hơn nam giới. Khuynh hướng vươn lên làm người lớn ở em gái và trai
cũng khác nhau: em trai thường hướng tới sự tự khẳng định như sức mạnh, sự
dũng cảm còn em gái lại đi theo con đường khác như chăm sóc em nhỏ, muốn
trở nên hấp dẫn hơn...
- Năng lực của nam và nữ cũng khác nhau: khả năng nhận định khơng gian
hai chiều và vị trí trong khơng gian của nam tốt hơn nữ. Nhưng khả năng biểu
hiện tư duy bằng ngôn nữ của phụ nữ lại tốt hơn nam giới, vì thế học sinh gái
thường thích các mơn học xã hội hơn nam. Nữ học ngoại ngữ tốt hơn vì cơ chế
lưu giữ ngơn ngữ của nữ là ở cả hai bán cầu. Theo giáo sư H. Lignoret (Pháp) thì
ngay từ nhỏ, trẻ em nam đã có đủ khả năng khác hẳn so với bạn gái do việc "lập
chương trình" trong não bộ khá hơn. Độ nhanh và độ chính xác của tri giác nữ
trội hơn nam, trí nhớ máy móc và ngơn ngữ lưu lốt của nữ cũng cao hơn nam.
Nhưng thể lực, độ nhanh của các phản ứng và sự phối hợp vận động của cơ thể
nữ là kém hơn nam. Phụ nữ lĩnh hội khó khăn hơn nam giới về các loại tri thức
19
và kỹ xảo cơ giới. Người ta thường nhận xét rằng: trong thời kỳ đi học các em
gái thích nghi với hoàn cảnh nhà trường tốt hơn, chăm chỉ hơn nhưng khi trưởng
thành thì sự thành cơng của phụ nữ lại thường kém hơn nam giới.
1.2.2. Vai trò giới
Vai trò: Theo từ điển xã hội học Oxford: Vai trò là một khái niệm then chốt
trong lý thuyết xã hội học. Nó nhấn mạnh những kỳ vọng xã hội gắn với những
“vị thế hay vị trí nhất định trong xã hội và nó phân tích sự vận hành của những
kỳ vọng ấy”
Vai trò giới: là tập hợp những hành vi ứng xử mà xã hội mong đợi ở phụ nữ
và nam giới liên quan đến những đặc điểm và năng lực mà xã hội coi là thuộc về
đàn ông hay đàn bà trong một xã hội hay một nền văn hóa cụ thể nào đó. Hay nói
cách khác: Vai trị giới là những hành vi, công việc, hoạt động xã hội mà phụ nữ
và nam giới đang làm hoặc những hành vi, nhiệm vụ, trách nhiệm đã được định
rõ về mặt xã hội đối với phụ nữ và nam giới dựa trên sự khác biệt quy định họ
phải suy nghĩ, hành động và cảm nhận dựa trên giới tính của mình.
Trong gia đình, vai trị của các thành viên phụ thuộc lẫn nhau. Các vai trị của
nam giới thường mang tính đối ngoại, kinh tế, định hướng nên dễ biểu hiện,
được xã hội đánh giá cao, còn vai trò của phụ nữ thường là làm các cơng việc
trong gia đình, nội trợ, ni dưỡng nên khó thể hiện, vì vậy khơng được nhìn
nhận đúng mức và bị đánh giá thấp. Trong quan hệ với người chồng, người phụ
nữ đóng vai trị thụ động, là người thực hiện, còn nam giới là người chủ động,
người ra lệnh để phụ nữ thực hiện. “Quyền hành trong gia đình nảy sinh lại dựa
vào nguồn phân phối bất cơng trong vịng gia đình, sự bất cơng về quyền lực,
thiên về giới nam, cũng định hình việc phân chia quyền lực”.
20
Quan điểm tiếp cận giới: Trong những năm 80 của thế kỷ XX, quan điểm tiếp
cận giới được vận dụng trong các cơng trình nghiên cứu và các chương trình, dự
án kinh tế, xã hội ở Việt Nam, đặc biệt là khi xem xét vai trò của phụ nữ trong
gia đình và xã hội. Các lý thuyết về giới đề cập đến quan hệ xã hội của nữ giới
và nam giới trong mọi lĩnh vực của đời sống. Vai trò giới được xác định dựa trên
sự phân công lao động theo giới trong 3 loại công việc: sản xuất, tái sản xuất và
công việc cộng đồng.
- Hoạt động sản xuất: Hoạt động này liên quan đến sản xuất hàng hóa, dịch
vụ, trao đổi hàng hóa và mua bán, làm ruộng, làm thuê, tự tổ chức công việc…
Hoạt động sản xuất là loại hoạt động được trả công hay tạo ra thu nhập. Phụ nữ
và nam giới đều có khả năng tham gia vào hoạt động sản xuất, song phần lớn
chức năng và trách nhiệm đối với từng loại hoạt động thường khác nhau và tùy
thuộc vào phân công lao động theo giới. Hoạt động sản xuất của người phụ nữ
thường bị đánh giá thấp hơn so với nam giới và người phụ nữ cũng tham gia làm
những công việc tương ứng với nam giới nhưng họ lại được trả công thấp hơn
hẳn. Đây là điểm bất hợp lý trong việc nhìn nhận xem xét vai trị của người phụ
nữ trong hoạt động sản xuất tạo ra thu nhập để góp phần phát triển kinh tế gia
đình. Bên cạnh đó, do bị đánh giá một cách hạn chế nên người phụ nữ cũng ít có
cơ hội được tiếp cận và quản lý các nguồn lực như vốn, kỹ thuật…
- Hoạt động tái sản xuất: Hoạt động tái sản xuất liên quan đến việc chăm sóc
và duy trì hộ gia đình. Nó liên quan đến việc mang thai, chăm sóc con cái, chăm
lo cuộc sống của gia đình… Tái sản xuất là loại hoạt động thiết yếu để duy trì
cuộc sống của con người. Trên thực tế, loại hoạt động này rất ít khi được coi là
“hoạt động chính” mà thường là “công việc không lương” và thường do phụ nữ
đảm nhiệm.
21
- Hoạt động cộng đồng: Là hoạt động liên quan đến những hoạt động tập thể
như cải thiện điều kiện và môi trường sống tại cộng đồng. Loại hoạt động này ít
khi được coi là đem lại lợi ích về kinh tế. Trên thực tế, vai trò của người phụ nữ
trong cộng đồng, nhất là khu vực nông thôn không được đánh giá cao, họ thường
ít được bày tỏ quan điểm, nhu cầu của mình cũng như ít được tham gia vào quá
trình ra quyết định về các hoạt động ở cộng đồng, trong đó có cơng tác xóa đói
giảm nghèo.
Khi xem xét mối quan hệ giới trong một cộng đồng nhất thiết phải phân tích
vai trị giới đang tồn tại trong cộng đồng đó và sự phân cơng lao động theo giới ở
3 loại hình trên. Lý thuyết giới cũng cho rằng sự phân cơng vai trị xuất phát từ
sự thuận lợi về sinh học và sự phân công của xã hội. Ngồi ra, phân cơng lao
động theo giới còn gắn liền với các giá trị chuẩn mực xã hội, đặc trưng về văn
hóa và khác nhau về thời gian, khơng gian.
Theo tác giả Đồn Văn Trường, Nguyễn Thị Thanh Thúy (2015) trong bài
nghiên cứu “Các yếu tố ảnh hưởng đến vai trị giới trong hoạt động thực hiện
chính sách xóa đói giảm nghèo ở nơng thơn hiện nay”: Vai trị giới cịn thể hiện
sự mềm dẻo và thích nghi với những thay đổi của điều kiện thực hiện các chức
năng của mình chính là cơ sở của cơng bằng xã hội và hiệu quả xã hội. Trong
hoạt động xóa đói giảm nghèo, cách tiếp cận về giới xem xét tình trạng nghèo
đói của phụ nữ trong tương quan so sánh với nam giới và đặt vấn đề phụ nữ cần
được quan tâm một cách bình đẳng như là đối tượng và chủ thể của công tác
giảm nghèo. Cách tiếp cận này gợi ý việc cơng nhận vai trị sản xuất của phụ nữ
và tìm cách đáp ứng các nhu cầu giới thực tế, tập trung vào việc tạo thu nhập ở
quy mơ nhỏ. Ngồi ra, cần phải nâng cao quyền bình đẳng cho phụ nữ trong việc
22
tham gia vào việc đưa ra các quyết định quan trọng chính là hệ quả của khả năng
tiếp cận, sử dụng các nguồn lực như thông tin, sản xuất, lao động…
1.2.3 Lý luận về nhận thức
a. Khái niệm về nhận thức
Hoạt động nhận thức của con người là quá trình tâm lý, có khởi đầu, diễn
biến và kết thúc. Hoạt động nhận thức có liên quan mật thiết với các q trình
tâm lý khác như xúc cảm, ý chí... Hoạt động nhận thức là quá trình phản ánh bản
thân những sự vật hiện tượng trong hiện thực khách quan. Không chỉ phản ánh
hiện thực chung quanh ta mà còn phản ánh hiện thực của bản thân ta, nó khơng
chỉ phản ánh cái bên ngồi mà cịn phản ánh cái bên trong, khơng chỉ phản ánh
cái thực tại mà cịn phản ánh cái đã qua và cái sẽ tới hiện thực khách quan. Quá
trình nhận thức gồm 2 giao đoạn: Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính
* Nhận thức cảm tính: Gồm cảm giác và tri giác.
- Cảm giác: là quá trình nhận thức phản ánh một cách riêng lẻ từng thuộc tính
của sự vật, hiện tượng khi chúng đang trực tiếp tác động và giác quan
- Tri giác: là quá trình tâm lý phản ánh một cách trọn vẹn những thuộc tính
của sự vật, hiện tượng khi chúng trực tiếp tác động vào các giác quan.
* Nhận thức lý tính: Gồm tư duy và tưởng tượng
- Tư duy: là một quá trình nhận thức phản ánh những thuộc tính bản chất,
những mối liên hệ, quan hệ có tính quy luật của sự vật hiện khách quan mà trước
đó ta chưa biết
- Tưởng tượng: là quá trình tâm lý phản ánh những cái chưa từng có trong
kinh nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới dựa trên cơ sở
những biểu tượng đã có.
23
Hoạt động nhận thức là một trong những hoạt động tâm lý cơ bản liên quan
đến mọi hiện tượng tâm lý khác. Hoạt động nhận thức mang lại cho con người
những: Là quá trình nhận thức phản ánh những cái chưa từng có trong kinh
nghiệm của cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở những
biểu tượng đã có. Hình ảnh, biểu tượng, khái niệm về sự vật hiện tượng trong thế
giới khách quan, hay nói chung đó là những hiểu biết, chính sự hiểu biết đó chi
phối thái độ, tình cảm, nhu cầu, hành vi... của con người. Nhận thức được thể
hiện qua thái độ và biểu hiện qua hành vi. Ngược lại, những thuộc tính, những
q trình tâm lý đó lại ảnh hưởng đến hoạt động nhận thức, đến sự hiểu biết của
cá nhân.
b. Nhận thức giới
Nhận thức giới là khả năng xác định và nhận thức được sự khác biệt và tình
trạng bất bình đẳng cịn tồn tại giữa nam giới và nữ giới - Theo hướng dẫn về
Bình đẳng giới với các ấn phẩm của UNESCO năm 2012
Giới tính có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tâm lý nói chung của con người.
Giới tính chi phối những hành vi, cử chỉ, tư thế, tác phong, nếp sống của con
người. Do vậy, sự hiểu biết về các vấn đề giới tính của bản thân và của người
khác giới, từ đó có thể làm chủ và điều khiển được bản thân mình, để có cách cư
xử phù hợp trong quan hệ với người khác giới.
Ngay vào tuổi lên ba, khi trẻ tò mò muốn biết về mọi cái xung quanh mình thì
sự khác biệt giới tính cũng nằm trong tầm mắt của trẻ em khiến chúng thắc mắc
và tìm hiểm. Trẻ em nam bắt đầu nhận ra cái gì "mình có" mà các trẻ em gái
"khơng có" và ngược lại các em gái nhận ra những gì "mình có" mà các trẻ em
nam 'khơng có".... Và như vậy là trẻ đang có những hiểu biết sơ đẳng về giới
tính. Nhận thức về giới tính cơ bản hình thành khi trẻ bắt đầu có ý thức về "cái