Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

Quản trị công ty cổ phần theo mô hình có Ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (446.42 KB, 123 trang )

1


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
**************

NGÔ THỊ MINH THƯ

QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN CĨ BAN KIỂM SỐT THEO
LUẬT DOANH NGHIỆP NĂM 2020

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07

ĐỀ CƯƠNG LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: TS. NGUYỄN THỊ THU HƯƠNG
HÀ NỘI NĂM 2020
2


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Nhận thức được vai trị to lớn của loại hình CTCP trong phát triển nền kinh tế
thị trường, thời gian qua Việt Nam đã có nhiều bước tiến đáng kể trong việc hoàn
thiện pháp luật về QTCT, đặc biệt là quản trị CTCP mơ hình có Ban kiểm sốt - Một
mơ hình tổ chức và hoạt động của CTCP có tính cách truyền thống tại Việt Nam (đã ra
đời từ Luật Công ty 1990 cho đến nay). Trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, đến LDN
2014, khung pháp lý về quản trị CTCP nói chung và CTCP mơ hình có BKS đã tương


đối hoàn thiện với nhiều quy định tiến bộ, tiệm cận với các chuẩn mực, thông lệ tốt về
QTCT trên thế giới, có một cấu trúc quản trị nội bộ với các thiết chế bao gồm
ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ (TGĐ) và BKS được phân quyền và chế ước chặt chẽ đảm bảo
tính hiệu quả trong hoạt động, các yêu cầu về công khai, minh bạch thông tin, bảo vệ
quyền lợi của cổ đông công ty được xác lập và đảm bảo thực hiện…
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của nền kinh tế và nhu cầu mở rộng, hội nhập
kinh tế quốc tế ngày càng cao, pháp luật về quản trị CTCP theo mơ hình có BKS ở
Việt Nam hiện nay đang bộc lộ nhiều vấn đề cần tiếp tục hồn thiện. Những vụ việc
tranh chấp nội bộ cơng ty, những hành vi tư lợi của người quản trị gây thiệt hại đến lợi
ích cơng ty và cổ đơng vẫn xảy ra thường xuyên mà nguyên nhân chủ yếu xuất phát từ
những hạn chế và bất cập của khung pháp luật về QTCT. Các quy định pháp luật về
QTCT chưa thực sự tạo thuận lợi cho cổ đông, nhà đầu tư thực hiện quyền của mình,
thậm chí tạo rào cản cho cổ đông trong việc bảo vệ các quyền này và bị cổ đông lớn
hoặc người quản lý công ty lạm dụng (như việc cổ đơng khơng có quyền tiếp cận các
thông tin về giao dịch giữa công ty với người có liên quan và khơng được cung cấp
thơng tin về người quản lý đang bị kiện cũng như các thông tin cần thiết khác liên
quan đến việc khởi kiện). Trách nhiệm bồi thường thiệt hại của người quản lý chưa rõ
ràng, thỏa đáng [3, tr3].
Ngày 17/06/2020, Quốc hội đã thông qua LDN mới (LDN 2020) để thay thế
LDN 2014 kể từ ngày 01/01/2021. LDN 2020 tiếp tục có những bước cải cách đáng


kể,


tạo thuận lợi cho việc thành lập và đăng ký doanh nghiệp, cắt giảm chi phí và thời
gian khởi sự kinh doanh, nâng cao khung khổ pháp lý về QTCT nhằm cải thiện môi
trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh quốc gia. Mặc dù đã có nhiều đổi mới song
khung pháp luật về quản trị CTCP nói chung và CTCP mơ hình có BKS nói riêng do
LDN 2020 tạo ra vẫn cịn nhiều vấn đề cần tiếp tục hồn thiện. Nhiều bất cập từ LDN

2014 vẫn chưa được sửa đổi, bổ sung triệt để, đặc biệt cần đồng bộ LDN 2020 với các
văn bản luật chuyên ngành, xây dựng các văn bản hướng dẫn thi hành để đảm bảo
thực thi một cách có hiệu quả LDN 2020. Việc tiếp tục nghiên cứu nhằm hoàn thiện
khung khổ pháp lý về quản trị CTCP nói chung và quản trị CTCP mơ hình có BKS
nói riêng trong giai đoạn hiện nay là việc làm cần thiết. Do đó, tác giả mạnh dạn chọn
chủ đề nghiên cứu: “Quản trị công ty cổ phần theo mơ hình có Ban kiểm sốt theo
Luật Doanh nghiệp 2020” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Pháp luật về quản trị CTCP nói chung và quản trị CTCP mơ hình có BKS nói
riêng là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu khoa học pháp lý quan tâm, trong đó có thể
kể đến một số cơng trình nghiên cứu tiêu biểu như:
- Ngô Viễn Phú (2004), Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp

luật CHXHCN Việt Nam và CHND Trung Hoa, Luận án tiến sỹ Luật học, Đại học Quốc
gia Hà nội, Hà Nội;
- Đồng Ngọc Ba (2004), Hệ thống pháp luật về doanh nghiệp - Một số vấn đề

lý luận và thực tiễn, Luận án tiến sỹ Luật học, Trường Đại Học Luật Hà Nội, Hà Nội;
- Nguyễn Khắc Thuận (2013), “Chế độ pháp lý về quản trị công ty cổ phần ở Việt

Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội. Luận văn
nghiên cứu về quản trị CTCP nói chung trong đó có CTCP mơ hình có BKS theo LDN
2005.
- Hoàng Thị Mai (2015), “Hoàn thiện pháp luật Việt Nam về quản trị công ty cổ

phần”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật - Đại học Quốc Gia Hà Nội. Luận văn đã
làm rõ được những điểm mới của LDN 2014 so với LDN 2005 về khung pháp luật



liên


quan tới quản trị CTCP, qua đó nêu lên các giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị
CTCP.
- Bùi Thị Bích (2015), “Sự pháp triển mơ hình quản trị công ty cổ phần ở Việt

Nam”, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật – Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã
phác thảo bức tranh tổng thể về sự ra đời và phát triển của loại hình CTCP và khung
pháp lý về quản trị CTCP ở Việt Nam từ Luật Công ty 1990 đến LDN 1999, LDN
2005 và LDN 2014.
- Nguyễn Anh Tuấn (2016), “Quản trị công ty cổ phần theo Luật Doanh nghiệp”,

Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội. Luận văn đã làm rõ khung khổ
pháp lý về quản trị CTCP theo LDN 2014.
- PGS.TS Phạm Duy Nghĩa (2004), Chuyên Khảo Luật kinh tế, NXB Đại học

Quốc gia Hà Nội;
- Nguyễn Ngọc Bích và Nguyễn Đình Cung (2008), Chun khảo “Cơng ty -

vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh nghiệp 2005”, NXB Trẻ, TPHCM;
- TS. Bùi Xuân Hải (2011), Sách tham khảo “Luật Doanh nghiệp bảo vệ cổ

đông: pháp luật và thực tiễn”, Nxb. Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội…
Ngồi các giáo trình, sách chuyên khảo, tham khảo, các Luận án, Luận văn, Khóa
luận tốt nghiệp, chủ đề pháp luật về QTCT nói chung và quản trị CTCP mơ hình có
BKS nói riêng cịn được đề cập đến trong nhiều bài báo khoa học đăng trên các tạp chí
chuyên ngành, các báo cáo được trình bày tại các hội thảo khoa học, chẳng hạn như:
Phạm Văn Tuyết, “So sánh cấu trúc quản trị cơng ty điển hình trên thế giới”, Tạp chí
Khoa học pháp lý, số 6/2006; Nguyễn Thị Lan Hương, “Một số so sánh về công ty cổ

phần theo Luật Công ty Nhật Bản và Luật Doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Khoa
học ĐHQGHN, số 25/2009; Phạm Văn Tuyết, “So sánh cấu trúc quản trị cơng ty điển
hình trên thế giới”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 6/2006; Phan Huy Hồng, “Tạo
thuận lợi hơn cho việc thực hiện quyền cổ đông trong Luật Liên minh Châu Âu và luật
Đức - Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Tạp chí khoa học pháp lý, số 3/2010; Báo cáo
khoa học chuyên đề “Một số vấn đề về mơ hình quản trị cơng ty trên thế giới và Việt


Nam” của


TS. Bùi Xuân Hải, Hội thảo khoa học: Pháp luật về QTCT - Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, 2011…
Như vậy, có thể nói rằng pháp luật về quản trị CTCP nói chung và quản trị
CTCP mơ hình có BKS nói riêng ở Việt Nam hiện nay đã có rất nhiều cơng trình
nghiên cứu và các cơng trình nghiên cứu kể trên đã mang lại những giá trị khoa học
rất lớn, giúp chúng ta có cái nhìn tổng thể về QTCT và những yêu cầu về khung pháp
luật liên quan đến QTCT nói chung và quản trị CTCP mơ hình có BKS nói riêng. Tuy
nhiên, việc nghiên cứu về quản trị CTCP mơ hình có BKS theo LDN 2020 thì cịn rất
hạn chế do LDN 2020 mới được ban hành và mới chỉ bắt đầu có hiệu lực thực thi kể
từ 01/01/2021 đến nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn là làm rõ những vấn đề lý luận về quản trị
CTCP mơ hình có BKS; phân tích, đánh giá thực trạng các quy định pháp luật về quản
trị CTCP mơ hình có BKS theo LDN 2020. Thơng qua đó, đề xuất các phương hướng,
giải pháp hồn thiện các quy định pháp luật về quản trị CTCP mơ hình có BKS ở Việt
Nam trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu


Với mục đích nghiên cứu như trên, Luận văn có các nhiệm vụ cụ thể là:
- Nghiên cứu, làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về quản trị CTCP và pháp

luật về quản trị CTCP nói chung và CTCP mơ hình có BKS nói riêng;
- Nghiên cứu so sánh với các chuẩn mực, thông lệ tốt trên thế giới về khung pháp

lý quản trị CTCP mô hình có BKS;
- Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về quản trị CTCP mơ hình có BKS theo

LDN 2020;
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả

quản trị CTCP mơ hình có BKS theo LDN 2020 ở Việt Nam hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu


CTCP với tư cách là một loại hình tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau. Quản trị CTCP
cũng là một khái niệm rất rộng, Luận văn khơng nghiên cứu về quản trị CTCP dưới
góc độ của khoa học kinh tế mà chỉ tập trung nghiên cứu dưới góc độ khoa học pháp
lý. Theo cách tiếp cận của Luận văn, tác giả cũng khơng nghiên cứu tồn bộ các vấn
đề pháp lý về quản trị CTCP mà chỉ tập trung vào các quy định của LDN 2020 về
quản trị CTCP mơ hình có BKS trên cơ sở đối sánh với các địi hỏi, thơng lệ tốt về
QTCT của một số tổ chức quốc tế, đặc biệt là OECD và pháp luật của một số quốc gia
trên thế giới, từ đó đưa ra định hướng và những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện
pháp luật Việt Nam về vấn đề này.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu

Việc nghiên cứu đề tài Luận văn được thực hiện trên cơ sở vận dụng quan điểm

của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước và pháp luật và chủ trương, đường lối của
Đảng, Nhà nước ta về xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế.
Phương pháp luận nghiên cứu trong đề tài này sử dụng phép biện chứng duy
vật nhằm tổng kết, nhìn nhận, đánh giá các quy định pháp luật về quản trị CTCP mơ
hình có BKS theo LDN 2020.
Các phương pháp nghiên cứu như so sánh, phân tích, tổng hợp, thống kê …
cũng được Luận văn áp dụng một cách phù hợp trong quá trình triển khai các nhiệm
vụ nghiên cứu nêu trên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn là cơng trình khoa học nghiên cứu những vấn đề pháp lý về quản trị
CTCP mô hình có BKS theo LDN 2020. Ở phương diện lý luận và thực tiễn, Luận văn
có những đóng góp cụ thể như sau:
- Nghiên cứu và luận giải trên cơ sở lý luận khái niệm và các vấn đề khác có

liên quan đến quản trị CTCP và pháp luật về quản trị CTCP mơ hình có BKS.


- Phân tích, đánh giá, bình luận thực trạng các quy định pháp luật về quản trị

CTCP mơ hình có BKS theo LDN 2020, chỉ ra những điểm mới, tiến bộ và những
điểm còn tồn tại, bất cập của các quy định pháp luật đó.
- Đưa ra định hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật mà cụ thể

là LDN 2020 và các văn bản có liên quan về quản trị CTCP mơ hình có BKS.
- Những đề xuất về phương hướng và một số giải pháp nhằm hồn thiện pháp

luật về quản trị CTCP mơ hình có BKS theo LDN 2020 của tác giả Luận văn có thể là
tài liệu tham khảo trong việc hồn thiện pháp luật về QTCT tại Việt Nam hiện nay.

Luận văn cũng có thể có giá trị tham khảo, là tài liệu cho việc học tập, nghiên cứu
pháp luật về QTCT.
7. Cơ cấu của luận văn

Ngoài Lời cam đoan, Lời cảm ơn, Phần mở đầu, Phần kết luận và các phần
khác như mục lục, danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được kết cấu làm 03
chương, bao gồm:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản trị công ty cổ phần và pháp luật về quản
trị công ty cổ phần mơ hình có ban kiểm sốt.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về quản trị cơng ty cổ phần mơ hình có ban kiểm
sốt theo Luật Doanh nghiệp 2020.
Chương 3: Phương hướng và một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về
quản trị cơng ty cổ phần mơ hình có ban kiểm soát theo Luật Doanh nghiệp 2020.


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ
PHẦN VÀ PHÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ CÔNG TY CỔ PHẦN MƠ HÌNH CĨ
BAN KIỂM SỐT
1.1. Tổng quan về quản trị công ty cổ phần
1.1.1. Khái niệm quản trị công ty

Trên thế giới cũng như ở Việt Nam hiện nay, khái niệm về QTCT đã trở thành
một khái niệm quen thuộc, được sử dụng khá phổ biến và thông dụng trong các báo
cáo, nghiên cứu, đánh giá về chính sách, thể chế, pháp luật… liên quan tới các loại
hình cơng ty, đặc biệt là CTCP. Tuy nhiên, cũng có thể nói rằng cho đến thời điểm
hiện nay, chúng ta vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về QTCT (Corporate
governance). Dựa trên những góc nhìn khác nhau, lý thuyết khác nhau, người ta có
thể đưa ra những định nghĩa khác nhau về QTCT.
Theo lý thuyết đại diện (Agency Theory) (được phát triển bởi Alchian,
Demsetz, Jensen và Meckling), QTCT được định nghĩa là mối quan hệ giữa chủ sở

hữu (các cổ đông) và các đại diện như giám đốc điều hành công ty hay quản lý công
ty. Chủ sở hữu công ty - các cổ đông luôn kỳ vọng các đại diện sẽ luôn hành động và
ra các quyết định vì lợi ích của họ. Khác với lý thuyết đại diện, lý thuyết người quản
lý (Stewardship Theory) lại đặt trọng tâm của hoạt động quản trị vào người quản lý,
trong đó nhà quản lý được xem là những người chun nghiệp, giỏi quản lý sẽ hoạt
động vì lợi ích của các cổ đông (Donaldson và David, 1991). Lý thuyết về sự phụ
thuộc nguồn lực (Resource Dependency Theory) lại tập trung vào vai trò của người
quản trị trong việc tiếp cận, cung cấp và đảm bảo nguồn lực cần thiết cho công ty
thông qua mối liên kết của họ với mơi trường bên ngồi.
Một số cơ quan, tổ chức uy tín trên thế giới cũng đã đưa ra các định nghĩa khác
nhau về QTCT. Theo tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế thế giới (OECD) thì:
“QTCT là hệ thống mà thơng qua đó cơng ty được chỉ đạo và kiểm soát. Cơ cấu
QTCT quy định việc phân bổ quyền hạn và trách nhiệm giữa các thành viên tham gia
khác nhau trong công ty như HĐQT, các chức danh điều hành, cổ đông và các bên


có quyền lợi liên


quan khác; đồng thời đề ra các quy tắc và thủ tục ra quyết định đối với các công việc
của cơng ty. Bằng cách này, nó tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động, các
phương tiện thực thi và giám sát thực thi các mục tiêu đó” [24, tr.11]. Cụ thể hóa định
nghĩa này, OECD đưa ra một bộ các nguyên tắc mang tính khuyến nghị về QTCT
nhằm hướng đến đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư, của người có quyền lợi liên quan
khác, tăng tính minh bạch và trách nhiệm của HĐQT để thu hút các nguồn lực vào quá
trình phát triển kinh tế, đảm bảo hiện thực hóa quyền tự do kinh doanh của các chủ thể
pháp lý.
Ngân hàng Thế giới (WB) với cách tiếp cận mang tính pháp lý lại đưa ra định
nghĩa: “QTCT là một hệ thống các yếu tố pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của
các công ty. Nó cho phép cơng ty có thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân

lực, hoạt động có hiệu quả, và nhờ đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ
đông, trong khi vẫn tồn tại quyền lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã
hội. Đặc điểm cơ bản nhất của hệ thống QTCT là: (i) tính minh bạch của các thơng
tin tài chính, kinh doanh và q trình giám sát nội bộ đối với hoạt động quản lý; (ii)
đảm bảo thực thi các quyền của tất cả các cổ đông; (iii) các thành viên trong HĐQT
có thể hồn tồn độc lập trong việc thông qua các quyết định, phê chuẩn kế hoạch
kinh doanh, tuyển dụng người quản lý, trong việc giám sát tính trung thực và hiệu quả
của hoạt động quản lý và trong việc miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết” [21,
tr.363].
Vẫn theo hướng tiếp cận đó của WB, Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) cũng
cho rằng: “QTCT bao gồm một hệ thống các quy chế xác định rõ mối quan hệ giữa
các cổ đông, các chức danh quản lý, các chủ nợ và những người có liên quan khác
cũng như hệ thống các cơ chế đảm bảo thực hiện các quy định trên [21, tr.363]
Phù hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, thuật ngữ “QTCT” đã được
du nhập vào Việt Nam cùng với các hệ thống tiêu chuẩn QTCT hiện đại. Theo luật gia
Nguyễn Ngọc Bích thì QTCT (lèo lái cơng ty-corporate governance): “là một tập hợp
các cơ chế liên quan đến việc điều hành và kiểm sốt cơng ty. Nó đề ra cách phân


chia


quyền hạn và nghĩa vụ giữa cổ đông, HĐQT, Ban GĐ và những người có lợi ích liên
quan khác như người lao động, nhà cung cấp” [5, tr.225].
Trong khi đó, TS Ngô Viễn Phú lại cho rằng, ở giác độ pháp lý, QTCT chỉ đơn
giản là: “phương cách tổ chức các cơ quan quyền lực của công ty và mối quan hệ chế
ước quyền lực giữa các cơ quan đó” [26, tr.1]. Quan điểm này thể hiện sự phân chia
quyền lực trong công ty giống như quyền lực nhà nước.
Theo TS. Đinh Văn Ân - Nguyên Viện trưởng Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế
Trung ương thì QTCT theo nghĩa hẹp là: “cơ chế quản lý - giám sát của chủ sở hữu

đối với người quản lý công ty theo những mục tiêu và định hướng của chủ sở hữu”
còn theo nghĩa rộng thì QTCT gắn chặt với quyền lợi của chủ sở hữu cũng như các
chủ nợ, người cung cấp, người lao động, thậm chí khách hàng của cơng ty, được xem
là “tập hợp các mối quan hệ giữa chủ sở hữu, HĐQT và các bên có liên quan nhằm
xác định mục tiêu, hình thành các cơng cụ để đạt được mục tiêu và giám sát việc thực
hiện mục tiêu của công ty [41].
Từ tất cả những định nghĩa và phân tích trên có thể cho phép khái qt rằng,
dưới góc độ pháp lý, theo nghĩa rộng, QTCT là tất cả các quy định, cơ chế nhằm tổ
chức công ty vận hành, hoạt động một cách có hiệu quả nhằm đảm bảo lợi ích của chủ
sở hữu cơng ty và xã hội. Quy chế QTCT xác định rõ nội dung phân chia các quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm giữa chủ sở hữu công ty (ĐHĐCĐ), HĐQT, Ban GĐ điều
hành, BKS và những chủ thể có liên quan khác của công ty (người lao động, chủ nợ,
…); đồng thời lập ra các nguyên tắc và thủ tục để ra quyết định về những vấn đề của
công ty. Ở phạm vi hẹp hơn, QTCT được hiểu như là chế định về quản lý nội bộ công
ty. Chúng điều chỉnh các quan hệ giữa các chủ thể quản lý, giám sát trong công ty với
nhau và với chủ sở hữu công ty, qua đó ngăn chặn sự lạm quyền, giảm thiểu những rủi
ro cho công ty và cổ đông công ty.
1.1.2. Các nguyên tắc của quản trị công ty

Từ bản chất và nội dung phức tạp của QTCT, qua đúc kết kinh nghiệm QTCT
từ các nước tiên tiến trên thế giới, tổ chức OECD đã đưa ra sáu nguyên tắc cơ bản


của


QTCT như sau:
- Thứ nhất: Đảm bảo cơ sở cho một khn khổ QTCT hiệu quả.

Theo OECD thì: “Khn khổ QTCT cần thúc đẩy tính minh bạch và hiệu quả

của thị trường, phù hợp với quy định của pháp luật và phân định rõ ràng trách nhiệm
giữa các cơ quan giám sát, quản lý và cưỡng chế thực thi” [24, tr16].
Nguyên tắc này của OECD đặt ra yêu cầu khung pháp luật về QTCT (bao gồm
tổng thể các quy định do pháp luật đặt ra liên quan đến QTCT và các quy định nội bộ
của chính cơng ty bao gồm điều lệ và các bản quy chế nội bộ trong các lĩnh vực như
tài chính, kỷ luật lao động, giám sát nội bộ, đạo đức nghề nghiệp, văn hóa ứng xử…)
phải thống nhất, minh bạch và có khả năng cưỡng chế thực thi. Ngồi ra, cũng cần có
sự phân định rõ trách nhiệm giữa các cơ quan quản lý khác nhau trong QTCT. Các cơ
quan giám sát, quản lý và cưỡng chế thực thi phải độc lập, có đủ thẩm quyền và nguồn
lực để hoàn thành tốt chức năng của mình.
- Thứ hai: Khung pháp lý về QTCT phải đảm bảo quyền của cổ đông và các

chức năng sở hữu cơ bản. Theo OECD thì: “Khn khổ QTCT phải bảo vệ và tạo
điều kiện thực hiện quyền của cổ đông” [24, tr18]. Trong đó, các quyền cổ đơng quan
trọng nhất cần được bảo vệ gồm có: 1) Đảm bảo quyền sở hữu; 2) Chuyển nhượng cổ
phần; 3) Tiếp cận các thông tin liên quan và quan trọng về công ty một cách kịp thời
và thường xuyên; 4) Tham gia và biểu quyết tại ĐHĐCĐ; 5) Bầu và bãi miễn các
thành viên HĐQT; 6) Hưởng lợi nhuận của công ty.
Nguyên tắc này đặt ra yêu cầu khung pháp lý về QTCT phải có các quy định cụ
thể về các nhóm quyền cổ đơng kể trên và đặc biệt là phải có cơ chế đảm bảo thực
hiện các quyền cổ đơng đó. Để thực hiện các quyền này, khung khổ hoạt động của
công ty phải tạo ra cơ chế cho cổ đông tham gia hiệu quả hoạt động QTCT như biểu
quyết tại đại hội, được thơng tin đủ về tình hình cơng ty.
- Thứ ba: Đối xử bình đẳng với cổ đơng.

Về nguyên tắc này, OECD cho rằng: “Khuôn khổ QTCT cần đảm bảo sự đối xử
bình đẳng đối với mọi cổ đơng, trong đó có cổ đơng thiểu số và cổ đơng nước ngồi.


Mọi cổ đơng phải có cơ hội khiếu nại hiệu quả khi quyền của họ bị vi phạm” [24, tr20].

CTCP giống như một xã hội thu nhỏ, trong số các cổ đơng của cơng ty có
những cổ đơng nắm phần vốn lớn (có nhiều cổ phần) và các cổ đơng nắm phần vốn
nhỏ (có ít cổ phần). Với ngun tắc đối vốn của CTCP, các cổ đông nắm phần vốn lớn
sẽ có quyền tham gia nhiều hơn vào q trình ra quyết định của cơng ty hay q trình
QTCT thơng qua việc bỏ phiếu tại ĐHĐCĐ và ngược lại các cổ đơng có ít vốn sẽ ít có
khả năng tham gia vào q trình đó. Tuy nhiên, xuất phát từ quan điểm cho rằng mọi
cổ đông đều phải được đối xử một cách bình đẳng, OECD cho rằng mọi cổ phiếu cùng
loại và cùng một đợt phát hành đều có quyền như nhau. Các nhà đầu tư trước khi mua
cần được cung cấp thông tin đầy đủ về các quyền gắn liền với tất cả các đợt phát hành
và loại cổ phiếu. Bất cứ thay đổi nào về quyền biểu quyết phải được sự thông qua của
các cổ đông sở hữu loại cổ phiếu bị ảnh hưởng bất lợi bởi sự thay đổi đó. Khung khổ
pháp lý về QTCT cần có các quy định cụ thể về quyền của cổ đông thiểu số và cơ chế
hiệu quả để bảo vệ các quyền đó nhằm loại bỏ các hành vi lạm dụng quyền của các cổ
đông lớn và những người quản lý công ty gây tổn hại tới quyền và lợi ích hợp pháp
của các cổ đông nhỏ [23, tr102]. Đặc biệt, trong số các cơ chế đảm bảo quyền cổ đông
nhỏ, cần lưu ý tới việc đảm bảo quyền khiếu nại (với các công cụ, phương tiện cụ thể)
một cách hiệu quả.
- Thứ tư: Tính minh bạch và cơng khai thông tin.

Coi việc minh bạch thông tin trong hoạt động của công ty là yêu cầu quan trọng
của QTCT, OECD cho rằng: “Khuôn khổ QTCT phải đảm bảo việc công bố thơng tin
kịp thời và chính xác về mọi vấn đề quan trọng liên quan đến công ty, bao gồm tình
hình tài chính, tình hình hoạt động, sở hữu và QTCT” [24, tr22].
Có thể nói rằng, theo quan điểm của OECD thì đây là nguyên tắc trung tâm
trong số các nguyên tắc của QTCT, bởi lẽ chỉ khi các hoạt động của cơng ty được
minh bạch hóa và các cổ đơng, các bên liên quan có thể tiếp cận với các thông tin liên
quan đến hoạt động của công ty thì các quyền cổ đơng (trong đó có các cổ đông nhỏ),
quyền của nhà đầu tư và các bên liên quan khác mới có khả năng được đảm bảo, các



công cụ giám sát người quản lý công ty, giám sát các giao dịch tư lợi mới có thể phát
huy được hiệu


quả. Nói cách khác, ngun tắc này có vai trị đảm bảo cho việc thực hiện các nguyên
tắc còn lại trong QTCT.
Minh bạch hóa hoạt động của cơng ty thực chất chính là q trình cơng ty cơng
bố các thơng tin và đảm bảo tính chính xác của các thơng tin liên quan tới hoạt động
của công ty. Phạm vi thông tin cần được công khai bao gồm: Các giao dịch với các
bên liên quan; các yếu tố rủi ro có thể tiên liệu; các vấn đề liên quan đến người lao
động và các bên có quyền lợi liên quan khác; cơ cấu và chính sách quản trị (nội dung
của bất kỳ quy tắc hoặc chính sách quản trị nào và quy trình thực hiện nó)...
Cần lưu ý rằng, các thơng tin được cơng bố phải chính xác và phù hợp với các
tiêu chuẩn chất lượng, đặc biệt là các thơng tin về kế tốn, tài chính. Thơng tin về tình
hình tài chính, kết quả kinh doanh, phải đến với cổ đơng của cơng ty và những người
có liên quan từ các nguồn chính thức và tin cậy như BKS, kiểm toán nội bộ để đảm
bảo rằng các báo cáo tài chính đã thể hiện một cách trung thực tình hình tài chính và
hoạt động của cơng ty.
- Thứ năm: Vai trị của các bên có quyền lợi liên quan trong QTCT.

Nhìn nhận QTCT như một tổng hịa các tác động tới quá trình ra quyết định và
định hướng hành vi cho cơng ty, OECD cịn đặc biệt quan tâm tới việc đảm bảo quyền
và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể có liên quan tới hoạt động của cơng ty trong q
trình QTCT. Theo đó, “khn khổ QTCT phải cơng nhận quyền của các bên có quyền
lợi liên quan đã được pháp luật hay quan hệ hợp đồng quy định và phải khuyến khích
sự hợp tác tích cực giữa cơng ty và các bên có quyền lợi liên quan trong việc tạo
dựng tài sản, việc làm và ổn định tài chính cho doanh nghiệp” [24, tr21].
Các bên có quyền lợi liên quan theo quan niệm của OECD là khá rộng, bao
gồm chỉ có các nhà đầu tư mà còn bao gồm các chủ nợ, khách hàng, người lao động,
các nhà cung cấp nguyên liệu (nguồn lực) đầu vào, các khách hàng (đối tác đảm bảo

đầu ra), các cơ quan Nhà nước…. Nói cách khác, bên có quyền lợi liên quan đến hoạt
động của công ty bao gồm tất cả các tổ chức, cá nhân có liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến hoạt động của công ty.


Theo OECD, khuôn khổ QTCT phải công nhận quyền của các bên có quyền
lợi liên quan đã được pháp luật hay quan hệ hợp đồng quy định và phải khuyến
khích sự hợp tác tích cực giữa cơng ty và các bên có quyền lợi liên quan trong việc
tạo dựng tài sản, việc làm và ổn định tài chính cho doanh nghiệp.
- Thứ sáu: Trách nhiệm của HĐQT.

Về nguyên tắc này, OECD đặt ra yêu cầu: “Khuôn khổ QTCT cần đảm bảo
định hướng chiến lược của cơng ty, giám sát có hiệu quả công tác quản lý của HĐQT
và trách nhiệm của HĐQT đối với công ty và cổ đông” [24, tr24].
Như vậy, theo nguyên tắc này, OECD yêu cầu các thành viên HĐQT phải làm
việc với trách nhiệm và sự nỗ lực cao nhất, sự trung thực, cẩn trọng vì lợi ích của cơng
ty và cổ đơng. Cũng cần lưu ý rằng, khái niệm HĐQT mà OECD sử dụng trong
trường hợp này là bao qt cho các mơ hình quản trị khác nhau. Đối với mơ hình quản
trị mà HĐQT được thiết kế gồm hai cấp tiêu biểu tồn tại ở một số quốc gia, khái niệm
HĐQT mà OECD đề cập còn bao gồm cả BKS và những người quản lý cấp cao [24,
tr13].
HĐQT phải thực hiện các chức năng chủ yếu bao gồm: Xem xét và định hướng
chiến lược cơng ty, các kế hoạch hoạt động cơ bản, chính sách rủi ro, ngân sách và kế
hoạch kinh doanh hàng năm; đặt ra các mục tiêu hoạt động, theo dõi việc thực hiện
mục tiêu và hoạt động của công ty; giám sát các hoạt động đầu tư vốn, thâu tóm và
thoái vốn chủ yếu; đảm bảo sự nghiêm túc và minh bạch của quy trình đề cử và bầu
chọn HĐQT; giám sát và xử lý các xung đột lợi ích tiềm ẩn của BGĐ, HĐQT và cổ
đông, bao gồm việc sử dụng tài sản cơng ty sai mục đích và lợi dụng các giao dịch với
các bên có liên quan; đảm bảo tính trung thực của hệ thống báo cáo kế tốn và tài
chính của cơng ty, kể cả báo cáo kiểm toán độc lập, và bảo đảm rằng các hệ thống

kiểm sốt phù hợp ln hoạt động, đặc biệt là các hệ thống quản lý rủi ro, kiểm soát
tài chính và hoạt động tuân thủ theo pháp luật và các tiêu chuẩn liên quan; HĐQT phải
có khả năng đưa ra phán quyết độc lập, khách quan về các vấn đề của công ty. Đặc
biệt là việc thực hiện các chức năng của HĐQT luôn gắn với trách nhiệm giải trình.


1.2. Pháp luật về quản trị công ty cổ phần mơ hình có ban kiểm sốt
1.2.1. Nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với quan hệ quản trị công ty

Trong cơ chế kinh tế thị trường, sự ra đời và tồn tại của pháp luật về QTCT bắt
nguồn từ chính thực tiễn tổ chức và hoạt động của các công ty với tính cách là một
thực thể pháp lý – một tổ chức kinh doanh. Có nhiều các cơng trình nghiên cứu gần
đây về quy chế pháp lý liên quan tới hoạt động QTCT đã khẳng định rằng pháp luật về
QTCT ngày càng giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế xã hội của các quốc
gia, nhất là trong bối cảnh cạnh tranh kinh tế toàn cầu hiện nay [9, tr.3], [13, tr.18].
Pháp luật về QTCT không đơn giản chỉ quyết định tới sự sống còn của một cơng ty,
mà cịn ảnh hưởng đến vấn đề tăng trưởng kinh tế và đảm bảo ổn định xã hội. Xem xét
những bài học trong lịch sử có thể thấy rằng những khiếm khuyết của hệ thống QTCT
đã từng gây ra những hậu quả to lớn cả về kinh tế, chính trị, xã hội cho một số nền
kinh tế lớn trong thời gian qua. Sự sụp đổ các công ty ở Đơng Á trong cuộc khủng
hoảng tài chính năm 1997-1998, sự phá sản của các tập đoàn Enron, Worldcom của
Mỹ, Parmalat của Ý,… cùng hậu quả do nó gây ra là những ví dụ minh chứng về mối
hiểm họa của sự khiếm khuyết đó [15, tr.103-124], [17, tr.21], [19, tr.80-84], [24,
tr.368-369]. Các cuộc khủng khoảng kinh tế kể trên kéo theo nhiều hệ lụy về mặt
chính trị - xã hội đã đặt ra yêu cầu đẩy mạnh cải thiện QTCT ở các quốc gia này, là
câu trả lời về tầm quan trọng và sự cần thiết phải điều chỉnh pháp luật đối với các
quan hệ QTCT.
Cũng cần lưu ý rằng, nếu xem các CTCP là một kênh huy động vốn cho hoạt
động đầu tư, một quy chế QTCT hiệu quả, minh bạch và đáng tin cậy sẽ là cơ sở để
các nhà đầu tư bỏ vốn vào CTCP. Để kinh tế tăng trưởng và phát triển đòi hỏi phải thu

hút và sử dụng hiệu quả mọi nguồn vốn, kể cả nguồn vốn nhàn rỗi trong nước lẫn
nguồn vốn nước ngoài. Điều này chỉ được thực hiện khi có quy chế pháp lý về QTCT
tốt, bảo vệ hữu hiệu quyền lợi của cổ đông, nhất là những cổ đông thiểu số, ngăn chặn
sự lạm dụng quyền lực quản lý để chiếm dụng tài sản công ty và gây hại cho cổ đông.
Do vậy, sự tồn tại của chế định QTCT là một nhu cầu không thể thiếu trong việc khai


thơng nguồn vốn xã hội, giúp giảm chi phí vốn vay, nâng cao hiệu quả kinh tế của
công ty và


quốc gia. Đặc biệt, ở các quốc gia có nền kinh tế mới chuyển đổi, pháp luật kinh
doanh còn trong tình trạng “tranh tối tranh sáng”, các “quan hệ ngầm” cịn bao phủ
đời sống kinh doanh, thì sự xuất hiện và tồn tại chế định QTCT còn tạo cơ sở pháp lý
để chống lại sự can thiệp không cần thiết của công quyền vào công việc nội bộ của
công ty, giúp minh bạch hóa mơi trường kinh doanh, hạn chế các hành vi giao dịch nội
gián và tham nhũng [22, tr354-388].
Ở khía cạnh pháp lý, sự điều chỉnh pháp luật về QTCT cịn xuất phát từ nhu cầu
hiện thực hóa các quyền sở hữu và quyền tự do kinh doanh cho các nhà đầu tư. Pháp
luật QTCT giúp giải quyết cơ bản các mâu thuẫn nội tại luôn tiềm ẩn trong mỗi cơng
ty. Đó là mâu thuẫn lợi ích giữa chủ sở hữu công ty và người quản lý công ty, cổ đông
nhiều vốn (cổ đông lớn) và cổ đông ít vốn (cổ đông nhỏ), giữa chủ sở hữu và những
người có quyền lợi liên quan khác. Trong các CTCP, người quản lý khơng phải bao
giờ cũng hành động vì lợi ích của cổ đơng; cổ đơng nắm quyền kiểm sốt thường có
những xung đột về lợi ích với các cổ đông nhỏ và họ thường chỉ hành động (kiểm sốt
cơng ty, ra quyết định) vì lợi ích của chính mình chứ khơng phải cho tất cả các cổ
đơng; chủ sở hữu cơng ty vì lợi ích của mình cũng có thể có hành động xâm phạm
quyền và lợi ích của người có quyền lợi liên quan khác với cơng ty. Do vậy, sự tồn tại
của pháp luật QTCT như là một công cụ để thực thi quyền giám sát của chủ sở hữu
công ty, đảm bảo sự công bằng giữa các chủ sở hữu với nhau và sự tôn trọng lợi ích

thỏa đáng của các chủ thể có liên quan. Việc tạo lập hành lang pháp lý an toàn này cho
hoạt động của các nhà đầu tư, trong chừng mực nhất định, còn là giải pháp pháp lý để
đảm bảo cơ hội kinh doanh cho người dân, hạn chế sự can thiệp trái pháp luật của cơ
quan công quyền lên quyền tự do kinh doanh của họ [35, tr13].
Tự chung lại, từ những phân tích trên, có thể nói rằng việc điều chỉnh pháp luật đối
với các quan hệ QTCT, đặc biệt là CTCP là cần thiết và không thể thiếu đối với sự
phát triển kinh tế và xã hội của quốc gia.


×